Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Một số biện pháp nâng cao năng lục tự học cho học sinh lớp 4d trường tiểu học đông hưng, thành phố thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (783.36 KB, 16 trang )

1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Chúng ta đang sống trong những năm đầu của thế kỉ XXI. Thế kỉ mà sự
tiến bộ không ngừng của khoa học - công nghệ với những bước nhảy vọt vượt
bậc. Để không bị tụt hậu với thời đại, kịp thời nắm bắt những tri thức khoa học
tiên tiến, mỗi con người không ngừng học hỏi, vươn lên sự hồn thiện mình.
Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu
cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và
các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục lên trung học cơ sở. Bên cạnh việc truyền
thụ kiến thức cơ bản cho học sinh thì việc giúp các em phát huy tính tích cực
chủ động sáng tạo trong các hoạt động giáo dục vô cùng quan trọng. Nhưng làm
thế nào để phát huy tính tích cực - tự học - tự sáng tạo của học sinh trong các
hoạt động giáo dục? Các em cần có những kĩ năng nào? Để giúp các em phát
huy được tính tích cực - tự học - tự sáng tạo cần những điều kiện gì? Cách thực
hiện ra sao? Đó là điều mà không những tôi mà rất nhiều giáo viên quan tâm.
Thực tế cho thấy, hiện nay học sinh các cấp nói chung và học sinh tiểu học nói
riêng có nhiều em rất giỏi về lý thuyết nhưng kĩ năng tự giải quyết vấn đề chưa
có. Khi giao cho các em giải quyết vấn đề rất đơn giản các em còn lúng túng,
thậm chí khơng thể giải quyết được. Mặt khác, trong những năm gần đây cùng
với sự đổi mới về nội dung của sách giáo khoa, ngành giáo dục đã chỉ đạo đổi
mới trong cách dạy và giáo dục học sinh. Vì thế, với vai trị là giáo viên tiểu học
tơi mạnh dạn nghiên cứu “Một số biện pháp nâng cao năng lực tự học cho học
sinh lớp 4”
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, thực tiễn quá trình dạy học và thực trạng
học tập của học sinh trường Tiểu học Đông Hưng, xác lập các biện pháp nhằm
nâng cao năng lực tự học của học sinh.
- Tạo điều kiện cho các em tham gia các hoạt động trải nghiệm để tăng
cường sự năng động, tự tin.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Phương pháp dạy học các môn học ở lớp 4


- Khả năng tự học của học sinh lớp 4D – Trường Tiểu học Đông Hưng.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp phỏng vấn.
- Phương pháp thu thập thông tin.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp diễn giải.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Theo chỉ đạo chung của Đảng, Quốc hội và ngành giáo dục thì việc rèn
luyện thói quen tự học cho học sinh tiểu học là vấn đề quan trọng và cấp thiết
hiện nay.
1


- Tự học của học sinh tiểu học xuất phát từ việc học có hướng dẫn của giáo
viên và người lớn. Là q trình giáo viên ln chú ý theo dõi để hướng dẫn học
sinh hoặc gợi ý để học sinh giúp đỡ lẫn nhau. Học sinh nỗ lực hoàn thành nhiệm
vụ học tập với việc nghiên cứu sách giáo khoa tài liệu và sự hướng dẫn của giáo
viên, của bạn.
- Tự học giúp cho học sinh có thể tự nghiên cứu một vấn đề về các môn học
rồi chia sẻ các thơng tin mình biết với các bạn, tự mình lập kế hoạch và thực
hiện kế hoạch học tập; tự mình kiểm tra, đánh giá, điều chỉnh việc học tập của
bản thân.
- Vấn đề rèn luyện kĩ năng tự học - tự sáng tạo này không phải ngày một
ngày hai mà muốn làm được mà phải là một quá trình rèn luyện lâu dài mọi lúc,
mọi nơi và được sự hợp tác chặt chẽ của giáo viên, phụ huynh cùng các lực
lượng giáo dục khác có liên quan.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

Năm học 2020-2021, tôi được phân công giảng dạy và chủ nhiệm lớp 4D
trường Tiểu học Đông Hưng. Đầu năm sau khi nhận lớp, tơi tiến hành khảo sát
mơn Tốn cho thấy chất lượng học sinh trong lớp không đồng đều một số học
sinh cịn chậm, nhút nhát, tính tốn cịn sai, kĩ năng tóm tắt bài tốn cịn hạn chế,
chưa có thói quen đọc và tìm hiểu bài tốn, dẫn tới thường nhầm lẫn giữa các
dạng toán, lựa chọn phép tính cịn sai, chưa bám sát vào u cầu bài tốn để tìm
lời giải thích hợp với các phép tính..... Bên cạnh đó, có một số học sinh rất siêng
năng học tập, thông minh sáng tạo, giải rất tốt các bài toán trong sách giáo khoa
(SGK), violimpic trên mạng….Đồng thời, thăm dò khảo sát ý thức tự giác học
tập của các em tôi thu được kết quả như sau:
Cụ thể kết quả khảo sát ý thức tự học của lớp 4D tháng 9/2020 do tôi phụ
trách như sau:
T
T
1
2
3
4
5
6
7
8

Kết quả khảo sát
Thường Thỉnh thoảng

Hình thức khảo sát
Chăm chú nghe giảng.
Vận dụng vốn hiểu biết và nghiên
cứu SGK để trả lời các câu hỏi

trong tiết học.
Tự hoàn thành các bài tập ở SGK
theo u cầu dặn dị của giáo viên.
Tự hồn thành BT thực hành Tốn+
thực hành Tiếng Việt
Tự hồn thành các bài tập nâng cao
Toán + Tiếng Việt
Tự giải toán violimpic trên mạng
Tự giải violimpic Tiếng Anh
Tự học Tiếng Anh 123 trên mạng

Chưabao giờ

xuyên
30em

83,3%

6em

16,7%

0em

0%

15em

41,6%


17em

47,2%

4 em

11,2%

25 em

69,4%

8 em

22,2%

3 em

8,3%

22 em

61,1%

9 em

25%

5 em


13,9%

10 em

27,8%

12 em

33,3% 14 em 38,9%

5 em
5 em
3 em

13,9%
13,9%
8,3%

9 em
9 em
3 em

25%
25%
8,3 %

22 em 61,1%
22 em 61,1%
30 em 83,3%


- Thực tế cho thấy rằng, học sinh tiểu học chưa có thói quen tự học tự làm
việc với sách giáo khoa. Bên cạnh đó, việc học 2 buổi/ ngày nên khơng ra thêm
2


bài tập về nhà cho học sinh do đó giảm khả năng tự học của các em. Quá trình
dạy học trên lớp giáo viên chưa chú trọng đến việc hướng dẫn thói quen tự học,
cách tự làm việc, tự nghiên cứu sách giáo khoa tài liệu làm cho các em chậm
phát triển về năng lực tự học, sáng tạo dẫn đến chất lượng giáo dục không đồng
đều. Vậy, để nâng cao chất lượng giáo dục thì người giáo viên phải rèn luyện
cho học sinh khả năng tự học thông qua các môn học và hoạt động giáo dục.
Trước thực tế đó, bản thân tơi đã dành một thời gian đáng kể đầu tư cho việc đổi
mới phương pháp sau nhiều lần thử nghiệm, bước đầu tơi đã tìm được một số
biện pháp hữu hiệu giúp học sinh tích cực tự giác học tập. Sau đây là một số
biện pháp mà tôi đã thực hiện.
2.3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Để kích thích tính tự giác, tích cực, độc lập, sáng tạo trong học tập của
học sinh thì địi hỏi người giáo viên phải có nhiều biện pháp tích cực.
2.3.1. Biện pháp 1: Tạo thói quen làm việc có kế hoạch.
Theo tơi, học sinh có thói quen tốt sẽ giúp các diễn biến trong ngày xảy ra
theo một lịch trình nhất định, làm cho trẻ thoải mái và yên tâm hơn. Thói quen
tốt ở đây có thể là: Đi học đều và đúng giờ, ăn ngủ và học bài đúng quy định,
khơng nói chuyện riêng trong giờ học, chăm chú nghe giảng tích cực xây dựng
bài, có ý thức chăm sóc và bảo vệ trường lớp sạch đẹp…
Để tạo được thói quen này tơi và học sinh tự xây dựng 1 thời gian biểu ở
trường hợp lí dựa trên nội quy của trường.
Tạo thói quen thực hiện nề nếp tự quản dưới sự chỉ huy của lớp trưởng.
Giáo viên cần kiên trì huấn luyện một học sinh có phong thái tự tin làm lớp
trưởng. Sau đó, tùy tình hình thực tế của lớp có thể tập thêm cho một số em có
khả năng làm lớp trưởng để các em thay thế khi lớp trưởng vắng. Tập cho các

em làm công tác lãnh đạo để giúp giáo viên chủ nhiệm làm tốt công tác tự quản
bắt đầu từ việc xếp hàng ra vào lớp đến hoạt động hô khẩu hiệu, hát và sinh hoạt
15 phút đầu giờ. Do tập thói quen ngay từ đầu năm nên hiện nay lớp 4D do tôi
chủ nhiệm vào đầu giờ học học sinh đã biết tự giác nhắc nhở nhau làm vệ sinh
trực nhật mặc dù hơm đó giáo viên chủ nhiệm khơng có tiết dạy. Ý thức học tập
thì từng bước đi vào ổn định các em đã làm bài tập và học thuộc bài khi đến lớp.
Ví dụ: Tơi hướng dẫn ban cán sự lớp kiểm tra việc làm bài tập ở vở luyện
của các thành viên trong tổ nếu bài làm của các bạn sai có thể gợi ý cho bạn hiểu
lỗi sai. Nếu gặp bài khó thì có thể chữa ở bảng vào 15 phút đầu giờ hoặc vào đầu
tiết học, hỏi giáo viên bộ mơn đó. Đặc biệt, tôi không làm thay cho học sinh mà
chỉ gợi ý và định hướng cho các em cách làm. Bởi thế, chất lượng các môn học
được nâng lên từng bước rõ rệt. Trong q trình dạy học tơi u cầu học sinh
học đều các môn chứ không coi nhẹ môn nào. Một số môn tôi yêu cầu tổ trưởng
kiểm tra chéo việc học thuộc bài cũ rồi ghi vào sổ cuối tuần báo cáo với cô giáo
những bạn thực hiện tốt để tuyên dương, những bạn chưa thực hiện tốt cần động
viên nhắc nhở kịp thời. Bởi thế, theo tôi tiết sinh hoạt cuối tuần rất quan trọng
trong việc phát triển nhân cách và ý thức học sinh. Nếu xem nhẹ việc này thì dù
GV có dạy giỏi cấp nào đi chăng nữa thì hiệu quả giáo dục cũng không cao.
3


- Hàng tuần vào tiết sinh hoạt lớp tôi đánh giá nghiêm túc chính xác, biểu
dương và khen ngợi những học sinh thực hiện tốt. Nhắc nhở những học sinh vi
phạm nội quy để các em sửa đổi. Nếu các em vi phạm q nhiều lần thì nên
thơng báo để kết hợp với phụ huynh giúp đỡ các em tiến bộ. Từ đó, dần dần hình
thành và phát triển những phẩm chất cần thiết để học sinh có phương pháp học
tập, làm việc khoa học, sáng tạo.
- Đối với bài tốn khó, giáo viên cần động viên khuyến khích các em tự
lực vượt khó, khơng nản, khơng chép bài của bạn. Ngồi ra, giáo viên phải xây
dựng nhóm học tập “ đôi bạn cùng tiến ” tổ chức cho học sinh có năng khiếu

thường xun giúp đỡ các bạn cịn yếu về cách học tập, củng cố lại kiến thức
trước giờ học và vào thời gian rảnh tại nhà. Kết quả học tập được giáo viên theo
dõi để giúp đỡ uốn nắn kịp thời.

Ảnh: Học sinh năng động, thân thiện, làm việc có kế hoạch.
2.3.2. Biện pháp 2: Tạo hứng thú học tập
Tơi nghĩ bất kỳ việc gì nếu có lịng say mê và quyết tâm thì sẽ thực hiện
hiệu quả hơn. Để làm được điều này, vào các buổi sinh hoạt lớp tôi thường kể
cho các em nghe về các gương học tập tiêu biểu như: Cao Bá Quát, Mạc Đình
Chi, truyện “ Có chí thì nên” và một số gương vượt khó học tập tốt ở địa
phương …. hoặc các tiết học hoạt động ngoài giờ lên lớp + kĩ năng sống tôi đọc
cho học sinh nghe một số câu chuyện trong cuốn sách “TÔI TÀI GIỎI BẠN
CŨNG NHƯ THẾ” của dịch giả Trần Đăng Khoa và Uông Xuân Vi, nhà xuất
bản phụ nữ. Được nghe kể các câu chuyện đó khơi gợi cho các em lịng ham
muốn và quyết tâm học giỏi. Kết hợp với trong dạy học tôi thường chú ý tới các
đối tượng học sinh, khơng để học sinh” hồn thành tốt” nhàm chán vì bài quá dễ
và HS hoàn thành và chưa hoàn thành thì chán vì chẳng biết bài làm đúng hay
sai bằng biện pháp phân hóa đối tượng. Bởi thế trong tiết dạy tơi dành những
câu hỏi dễ cho học sinh hồn thành và học sinh chưa hoàn thành, những câu hỏi
4


mang tính trừu tượng khái quát cho đối tượng học sinh năng khiếu và tuyên
dương học sinh kịp thời khi các em trả lời đúng vì học sinh tiểu học được khen
thì rất hào hứng và sẵn sàng học tập.
- Tạo hứng thú cho học sinh vui mà học, chơi mà học. Giáo viên phải biết
biến những cuộc hội thoại dạy học thành những buổi sinh hoạt trí tuệ vui vẻ hào
hứng vì ở lứa tuổi tiểu học chơi mà học cịn là hai nhu cầu xen kẽ nhau. Có
nhiều câu hỏi trên lớp biến thành câu hỏi đố vui giúp các em học tập có kết quả
tốt hơn.

Ví dụ 1: Trong giờ học tốn có nhiều bài tập để tạo sự hứng thú và sự tò
mò của học sinh tơi có thể dùng một số câu hỏi? câu đố gây sự chú ý của học
sinh mà nội dung không thay đổi nhưng học sinh rất hào hứng, như:
Đề bài: MÀU ÁO VÀ MÀU NƠ
Ba bạn Hiền, Thi, Thoa mặc ba chiếc áo màu đỏ, vàng, xanh và cài ba cái
nơ cũng màu đỏ, vàng, xanh. Biết rằng:
a. Thoa cài nơ màu xanh.
b. Chỉ có bạn Hiền là có màu áo và màu nơ giống nhau.
c. Màu áo và màu nơ của Thi đều không phải màu đỏ.
Hãy xác định xem ba bạn Hiền, Thi, Thoa mặc áo màu gì và cài nơ màu gì?
Giải đáp
Từ a) và b) có màu áo của Thoa là đỏ hoặc vàng.
Từ c) có màu nơ, màu áo của Thi là xanh hoặc vàng. Suy ra:
Màu áo của Thoa là màu vàng.
Màu áo và màu nơ của Hiền là màu đỏ. Còn lại Thi có áo màu xanh và nơ màu
vàng.
Đáp số: Hiền mặc áo đỏ, cài nơ đỏ.
Thi mặc áo xanh, cài nơ vàng.
Thoa mặc áo vàng, cài nơ xanh.
Với một số bài toán đưa về dạng câu đố, tạo hứng thú cho học sinh để tiết
học khơng căng thẳng
Ví dụ 2. Khi dạy cho học sinh cách tính tổng các số tự nhiên. Tơi kể cho
học sinh nghe câu chuyện lúc cịn tiểu học của nhà toán học Gauss ( 17771855) đã chỉ cần vài giây đã tính được tổng các số từ 1 đến 100....Để kích thích
các em khám phá tốn học. Bởi đam mê hứng thú cũng ít khi tự nhiên mà có, mà
được hình thành trong cuộc sống và đam mê. u thích mơn học là phải hình
thành phát triển chủ yếu từ khích lệ của giáo viên, bạn bè và người lớn.
2.3.3. Biện pháp 3: Rèn kĩ năng tự học – tự hợp tác trong nhóm
Để các em tự tin, mạnh dạn khi hợp tác nhóm thì điều đầu tiên là các em
phải say mê và hứng thú học tập. Giáo viên phải là người thổi lửa truyền cảm
hứng cho các em, khích lệ động viên điều mà các em đã làm được. Điều mà các

em chưa làm được giáo viên khơng chê bai mà đóng vai tình huống cô là học
sinh để cho học sinh thấy được cái chìa khóa của việc chia sẻ. Mỗi học sinh cần
phải được tập luyện nhiều lần và thường xuyên để tạo sự tự tin cho các em, giúp
các em biết tự đặt hoặc trả lời câu hỏi trước lớp. Do vậy, trong các tiết học giáo
viên cần phải thường xuyên cho học sinh thay phiên nhau làm nhóm trưởng. Từ
5


đó, phát hiện ra học sinh có năng khiếu thuyết trình. Học sinh hồn thành tốt, có
năng khiếu chia sẻ thuyết trình thì giáo viên có thể phân cơng các học sinh ấy
kèm cặp một số bạn yếu hơn, rụt rè hơn. Khi các em thảo luận nhóm giáo viên
chú ý quan sát quá trình tự học của học sinh khi được giao nhiệm vụ và thực
hiện nhiệm vụ. Nắm bắt năng lực sở thích của các em đối với từng môn học để
giao nhiệm vụ phù hợp với năng lực sở trường của các em, từng bước giúp các
em tự tìm tịi và phát hiện kiến thức mới. Bởi vậy, trong các tiết dạy tôi rất hay
chú ý tới hoạt động nhóm để học sinh tự tìm hiểu nghiên cứu sách giáo khoa và
vốn kiến thức của mình, suy luận để giải quyết vấn đề.

Ảnh: Học sinh đang thảo luận nhóm trong giờ học.
2.3.4. Biện pháp 4: Dạy học phân hóa đối tượng
Như ta đã biết, dạy học phân hố là một hình thức dạy học mà người dạy
dựa vào những khác biệt về năng lực, sở thích cũng như các điều kiện học tập
của mỗi cá nhân người học để điều chỉnh cách dạy phù hợp nhằm phát triển tốt
nhất cho từng cá nhân người học đảm bảo hiệu quả giáo dục cao nhất.
Dạy học phân hoá được coi là một hướng đổi mới phương pháp dạy học nhằm
phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh. Bởi thế, đầu năm học
sau khi nhận lớp, tôi tổ chức ôn tập, khảo sát chất lượng đầu năm nghiêm túc.
Nắm bắt tình hình học tập của từng học sinh và thực hiện dạy phân hóa đối
tượng. Mục đích là để bổ sung kiến thức cịn hổng cho các em học sinh “chưa
hoàn thành” và nâng cao kiến thức cho HS đã nắm vững kiến thức môn học.

Trong soạn – giảng tôi thực hiện theo quy định chung đã được triển khai thống
nhất của chuyên môn như:
- Thực hiện theo chuẩn kiến thức kĩ năng môn học.
6


- Bám sát nội dung điều chỉnh dạy học các môn học của Bộ giáo dục.
- Mở rộng kiến thức trong chuẩn, không đưa thêm bài tập nâng cao gây
quá tải cho học sinh, làm cho học sinh “chưa nắm vững” kiến thức mơn học
đứng bên lề trong q trình dạy - học.
- Các câu hỏi, yêu cầu đưa trong soạn - giảng thể hiện rõ sự phân hóa đối
tượng không cần thiết phải ghi câu hỏi dành cho đối tượng học sinh nào nào,
tránh dạy phân biệt đối tượng học sinh chẳng hạn:
Ví dụ 1: Bài: Cộng hai phân số ( khác mẫu số ) – Lớp 4
Khi hình thành quy tắc cộng hai phân số khác mẫu, giáo viên có thể áp
dụng dạy học phân hố như sau:
- Hình thành kiến thức cộng hai phân số khác mẫu số, giáo viên nêu vấn
đề: Làm thế nào để thực hiện được phép cộng đó.
- Giáo viên gọi học sinh khá, giỏi đưa ra ý tưởng để thực hiện phép cộng,
bên cạnh đó cũng cần gọi học sinh trung bình và yếu kém nhắc lại cách cộng 2
phân số cùng mẫu số. Việc làm đó sẽ giúp học sinh cả lớp hồ chung vào cơng
việc đó là tìm ra cách thực hiện phép cộng hai phân số khác mẫu số.
Ví dụ 2: Bài: So sánh hai phân số – Lớp 4.
Mục tiêu: Học sinh biết so sánh phân số với đơn vị, so sánh phân số cùng tử số.
Để đạt được mục tiêu trên, tiết dạy này yêu cầu học sinh hoàn thành 3 bài tập
Bài 1: So sánh phân số với 1.
Bài 2: So sánh các phân số cùng tử số.
Bài 3: Vận dụng kiến thức về so sánh phân số để tìm phân số lớn hơn.
Dạy phân hóa, giáo viên có thể tiến hành như sau:
- Giáo viên u cầu học sinh hồn thành các phép tính ở bài 1, 2.

- Giáo viên yêu cầu học sinh rút ra các cách so sánh phân số với 1 và so
sánh các phân số cùng tử số.
- Vận dụng các kiến thức đã học về so sánh phân số, giáo viên giúp các
em trung bình, yếu vận dụng, củng cố các cách so sánh đã được giới thiệu trong
chương trình học như quy đồng mẫu số, quy đồng tử số. Đối với đối tượng học
sinh giỏi, giáo viên hướng dẫn các em mở rộng các cách so sánh khác như: So
sánh phần bù của đơn vị; so sánh 2 phân số bằng cách tìm thương của hai phân
số; chọn 1 làm trung gian để so sánh....bằng yêu cầu đưa ra cao hơn như: Khơng
quy đồng, tìm ra phân số lớn hơn (BT3).
2.3.5. Biện pháp 5: Đổi mới phương pháp dạy học phát huy tính tích cực
sáng tạo của học sinh
Muốn phát huy tính tích cực, tự giác, độc lập sáng tạo của học sinh thì
giáo viên cần phải biết lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức thích hợp.
Hiện nay, để tiến kịp với thời đại thì cần thay đổi một số phương pháp để phát
huy tính tích cực của học sinh, để phù hợp với từng nội dung mơn học, từng đối
tượng và trong q trình dạy học tôi đã sử dụng linh hoạt các phương pháp để
phát huy tính tích cực, tự giác, độc lập của học sinh trong học tập và tạo bầu
khơng khí thân thiện cho học sinh hoạt động:.
Ví dụ 1: Dạy bài: Góc nhọn, góc tù, góc bẹt.
7


Để giới thiệu: Góc nhọn, góc tù, góc bẹt học sinh có thể sử dụng bộ lắp
ghép kĩ thuật lớp 4 để thao tác như sau:
+ B1: Dùng 2 thanh dài trong bộ lắp ghép mơ hình kĩ thuật và ốc vít tạo thành 1
góc vng. Bóp nhẹ 2 thanh vào trong để tạo thành góc nhọn.
+ B2: học sinh thực hành trên đồ dùng.
+ B3: học sinh tự nêu đặc điểm của góc nhọn, so sánh độ lớn của góc nhọn với
góc vng. Dùng ê ke kiểm tra.
+ B4: Cho học sinh tìm những hình ảnh xung quanh về góc nhọn.

Tương tự học sinh sẽ thực hành góc tù, góc bẹt trên bộ đồ dùng kĩ thuật.
Ví dụ 2: Dạy bài: Hình bình hành.
Để giới thiệu: Hình bình hành giáo viên có thể hướng dẫn học sinh sử
dụng bộ lắp ghép kĩ thuật lớp 4 để thao tác như sau:
+ B1: Dùng 2 thanh dài và 2 thanh ngắn trong bộ lắp ghép mơ hình kĩ thuật và
ốc vít tạo thành 1 hình chữ nhật. Dùng tay xơ lệch hình chữ nhật để tạo thành
hình bình hành, gọi tên hình mới. Cho học sinh quan sát sự thay đổi của hình
chữ nhật ban đầu với hình vừa tạo thành là hình bình hành.
+ B2: học sinh thực hành trên đồ dùng.
+ B3: Từ trực quan, học sinh nhận ra sự thay đổi về góc, khơng thay đổi về độ
dài các cạnh. Từ đó rút ra đặc điểm của hình bình hành, so sánh với đặc điểm
của hình chữ nhật để ghi nhớ.
2.3.6. Biện pháp 6: Xây dựng các phong trào “Trường học thân thiện, học
sinh tích cực”
Giáo viên phối hợp với cha mẹ học sinh lên kế hoạch tạo cho học sinh có
nhiều cơ hội được học tập, trải nghệm một cách tự nhiên thoải mái hấp dẫn và
hứng thú, thơng qua các hoạt động ngồi giờ lên lớp. Các hoạt động tự học
ngoài giờ lên lớp cho học sinh lớp 4 vô cùng quan trọng và cần thiết. Đây cũng
là một trong những biện pháp phát triển việc tự học, tự tìm tịi và tự tìm kiếm
kiến thức cho học sinh. Bên cạnh đó, việc tham gia các hoạt động ngoài giờ lên
lớp giúp học sinh chủ động hơn trong việc sáng tạo, rèn kĩ năng sống trong thực
tế cuộc sống của các em. Như chúng ta đã biết tâm lí lứa tuổi học sinh tiểu học
cịn thích khen, thích vừa học vừa chơi, học mà chơi và chơi mà học.
Tôi đã mạnh dạn đề xuất với giáo viên trong tổ khối cùng ban lãnh đạo
trường và hội cha mẹ học sinh tổ chức một số hoạt động ngoài giờ lên lớp để
nâng cao vốn kiến thức hiểu biết cho các em như:
Ví dụ 1: Vui trung thu, hội chợ xn.
Hịa chung cùng khơng khí rộn ràng sắc xuân, hân hoan tận hưởng năm
mới, nhà trường tổ chức Hội chợ Xn với mục đích để các em có một khơng
gian vui chơi thật sự có ý nghĩa, các em có cơ hội được thể hiện mình qua các

sản phẩm do chính tay các em làm ra; nhằm phát huy tính sáng tạo, khả năng tư
duy cho học sinh, giúp các em bước đầu làm quen với việc trao đổi, chia sẻ, mua
bán hàng hóa trong thời kì hội nhập kinh tế và tạo sân chơi bổ ích, giao lưu lành
mạnh, giúp các em tích cực và mạnh dạn hơn trong các hoạt động tập thể, cùng
nhau đoàn kết bảo vệ môi trường.
8


Vui trung thu, các em lớp 4D không chỉ chuẩn bị các mâm cỗ trưng bày
những sản vật của địa phương mà cịn thể hiện sự khéo léo của đơi tay qua việc
thiết kế những chiếc đèn ông sao, những con vật hết sức ngộ nghĩnh mang đậm
màu sắc dân gian, được hóa thân thành rất nhiều nhân vật khác nhau.
Mỗi học sinh một ý tưởng nhưng tất cả đều toát lên sự khéo léo và tinh tế.
Học sinh tự bày một mâm cỗ trong đó có bánh nướng, bánh dẻo, các loại quả
đặc trưng của mùa thu, tết trung thu như: bưởi, na, nhãn, hồng, chuối…Các em
được thỏa sức sáng tạo với mâm cỗ của mình.
Thơng qua các hoạt động ngoài giờ, giáo dục cho các em phát huy tính
sáng tạo, tinh thần đồn kết, tương trợ học tập lẫn nhau, cũng như tạo sân chơi
lành mạnh và bổ ích cho các em trong các phong trào. Từ đó, các em có tinh
thần tự học sáng tạo hơn.

Ví dụ 2: Hội thi “Đầu bếp nhí”
Qua hoạt động trải nghiệm “Đầu bếp nhí” rèn cho học sinh tính tự tin,
biết tự phục vụ, biết phân công và hợp tác trong nhóm. Bởi vào bếp với nhiều
cơng đoạn mà 1 nhóm lớn thì người nhóm trưởng “ bếp trưởng” phải biết phân
cơng nhiêm vụ rõ ràng, các thành viên trong nhóm phải biết hợp tác. Để có sản
phẩm đẹp các em phải biết tự tìm cách làm và tự trang trí,..... Sau khi nắm được
nội dung cuộc thi “Làm bánh và cắt hoa quả” Bếp trưởng điều hành các hoạt
động của nhóm như: cách làm, cách trang trí, cách thuyết trình, đồ dùng, nguyên
liệu, ....Học sinh tích cực, mỗi bạn một việc và có ý thức tự giác học hỏi lẫn

nhau. Kết quả các em đã tự tay làm được các món bánh và cắt hoa quả rất đẹp.

9


Ảnh: Học sinh lớp 4D đang tự tay nhào bột làm bánh, cắt hoa lá.
Ví dụ 3: Tổ chức hoạt động đọc và chia sẻ sách:
Hiện nay, công nghệ 4.0 với nhiều thiết bị như: điện thoại, máy tính bảng,
ti vi kết nối mạng… khiến nhiều em học sinh rời xa sách. Vì thế, để khơi lại
niềm say mê đọc sách cho các em, tôi đã phát động phong trào “ Đọc sách và
chia sẻ sách”. Để kích thích tất học sinh đều có thói quen đọc sách, đọc truyện.
Giáo viên tổ chức cho các em đến tham quan và đọc sách ở thư viện trường.
Phối hợp với thư viện của trường cho học sinh làm thẻ và mượn sách để các em
có thể đọc ở lớp, ở nhà, ở sân trường.... Mỗi tuần cử một học sinh kể lại câu
chuyện mình u thích trước lớp. Được giao nhiệm vụ tất cả học sinh đều tự tìm
truyện, tự đọc và tự tập rồi kể lại câu chuyện bằng lời của mình trước lớp. Khi
các em kể hay được cơ và các bạn trong lớp vỗ tay cổ vũ nên các em rất vui. Từ
đó, cũng tạo cho các em thói quen tự đọc sách và nghiên cứu nhớ nội dung sách.

10


Ảnh: Đọc sách ở thư viện và sân trường của học sinh lớp 4D
Ví dụ 4: Tổ chức cho các em chơi các trò chơi dân gian:
Trong các tiết hoạt động ngoại khóa hoặc giờ ra chơi tơi thường hướng dẫn
các em nhiều trò chơi dân gian như: kéo co, chơi ơ quan, đi cà kheo… Các em
thích thú chơi, tạo tâm lý thoải mái sau tiết học và tiếp tục học tập tốt. Đây cũng
là hoạt động ngoài giờ lên lớp mà ngành giáo dục cần phổ biến đến các trường
học. Trị chơi dân gian vừa rèn trí thơng minh, tính nhanh nhẹn và hoạt bát cho
học sinh. Giáo viên nên đưa vào các tiết thể dục và hoạt động ngoài giờ để tập

cho học sinh chơi.

11


12


Ảnh: Hoạt động ngoại khóa của học
sinh lớp 4D
Ví dụ 5: Thi đua làm việc tốt.
Bằng nhiều hình thức tuyên truyền về tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh, học sinh đã có ý thức học và làm theo lời dạy của Bác. Các cá nhân,
nhóm, tổ,… đăng ký phong trào như: Chăm sóc cây xanh, thi đua làm việc tốt,
ủng hộ bạn nghèo.... tạo nên một bầu khơng khí thi đua sơi nổi. Cuối tuần, cuối
tháng cho lớp bình chọn học sinh tiêu biểu trong phong trào này để khen thưởng
có thể là cái bút hoặc quyển vở. Tâm lý các em rất muốn được khen nên thi đua
nhau làm việc tốt vì thế các phong trào hoạt động bề nổi các lớp tôi phụ trách
luôn đứng đầu trường.
13


2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Áp dụng những biện pháp nêu trên bước đầu mang lại hiệu quả đáng tin
cậy. Cụ thể kết quả khảo sát lớp tôi chủ nhiệm từ khi thực hiện các biện pháp
nâng cao năng lực tự học cho học sinh:
a. Khảo sát ý thức tự học lớp 4D sĩ số 36 học sinh vào tháng 1/2021 như sau:
Kết quả khảo sát ý thức tự học
TT


Hình thức khảo sát

1

Chăm chú nghe giảng
Vận dụng vốn hiểu biết và nghiên
cứu SGK để trả lời các câu hỏi
trong tiết học
Tự hồn thành các bài tập ở SGK
Tốn
Tự hồn thành BT thực hành Tốn
+ thực hành Tiếng Việt
Tự hồn thành các bài tập nâng
cao Tốn + Tiếng Việt
Tự giải toán violimpic trên mạng
Tự giải violimpicTiếng Anh
Tự học Tiếng Anh 123

2
3
4
5
6
7
8

Thường xuyên

Thỉnh thoảng


Chưa bao giờ

36em

100%

0em

0%

0 em

0%

34em

94,4%

2em

5,6%

0 em

0%

34em

94,4%


2em

5,6%

0 em

0%

32 em

88,9%

4 em

11,1%

0 em

0%

25 em

69,4%

11 em

30,6%

0 em


0%

20 em
20 em
30 em

55,5%
55,5%
83,3%

12 em
12 em
4 em

33,3%
33,3%
11,1%

4 em
4 em
2 em

11,1%
11,1%
5,6 %

b. Kết quả khảo sát môn Tốn
Kết quả chung của bài khảo sát mơn Tốn

Thời gian

khảo sát

Hồn thành tốt

Hồn thành

Chưa hồn
thành

Giữa kì I

17 em

47,2
%

17
em

47,2
%

2 em

5,6%

Cuối kì I

20 em


55,5
%

15
em

41,7
%

1 em

2,8%

Giữa kì II

23em

63,9
%

13e
m

36,1
%

0 em

0%


c. Khảo sát tình hình tự học trong giai đoạn nghỉ chống dịch corona
- Trong thời gian vừa qua do tình hình dịch bệnh corona nên việc học tập trung ở
trường của học sinh có bị gián đoạn. Tôi đã liên hệ với phụ huynh cho các em sử
dụng máy tính để lập gmail, zalo... nhóm để cùng nhau chia sẻ đề và bài làm
thơng qua nhóm dưới sự hợp tác của thầy cơ và phụ huynh. Tơi thấy học sinh
vẫn tích cực tự học và biết chia sẻ ý kiến của mình thơng qua nhóm “ Em u
thích học Tốn”. Cụ thể có đề bài tốn khó mà học sinh vẫn tự tìm tịi và giải
được nhiều cách.
14


- Tóm lại: Nhờ áp dụng các biện pháp trên mà trong năm học vừa rồi lớp do tôi
phụ trách các phong trào thi đua như nề nếp, văn nghệ, hoạt động vui trung thu,
trải nghiêm đầu bếp nhí, trị chơi dân gian,..... đều đạt giải nhất trường + số
lượng học sinh tự nguyện tham gia các cuộc thi giải toán qua mạng, IOE, trạng
nguyên Tiếng Việt, thi giao lưu toán quốc tế HKIMO, thách thức tài năng toán
học, giao lưu Olympic học sinh giỏi các môn rất sôi nổi. Chất lượng giáo dục
tăng lên rõ rệt.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Xuất phát từ định hướng đổi mới, trên cơ sở lí luận và thực tiễn đã nêu và
cùng với sự chỉ đạo chung của phòng giáo dục và nhà trường, tôi tiến hành
nghiên cứu và sử dụng phối hợp nhiều phương pháp, đó là: phương pháp điều
tra, phương pháp nghiên cứu, phương pháp đối chứng, phương pháp thực hành
và phương pháp tổng kết kinh nghiệm… Sau một thời gian khá dài, bản thân tôi
đúc rút tiến hành xây dựng một số biện pháp nâng cao năng lực tự học cho học
sinh lớp 4. Đó là giáo viên cần phải:
- Xác định nội dung phát triển năng lực tự học cho học sinh tiểu học.
- Tổ chức các hoạt động nhằm nâng cao nhận thức, xây dựng động cơ, thái độ và
kĩ năng tự học cho học sinh lớp 4.

- Đổi mới phương pháp dạy của giáo viên nhằm tác động tích cực đến việc tự
học của học sinh lớp 4.
- Tổ chức hoạt động tự học ngoài giờ lên lớp cho học sinh lớp 4.
- Tăng cường sự tham gia của các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường
để hỗ trợ việc tự học của học sinh lớp 4.
Nhờ áp dụng các biện pháp trên mà trong mấy năm học vừa rồi lớp do tôi
phụ trách ý thức tự giác trong học tập và chất lượng giáo dục tăng lên rõ rệt.
3.2. Kiến nghị và đề xuất:
a. Đối với nhà trường:
- Nhà trường nên đưa các hoạt động văn nghệ thể dục thể thao, câu lạc bộ nói lời
hay viết chữ đẹp, Giao lưu tốn tuổi thơ, violimpic Toán … vào làm căn cứ thi
đua giữa các khối lớp và các lớp thì mọi phong trào tự học, tự sáng tạo của học
sinh mới được nâng cao.
- Cần có những biện pháp nhằm làm thay đổi nhận thức của giáo viên, tổng phụ
trách, học sinh, cha mẹ học sinh về vai trò tự học của học sinh trong các hoạt
động giáo dục.
b. Đối với giáo viên:
Trong dạy học giáo viên ln giữ vai trị là người hướng dẫn, khích lệ sự
năng động của học sinh và khơi gợi, bồi dưỡng tính tích cực, tự giác, tư duy độc
lập.
Trên đây là “một số biện pháp nâng cao năng lực tự học cho học sinh lớp
4” mà bản thân tơi đúc rút lại trong q trình giảng dạy. Song, năng lực bản thân
cịn hạn chế, phần nào đó còn chưa đáp ứng được yêu cầu bạn đọc. Cuối cùng,
tơi kính mong q thầy cơ đọc, vận dụng và góp ý giúp tơi để tơi hồn thiện hơn
trong q trình dạy học. Tơi xin chân thành cảm ơn sự góp ý của bạn đọc!
15


An Hưng, ngày 30 tháng 3 năm 2021.
Xác nhận của BGH nhà trường Tôi xin cam đoan sáng kiến này là do tôi

viết, không copy, sao chép của người khác.
Người thực hiện

Lê Thị Ánh Tuyết

16



×