Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Mẫu Thượng Ngàn – sự diễn giải về phong tục thờ Mẫu của người Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.51 KB, 5 trang )

Nguyễn Thị Diệu Linh

Tạp chí KHOA HỌC & CƠNG NGHỆ

112(12)/1: 105 - 109

MẪU THƯỢNG NGÀN – SỰ DIỄN GIẢI VỀ PHONG TỤC THỜ MẪU
CỦA NGƯỜI VIỆT
Nguyễn Thị Diệu Linh*
Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên

TÓM TẮT
Tiểu thuyết Mẫu Thượng ngàn của nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã diễn giải một cách tỉ mỉ về
phong tục thờ Mẫu của người Việt qua lễ thức và trong tâm thức. Khi diễn giải về lễ thức hầu
Thánh, nhà văn đặc biệt chú trọng tới vai trị của ơng/bà đồng, bên cạnh đó khơng thể thiếu các
yếu tố như cách thức bài trí điện trong nghi lễ, điệu nhạc tiếng hát cung văn. Trong Mẫu Thượng
ngàn, Nguyễn Xuân Khánh cho thấy một Đạo Mẫu Việt với sức sống bền bỉ và mạnh mẽ, bởi lẽ
không chỉ hầu Thánh bằng nghi lễ, người Việt ở mọi tầng lớp đều hướng về Mẫu trong tâm thức.
Qua việc diễn giải phong tục thờ Mẫu, Nguyễn Xuân Khánh góp phần khẳng định sức sống mãnh
liệt, dẻo dai của văn hóa và tâm hồn người Việt.
Từ khóa : Mẫu Thượng ngàn, Nguyễn Xuân Khánh, Đạo Mẫu, sức sống Việt, văn hóa Việt.

Đạo Mẫu - tín ngưỡng hướng về nguồn cội
Mẹ - là một tín ngưỡng bản địa có ảnh hưởng
sâu rộng trong tâm linh của người Việt. Nó
hình thành, tồn tại và phát triển trong cả một
q trình lâu dài và đầy biến động của lịch sử
dân tộc ta. Có một điều kỳ lạ là dù ở bất cứ
thời điểm nào, thịnh hay suy, thậm chí bị bài
trừ, tẩy chay dữ dội, đạo Mẫu vẫn bền bỉ tồn
tại trong đời sống và tâm thức của người Việt.


Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh nhận thấy
“Đạo Mẫu là đạo nguyên thủy của người Việt
Nam: thờ mẫu, thờ mẹ núi, mẹ sơng, mẹ đất,
thờ Man nương… Nó có tính chất ngun
thủy ngấm ngầm trong dân gian, khơng có
tính tri thức gì. Nó là đạo của những người
nghèo khổ” [1]. Với ý nghĩa khởi thủy, với
sức sống bền bỉ của Đạo Mẫu, Nguyễn Xuân
Khánh đã chọn nó để nói lên sức sống bất diệt
của hồn Việt, của văn hóa dân tộc Việt trong
tiểu thuyết Mẫu Thượng ngàn. Trong tiểu
thuyết này, Nguyễn Xuân Khánh đã diễn giải
về Đạo Mẫu qua nghi thức hầu đồng và trong
tâm thức người Việt. *
THỜ MẪU QUA LỄ THỨC
Lên đồng là một nghi lễ quan trọng và tiêu
biểu của đạo Mẫu. Khác với nhiều hình thức
tín ngưỡng tơn giáo khác, đạo Mẫu không
hướng con người vào thế giới sau khi chết,
*

ĐT: 0983016779; Email:

mà là một thế giới hiện tại, trần tục với ước
mong dồi dào về sức khỏe, tài lộc. Tuy nhiên,
trong tâm thức của người Việt, để đạt tới ước
vọng trần tục ấy, người ta cần điểm tựa là thế
giới siêu nhiên với các thần linh tái sinh trên
thân xác ông đồng, bà đồng trong các nghi lễ
lên đồng.

Một lễ hầu đồng cần có ơng/bà đồng và các
yếu tố mang tính nghi lễ (lễ vật, sự bài trí, hát
cung văn…). Trong đó, ơng/bà đồng giữ vai
trị quan trọng nhất, là “ghế” cho Thánh nhập
để ban phát tài lộc, ân đức cho con cháu và
các con nhang đệ tử. Ở tiểu thuyết Mẫu
Thượng ngàn, nhà văn đã xây dựng hai nhân
vật: cô Mùi và ông hộ Hiếu, như là đại diện
tiêu biểu cho những người chủ đồng chân
chính.
Nguyễn Xuân Khánh đã dành nhiều trang viết
đẹp và đầy say mê cho nhân vật Mùi. Mùi là
người con gái đẹp nhưng đầy truân chuyên.
Lấy chồng ba lần, cả ba lần chồng chết, cơ bị
mang tiếng “sát phu”. Khơng tìm thấy hạnh
phúc nơi “trần thế”, cô dồn trọn niềm tin yêu
vào Thánh Mẫu. Trước khi về hẳn cửa Thánh,
trong Mùi luôn tồn tại hai con người thuộc về
hai thế giới tách biệt: tục lụy và thần thánh.
Người phụ nữ ấy trong cuộc sống đời thường,
sau bao điều tiếng và đớn đau, là một người
đàn bà trầm lặng, lầm lũi như một thân xác vơ
hồn. Thế nhưng, trong vai trị là con nhang đệ
105


Nguyễn Thị Diệu Linh

Tạp chí KHOA HỌC & CƠNG NGHỆ


tử của Mẫu, Mùi như lột xác. Philippe
Messmer, người chồng thứ ba của Mùi, đã
nhận ra sự thay đổi lạ thường ấy khi chứng
kiến Mùi hầu đồng: “Mùi đã biến thành con
người khác hẳn. Đôi mắt đen láy trở nên sáng
lạ thường”, “cả đến giọng nói của cơ cũng
mang âm sắc khác hẳn, nó mềm mại hơn
nhưng lại uy tín”[4]. Với sự đổi thay đột ngột
ấy, Philippe hào hứng nhận ra vẻ đẹp “lộng
lẫy kỳ lạ”, mà “hình như trong những lúc
Mùi mê tín, hoặc lúc Mùi mê đắm ngồi đồng,
cái riêng biệt, cái thần của cô ta mới hé lộ”
[4]. Chỉ khi ở gần Mẫu, rơi vào trạng thái lâng
lâng say đồng, Mùi mới thực sự là một con
người sống động và đam mê, khác hẳn cô
Mùi thờ ơ, thụ động thường ngày. Không phải
ngẫu nhiên Mùi được bà Tổ Cơ truyền lại vị
trí chủ đền Mẫu. Bà Tổ Cơ tinh tường đã nhìn
ra đằng sau cơ gái với thân phận bất hạnh kia
là một đồng cốt phảng phất bóng dáng của
Mẫu: “Con có mặt ở đâu là chỗ đó tươi tỉnh
hẳn lên. Ai buồn gặp con tức khắc thấy lòng
nhẹ nhõm. Ai ốm đau gặp con, tức khắc
dường như chỉ nhìn thấy căn bệnh đã lui.
Hình như Mẫu ln ngự nơi con để ban tài
phát lộc cho con nhang đệ tử” [4].
Bên cạnh đó, cơ Mùi cịn có khả năng chữa
bệnh cho người ốm bằng những lá cây rừng bí
ẩn. Điều này được Nguyễn Xuân Khánh lý
giải bằng câu chuyện về một bà lão người

Mường mà Mùi gặp trong rừng sâu. Bà già
Mường đã cứu cô và truyền lại cho cô những
bài thuốc quý để chữa bệnh từ lá rừng. Sau
khi về thăm bà Tổ Cô, Mùi quay lại thì khơng
thấy bà già Mường đâu nữa, người ta nói rằng
bà cụ đã quay về mường trời. Câu chuyện
quanh Mùi càng được phủ màu sắc huyền
thoại khi người dân làng Cổ Đình cịn truyền
tai nhau câu chuyện cơ Mùi mơ thấy Mẫu
hiện về và dạy cô cách nắm chặt tay bệnh
nhân để truyền cho họ hơi ấm và sức mạnh.
Bằng phương thuốc bí truyền của cụ bà người
Mường bí ẩn và sự chỉ dạy của Mẫu, cô Mùi
đã chữa khỏi bệnh cho biết bao người.
Khơng chỉ có khả năng chữa bệnh, cơ đồng
Mùi cịn có khả năng thấy trước tương lai qua
106

112(12)/1: 105 - 109

giấc mơ báo mộng kỳ lạ. Trong lễ hội rước
ông Đùng bà Đà của làng Cổ Đình, cơ mơ
thấy bà Tổ Cơ về báo mộng rằng không được
để cô bé Nhụ tham gia lễ rước. Và quả thực,
trong đêm hội làng, cô bé Nhụ đã bị tên Julien
Messmer hãm hiếp.
Giới nghiên cứu văn hóa Việt Nam đã khơng
ít lần nói đến khả năng kỳ lạ của các ơng
đồng bà cốt, theo nhà văn hóa học Ngơ Đức
Thịnh: “Một chức năng cơ bản của nghi thức

nhập hồn của các Thánh vào các ông đồng bà
đồng là để chứa bệnh, đoán số và ban phúc
lộc” [5]. Và với chủ ý xây dựng hình ảnh
những ơng đồng, bà đồng đại diện cho sức
mạnh bí ẩn của đạo Mẫu, Nguyễn Xuân
Khánh đã tiếp tục dành nhiều tâm sức mô tả
ông hộ Hiếu - một đồng thầy đặc biệt, hiện
thân của Đức Thánh Trần.
Ông hộ Hiếu vốn làm nghề sơn tràng, thời trẻ
rất thích lang bạt kỳ hồ, sau một lần bị sét
đánh khơng chết, ơng trở thành người kỳ tài
« Nhìn vào ai biết được người đó đau ốm thế
nào. Rồi dùng thuốc chữa bệnh, dùng đôi bàn
tay không chữa bệnh. Lúc nào lão bị thánh
ốp, lúc đấy khả năng chữa bệnh rất cao” [4].
Mỗi khi bị thánh nhập, ông hộ Hiếu lại nhịn
ăn, chỉ uống trà đặc, và dùng kiếm cắt lưỡi,
lấy máu vẽ bùa. Những chiếc bùa đó được
ông ban cho người bệnh, họ mang về đốt
thành tro, lấy tro hịa với nước, uống vào là có
thể chữa được bệnh: “ông chữa được tất cả
mọi bệnh, từ bệnh vặt cho tới bệnh trọng” [4].
Ông hộ Hiếu là thầy phù thủy có căn Đức
Thánh Trần. Ở những người có căn mạng
Trần triều, lễ thức hầu đồng có phần ghê rợn
và mang tính chất kỳ bí hơn. Trong tâm thức
dân gian, Đức Thánh Trần (Trần Hưng Đạo)
vốn là một trong những vị Thánh rất linh
thiêng, vì thế những người bị Thánh Trần
“ốp” sẽ là những thầy phù thủy có ma thuật

cao tay. Những người hầu đồng Trần triều
thường dùng dao hoặc kiếm cắt lưỡi và phán
truyền, sự phán truyền của họ rất linh nghiệm.
Khác với cô đồng Mùi và những bà đồng đền
Mẫu hầu đồng trong lễ thức vừa uy nghi,
trang trọng, vừa sinh động rộn ràng với điệu


Nguyễn Thị Diệu Linh

Tạp chí KHOA HỌC & CƠNG NGHỆ

kèn tiếng hát cung văn, ơng hộ Hiếu có lễ hầu
đồng của riêng ông. Không đàn hát, không
rộn ràng con nhang đệ tử, ông hộ Hiếu “bắc
ghế” cho Thánh nhập trước vị “khán giả” duy
nhất là pho tượng ông Hộ Pháp giữa ngôi
chùa đổ: “Khi lên cơn ốp đồng ông nhịn cơm
hàng tuần, và lúc đó chỉ rặt uống một thứ
nước chè đặc chát xít. Người ơng gày như cái
xác ve”, “tay ơng cầm thanh kiếm mài thật
sắc, múa loang lống trước pho Hộ Pháp.
Sau đó, ơng thè lẽ lưỡi ra, thè thật dài. Ông
nâng thanh kiếm sắc đặt ngang lưỡi. Nhắm
mắt lại vì cứ nghĩ ơng sắp cắt cụt lưỡi mình.
Nhưng khơng phải. Ơng rất thận trọng dùng
hai tay đỡ hai đầu thanh kiếm, rồi khẽ khàng
đặt nhẹ thanh kiếm xuống, chỉ vừa đủ tạo ra
một nhát khía mỏng tang làm máu ứa ra”,
“ơng nhổ nó ra chiếc bát, hịa máu với son để

vẽ bùa” [4].
Khơng chỉ có khả năng chữa bệnh kỳ tài, ơng
hộ Hiếu cịn có thể nhìn thấy trước những sự
việc của tương lai. Với một bát nước trong vắt
lấy từ hồ Huyền, ơng có thể đọc được những
phúc họa sắp xảy tới (những dự đốn chính
xác của ơng về ơng Thần Cẩu, bệnh dịch tả,
thậm chí thấy trước ngày mình sẽ qua đời).
Ơng đồng, bà đồng là những người trung gian
giữa Thánh thần và người trần. Những ông
đồng bà đồng tài đức như cô Mùi, ông hộ
Hiếu vừa là người kế tục, gìn giữ tín ngưỡng
truyền thống trong văn hóa dân tộc, vừa thể
hiện vẻ đẹp, sự màu nhiệm của đạo Mẫu đối
với người dân thường. Điều đó góp phần lý
giải sức sống mãnh liệt của đạo Mẫu, và hơn
thế, nó thể hiện sức mạnh bền bỉ và ý nghĩa
lớn lao của văn hóa tâm linh trong đời sống
và tâm hồn người Việt.
Bên cạnh việc xây dựng các hình ảnh các
nhân vật ơng đồng, bà đồng, nhà văn Nguyễn
Xuân Khánh còn miêu tả tỉ mỉ lễ thức lên
đồng, thể hiện khả năng quan sát và sự hiểu
biết cặn kẽ về phong tục thờ Mẫu của dân
gian ta.
Nhà văn mô tả lại tỉ mỉ từ cách bày biện,
trang trí lộng lẫy và uy nghiêm trong đền

112(12)/1: 105 - 109


Mẫu: “đèn, nến, nhang khói, ánh vàng son
của tịa điện vừa lung linh vừa huyền ảo. Trên
điện thờ, ở chỗ cao nhất là ba bức tượng tam
tòa thánh Mẫu. Ở giữa là Mẫu Thượng thiên,
hai bên là Mẫu Thoải và Mẫu Thượng ngàn”,
“bức hoành phi nền đỏ với bốn chữ màu vàng
Mẫu nghi thiên hạ” thật chói lọi”[4], đến
khăn chầu áo ngự hầu Thánh của bà đồng, và
cảm giác “lâng lâng khó tả” [4] ở người đồng
đền trước khi được bắc ghế hầu Thánh. Và
cũng như cô đồng Mùi, những con nhang đệ
tử của Thánh Mẫu luôn “sẵn sàng rũ bỏ tục
lụy thường nhật để dấn thân vào những cõi
trời siêu nghiệm xa lạ, ở đó ta trở về với ta
tức là ta trở về với mẹ, ở đó là sự yên bình,
niềm an ủi, cái diệu kỳ thánh thiện…” [4].
Một nghi lễ hầu đồng sẽ không thể diễn ra
nếu thiếu tiếng đàn, giọng hát của cung văn.
Tiếng hát của cơ bé Nhụ và tiếng đàn của
Trịnh Huyền góp phần hoàn thiện lễ thức lên
đồng ở đền Mẫu. Giọng hát “tươi tắn, réo rắt,
vừa nhún nhảy vừa lượn lờ”, “lảnh lót, ríu rít
như tiếng họa mi” [4] của Nhụ cuốn người
nghe vào thế giới của các thánh thần. Tiếng
hát ấy đã góp phần thanh lọc tâm hồn con
người, khiến con người ta thoát khỏi những
đau khổ của thế giới phàm tục để hướng đến
Mẫu, hướng tới những gì tốt đẹp nhất, và
nhập tâm hoàn toàn vào buổi lễ hầu đồng:
“Một cảm giác khác thường, chưa từng có,

theo lời ca chợt dâng lên trong lòng tất cả
mọi người trong điện”[4]. Hòa nhịp với tiếng
hát của Nhụ là tiếng đàn điêu luyện và tràn
đầy xúc cảm của Trịnh Huyền. Đó là giai điệu
“làm vơi nhẹ tâm hồn, dẫn dắt con người ta
tới chỗ thăng hoa, siêu thoát vượt ra khỏi cõi
tục”, “rửa sạch bụi bặm của kiếp nhân
sinh”[4]. Tiếng đàn ấy có khả năng lay động
tâm hồn người kỳ lạ. Tiếng đàn giúp giãi bày
tấm lòng của bao người với Mẫu. Đó là tấm
lịng của một cơ đồng lú bất hạnh, chồng mới
mất chưa lâu, một nách năm đứa con nheo
nhóc, đau khổ q gần như hóa điên, cơ tìm
lên với Mẫu để trút giải nỗi niềm. Tiếng đàn
ấy cũng bày tỏ tâm sự của một cụ già, về đền
để tạ ơn Mẫu, nghe tiếng đàn réo rắt nhưng cụ
lại “bật khóc như một đứa trẻ” [4]. Tiếng đàn
107


Nguyễn Thị Diệu Linh

Tạp chí KHOA HỌC & CƠNG NGHỆ

cũng đưa bà Ba Váy vào một cuộc hầu đồng
trong tâm tưởng: “bà Ba không ngồi đồng,
nhưng bà ngồi trước điện thờ rất lâu. Khơng
có lời hát, khơng có trống phách, chỉ có tiếng
đàn rỉ rả rót nhẹ vào tâm hồn bà (…) Đó là
một cuộc lên đồng. Một cuộc lên đồng lặng

lẽ. Bởi vì hồn bà thực sự đã lạc vào một thế
giới ngoài trần thế” [4].
THỜ MẪU TRONG TÂM THỨC
Như lời cơ bé Nhụ nói với Điều: “Bố em bảo,
ở nước ta đâu đâu cũng có Mẫu”[4], Mẫu hóa
thân trong từng cành cây, ngọn cỏ, con nước,
Mẫu tràn ngập núi rừng, quyện hòa trong hơi
thở, lắng đọng trong tâm thức người Việt.
Đâu phải cứ bắc ghế hầu thánh mới là thờ
Mẫu. Bằng Mẫu Thượng ngàn, nhà văn
Nguyễn Xuân Khánh còn cho ta thấy sức
sống bền bỉ của phong tục thờ Mẫu chính nằm
ở sự thành kính trong tâm. Bởi lẽ, “Mẫu lặng
lẽ ban phát ân huệ cho tất cả mọi người, tuy
Mẫu chẳng hé răng nói một lời”, khi thành
tâm hướng về Mẫu, con người ta “khắc tự
nhiên nhận được một ân sủng tốt lành, ấm áp
tỏa ra từ ánh mắt, từ con người từ bi hiền hậu
của Mẫu” [4].
Có những người khơng giàu sang nhưng họ
vẫn thờ Mẫu bằng tất cả sự thành kính, và đi
theo lời chỉ bảo của Mẫu. Đó là bà đồng già ở
một điện thờ hẻo lánh trong rừng đã cứu
huynh đệ cụ đồ Tiết khi họ chạy trốn sự truy
lùng của của quân Pháp: “Không phải ngôi
điện thờ lộng lẫy. Một cái nhà lá sơ sài, bên
trong treo hai chiếc nón thờ có quai thao.
Độc nhất một bức tượng nhỏ trùm khăn đỏ
ngồi ở trên bàn tre cao giữa gian lều, dưới
chân thêm một bình hoa”[4], giữa điện thờ

đơn sơ ấy, bà đón thầy trị đồ Tiết với tấm
lịng bao dung vơ bờ của Mẫu: “Già này ngồi
đồng vo, nghe thấy Mẫu phán rằng phải ra
đây chờ đón chư vị tơn ơng. Chư vị là những
người làm nghĩa cả…” [4].
Càng ý nghĩa hơn khi nhà văn Nguyễn Xuân
Khánh đã mượn lời cụ phó bảng Vũ Huy Tân,
người được sinh ra và lớn lên trong bầu
khơng khí Nho học, nói về đạo Mẫu: “Ngồi
đồng là gì? Là làm cho lịng ta đạt tới chỗ
108

112(12)/1: 105 - 109

tâm hư, để hòa đồng cùng với thế gian. Thần
thánh cũng ở trong ta. Phàm tục cũng ở trong
ta. Tất cả thế gian đều là một. Vả lại, khắp
nước ta, nơi nào chả có người ngồi đồng thờ
Mẫu. Mẫu sinh thành ra thế gian này”, “hơn
nữa, trong khi bọn tả đạo tây dương đang
hoành hành khắp chốn, người dân ta thờ Mẫu
tốt hơn hay theo tả đạo tốt hơn?” [4]. Và ông
đồ Tiết, khi cô con gái yêu xin lên ở đền Mẫu
để làm việc thánh, dẫu rất xót xa nhưng ơng
thấu hiểu “những người vất vả như bà Tổ cơ
và cơ Mùi nên lên đó. Bởi vì, chỉ có Mẫu mới
an ủi được họ, mới giải tỏa được cho họ khỏi
những cay cực, những ẩn ức của chốn thế
gian” [4]. Những người như cụ phó bảng Huy
Tân, cụ đồ Tiết, dù thụ hưởng nền giáo dục

Nho gia nhưng trong tâm khảm vẫn ln
thành kính, cảm kích trước Mẫu, và tin tưởng
vào sức mạnh Mẫu toả bóng tới con cháu của
mình. Tín ngưỡng thờ Mẫu khơng lúc nào lu
mờ trong họ. Cũng qua lời khẳng định của cụ
Vũ Huy Tân, chúng ta nhận thấy việc ngồi
đồng không chỉ mang ý nghĩa tâm linh, mà nó
cịn thể hiện tinh thần dân tộc trong thời buổi
hỗn dung tôn giáo ở Việt Nam cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX.
Nhìn rộng ra, đạo Mẫu sở dĩ có một sức sống
bền bỉ, dẻo dai như vậy, là vì cũng như các
tơn giáo khác trên thế giới, nó vì con người,
mang tinh thần nhân văn và khuyến thiện,
như lời bà Tổ cô: “Đạo nào cũng thế cả thôi.
Đạo Giê-su cũng như đạo Mẫu. Tất cả đều
chỉ là khuyến thiện (…) Cốt là cái linh thiêng
của Mẫu, cịn đồng là cái bên ngồi, là ta, là
cái ghế để cho thánh ngự. Ta càng sạch sẽ
bao nhiêu, ta càng thánh thiện bao nhiêu, ta
càng rũ bỏ tục lụy bao nhiêu, thì Mẫu càng
gần ta bấy nhiêu và các đệ tử cũng càng
nhích lại bấy nhiêu” [4].
Đó là chân lý mà khơng phải ai cũng nhận ra.
Chỉ những con người từng trải, chịu khó suy
ngẫm và bao dung mới có thể thấu suốt tín
điều ấy. Dẫu không tránh khỏi hiện tượng
“đồng đua”, buôn thần bán thánh, dùng chốn
tơn nghiêm làm nơi kiếm lợi, nhưng nhờ có
những tâm hồn thiện hướng về Mẫu với niềm

tin vô tư và lịng thành kính, mà đạo Mẫu mới


Nguyễn Thị Diệu Linh

Tạp chí KHOA HỌC & CƠNG NGHỆ

có một sức sống dẻo dai, bền chắc đến vậy.
Mẫu vẫn sẽ còn sống mãi trong tâm hồn và
dòng máu Việt. Hình ảnh bé Nhị “một tay
chống nạnh, một tay cầm cái quạt, hát bi bơ
một câu gì đó. Chắc nó bắt chước mẹ nó” [4]
là hình ảnh đẹp, khiến người đọc có niềm tin
vào sức sống của đạo Mẫu.
Mẫu Thượng ngàn cung cấp cho chúng ta một
cách diễn giải về đạo Mẫu, một tín ngưỡng
bản địa có ảnh hưởng sâu rộng trong tâm linh
người Việt. Nguyễn Xuân Khánh miêu tả sinh
động hoạt động tín ngưỡng thờ Mẫu qua lễ
thức hầu đồng và sức sống của đạo Mẫu trong
tâm thức của người Việt. Tác giả đã tỏ ra am
hiểu sâu sắc văn hóa tín ngưỡng, có những
quan sát tinh tế về những biểu hiện của nó
trong dân gian.

112(12)/1: 105 - 109

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nguyễn Lan Anh, Nguyễn Xuân Khánh gác
bút

sau
“Mẫu
Thượng
ngàn”,
, 2009.
[2]. Châu Diên, Nguyễn Xuân Khánh và cuộc
giành lại bản sắc, Báo Tuổi trẻ - số ra ngày
16/7/2006.
[3]. Dương Thị Huyền, Nguyên lý tính mẫu trong
tiểu thuyết “Mẫu Thượng ngàn”, Luận văn
thạc sĩ Ngữ văn, Hà Nội, 2007.
[4]. Nguyễn Xuân Khánh, Mẫu Thượng ngàn,
Nxb. Phụ nữ, Hà Nội, 2006.
[5]. Ngô Đức Thịnh (chủ biên), Đạo Mẫu và các
hình thức Shaman trong các tộc người ở Việt
Nam và Châu Á, Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội, 2004.

SUMMARY

MOTHER OF THE FOREST - THE EXPLANATION
OF CUSTOMS IN “DAO MAU” OF VIETNAMESE
Nguyen Thi Dieu Linh*
College of Sciences – TNU

The novel Mother of the Forest of Nguyen Xuan Khanh has meticulously interpreted about the
customs of “Đạo Mẫu” though etiquettes and spirit. When explaining about etiquettes of “Đạo
Mẫu”, the writer Nguyen Xuan Khanh especially focuses on the role of “ông đồng/bà
đồng” (person who is possessed by divinity). Besides, the writer emphasizes the importance of the
decoration in shrines, songs and music in the etiquettes. In this novel, the writer Nguyen Xuan

Khanh indicates that the vitality of “Đạo Mẫu” in Vietnam is really persistent and strong.
Vietnamese shrines “Thánh” not only by etiquettes, but also in their spiritual mind. By interpreting
the customs of “Đạo Mẫu”, Nguyen Xuan Khanh confirms the strength of Vietnamese culture and
human soul.
Key words: Mother of the Forest, Nguyen Xuan Khanh, Dao Mau, Vietnamese vitality,
Vietnamese culture.

Phản biện khoa học: TS. Nguyễn Đức Hạnh – Nhà xuất bản Đại học Thái Nguyên

*

ĐT: 0983016779; Email:

109



×