Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Một số thể thơ trong thơ Công giáo Việt Nam hiện đại (khảo sát qua năm tập có một vườn thơ đạo)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (731.45 KB, 10 trang )

HNUE JOURNAL OF SCIENCE
Social Sciences, 2018, Volume 63, Issue 4, pp. 34-44
This paper is available online at

DOI: 10.18173/2354-1067.2018-0025

MỘT SỐ THỂ THƠ TRONG THƠ CÔNG GIÁO VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
(KHẢO SÁT QUA NĂM TẬP CÓ MỘT VƯỜN THƠ ĐẠO)

Nguyễn Thị Kim Hồng
Khoa Sư phạm, Trường Đại học Tây Nguyên
Tóm tắt. Đức tin là nguồn cảm hứng chủ đạo của thơ tôn giáo. Cảm hứng về Đức tin thể hiện
rất đa dạng, phong phú trong thơ tơn giáo, nó chi phối đến cách lựa chọn đề tài, chủ đề, hình ảnh,
nội dung, ngôn ngữ... Để chuyển tải mạch cảm hứng chủ đạo trong sáng tác của mình, các nhà
thơ đã tìm tòi, sử dụng nhiều phương tiện nghệ thuật khác nhau từ cách thức tổ chức ngôn ngữ,
giọng điệu, đến sự lựa chọn thể thơ, lựa chọn các hình ảnh biểu tượng phù hợp. Bài báo này sẽ
đi sâu tìm hiểu về sự lựa chọn các thể thơ trong thơ Công giáo Việt Nam hiện đại khảo sát qua
năm tập Có một vườn thơ đạo, một bộ tuyển tập đồ sộ thơ Công giáo Việt Nam từ thế hệ của
Hàn Mặc Tử đến nay.
Từ khóa: Thể thơ, thơ Cơng giáo Việt Nam hiện đại.

1.

Mở đầu

Từ lâu, văn học Công giáo chủ yếu được biết đến nhiều ở lĩnh vực văn xuôi, đặc biệt trong
cơng cuộc hiện đại hóa văn học đầu thế kỉ XX. Phần về thơ, quả thực cịn ít được chuyên tâm tìm
hiểu. Điều này đặt ra sự nghi ngại của các nhà nghiên cứu về sự tồn tại hay khơng tồn tại của một
dịng thơ Cơng giáo Việt Nam, cũng như quá trình vận động, sức sống, và vị trí, ý nghĩa của thơ
Cơng giáo trong lịch sử thơ ca dân tộc. Năm 2012, Có một vườn thơ đạo ra đời cho thấy có sự hiện
hữu của một dịng thơ Cơng giáo Việt Nam trong lịng thơ ca dân tộc. Với vai trò tiên phong và đại


diện của Hàn Mặc Tử, thơ Cơng giáo đã có những bước vận động phát triển nhất định. Dù khiêm
nhường và có phần lặng lẽ, sự hiện diện của thơ Công giáo với những nét đặc sắc riêng đã góp phần
ít nhiều trong việc làm phong phú hóa nền thơ ca Việt Nam. Và riêng đối với cơng cuộc hiện đại hóa
thơ ca đầu thế kỉ XX, trong những tác động mạnh mẽ của văn hóa phương Tây, khơng thể khơng có
sự ảnh hưởng của Thiên Chúa giáo thông qua các tác phẩm thơ.
Đã có một số cơng trình nghiên cứu quan tâm về thơ Công giáo như Võ Long Tê (1965) nghiên
cứu về Lịch sử văn học Công giáo Việt Nam [13], Lê Đình Bảng (2009) đã sưu tầm và giới thiệu
các tác phẩm thi ca Công giáo [1-7], Trăng Thập Tự (2012a) tập hợp các cơng trình nghiên cứu về
“thơ cầu nguyện” của Hàn Mặc Tử, tập hợp các bài viết về vấn đề tôn giáo trong thơ Hàn Mặc Tử
của nhiều nhà nghiên cứu như Phan Cự Đệ, Quách Tấn, LM. Trần Cao Tường... [14], Trăng Thập
Tự (2012a) cũng đã dày công sưu tầm và giới thiệu các tác phẩm thơ Công giáo từ thế hệ của Hàn
Mặc Tử đến nay [14], Trăng Thập Tự (2012b) [15], Trăng Thập Tự (2012c) [16], Trăng Thập Tự
(2012d) [17], Trăng Thập Tự (2015) [18], những bài viết đề cập đến vấn đề tôn giáo trong thơ Hàn
Mặc Tử như: Đạo và đời trong thơ Hàn Mặc Tử của Yến Lan; Quan niệm về thơ của Hàn Mặc Tử
của Mai Văn Hoan; Sự nghiệp ảnh hưởng đạo Phật trong thơ Hàn Mặc Tử của Quách Tấn; Con
người trong thơ Hàn Mặc Tử của Nguyễn Thị Hồng Nam... được tập hợp trong cơng trình Hàn Mặc
Ngày nhận bài: 1/2/2018. Ngày sửa bài: 29/3/2018. Ngày nhận đăng: 1/4/2018.
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Kim Hồng. Địa chỉ e-mail:

35


Nguyễn Thị Kim Hồng

Tử - thơ và đời do nhóm trí thức Việt thực hiện (2016) [11]. Lê Hồ Quang (2015) thực hiện cơng
trình nghiên cứu phê bình thơ Việt Nam hiện đại và một số hiện tượng thơ đáng chú ý ở các giai
đoạn khác nhau [12]. Cơng trình của Hồi Thanh, Hồi Chân (2005) [20], cơng trình của Nguyễn
Tồn Thắng (2007) nghiên cứu về tơn giáo trong thơ Hàn Mặc Tử và những điểm đặc biệt về thi
pháp thơ của nhóm thơ Bình Định [21]. Luận văn thạc sĩ nghiên cứu về Cảm hứng tôn giáo trong
thơ Mới 1932 - 1945 của Nguyễn Thị Phương Thúy (2010) [22]. Cơng trình nghiên cứu về Cảm

hứng tơn giáo trong thơ Mai Văn Phấn của Mai Thị Thảo (2014) [19], Chu Thị Thu Hằng (2012)
nghiên cứu về Cảm quan tôn giáo trong thơ Nguyễn Quang Thiều [10],.... Những cơng trình đã có
là gợi ý quan trọng để chúng tơi thực hiện nghiên cứu về thơ Công giáo Việt Nam hiện đại về
phương diện nội dung cũng như nghệ thuật. Trong phạm vi bài báo này, chúng tôi sẽ tập trung
nghiên cứu về hệ thống thể loại trong thơ Công giáo để làm rõ những đóng góp về phương diện
nghệ thuật của thơ Công giáo đối với thi ca Việt Nam hiện đại.

2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Cách tân các thể thơ truyền thống
Đức tin là yếu tố cốt lõi của một tôn giáo, thơ ca viết về tôn giáo không thể không viết về Đức
tin. Đồng thời nhiều nhà thơ viết về tôn giáo đều theo đạo hoặc thấm nhuần tư tưởng của đạo mà
họ đang quan tâm, ở họ sẵn có lịng mộ đạo, niềm tin tơn giáo ln hiện diện trong tâm hồn của
nhà thơ Cơng giáo, vì thế thơ như một phương tiện giãi bày cảm xúc về đức tin đó. Xét từ mối
quan hệ giữa Đức tin tơn giáo và hoạt động sáng tạo thơ ca, có thể thấy, từ Phật giáo, Đạo giáo
hay Thiên Chúa giáo, Đức tin của đạo luôn là nguồn cảm xúc mãnh liệt thôi thúc sự sáng tạo trong
nghệ thuật. Thơ ca chính là phương tiện giãi bày những xúc cảm và khát vọng mãnh liệt về Đức
tin của các nhà thơ. Mặt khác, trong thực tế cuộc sống, khi bế tắc con người thường tìm đến đức
tin tơn giáo, dù là vơ thức, nhằm giải thốt những ẩn ức. Sự phong phú trong cảm xúc về Đức tin
của các nhà thơ Công giáo tất dẫn đến sự lựa chọn nhiều thể thơ. Quan sát 5 tập thơ Có một vườn
thơ đạo, có thể thấy, khơng có nhà thơ nào chỉ sử dụng một thể duy nhất. Các nhà thơ sáng tác đa
dạng trên tất cả các thể thơ, từ các thể thơ truyền thống đến các thể thơ hiện đại. Qua khảo sát, thống
kê, chúng tơi thấy có các thể thơ như thể bốn chữ, năm chữ, sáu chữ, bảy chữ, tám chữ, lục bát, song
thất lục bát, đường luật, thơ hợp thể, thơ tự do, kịch thơ, thơ văn xuôi, trường ca.
Như vậy, trong hàng ngũ các thể thơ, có sự hiện diện của các thể thơ truyền thống (bao gồm các
thể: Đường luật, lục bát, song thất lục bát) và loại hình câu thơ truyền thống (xuất hiện trong các thể
hiện đại: 4 chữ, 5 chữ, 7 chữ, 8 chữ và dạng hợp thể). Ở phương diện này, thơ đạo đã khơng hồn
tồn “đoạn tuyệt” với thơ truyền thống mà ln có sự kế thừa và phát huy trên cơ sở cách tân, sáng
tạo.
Xuất hiện khá phổ biến là thể lục bát. Nhìn chung, thể lục bát trong thời kì mới đã được khai
thác theo hướng hiện đại hóa, từ nội dung đến hình thức. Rất nhiều nhà thơ đạo đã hơn một lần tìm

đến thể thơ này để sáng tác, tiêu biểu như: Lê Đình Bảng, Nghinh Nguyên, Xuân Ly Băng, Trần
Văn Thi, Vũ Ngọc Bích, Long Giang Tử, Nguyễn Thị Mai, Nguyễn Quốc Dũng, Liễu Giang....
Quan sát các bài thơ lục bát của các tác giả trên có thể thấy, thể lục bát đã khai thác được tối đa khả
năng trữ tình và tự sự của thể thơ để diễn tả dòng cảm xúc rất mới: cảm xúc về Đức tin Thiên Chúa.
Nhà thơ Hồ Dzếnh rất khéo léo khi lồng tình u đơi lứa vào khơng khí giáo đường với lời kinh vấn
vương, với âm thanh chuông nhà thờ vang vọng... Vẻ huyền hồ của tôn giáo, của Đức tin càng làm
cho tình u lứa đơi trở nên nhiệm màu: Em ạ quê ta tháp giáo đường/ Sáng chiều vẫn vọng những
hồi chuông/ Ai đi xem lễ tơi đi với/ Gió đạo lời kinh tỏa vấn vương/ Đêm giáng sinh này em ở đâu/
Nghe chng có nhớ thuở ban đầu/ Ước chi sống lại thời xưa nhỉ/ Để trẻ ra và để hẹn nhau (Hoa
mẫu đơn - Hồ Dzếnh). Thơ lục bát của Nghinh Nguyên lại đầy khắc khoải, chơi vơi trên hành trình
tìm Chúa: Tơi tìm tơi giữa chợ đời/ Thấy mình phiêu dạt, chơi vơi lạc lồi/ Cố vươn xa cõi trần ai/
Đi tìm thượng đế - bóng ngài cao xa (Tơi tìm). Cái tơi thi nhân có lúc cơ đơn, mong mỏi kiếm tìm
36


Một số thể thơ trong thơ Công giáo Việt Nam hiện đại (khảo sát qua năm tập Có một vườn thơ đạo)

những nguồn cậy trông: Mẹ ơi! chiều đã xuống rồi/ Lịng con trống lạnh giữa đời đơn cơi/ Hồn con
- thuyền nhỏ biển khơi/ Phong ba bão táp biết đời về đâu/ Cậy trông ơn mẹ nhiệm mầu/ Giúp con
vượt thốt nỗi đau lạc lồi/ Giúp con những phút mệt nhồi/ Vững tin tiến bước hăng say tìm về/
Giúp con vượt thoát đam mê/ Cho con vững bước tiến về nhà Cha (Cho con vững bước - Nghinh
Nguyên),... Nhịp điệu của câu thơ lục bát trên được thể hiện hồn chỉnh qua hai dịng thơ, sự kết hợp
của vần chân và vần lưng và được gieo ở số từ chẵn tạo nên cho thể thơ này một âm hưởng và nhịp
điệu riêng. Trong thể lục bát, vần chân và vần lưng bao giờ cũng hiệp vần với thanh bằng nên nhịp
điệu chung của câu thơ lục bát thường nhẹ nhàng, uyển chuyển và ngân vang. Thơ lục bát, vì thế, rất
có ưu thế trữ tình trong phơ bày cảm xúc. Các nhà thơ Công giáo đã khai thác tối đa thế mạnh này
của thể thơ nhằm diễn tả những nỗi buồn mơ hồ kéo dài, những tình cảm bâng khuâng thương nhớ:
Hồn chiều lên ý não nề/ Buồn ơi! Xa vắng, đê mê là buồn/ Bỗng nghe một tiếng chuông buông/ Xa
xôi tự tháp thánh đường nào đây (Chuông chiều - Xuân Ly Băng); những suy tư của con người
trước cuộc đời hư vô, sự ý thức về cuộc đời hữu hạn và thân phận cát bụi, nhỏ nhoi của con người

trong trần thế: Từ con tỉnh giấc mê đời/ Sầu thơi sắc tím xanh ngời bình n/ Thoảng về trận gió siêu
nhiên/ Bừng cơn ảo mộng ngả nghiêng đền đài/ Phù du trọn kiếp trần ai/ Triền miên một thưở đọa
đày tấm thân/ Ngẫm suy nửa kiếp nhân trần/ Hồng ân tuôn đổ mở dần từ tâm (Cười - Nguyễn
Kim Lệ); cùng những khát vọng mạnh mẽ về Đức tin, về thế giới Thiên đường, về cõi thiên thu
của các tín đồ Thiên Chúa: Hoa đời tan tác cánh nhung/ Từng chiều lặng lẽ thẹn thùng nỗi đau/
Trần gian xơ xác một màu/ Bởi vòng tục lụy ngọt ngào bùa mê... Tôi ơi dừng bước ruổi rong/
Tin yêu về với tình nồng thiên thu (Về với tình nồng - Cao Huy Hồng).
Bên cạnh khả năng trữ tình, thể lục bát cũng rất mạnh về tự sự. Với khả năng “kể chuyện” bằng
thơ cùng đặc điểm dễ nhớ, dễ thuộc, dễ đi vào lòng quần chúng, thể lục bát rất có ưu thế trong việc
“thi hóa Thánh kinh”. Các nhà thơ đạo đã tận dụng tối đa ưu điểm của thể thơ để chuyển tải nội
dung giáo lí, kinh bổn, điều răn. Từ đó những bài giáo huấn khơ khan khó hiểu trong Kinh thánh lại
trở nên dễ tiếp nhận hơn với đơng đảo con chiên. Có thể bắt gặp khá nhiều trong thơ đạo những câu
chuyện bằng thơ sống động như: Bài giảng trên núi, Dụ ngôn người gieo giống, Hồn tôi lên tiếng,
Trên đường rao giảng, Tâm niệm, Tổng kết (Long Giang Tử), Tiệc cưới Cana, Phép lạ hóa bánh lần
đầu, Đức Mẹ dưới chân Thánh giá, Chúa trối Đức Mẹ cho Gioan, Chúa than thở, Chúa kêu khát,
Chúa trút linh hồn, Đức Mẹ khóc con, Chúa lên trời (Nguyễn Xuân Văn), Pharông tuyên bố tha về,
Dân oán trách Mosê, Trên đường hồi hương qua biển Đỏ (Cao Vĩnh Phan), một số bài Thánh vịnh
của Gérard Gagnon Nhân, Năm sự vui, Năm sự sáng (Võ Ngọc Bích); ... Trong số này, đặc biệt nổi
bật tác phẩm Sứ điệp tình thương của tác giả Nguyễn Văn Xuân với 9764 câu thơ lục bát. Đây là
một nỗ lực lớn của nhà thơ trong việc thực hiện diễn ca toàn bộ Tin mừng.
Khơng dừng lại ở đó, các nhà thơ đạo cịn tìm cách thay đổi một số yếu tố thi pháp thơ lục bát
nhằm tìm một hình thức biểu đạt mới mẻ cho vấn đề Đức tin. Nhà thơ Vũ Đức Trinh tìm cách tách
đơi cú pháp câu thơ bằng dấu chấm câu giữa dòng: Đượm hương nhân đức Chúa trời/ Thanh cao,
siêu thốt. Cõi đời hay khơng (Hương sắc cao thiêng). Nhà thơ cố tình kết bài lục bát bằng một câu
lục như một lời gọi thiết tha: Lặng nghe chuông đổ mỗi chiều/ Lá vàng tuôn rụng hắt hiu vườn nhà/
Tiếng chng trong gió ngân nga/ Âm thanh rút ngắn đời ta dần dần/ Rồi đây chuông vẫn còn ngân/
Thân em khuất dạng khỏi sân khấu đời/ Tìm về với Chúa em ơi! (Trong tiếng chng). Nhà thơ Lê
Đình Bảng viết khá nhiều lục bát. Ở thể loại này, nhà thơ cũng vận dụng nhiều thủ pháp như chấm
câu giữa dòng, tạo câu vắt dòng, dấu chấm lửng giữa những câu thơ: Ta nhìn trong mắt em xanh/
Hoa xoan tim tím, mỏng manh. Ơ kìa/ Ở nơi vịm cửa bên kia/ Có đơi chim mới tha về cọng rơm

(Vào đền lễ hương), Thế rồi... một sớm heo may/ Em đi vẫy những bàn tay vô hồn (Vượt qua),... Lục
bát của Nguyễn Văn Ái lại có cách ngắt câu thơ rất mới lạ:
Sáng danh
Nguyện sớm kinh chiều
Mân côi lần chuỗi
37


Nguyễn Thị Kim Hồng

Tín điều tạc ghi
Xưa vâng Thiên ý
Một thì
Yêu là cõi phúc
Đền nghì tình ai
Thủy chung về nước Ba Ngơi
u là hơi thở của trời
Bén dun linh khí
An vui Thánh tình
(Tạc ghi – Nguyễn Văn Ái)
Những hình thức biểu hiện mới lạ này tạo ấn tượng âm thanh và thị giác mạnh mẽ cho người
đọc, từ đó chuyển tải hữu hiệu dịng cảm xúc về tình đạo, tình đời.
Cùng với thể lục bát, thể thơ song thất lục bát cũng xuất hiện trong vườn thơ đạo, dù không
nhiều. Cũng như thể lục bát, song thất lục bát được nhiều nhà thơ khai thác khả năng tự sự vốn có
của thể loại nhằm thực hiện sứ mệnh “truyền tin”, tiêu biểu là các tác phẩm: Giáng sinh, Rao giảng
nước trời, Dụ ngôn nước trời, Bữa tiệc ly, Cầu nguyện một mình (Phạm Đình Tụng),... Thể song thất
lục bát cịn có ưu thế trữ tình trong việc biểu tỏ dịng tâm trạng u uất, sầu thương được tạo nên từ
nhịp điệu của hai câu thất và cặp câu lục bát. Một số nhà thơ đạo đã tìm thấy sự đồng điệu ở đặc
điểm này của thể thơ, vận dụng nó vào giãi bày dòng cảm xúc uất hận, nghẹn ngào: Ôi đau xót tái tê
tủi hận/ Quảng đời chiều lủi thủi mình em/ Lần theo bước của con tim/ Tìm anh trong cõi vô biên

vĩnh hằng ... Duyên trần đứt từ đây anh nhé/ Hội thiên đàng ta sẽ gặp nhau (Khóc bạn trăm năm Maria Ngọc Minh), Hãy nghe tiếng tôi kêu, hỡi Chúa!/ Xin lắng tai nghe tỏ lời tôi/ Từ nơi cùng đất
cuối trời/ Tôi kêu cầu Chúa rã rời tâm can (Kẻ lưu đày khẩn nguyện - Mai Lâm). Số ít bài thơ mang
cảm hứng tụng ca, ngợi khen của Đức Maria cũng vận dụng thể song thất lục bát nhưng không nhiều.
Thể Đường luật - một thể thơ điển hình của loại hình thơ cổ điển, với niêm luật, vận đối hết sức
chặt chẽ, quy phạm vẫn hiện diện trong “vườn thơ đạo” dù số lượng rất ít. Đó những bài thơ đầu tiên
trong nghiệp thơ của Hàn Mặc Tử, cảm quan tôn giáo của nhà thơ lúc này còn mờ nhạt. Một số nhà
thơ lớn tuổi sau 1975 cũng vận dụng thể Đường luật nhằm bày tỏ những chiêm nghiệm cuộc đời,
chiêm nghiệm Đức tin, tuy nhiên số bài thơ này khá khuôn sáo về hình thức và nội dung. Tuy nhiên,
thỉnh thoảng ta vẫn bắt gặp vài bài Đường luật có thi tứ: Tinh tú bay - Nguyễn Văn Ái, Phút nhiệm
màu - Vũ Đan Thanh.
Như vậy, có thể thấy, trong sự lựa chọn thể loại biểu đạt thích hợp dịng cảm xúc về Đức tin tôn
giáo, các nhà thơ đạo đã không hề ngần ngại đưa vào các thể thơ truyền thống để sáng tác. Trong đó,
thể lục bát là phổ biến hơn cả. Thể lục bát với ưu thế về khả năng trữ tình, phong phú trong việc
chuyên chở nội dung, với âm điệu nhẹ nhàng, êm ái rất thích hợp để các nhà thơ bày tỏ những suy
niệm sâu sắc về đời về đạo. Đồng thời, với khả năng diễn ca, kể chuyện, vần điệu dễ nhớ, dễ thuộc,
thể lục bát cũng được các nhà thơ đạo ưa chuộng sử dụng nhằm tái hiện sống động các câu chuyện
Thánh kinh, rao giảng ln lí tơn giáo. So với thể lục bát, thể Đường luật với cơng thức gị bó, quy
phạm chặt chẽ, thể song thất lục bát đặc trưng với điệu thơ u uất, sầu thương rất khó thích hợp biểu
đạt các vấn đề về Đức tin tôn giáo... Thực tế này cho thấy, một mặt, các nhà thơ Công giáo đã rất nỗ
lực trong việc làm mới các thể truyền thống nhằm đa dạng hóa hình thức biểu đạt các vấn đề về Đức
tin tôn giáo, mặt khác, sự hiện diện không nhiều của các thể truyền thống cũng nói lên thực tế khó
hịa hợp giữa một nội dung mới mẻ mang tính chất thần học siêu hình, vốn có căn cốt từ văn hóa
phương Tây, với một hình thức truyền thống đã quá ư cổ điển và quy phạm.

38


Một số thể thơ trong thơ Công giáo Việt Nam hiện đại (khảo sát qua năm tập Có một vườn thơ đạo)

2.2. Sử dụng phong phú các thể thơ hiện đại

Bên cạnh việc sử dụng các thể thơ truyền thống, các nhà thơ Cơng giáo cịn tích cực vận dụng
các thể thơ hiện đại, tiêu biểu là các thể thơ: 4 chữ, 5 chữ, 7 chữ, 8 chữ, thể tự do, hợp thể, thơ văn
xuôi, kịch thơ và cả trường ca.
Các thể 4 chữ, 5 chữ, 7 chữ, 8 chữ được xem là một sáng tạo của các nhà thơ hiện đại từ thời
kì xuất hiện phong trào Thơ mới. Dựa trên loại hình các câu thơ truyền thống các nhà thơ mới đã tân
tạo, khai sinh những hình thức thể loại mới nhằm diễn tả nội dung tinh thần phong phú của con
người thời hiện đại. Nhận thấy các hình thức thơ này rất thuận tiện trong việc diễn tả những cảm xúc
về Đức tin, các nhà thơ Công giáo đã sử dụng đa dạng các loại thể này, trong đó phổ biến nhất là các
thể 7 chữ và 8 chữ. Đây là hai thể thơ có dung lượng chữ trong mỗi câu không quá ngắn, cũng
không quá dài dễ gây cảm giác dàn trải, rất thích hợp trong biểu tỏ các sắc thái cảm xúc về Đức tin.
Đặc biệt, số câu trong hai thể này có thể kéo dài vô hạn định, tạo lợi thế cho nhu cầu “kể chuyện”
Kinh thánh của các nhà thơ Công giáo. Quan sát tập thơ, chúng tôi khảo sát được số lượng lớn các
bài thơ 7 chữ, 8 chữ diễn tả các câu chuyện về Kinh thánh, tiêu biểu là các tác phẩm: Tiếng huệ đồng,
Người gieo gống, Tôi đã gặp ba vua, Đêm vượt qua - Thanh Phương, Nhìn vào mắt Mẹ - Vũ Thủy,
Mẹ bảy sự, mẹ sầu bi - Trần Ngọc Đăng... Ngồi ra, thể 7 chữ có khn hình tiết điệu khá nhịp
nhàng (câu thơ 7 chữ thường ngắt nhịp chẵn/lẻ: 4/3, 2/2/3, 2/2/2/1) được tạo ra trên cơ sở cân đối
giữa các âm tiết, các tiết tấu, đoạn mạch và vần nên rất thuận lợi cho nhà thơ giãi bày những cảm
xúc trữ tình. Hầu như tác giả nào cũng có hơn một sáng tác bằng thể 7 chữ và thể 7 chữ có khả năng
chuyển tải vô cùng phong phú các nội dung, cảm hứng về Đức tin. Từ nguyện cầu Thiên Chúa sưởi
ấm nỗi sầu của cái tôi cá nhân cô đơn buổi giao thời: Trốn tránh đìu hiu kiếm lứa đơi/ Qn thân
đau khổ giữa vui đời/ Khi đèn đỏ ngọn hồn kinh hoảng/ “Lạy Chúa nhân lành thương xót tơi”/...
Chiều buốt linh hồn tôi đứng đây/ Nguyện cầu Thánh giá chắp đôi tay/ Rưng rưng mắt lệ nhìn xa
thẳm/ Mơ lửa trời thiêng cháy vạn ngày (Hiu quạnh - Hồ Dzếnh); đến tinh thần ngợi ca Đức Mẹ,
Thiên Chúa: Con nhớ một lần đứng ngắm trăng/ Giữa vườn hoa đẹp rộng thênh thang/ Bỗng đâu
con nhớ lời thơ nọ/ Diễn tả dung nhan của mẹ rằng:/ “Mẹ đẹp vô ngần mẹ trắng phau/ Gấp nghìn
hoa huệ, vạn bồ câu/ Và nhan sắc mẹ không là gấm/ Nhưng dệt bằng hương rất nhiệm màu... (Mẹ
đẹp vô ngần - Hồ Dzếnh), Dưới ánh trăng vàng dệt nhớ thương/ Đất trời say mộng đắm sầu vương/
Chúa ơi, con mến trong đêm vắng/ Tình Chúa mênh mơng suốt canh trường (Bài ca tình ái - Xuân
Ly Băng); hoặc có lúc là niềm hạnh phúc khi gặp gỡ Đức Mẹ, được hạnh ngộ Đức tin: Tôi bừng
sống những phút giây rung động/ Trước tôn nhan từ mẫu Maria/ Đã sống và từ nay tôi sẽ sống/ Một

hôm nay khác hẳn những ngày qua (Phút thiên đường - Maria Ngọc Minh); Mẹ hỡi đời con đã khổ
nhiều/ Thân con lạc lõng chốn cô liêu/ Được về ấp ủ trong tay mẹ/ Con thấy đời con bớt quạnh hiu
(Mẹ ơi con đã về đây - Hàn Khê); v.v...
Hàn Mặc Tử sử dụng cả thể 7 chữ, 8 chữ và hầu hết thơ 7 chữ của Hàn Mặc Tử, không kể bài
thơ dài ngắn, đều đã theo luật bằng trắc, ngắt nhịp của Đường thi. Ví dụ: Trong làn nắng ửng, khói
mơ tan,/ Đơi mái nhà tranh lấm tấm vàng,/ Sột soạt gió trêu tà áo biếc,/ Trên giàn thiên lý. Bóng
xn sang… (Mùa xn chín), Đây phút thiêng liêng đã khởi đầu,/ Trời mơ trong cảnh thật huyền
mơ/ Trăng sao đắm đuối trong sương nhạt/ Như đón từ xa một ý thơ (Đà Lạt trăng mờ), Sao anh
không về chơi thơn Vỹ ?/ Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên,/ Vườn ai mướt quá xanh như ngọc/ Lá
trúc che ngang mặt chữ điền (Đây thôn Vỹ Dạ). Tuy nhiên, người đọc vẫn cảm giác có gì rất mới
trong âm điệu câu thơ. Nếu quan sát kĩ, có thể thấy nhiều chi tiết câu thơ đã được tân tạo. Ta thấy
dấu chấm câu giữa dịng Trên giàn thiên lí. Bóng xn sang đã ngắt câu thơ thành hai cú pháp, tạo
cảm giác đột ngột, gây ngạc nhiên vì xuân về đẹp quá. Nhân vật trữ tình sững sờ trước vẻ đẹp trần
thế của mùa xuân, đồng thời một thứ ánh sáng ảo huyền, mầu nhiệm của thế giới khác cũng đã bắt
đầu len lỏi. Câu thơ gợi lên niềm tin về một thế giới xuân đẹp đẽ, lung linh trong cảm quan tôn giáo
của nhà thơ.
39


Nguyễn Thị Kim Hồng

Thể 8 chữ đặc trưng bởi nhịp điệu uyển chuyển, số câu không hạn định, cách hiệp vần rộng rãi
và khả năng biểu hiện hết sức sinh động. Đây vốn là sáng tạo của các nhà thơ mới trên cơ sở khai
thác và kế thừa hình thức thể hát nói của thơ ca dân tộc. Trước khi được biết đến với tư cách một
nhà thơ Công giáo, Hàn Mặc Tử đã nổi tiếng như một gương mặt xuất sắc, tiêu biểu của phong trào
Thơ mới. Hẳn nhiên, Hàn Mặc Tử, cũng như các nhà thơ mới khác, rất chuộng lối thơ 8 chữ. Riêng
đối với thơ Công giáo, có thể khẳng định, thi nhân là người đầu tiên đã tìm ra cái mà ta có thể gọi là
quy luật cho lối thơ tám chữ. Câu thơ đã 8 chữ mang rõ rệt hình thức “câu thơ điệu nói” của loại
hình thơ hiện đại. Câu thơ có xu hướng tãi ra theo hướng kể, có thể đan xen nhiều hình thức câu
biểu cảm khác nhau (câu hỏi, nghi vấn, cảm thán,...), thanh điệu, tiết tấu khá linh hoạt.... Với nhiều

ưu điểm, thể thơ 8 chữ rất được Hàn Mặc Tử ưa chuộng. Càng về sau, với tinh thần phấn khích
mãnh liệt, Hàn Mặc Tử càng sáng tác nhiều bài theo thể 8 chữ. Có thể, chỉ ở thể thơ này, nhà thơ
mới thỏa thuê lột tả hết những trạng huống tinh thần si mê, đau đớn, cuồng dại, những khát vọng
mãnh liệt, đê mê mang đậm màu sắc tôn giáo: Ta há miệng cho nguồn thơm trào vọt/ Đường thơ bay
sáng láng như sao sa.../Trên lụa trắng mười hai hàng chữ ngọc/ Thêu như thêu rồng phượng kết
tinh hoa/ Ta cao ngâm giọng vơ cùng thánh thốt/ Khiến châu thân rung động thể tơ trăng/ Toan
ngất đi trong cơn mê khoái lạc/ Mẹ dấu yêu liền vội đến tay nâng (Nguồn thơm). Nhà thơ thường
xuyên sử dụng gạch nối giữa dòng thơ, dấu phẩy, dấu hỏi, dấu cảm thán để ngắt hơi cho câu thơ, tạo
điểm nhấn trong diễn tả mạch cảm xúc về Đức tin: Thơ trong trắng – như một khối băng tâm/ Luôn
luôn reo – trong hồn trong mạch máu,/ Cho vỡ lở – cả muôn ngàn tinh đẩu,/ Cho đê mê – âm nhạc
và thanh hương/ Chim hay tên ngọc – đá biết tuổi vàng,/ Lòng vua chúa – cũng như lòng lê thứ (Ave
Maria), Thượng thanh khí – tiết ra nguồn tinh khí,/ Xa xôi đời – trăng mọc nước huyền vi,/ Đây
miên trường – vĩnh cửu tề phi/ Cao, cao vượt, – với hai hàng bóng vía,/ Trời nhật nguyệt, – cầu
vồng bắt tứ phía/ Ơi Hồng Hoa ! – hồn phách đến nơi đây ?/ Đàn cung bực, – gió vồn lên âm
điệu,/ Sững lòng chưa ? Say chấp cả thanh bai/ Sang chơi thôi ! – Sang chơi thôi ! Mà ai ?/ Thu đây
rồi ! – Bước lên cầu ô thước (Đừng cho lòng bay xa). Hơn nữa, nhà thơ cịn chú trọng vận dụng
những chữ thuộc bình thanh, nhiều nhất là chữ đầu và chữ thứ ba thuộc trường bình thanh (khơng có
dấu) cịn chữ thứ hai thì thuộc đoản bình thanh (có dấu huyền): Chim ngàn trăng đem tiếng lạ về ca/
Ca cầm ca tơ đồng vọng dan ra (Say thơ), Đây vườn trăng tình căng lên muốn đứt/ Thương tồn
thương đương vây mn giây hường (Quần tiên hội). Phần nhiều là âm bằng nối liền nhau, tạo âm
vang, nhạc tính cho câu thơ. Có thể nói, với thơ 8 chữ, trong “vườn thơ đạo”, thơ Hàn Mặc Tử biệt
lập hẳn ra một cõi, một cõi nguy nga đồ sộ, ngát hơi hương và vang tiếng nhạc, từ trên cõi ấy, người
cho chiếu xuống những luồng ánh sáng đầy phép lạ của Đức tin. Trong vườn thơ đạo, cũng có thể
bắt gặp những hình thái biểu hiện tương tự trong thơ 7 chữ, 8 chữ của nhiều nhà thơ khác: Thể chất
của Hồ Dzếnh, Chuông cầu nguyện của Vũ Đức Trinh, Đây giờ linh thiêng, Giã từ đêm tối của
Nguyễn Duy Diễn, Hồn cô đơn của Xuân Ly Băng, v.v...
Thể thơ 4 chữ trước vốn được dùng trong các bài vè, nói lối. Đến thời đại Thơ mới, các thể này
đã được cách tân, làm mới. Bài thơ 4 chữ thường được chia khổ, kéo dài vô hạn tùy mạch cảm xúc
của nhà thơ. Các nhà thơ Cơng giáo đã tận dụng những lợi thế sẵn có này của các thể thơ để phô tả
cảm xúc về Đức tin tôn giáo. Đặc biệt, nhịp ngắt của loại câu 4 chữ thường là nhịp chẵn. Nhịp ngắt

này tạo tính nhịp nhàng, cân đối, dễ thuộc, dễ nhớ, tạo một âm hưởng đặc biệt đối với thơ ca viết về
Đức tin. Hơn nữa, đặc điểm này cũng rất cần thiết đối với thơ Đạo, nhất là trong ý thức về “truyền
bá hoặc rao giảng Đức tin” một cách rộng rãi trong cộng đồng dân Chúa. Một số tác giả đã tận dụng
lợi thế này để chuyển hóa nội dung Kinh của đạo Công giáo vào thơ nhằm răn dạy đạo đức cho con
người theo ý hướng của Chúa. Tiêu biểu là các tác phẩm: Kinh mười điều răn - Vũ Ngọc Bích, Dụ
ngơn người gieo hạt - Vũ Phan Long... Thơ 4 chữ còn được sử dụng để nhà thơ thể hiện tình cảm
của cá nhân với Chúa và Đức Mẹ (Đêm Bê lem - Vĩnh An, Mùa xuân bên Mẹ - Dzuy Sơn Tuyền,
Tâm nguyện, Khi về - Trịnh Tây Ninh...).
40


Một số thể thơ trong thơ Công giáo Việt Nam hiện đại (khảo sát qua năm tập Có một vườn thơ đạo)

Thể thơ 5 chữ được khá nhiều nhà thơ ưa chuộng. Đây vốn là thể thơ phổ biến trong ca dao
dân ca (các loại vè, đồng dao, hát dặm Nghệ Tĩnh) hoặc có gốc từ thể ngũ ngơn Cổ phong hay
Đường luật. Nhưng khi đi vào thơ hiện đại, thể thơ 5 chữ đã được làm mới bằng cách chia khổ, có
thể kéo dài thành nhiều khổ. Nhịp điệu câu thơ 5 chữ thường thay đổi liên tục, có dịng ngắt nhịp
chẵn - lẻ (2/3) nhưng cũng có dịng ngược lại lẻ - chẵn (3/2 hoặc 1/2/2). Các nhà thơ đã tận dụng tối
đa các cách ngắt nhịp này để diễn tả linh hoạt dòng trạng thái xúc cảm về tơn giáo. Các bài thơ 5 chữ
của Lê Đình Bảng, Xn Ly Băng, Phạm Thị Hồi,... khơng hề gị bó như ngũ ngơn cổ thể. Lời thơ
trở nên phóng khống, thanh thốt, diễn tả thành cơng dịng cảm xúc vừa chân thành vừa sâu sắc về
lòng tin Thiên Chúa: Cho tơi một lịng tin/ Nhỏ nhoi như hạt cải/ Cho tôi làm cỏ dại/ Ở bên đường
không tên (Xin cho tơi lịng tin - Lê Đình Bảng), Có một lần nào đó/ Ngài trắc nghiệm lịng tin/ Để
chữa cho lành đã/ Một trái tim ưu phiền/... Có một lần thế đó/ Chén đắng ngài trao ban/ Nhận chìm
trong bể khổ/ Để đo độ đá vàng! (Có một lần nào đó - Phạm Thị Hồi), Chính Chúa là hiện hữu/
Khơng có thủy có chung/ Đời con một chút xíu/ Như giọt nước miệng thùng (Suy nghĩ cúi đầu Xuân Ly Băng),v.v...
Hiếm gặp nhất là thể thơ 6 chữ. Thể thơ 6 chữ hiện đại cũng đã có từ thời Thơ mới. Có thể
chia làm nhiều khổ và kéo dài như các thể 4 chữ, 5 chữ, 7 chữ. Câu thơ thường ngắt nhịp chẵn 2/2/2
hoặc nhịp lẻ 3/3 tạo âm hưởng thanh thoát. Nhà thơ Vũ Đức Trinh đã vận dụng khá thành công thể
thơ này khi mô tả vẻ huyền nhiệm của nhà thờ, người đi lễ, bài ca kinh thánh và hình ảnh Đức Chúa

trong hành trình đi lễ đầy sương: Sương xuống mỗi khi càng lạnh/ Lù mù như thể vầng hơi/ Lởn vởn
quay luồng Kinh thánh/ Kinh đang tìm nẻo lên trời/... Sương bọc quanh người đi lễ/ Quẩn chân họ
đến nhà thờ/ Mong lạy lúc ánh hừng đơng bật tóe/ Chiếu qua lưới nhện vương sương/ Những hạt
minh châu sáng chóe/ Tươi như ngọc của Thiên đường/ Tia lửa mặt trời xinh xắn/ Dập dềnh rọi
thẳng búp hoa/ Các giọt sương đêm chờ sẵn/ Óng lên xem Chúa chín tịa (Sương).
Đáng chú ý nhất là sự vận dụng khá phổ biến hình thức hợp thể và tự do. Hình thức hợp thể là
sự kết hợp linh hoạt những dòng thơ và khổ thơ thuộc các thể thơ khác nhau trong cùng một bài (Hồ
Dzếnh trong bài Phong Châu đã dùng thể 6 chữ, 7 chữ, 8 chữ cho những khổ thơ đầu và thể lục bát
cho những khổ thơ sau). Hình thức thơ hợp thể được xem như là một dạng thức trên đường đi đến
thơ tự do. Bản thân thể thơ này không tự xác định đầy đủ tư cách của một thể thơ độc lập và ổn định.
Thơ hợp thể trong các sáng tác của các nhà thơ Công giáo tuy đa dạng về câu thơ nhưng ít khi có
câu q 8 chữ và vẫn chịu quy định về vần, nhất là về vần chân. Các nhà thơ Công giáo tỏ ra nhuần
nhuyễn trong việc phối xen các thể thơ để tạo nên những thi phẩm sinh động. Cách thức phối xen
nhiều câu thơ thuộc nhiều thể thơ trong cùng một bài như vậy đã tạo điều kiện thuận lợi giúp các tác
giả có thể tự do bộc lộ các cung bậc tình cảm khác nhau của mình. Xin dẫn một ví dụ tiêu biểu. Mở
đầu bài thơ Trong tiếng chuông chiều của Xuân Ly Băng là 14 câu 8 chữ kể lể nỗi cơ đơn thê thiết
của nhân vật trữ tình: Khơng gian ơi chiều nay tan thành lệ/ Chảy trong lòng người viễn khách cô
đơn/ Nhớ nhung chi khi trời xuống hồng hơn/ Để buồn ngấm, uất hồn ai nức nở, kế tiếp là câu 6
chữ bị ngắt làm đôi và cặp câu lục bát dưới hình thức câu hỏi như tiếng gọi xoáy sâu, thức tỉnh
người viễn khách: Viễn khách ơi!/ Viễn khách ơi!... Tìm chi hoa nội trăng ngàn?/ Tìm chi hạnh phúc
dương gian mà tìm?, và thi nhân đã kết bài thơ bằng thể lục bát với giọng điệu đầy suy tư, chiêm
nghiệm khi ngộ ra triết lí cuộc đời nhờ ánh sáng Đức tin: Con người chưa được vơ biên/ Là cịn thổn
thức ưu phiền tháng năm/ Này người viễn khách bâng khuâng/ Đường lên ánh sáng đã gần khơng
xa.
Cịn thơ tự do hiểu đúng nghĩa là loại thơ không tuân theo quy tắc nào cả như các thể thơ cách
luật. Số câu không hạn định, số chữ nhiều ít khơng đều, ngắt nhịp linh hoạt, vần có thể gieo vần trắc
hoặc vần bằng, có thể gieo vần lưng, vần chân, vần liền, vần gián cách, vần hỗn hợp hoặc khơng có
vần nào cả. Thực tế, nhiều bài từ khúc của Tản Đà đã có dáng dấp, cách điệu tự do nhưng chưa vươn
lên được một hình thức thơ ổn định. Thơ tự do chính thức được khởi phát từ phong trào Thơ mới và
phát triển mạnh trong dòng thơ ca cách mạng sau 1945, nhất là những năm đầu kháng chiến. Thơ tự

41


Nguyễn Thị Kim Hồng

do là thể thơ của loại hình thơ hiện đại, giàu tính sáng tạo. Trong Có một vườn thơ đạo có những câu
thơ dài ngắn đan xen và không hiệp vần theo quy củ hợp thành bài thơ, vừa tạo ấn tượng thị giác
mạnh mẽ, vừa có khả năng chuyển tải nhiều hình thái cảm xúc của các nhà thơ về Đức tin Thiên
Chúa, tiêu biểu là các bài: Thơ và Chúa (Hồ Dzếnh), Màu thương nhớ (Nguyễn Duy Diễn), Noel
này (Trần Uyên Thi), Trên lầu cao khó nhìn thấy Chúa (Bùi Chí Vinh),... Quan sát các bài thơ này,
chúng ta thấy, nhìn chung thơ tự do không nệ về vần và số chữ trong câu thơ có thể dài ngắn khơng
chừng, trải rộng bao qt hết cảm xúc. Đặc biệt, thể thơ này không bị hạn chế bởi những thiết chế
ngữ pháp tạo nên hiện tượng vắt dòng câu thơ, cho phép cảm xúc nhân vật trữ tình tn chảy tự
nhiên, thoải mái. Hơn nữa, trong một khuôn khổ tự do, các nhà thơ Công giáo cũng thoải mái hơn
trong việc lựa chọn từ ngữ. Các nhà thơ có thể đưa vào thơ vốn từ ngữ đời thường, gần gũi với đời
sống sinh hoạt của giáo dân. Trong thơ Công giáo thường xuất hiện phổ biến lối nói khẩu ngữ quen
thuộc hàng ngày, các nhà thơ luôn cố gắng dùng những từ ngữ dễ hiểu, thông dụng của đạo và đời.
Hệ thống ngôn từ giản dị đem lại nét gần gũi của thơ đạo đối với tâm hồn của dân Chúa. Mặt khác,
trong thể thơ tự do, các nhà thơ cũng có thể sử dụng đa dạng ngôn ngữ mang màu sắc tôn giáo, tâm
linh, siêu thực, có tác dụng trong việc biểu đạt sự thiêng liêng, độc đáo của Đức tin tôn giáo. Sự lựa
chọn thể thơ tự do đã đem lại sự tự do, phóng khống cần thiết trong biểu tỏ cảm xúc phong phú về
Đức tin của các nhà thơ đạo. Điều này cho thấy nỗ lực làm mới thơ ca các tác giả Công giáo: Không
là Thơ sao/ Cái đêm tuyệt vời mầu nhiệm/ Đã ghi những phút trọng vọng của một Chúa ra đời?/
Không là Thơ sao/ Nỗi đau đớn trọn đời của Người Mẹ đồng trinh/ Ôm lấy xác con mn đời sáng
láng/ Và đây nữa ái tình thắm đượm/ Madeleine cúi xuống hôn chân người/ Nước lành rửa máu
(Thơ và Chúa - Hồ Dzếnh).
Thơ văn xuôi là một thử nghiệm táo bạo của các nhà thơ Công giáo. Một số ý kiến cho rằng
bóng dáng của thơ văn xi đã có thể tìm thấy từ thơ Đơng Hồ, Tương Phố, thậm chí xa hơn trong
văn học trung đại ở các thể văn vần như phú, văn tế, các loại biền văn như hịch, cáo. Tuy nhiên, đến
Thơ mới, cùng với thơ tự do, thơ văn xuôi mới được xem là một thể có diện mạo hồn chỉnh, có tên

rõ ràng. Ngoài đặc trưng chung của thơ ca là nhịp điệu, thơ văn xi cịn giống thơ tự do ở cùng một
điểm chung là không bị ràng buộc vào các quy tắc về số câu, số chữ, niêm luật... Nhưng, nó khác
với thơ tự do ở chỗ là trong khi thơ tự do vẫn lấy câu thơ làm đơn vị nhịp điệu và có thể vẫn có vần,
thì thơ văn xi khơng phân dịng, khơng dùng hình thức câu thơ làm đơn vị nhịp điệu, và thứ hai là
thơ văn xi khơng có vần. Cùng trong xu hướng của thơ tự do, thơ văn xuôi là thể thơ rất phù hợp
với việc diễn đạt những trăn trở, suy tư triết lý và suy tưởng về mối tương quan nhân thế và Đức tin,
đời và đạo. Đây là một lối thoát cho các nhà thơ khi họ muốn dùng thơ để nhập cuộc tham gia bàn
luận tự do về số phận của con người và xã hội, về niềm tin tôn giáo trong thời hiện đại. Chính vì vậy
mà thơ văn xi nhanh chóng được nhiều nhà thơ Cơng giáo từ sau 1975 tiếp nhận, tiêu biểu như
Giấc ngủ, Bốn khúc ca ngắn về mẹ, Vĩnh hằng (Lê Quốc Hán); Cô gái mù với li cà phê trắng - Vũ
Thủy, Hoa núi (Nguyễn Thị Mai), Số phận người (Dương Kim Quới)...
Thể kịch thơ và trường ca cũng xuất hiện, tuy rất ít. Trường ca có dung lượng lớn, thường
có cốt truyện tự sự hoặc sườn truyện trữ tình, đề cập đến các vấn đề có tính triết lí, mang tầm vóc
lớn lao của thời đại. Trích đoạn trường ca Ngước lên cao của Nguyễn Hoàng Đức và Chúa hiển
dung của Hoàng Diệp đã đặt ra nhiều vấn đề có ý nghĩa triết học và nhân sinh. Các sáng tác kịch thơ
tương đối dài. Hình thức phân vai và đối thoại giúp cho ý thơ đi xa hơn, đỡ đơn điệu hơn. Tác giả
tiêu biểu sử dụng thể kịch thơ là nữ tu H.C.N với tác phẩm Ơn gọi của chim sáo. Vở kịch thơ gồm
ba màn, mỗi màn là các bài thơ để diễn viên đồng thanh xướng ca, màn kịch thể hiện ý nghĩa Chúa
của mn lồi thơi thúc vạn vật lắng nghe Thiên ý của Ngài, chỉ có nghe lời Chúa và thực thi ý Chúa
thì mới có bình an trong lòng. Sử dụng phối hợp đa dạng các thể thơ trong từng màn kịch như
những phương tiện để bộc lộ cảm hứng Đức tin, H.C.N đã có đóng góp lớn khi thể nghiệm đổi
mới ở thể kịch thơ và bước đầu đạt được thành công nhất định.
42


Một số thể thơ trong thơ Công giáo Việt Nam hiện đại (khảo sát qua năm tập Có một vườn thơ đạo)

3. Kết luận
Rõ ràng Có một vườn thơ đạo là một tuyển tập thơ khá quy mô, số lượng tác phẩm lớn và có
nhiều sáng tác có giá trị, tập thơ phong phú về thể loại (lục bát, song thất lục bát, thơ hợp thể, kịch

thơ, thơ 4 chữ, 5, chữ, 6 chữ, 7 chữ, 8 chữ, thơ tự do, thơ văn xuôi, trường ca,…), lực lượng sáng tác
đông đảo, được sắp xếp theo một hành trình xuyên suốt từ Hàn Mặc Tử đến nay, đặc biệt có những
gương mặt thơ sáng giá như Lê Đình Bảng, Trần Mộng Tú, Phi Tuyết Ba, Bùi Chí Vinh, Lê Quốc
Hán, Cao Huy Hồng, Trần Thu Miên... Trong đó Hàn Mặc Tử được lựa chọn làm gương mặt điển
hình của tập thơ. Điều này cho thấy, thơ Công giáo Việt đã đạt được những kết quả nhất định. Và
không thể phủ định, có một dịng thơ Cơng giáo Việt Nam hiện đại với vai trị, vị trí và sức sống
riêng của nó trong dòng chảy thơ ca dân tộc.
Mạch cảm xúc mãnh liệt về Đức tin đã chi phối mạnh mẽ đến nhiều phương thức biểu đạt của
thơ ca. Các nhà thơ Cơng giáo một mặt tìm cách cách tân thể lục bát cổ truyền để có thể chuyển tải
những dịng cảm xúc mới, mặt khác sử dụng đa dạng các thể loại hiện đại như thể 7 chữ, 8 chữ, kịch
thơ, thơ tự do, thơ văn xi, thậm chí cả trường ca. Các biểu tượng tôn giáo đa nghĩa như máu, hồn,
ánh sáng, Chúa, Thánh giá, cõi Thiên đường,... cũng được các nhà thơ khắc họa một cách sống động
nhằm nhấn mạnh tính thiêng liêng, thánh hiển của Đức tin. Các nhà thơ Cơng giáo cịn khai thác
phong phú các sắc thái giọng điệu: giọng giãi bày, suy tư, chiêm nghiệm và giọng ngợi ca, thành
kính; kết hợp hài hịa tính triết lí và màu sắc siêu thực trong ngơn ngữ thơ tơn giáo, v.v... Với những
sáng tạo của mình, các tín đồ Kitơ hữu đã đưa đến cho dịng thơ Công giáo những đặc sắc riêng, rất
đáng ghi nhận.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Lê Đình Bảng (sưu tầm, nghiên cứu và giới thiệu), 2009. Ở thượng nguồn thi ca Công giáo Việt
Nam, miền thơ kinh cầu nguyện. Nxb Phương Đông.
[2] Lê Đình Bảng (sưu tầm, nghiên cứu và giới thiệu), 2009. Ở thượng nguồn thi ca Công giáo Việt
Nam, miền thơ trong kinh nguyện. Nxb Tơn giáo.
[3] Lê Đình Bảng (sưu tầm, nghiên cứu và giới thiệu), 2009. Ở thượng nguồn thi ca Công giáo Việt
Nam, miền thơ trong Thánh nhạc Thánh ca. Nxb Tơn giáo.
[4] Lê Đình Bảng (sưu tầm, nghiên cứu và giới thiệu), 2009. Ở thượng nguồn thi ca Cơng giáo Việt
Nam, miền thơ trong kí ức dịng đời. Nxb Phương Đơng.
[5] Lê Đình Bảng (sưu tầm, nghiên cứu và giới thiệu), 2009. Ở thượng nguồn thi ca Công giáo Việt
Nam, miền thơ huấn ca. Nxb Phương Đông.
[6] Lê Đình Bảng (sưu tầm, nghiên cứu và giới thiệu), 2009. Ở thượng nguồn thi ca Công giáo Việt
Nam, miền thơ Phúc âm diễn ca. Nxb Tơn giáo.

[7] Lê Đình Bảng, 2010. Văn học Công giáo Việt Nam - những chặng đường. Nxb Từ điển Bách
khoa.
[8] Hội đồng Giám mục Việt Nam, 2005. Kinh thánh Tân ước – Lời Chúa cho mọi người. Nxb Tôn
giáo.
[9] Hội đồng Giám mục Việt Nam, 2006. Kinh thánh Cựu ước và Tân ước – Lời Chúa cho mọi
người. Nxb Tôn giáo.
[10] Chu Thị Thu Hằng, 2012. Cảm quan tôn giáo trong thơ Nguyễn Quang Thiều. Luận văn thạc sĩ
trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
[11] Nhóm trí thức Việt, 2016. Hàn Mặc Tử - thơ và đời. Nxb Văn học.
[12] Lê Hồ Quang, 2015. Âm thanh của tưởng tượng (phê bình thơ Việt Nam hiện đại). Nxb Đại học
Vinh.
43


Nguyễn Thị Kim Hồng

[13] Võ Long Tê, 1965. Lịch sử văn học Công giáo Việt Nam. Nxb Tư duy Sài gịn
[14] Trăng Thập Tự (chủ biên), 2012a. Có một vườn thơ đạo, tập 1. Nxb Phương Đông.
[15] Trăng Thập Tự (chủ biên), 2012b. Có một vườn thơ đạo, tập 2. Nxb Phương Đơng.
[16] Trăng Thập Tự (chủ biên), 2012c. Có một vườn thơ đạo, tập 3. Nxb Phương Đông.
[17] Trăng Thập Tự (chủ biên), 2012d. Có một vườn thơ đạo, tập 4. Nxb Phương Đông.
[18] Trăng Thập Tự (chủ biên), 2015. Có một vườn thơ đạo, tập 5. Nxb Hồng Đức.
[19] Mai Thị Thảo, 2014. Cảm hứng tôn giáo trong thơ Mai Văn Phấn. Luận văn thạc sĩ trường đại
học Sư phạm Hà Nội.
[20] Hoài Thanh, Hoài Chân, 2005. Thi nhân Việt Nam. Nxb Văn học, Hà Nội.
[21] Nguyễn Toàn Thắng, 2007. Hàn Mặc Tử và nhóm thơ Bình Định. Nxb Giáo dục.
Nguyễn Thị Phương Thúy, 2010. Cảm hứng tôn giáo trong thơ mới 1932 – 1945. Luận văn thạc
sĩ, Trường đại học Vinh.
ABSTRACT
Research genre of poetry in Vietnamese Catholic poets

(Survey in Has a gardens poems Catholic)

Nguyen Thi Kim Hong
Faculty of Education - Tay Nguyen University
Faith is the main inspiration of religious poetry. Faith is manifold, which governs the choice of
subject, image, content, language, etc. In poetry, the poet explores the use of various artistic
mediums from the way the language is organized, the tone, the choice of the poetic form, the choice
of appropriate symbolic images. In this the essay we will reseach genre of Vietnamese Catholic
poets in the “Has a gardens poems Catholic”, a collection from Catholics poems of Han Mac Tu to
now.
Keywords: Genre of poetry, Catholics poems of Viet Nam.

44



×