Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Bài dự thi: Tìm hiểu lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam năm 2017 - Lê Hoàng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (79.26 KB, 11 trang )

BÀI DỰ THI
TÌM HIỂU LỊCH SỬ QUAN HỆ ĐẶC BIỆT
VIỆT NAM - LÀO, LÀO - VIỆT NAM NĂM 2017
Người tham gia:
Họ và tên: Lê Hồng Việt
Ngày sinh: 1983
Giới tính: Nam
Nghề nghiệp: Cơng an
Dân tộc: Kinh
Tơn giáo: khơng

Đơn vị: Chi đồn Cơng an, Đồn
phường Phước Long, Nha Trang, Khánh
Hồ
Nơi thường trú:
Số điện thoại: 0989.394.039


NỘI DUNG BÀI DỰ THI
Trong khuôn khổ bài viết tham gia cuộc thi “Tìm hiểu lịch sử quan hệ đặc biệt
Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam năm 2017, tơi xin trình bày về quan hệ đặc biệt,
hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam từ năm 1976 đến nay và ý nghĩa
Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Việt Nam - Lào ngày 18 tháng 7 năm 1977.
Trước hết, xin giới thiệu một chút về nước Lào anh em. Lào là quốc gia Đông
Nam Á trong bán đảo Đơng Dương có chung đường biên giới dài 2069 km trải dài
suốt 10 tỉnh của Việt Nam tiếp giáp với 10 tỉnh phía Lào.
Lịch sử đã khẳng định quan hệ Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam là quan hệ đặc
biệt, là một điển hình, một tấm gương mẫu mực, hiếm có về sự gắn kết bền chặt, thuỷ
chung, trong sáng và đầy hiệu quả giữa hai dân tộc đấu tranh vì độc lập, tự do và tiến
bộ xã hội. Khi cả khối Xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, hai Đảng: Đảng Cộng sản
Việt Nam và Đảng Nhân dân Cách mạng Lào vẫn vững vàng. Chính thể do Đảng lãnh


đạo vẫn vững bước, hai đất nước, hai dân tộc cùng sánh vai xây dựng cuộc sống ấm
no, hạnh phúc, phát triển kinh tế theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, đập tan mọi âm
mưu gây chia rẽ, phá hoại mối quan hệ đoàn kết của các thế lực thù địch phản động.
Tình hữu nghị, đoàn kết giữa hai Đảng, hai nước Việt-Lào và sự gắn bó thủy
chung, keo sơn giữa dân tộc Việt Nam và nhân dân các bộ tộc Lào được Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Chủ tịch Cay-xỏn Phom-vi-hản trực tiếp gây dựng, được các thế hệ lãnh
đạo kế tục của hai Đảng, hai nước, cùng nhân dân hai nước quý trọng, nâng niu và
dày công vun đắp. Trải qua nhiều giai đoạn và biến cố của lịch sử, mối quan hệ ViệtLào được tôi luyện và hun đúc bằng công sức và xương máu của biết bao anh hùng
liệt sỹ, bằng sự hy sinh phấn đấu của nhiều thế hệ người Việt Nam và Lào và đã thực
sự trở thành mối quan hệ truyền thống, rất đặc biệt, rất thủy chung và trong sáng. Chủ
tịch Cay-xỏn Phom-vi-hản đã từng nói: “Trong lịch sử cách mạng thế giới đã có
nhiều tấm gương sáng chói về tinh thần quốc tế vơ sản, nhưng chưa ở đâu và chưa
bao giờ có sự đồn kết liên minh chiến đấu đặc biệt lâu dài và toàn diện như vậy”.
Là hai nước láng giềng rất mực thân thiết, gần gũi, quan hệ gắn kết nghĩa tình
anh em giữa hai dân tộc được hình thành và hun đúc trong lịch sử hàng nghìn năm
dựng nước và giữ nước. Đặc biệt trong hơn tám thập kỷ qua kể từ thời kỳ Đảng Cộng


sản Đông Dương ra đời và lãnh đạo phong trào cách mạng chung, mối quan hệ truyền
thống tốt đẹp, sự gắn bó thủy chung giữa nhân dân hai nước Việt Nam - Lào được
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Cay-xỏn Phơm-vi-hản đặt nền móng, được các thế
hệ lãnh đạo kế tục của hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước dày công vun
đắp đã trở thành tài sản vô giá của cả hai dân tộc và là quy luật phát triển chung của
cách mạng hai nước trên con đường phát triển đất nước phồn vinh, nhân dân ấm no,
hạnh phúc.
Giai đoạn đấu tranh giải phóng dân tộc là giai đoạn mà quan hệ chính trị ngoại
giao giữa Việt Nam và Lào có những nét độc đáo rất hiếm thấy trong lịch sử phong
trào cách mạng thế giới. Để chiến đấu chống ách thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ,
hai nước đã thành lập Liên quân Việt - Lào; những chiến sĩ quân tình nguyện Việt
Nam đã sang Lào sát cánh chiến đấu bên lực lượng vũ trang Pathet Lào. Tinh thần

chiến đấu ngoan cường, sự hy sinh xương máu và phối hợp chặt chẽ giữa những
người con ưu tú của hai dân tộc đã góp phần đưa sự nghiệp kháng chiến chống thực
dân cũ của hai nước đi đến thắng lợi vẻ vang, với việc ký Hiệp định Giơ-ne-vơ năm
1954 về Đông Dương.
Thời kỳ sau đó, tinh thần đồn kết Việt Nam - Lào tiếp tục được hun đúc và tôi
luyện hơn khi hai nước không ngừng hỗ trợ nhau trên các mặt trận quân sự và đối
ngoại, làm thất bại mọi âm mưu phá hoại và tiến hành chiến tranh của chủ nghĩa thực
dân mới. Ngày 5 tháng 9 năm 1962, Việt Nam và Lào chính thức thiết lập quan hệ
ngoại giao, mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử quan hệ hai nước. Liên minh chiến
đấu của quân và dân hai nước Việt - Lào ngày càng được tăng cường. Dãy Trường
Sơn hùng vĩ với hai nửa Trường Sơn Đông - Trường Sơn Tây đã trở thành biểu tượng
sinh động của mối quan hệ keo sơn “hạt muối cắn đôi, cọng rau bẻ nửa” trong những
năm tháng gian khổ nhưng đầy vinh quang, cùng góp phần to lớn giúp nhân dân và
các lực lượng vũ trang hai nước đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác mà đỉnh cao là
Đại thắng Mùa Xuân 1975 tại Việt Nam và Chiến thắng ngày 2 tháng 12 năm 1975
tại Lào.


Bước vào thời kỳ mới, thời kỳ xây dựng đất nước trong hịa bình và q độ đi
lên chủ nghĩa xã hội, quan hệ hai nước chuyển từ quan hệ đoàn kết trong chiến đấu
chống kẻ thù chung sang quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân Cách mạng Lào.
Ngày 18 tháng 7 năm 1977, hai nước ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác. Hiệp ước có
ý nghĩa vơ cùng quan trọng, là cơ sở pháp lý vững chắc cho việc tăng cường và mở
rộng mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào trong thời kỳ mới; tạo cơ sở để hai nước
thúc đẩy ký kết hàng loạt các thỏa thuận hợp tác sau này. Trong quá trình hợp tác và
giúp đỡ lẫn nhau sau chiến tranh, Việt Nam đã cử nhiều đoàn chuyên gia sang giúp
Lào bảo đảm an ninh, ổn định đời sống, khôi phục sản xuất và phát triển kinh tế.
Quan hệ hợp tác đó được thực hiện trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và tồn
vẹn lãnh thổ của nhau; đề cao ý chí tự lực, tự cường, hợp tác bình đẳng và cùng có

lợi.
Trong cơng cuộc đổi mới của mỗi nước hơn 30 năm qua, Việt Nam và Lào đều
giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Quan hệ hợp tác gắn bó giữa
hai nước Việt - Lào được đẩy mạnh và mở rộng trên nhiều lĩnh vực. Quan hệ chính trị
giữa hai nước đã, đang phát triển trên một nền tảng sâu rộng và ngày càng gắn bó, tin
cậy. Hai bên thường xuyên tiếp xúc cấp cao giữa lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc
hội, Chính phủ và địa phương; Ủy ban liên Chính phủ thường niên được duy trì và
củng cố. Giao lưu giữa các tổ chức, các tầng lớp nhân dân được đẩy mạnh với nhiều
hình thức đa dạng, phong phú. Đặc biệt, gần đây nhất là các chuyến thăm chính thức
nước ngồi đầu tiên trên cương vị mới nhiệm kỳ 2016 - 2020 của Tổng Bí thư Đảng
Nhân dân cách mạng Lào Bun-nhăng Vô-la-chit tới Việt Nam và Tổng Bí thư Đảng
Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng tới Lào; các chuyến thăm của các đồng chí
Bộ Chính trị hai bên đã góp phần đưa quan hệ hai Đảng, hai nước lên một tầm cao
mới.
Về phương diện kinh tế, hai nước đã thiết lập cơ chế Ủy ban Liên Chính phủ để
cụ thể hóa chỉ đạo của lãnh đạo cấp cao về hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ
thuật… thơng qua việc xây dựng nội dung hợp tác của từng thời kỳ, từng giai đoạn và


hàng năm. Cho tới nay (2017), Ủy ban Liên Chính phủ Việt Nam - Lào đã tiến hành
được 39 kỳ họp định kỳ hàng năm luân phiên tại mỗi nước. Tại kỳ họp lần thứ 39 tổ
chức vào hai ngày 7-8/2/2017 tại Hà Nội dưới sự chủ trì của Thủ tướng Việt Nam
Nguyên Xuân Phúc và Thủ tướng Lào Thongloun Sisoulith, hai bên đánh giá cao kết
quả hợp tác giữa hai nước và thống nhất nâng cao hơn nữa hiệu quả hợp tác trên tất
cả các lĩnh vực, thống nhất tập trung thực hiện tốt chỉ đạo của hai Bộ Chính trị, thúc
đẩy quan hệ chính trị - đối ngoại - an ninh quốc phòng, đầu tư, thương mại, du lịch…,
mở rộng hợp tác đào tạo nguồn nhân lực, đầu tư các dự án hạ tầng giao thông kết nối
hai nước, hợp tác quản lý sử dụng bền vững nguồn nước và các nguồn tài nguyên
thiên nhiên, v.v.
Nhờ các chính sách ưu tiên, ưu đãi hợp lý của cả hai bên nên thương mại và đầu

tư Việt Nam - Lào tăng trưởng khá nhanh trong những năm gần đây, tạo nền tảng vật
chất để liên kết và củng cố mối quan hệ đặc biệt giữa hai nước. Từ năm 1989 đến nay,
đầu tư của Việt Nam vào Lào đã đạt giá trị gần 4 tỷ USD. Năm 2016, kim ngạch
thương mại hai chiều Việt Nam - Lào đạt 801 triệu USD; trong đó, nhập khẩu của
Việt Nam từ Lào đạt 342 triệu USD và xuất khẩu từ Việt Nam sang Lào đạt 459 triệu
USD. Các dự án đầu tư của Việt Nam vào Lào tập trung có hiệu quả trong các lĩnh
vực thủy điện, khai khống, giao thơng vận tải, trồng cây công nghiệp… Không chỉ
giới hạn trong hợp tác kinh tế, hợp tác trên các lĩnh vực khác cũng được quan tâm
thúc đẩy. Hợp tác giáo dục, đào tạo đã và đang là lĩnh vực được hai bên ưu tiên và
được nâng lên cả về số lượng và chất lượng. Hai bên cũng hợp tác chặt chẽ trong các
lĩnh vực y tế, nông nghiệp và phát triển nông thôn. Hợp tác giữa các địa phương giáp
biên được chú trọng thúc đẩy, với việc hình thành các khu kinh tế và giao lưu buôn
bán qua các cửa khẩu quốc tế và quốc gia. Hợp tác an ninh - quốc phòng tiếp tục duy
trì tốt với mức độ tin cậy cao.
Cùng với sự hợp tác trong khn khổ song phương, tình đồn kết anh em giữa
Việt Nam và Lào cịn được thể hiện rõ nét tại các diễn đàn khu vực và quốc tế như
LHQ, Hiệp hội các quốc gia Đông - Nam Á (ASEAN), Tổ chức hợp tác kinh tế chiến
lược ba dịng sơng (ACMECS), Tiểu vùng Mê Cơng mở rộng (GMS), hợp tác bốn


nước Campuchia - Lào -Myanmar - Việt Nam (CLMV), tam giác phát triển Việt Nam
- Lào - Camp-chia, góp phần nâng cao uy tín và vị thế của mỗi nước ở khu vực và
trên thế giới.
Trải qua 55 năm thử thách, mối quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam càng
thêm khẳng định là mối quan hệ mẫu mực, trong sáng, rất mực thủy chung, vừa là
thành quả cách mạng, vừa là tài sản chung vô giá được xây dựng bằng máu và mồ hôi
của nhiều thế hệ nhân dân hai nước, là minh chứng cho mối quan hệ đặc biệt hiếm có
giữa hai dân tộc như lời Chủ tịch Cay-xỏn Phơm-vi-hản đã từng nói “Núi có thể mịn,
sơng có thể cạn, song tình nghĩa Lào - Việt sẽ mãi mãi vững bền hơn núi, hơn sông”,
hay như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phác họa “Việt - Lào hai nước chúng ta, tình sâu

hơn nước Hồng Hà, Cửu Long”.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, mối quan hệ hợp tác
quan hệ Việt Nam - Lào đang phải đối mặt với khơng ít khó khăn, thách thức gay gắt
từ sự phát triển của bản thân mỗi nước và từ môi trường quốc tế, khu vực. Hiệu quả
của một số chương trình hợp tác chưa thực sự tương xứng với mong muốn, nỗ lực
của Chính phủ và nhân dân các nước; chưa phát huy thật hiệu quả tiềm năng, thế
mạnh của mỗi quốc gia và những cơ hội, thuận lợi mà xu thế toàn cầu hóa, khu vực
hóa mang lại. Việc xử lý mối quan hệ lợi ích giữa các quốc gia và lợi ích quốc tế vẫn
luôn là vấn đề lớn, ẩn chứa nhiều yếu tố phức tạp và chi phối mối quan hệ hợp tác
giữa hai nước. Bên cạnh đó, cũng cần phải thẳng thắn thừa nhận mối quan hệ Việt
Nam - Lào còn bị chi phối bởi những động thái tranh giành ảnh hưởng của các nước
lớn tác động tới khiến việc duy trì quan hệ và sự gắn kết, đặc biệt là tầm ảnh hưởng
lẫn nhau giữa hai nước gặp khơng ít khó khăn, thách thức. Một số khía cạnh trên
những vấn đề về dân tộc, tôn giáo, di cư xuyên biên giới,... đang thực sự là những trở
ngại, thậm chí ẩn chứa những nguy cơ làm rạn nứt mối quan hệ Việt Nam - Lào hiện
tại và tương lai.
Trong thời gian tới, trước những biến động phức tạp và khó lường của tình hình
thế giới và u cầu phát triển của mỗi nước, hai nước đặt ưu tiên cao nhất là cùng


phấn đấu tập trung mọi nỗ lực nhằm nâng quan hệ hữu nghị truyền thống tình đồn
kết đặc biệt và sự hợp tác toàn diện Việt - Lào lên tầm cao mới, với phương châm
thực chất, chất lượng và hiệu quả, góp phần giữ vững ổn định an ninh chính trị, phát
triển kinh tế bền vững, hội nhập ngày càng sâu rộng và có vị thế xứng đáng trên
trường quốc tế. Để đạt được mục tiêu này, Lãnh đạo cấp cao hai nước đã nhất trí
quyết tâm chỉ đạo các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương hai nước phấn
đấu phối hợp làm tốt những trọng tâm sau:
Một là, không ngừng củng cố, giáo dục, phát triển và làm sâu sắc hơn nữa mối
quan hệ chính trị đặc biệt hiếm có khơng chỉ ở lãnh đạo cấp cao mà thấm sâu xuống
các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ; để thế hệ trẻ hai nước - những người sẽ

viết tiếp trang sử quan hệ hai nước - hiểu và trân trọng những năm tháng lịch sử hào
hùng của hai dân tộc, hiểu được tình đồn kết đặc biệt Việt - Lào, Lào - Việt là bài
học lịch sử thiêng liêng, là tài sản vô giá mà thế hệ trẻ hai nước phải có trách nhiệm
duy trì, bảo vệ và phát huy vì sự trường tồn và phát triển của hai dân tộc
Hai là, nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế song phương tương xứng với quan hệ
chính trị tốt đẹp sẵn có. Phát triển hợp tác giữa các vùng, miền, các địa phương có
biên giới liên kề giữa hai nước và hoàn thiện hơn nữa các chính sách ưu tiên, ưu đãi
đã dành cho nhau. Chủ động thúc đẩy hợp tác ở cả ba cấp: Chính phủ với Chính phủ,
địa phương với địa phương và doanh nghiệp với doanh nghiệp nhằm tạo sự gắn kết
và hỗ trợ lẫn nhau giữa hai nền kinh tế. Trong từng thời kỳ, xác định một số trọng
tâm hợp tác kinh tế cụ thể, phù hợp với khả năng, nhu cầu của mỗi nước và mang lại
lợi ích cho cả hai phía; tập trung tổ chức thực hiện triệt để, đồng thời thường xuyên
theo dõi giám sát để tháo gỡ kịp thời các vướng mắc phát sinh.
Ba là, tiếp tục tăng cường sự hợp tác trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh và
cùng phối hợp nhằm chống lại âm mưu chống phá của các thế lực thù địch đối với sự
nghiệp cách mạng của mỗi nước, chia rẽ quan hệ hai nước.


Bốn là, tích cực trao đổi thơng tin về tình hình quốc tế và sự phối hợp chặt chẽ
tại các diễn đàn quốc tế và khu vực, nhất là trong khuôn khổ các tổ chức mà hai bên
cùng là thành viên.
Năm là, tăng cường hợp tác trong lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo
quản lý; đồng thời tăng cường trao đổi học thuật, lý luận và khoa học xã hội giữa hai
nước.
Là nước láng giềng anh em gần gũi, nhân dân Việt Nam ln tự hào có nhân dân
Lào là người bạn thủy chung, son sắt, trong sáng trong suốt thời kỳ đấu tranh giải
phóng dân tộc trước đây cũng như trong công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển
đất nước ngày nay. Mỗi người dân Việt Nam đều vui mừng chứng kiến các thành tựu,
những đổi thay nhanh chóng đang diễn ra hằng ngày, hằng giờ trên đất nước Triệu
Voi tươi đẹp và chân thành mong muốn nhân dân các bộ tộc Lào anh em, dưới sự

lãnh đạo sáng suốt của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào sẽ xây dựng thành công một
nước Lào phồn vinh và vững mạnh, có quan hệ đối ngoại rộng mở, có vai trị và vị
thế khơng ngừng được nâng cao trên trường quốc tế.
Kỷ niệm 55 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao và 40 năm ngày ký Hiệp ước
Hữu nghị và Hợp tác Việt – Lào, chúng ta cùng khẳng định quyết tâm phấn đấu, kế
thừa và vun đắp tình đồn kết đặc biệt, quan hệ hữu nghị thủy chung gắn bó và sự
hợp tác tồn diện giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Việt – Lào mãi
mãi xanh tươi, đời đời bền vững, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở mỗi nước, cũng như vào hịa bình, ổn định, hợp tác và
phát triển ở khu vực và trên thế giới.
Đã gần nửa thế kỷ trôi qua nhưng trong ký ức những cựu chiến binh quân tình
nguyện, thời gian sống, chiến đấu, công tác trên đất bạn Lào vẫn luôn là khoảng thời
gian vô cùng đáng nhớ. Sau đây là ký ức của cựu chiến binh Phạm Văn Khiêm và Đỗ
Quang Hịch.
Mỗi dịp được gặp nhau, trò chuyện về những năm tháng cùng chia ngọt sẻ bùi
trong sự đùm bọc của nhân dân các bộ tộc Lào, mỗi cựu chiến binh quân tình nguyện


như được sống lại một thời gian khổ nhưng đầy tự hào về cuộc chiến chính nghĩa, về
tình cảm gắn bó máu thịt, thủy chung giữa quân đội, nhân dân hai nước! Trong chiến
tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, ngay từ khi Cách mạng tháng Tám thành
công, lực lượng quân sự và chuyên gia thuộc nhiều ngành của Việt Nam đã có mặt
thực hiện nhiệm vụ quốc tế cao cả tại đất nước Lào anh em. Tháng 10 năm 1949 Ban
thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định các lực lượng quân
sự của Việt Nam thực hiện nhiệm vụ Quốc tế tại Lào được tổ chức thành hệ thống
riêng và lấy danh nghĩa là Quân tình nguyện. Việc giúp nước bạn Lào được xác định
như là “giúp chính mình”, do vậy hàng chục vạn chuyên gia, cán bộ, chiến sỹ quân
tình nguyện Việt Nam đã khơng quản ngại khó khăn, gian khổ, chiến đấu dũng cảm,
sẵn sàng hy sinh chống kẻ thù chung, giành và bảo vệ vững chắc nền độc lập của hai
dân tộc. Trải qua các thời kỳ, các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam đã phát huy

truyền thống quân đội anh hùng, vượt qua mn vàn khó khăn gian khổ, cùng nhân
dân và các lực lượng vũ trang Lào chiến đấu, chiến thắng kẻ thù chung. Qua thống
kê, cả nước có hơn 5 vạn cán bộ chiến sỹ bị thương, hơn 4 vạn cán bộ chiến sỹ hy
sinh trên đất bạn Lào. Riêng Hà Nam có hàng ngàn người con đứng trong hàng ngũ
các đơn vị quân tình nguyện và chuyên gia quân sự trực tiếp góp sức giúp cách mạng
Lào. Các đồng chí đã dũng cảm chiến đấu, công tác, lập công xuất sắc, nhiều người
đã ngã xuống trên đất bạn.
Là một trong những người từng tham gia "Chiến dịch Z"- Chiế n dịch giải
phóng Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng mùa khô năm 1971, cựu chiến binh Phạm
Văn Khiêm, xã Thanh Phong (Thanh Liêm), Trưởng Ban Liên lạc Quân tình nguyện
và chuyên gia Việt Nam tại Lào tỉnh Hà Nam kể:
“Tháng 5 năm 1971, tôi nhập ngũ vào đơn vị thuộc tiểu đoàn 371, Quân khu
Tây Bắc. Tháng tám năm ấy, sau đợt huấn luyện đặc biệt, tơi được điều động bổ sung
vào Trung đồn 335, Qn khu Tây Bắc chuyên thực hiện nhiệm vụ giúp cách mạng
Lào. Nhận lệnh, đơn vị tôi hăm hở lên đường hành quân sang nước bạn, bắt đầu
những năm tháng sống chiến đấu, công tác trên đất nước Triệu Voi. Trong chiến
tranh gian khổ ác liệt, giành giật từng tấc đất, từng quả đồi với quân địch, sống
trong chốn “rừng thiêng, nước độc” nhưng điều ấn tượng với tôi và các đồng đội


thời kỳ đó là tình cảm chân thành, nồng hậu của nhân dân Lào đối với bộ đội tình
nguyện Việt Nam. Mỗi khi có dịp hành quân qua làng bản, bà con các bộ tộc Lào
chào đón bộ đội tình nguyện Việt Nam như những người con thân thiết trở về gia
đình, ln giành cho các anh những điều kiện ăn ở tốt nhất. Chính điều đó đã tiếp
thêm nghị lực, là nguồn cổ vũ động viên những người lính qn tình nguyện Việt
Nam khắc phục khó khăn, gian khổ, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đặc biệt mà Đảng,
nhà nước, quân đội tin tưởng giao phó”. Trong câu chuyện sơi nổi đong đầy cảm xúc
hồi niệm của những cựu chiến binh quân tình nguyện Việt nam trong cuộc gặp mặt
gần đây có nhiều chi tiết thật ấn tượng, xúc động. Với cựu chiến binh Đỗ Quang Hịch
(thôn Sông, xã Liêm Thuận, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam), hình ảnh mà ơng nhớ

mãi và cịn lưu lại gần như vẹn nguyên tới tận bây giờ là tấm ảnh thời trai trẻ của
mình tại chiến trường Lào do các nhà báo quân đội thực hiện sau một trận chiến đấu
ác liệt. Trận chiến đó diễn ra vào đêm mồng hai Tết Mậu Ngọ 1978, đơn vị ông được
giao nhiệm vụ phối hợp giải phóng Nậm Pênh (một vị trí quan trọng thuộc tỉnh Xiêng
Khoảng). Đại đội ông phụ trách mũi tấn công chủ yếu đánh Đồi Xanh, cao điểm
1690, hai chốt phòng thủ quan trọng bảo vệ Nậm Pênh. Khoảng 5 giờ sáng, bộ đội ta
triển khai xong đội hình và được lệnh nổ súng, tạo đòn phủ đầu bất ngờ với quân
địch. Mũi tấn công phát triển thuận lợi, các đơn vị quân tình nguyện phối hợp đánh
tan đội hình địch, một số quân địch còn lại chạy tán loạn. Thừa thắng, đơn vị cơ động
nhanh đánh tiếp vào Mường Om, thọc sâu vào Thẳm Lô chiếm điểm cao 1822 và tổ
chức chốt chặn quân địch tại đây. Gần sáng hơm sau địch tổ chức qn phản kích
hịng chiếm lại Điểm cao 1822. Giằng co gần hai giờ, cuối cùng địch khơng những
khơng đạt được ý đồ mà cịn tổn thất nặng nề, buộc chúng phải rút lui, quân ta giữ
vững chốt. Sau trận đánh ấy, đơn vị ông Hịch được tuyên dương khen thưởng, các
nhà báo trên mặt trận lập tức lên chốt thu thập thông tin kết quả trận đánh, ghi lại
hình ảnh cán bộ chiến sỹ đại đội 11, tiểu đoàn 3, trung đoàn 335 trong niềm vui chiến
thắng (nhà báo tên Đồng). Trong tấm ảnh còn được trân trọng lưu giữ đến tận bây
giờ, ông Hịch cùng những đồng đội thân yêu của mình rạng ngời với nét mặt hân
hoan bởi niềm vui lập công xuất sắc. Những chiến cơng đó góp phần vào thắng lợi
của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước và bảo vệ Tổ quốc của hai dân tộc Việt - Lào anh


em. Với cựu chiến binh Phạm Văn Khiêm, Đỗ Quang Hịch và nhiều đồng đội đã từng
là quân tình nguyện và chuyên gia quân sự giúp cách mạng Lào, quãng thời gian cầm
súng trên xứ sở Triệu Voi dường như không hề cảm thấy khoảng cách địa lý xa xôi
giữa hai đất nước mà như được sống, công tác, chiến đấu trên chính q hương, đất
nước mình. Bởi thế , tới tận bây giờ mỗi tên núi, tên bản, mỗi căn cứ, mỗi điểm
cao...trên đất nước bạn Lào anh em vẫn cịn in đậm trong tâm trí những người cựu
chiến binh quân tình nguyện Việt nam. Những kỉ niệm trong cuộc đời quân ngũ ấy sẽ
maìla niềm tự hào đối với mỗi cựu chiến binh qn tình nguyện, góp phần tô thắm

truyền thống tốt đẹp láng giềng hữu nghị Việt - Lào “Mãi mãi xanh tươi, đời đời
bền vững”.



×