Tải bản đầy đủ (.pptx) (23 trang)

Bài giảng Lý luận nhà nước và pháp luật - Chương 6: Nhà nước và pháp luật phong kiến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.7 MB, 23 trang )

CHƯƠNG VI

NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT PHONG KIẾN


1.

NHÀ NƯỚC PHONG KIẾN

1.1 Cơ sở kinh tế - xã hội và bản chất của nhà nước phong kiến
Nhà nước phong kiến là kiểu nhà nước thứ hai ra đời trên cơ sở sự sụp
đổ của xã hội chiếm hữu nô lệ, ở một số quốc gia nhà nước phong kiến là
kiểu nhà nước đầu tiên, ví dụ như Việt Nam, Triều Tiên...
Xã hội phong kiến có kết cấu giai cấp khá phức tạp. Trong xã hội có hai
giai cấp chính là nơng dân và địa chủ.


Ngoài hai giai cấp cơ bản là địa chủ và nơng dân, xã hội phong
kiến cịn có những tầng lớp khác nhau: tăng lữ, thợ thủ công, thương
nhân, nô tỳ
Tầng lớp nơ tỳ chủ yếu phục vụ trong gia đình, khơng có vị trí
đáng kể trong sản xuất.
* Bản chất của nhà nước phong kiến
Nhà nước phong kiến là công cụ chuyên chính chủ yếu của giai
cấp địa chủ phong kiến để chống lại nông dân và những người lao
động khác


Nhà nước phong kiến duy trì địa vị kinh tế của giai cấp địa chủ phong
kiến và thực hiện sự thống trị đối với toàn xã hội.
Quyền lực nhà nước trong chế độ phong kiến là quyền lực được duy trì


theo cách thức cha truyền con nối.
Ngồi tính giai cấp, Nhà nước phong kiến cũng có tính xã hội: tiến
hành các hoạt động kinh tế - xã hội vì sự phát triển đất nước, vì lợi ích của
nhân dân trong nước.
Tuy nhiên, sự quan tâm tới các hoạt động xã hội của nhà nước phong
kiến chưa nhiều, chưa đúng với vị trí vai trị của nó trong xã hội.


1.2. Chức năng của nhà nước phong kiến
1.2.1 Chức năng đối nội
- Chức năng bảo vệ và phát triển chế độ sở hữu phong kiến, duy trì sự
bóc lột của phong kiến đối với nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động
khác.
Bằng nhiều hình thức khác nhau, nhà nước phong kiến bảo vệ sự độc
quyền chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ phong kiến.
Ở phương Tây, nhà nước quy định chặt chẽ quyền sở hữu tư nhân của
các lãnh chúa phong kiến về ruộng đất thông qua chế độ đẳng cấp.


Ở phương Đông, sở hữu tối cao về ruộng đất thuộc về nhà nước, nhưng
thực chất quyền sở hữu ruộng đất nằm trong tay giai cấp phong kiến mà
đứng đầu là nhà vua
Nông dân ở các nước đều phải chịu cảnh lao dịch nặng nề

qua các

hình thức tơ thuế do giai cấp phong kiến đặt ra (tô tiền, tô hiện vật, tô lao
dịch).



- Chức năng đàn áp sự chống đối của nông dân và các tầng lớp nhân dân
lao động khác.
Để duy trì địa vị thống trị của mình, nhà nước phong kiến đều đàn áp
dã man các cuộc khởi nghĩa của nông dân và nhân dân lao động bằng bạo
lực quân sự.
Trong giai đoạn đầu của chế độ phong kiến (giai đoạn nhà nước phong
kiến phân quyền cát cứ), các lãnh chúa có quân đội riêng thực hiện chức
năng cảnh sát và xét xử.
Các lãnh chúa có quyền đánh đập, tra tấn nơng dân trong lãnh địa của
mình trong trường hợp họ chống đối. Trong trường hợp cần thiết, nhà nước
phong kiến và các lãnh chúa cùng phối hợp, giúp đỡ lẫn nhau trong việc
đàn áp sự phản kháng của nông dân.


Chuyển sang thời kỳ nhà nước phong kiến trung ương tập quyền bộ
máy đàn áp của nhà nước phong kiến càng trở nên phát triển, chức năng
này càng được nhà nước phong kiến thực hiện triệt để hơn, ví dụ các cuộc
khởi nghĩa của nông dân như: khởi nghĩa Xắc xơng ở Pháp, khởi nghĩa Sơn
Thành, Hồng Sào ở Trung Quốc, khởi nghĩa của Nguyễn Hữu Cầu ở Việt
Nam đều bị nhà nước phong kiến ở các nước đó đàn áp dã man.
- Chức năng đàn áp tư tưởng.
Các nhà nước phong kiến dù phương Đơng hay phương Tây, nhìn chung
đều sử dụng hệ tư tưởng tôn giáo và tổ chức tơn giáo phục vụ cho mục đích
nơ dịch tư tưởng.


1.2.2. Các chức năng đối ngoại của nhà nước phong kiến
- Chức năng tiến hành chiến tranh xâm lược.
Chiến tranh được nhà nước phong kiến sử dụng với tính chất là phương
tiện phổ biến để giải quyết các mâu thuẫn, mở rộng lãnh thổ, tăng cường

phạm vi ảnh hưởng của nhà nước mình ra bên ngồi.
Trong thời kỳ cát cứ, mỗi lãnh chúa phong kiến có quân đội riêng, có
quyền tuyên chiến với các lãnh chúa phong kiến khác ở trong và ngoài
nước (trừ tuyên chiến với vua hoặc quốc vương của mình). Khi vua hoặc
quốc vương của mình tiến hành chiến tranh, lãnh chúa phong kiến có nghĩa
vụ phải mang quân đến chi viện.


Tới thời kỳ nhà nước quân chủ trung ương tập quyền, chức năng này
được các nhà nước phong kiến tiến hành thường xuyên hơn nhằm phục vụ
cho lợi ích quốc gia, điều này dẫn đến tình trạng các nhà nước phong kiến
thường xuyên ở trong tình trạng chiến tranh.


- Chức năng phòng thủ chống xâm lược.
Cùng với việc tiến hành chiến tranh xâm lược, các nhà nước phong
kiến đều thực hiện các công việc liên quan đến bảo vệ đất nước như: xây
dựng pháo đài, thành luỹ, xây dựng quân đội thường trực... để phòng thủ
đất nước.
Để bảo vệ quyền, lợi ích của quốc gia, nhà nước phong kiến cịn thực
hiện nhiều hình thức và chính sách ngoại giao với các quốc gia láng giềng
như chính sách thương mại, đối ngoại hồ bình...


1.3 Hình thức nhà nước phong kiến
* Về hình thức chính thể: quân chủ phân quyền cát cứ, quân chủ
trung ương tập quyền, quân chủ đại diện đẳng cấp và cộng hồ
phong kiến.
Trong hình thức nhà nước qn chủ phân quyền cát cứ thì quyền
lực nhà nước bị phân tán, vua hoặc quốc vương khơng có tồn quyền,

chỉ là “đấng thiêng liêng”, quyền lực thực sự nằm trong tay các lãnh
chúa phong kiến.
Trong hình thức quân chủ đại diện đẳng cấp, quyền lực nhà nước
trung ương được tăng cường trên cơ sở của sự ủng hộ của các lãnh
chúa phong kiến vừa và nhỏ, cũng như tầng lớp cư dân thành thị.


Ở hình thức này, bên cạnh vua hoặc quốc vương cịn có cơ quan
đại diện đẳng cấp, ví dụ như: Nghị viện ở Anh, Hội nghị quốc dân ở
Nga, Hội nghị tam cấp ở Pháp. Cơ quan đại diện này có thẩm quyền
hạn chế trong lĩnh vực thuế và tài chính.
Sự hiện diện của cơ quan này cũng làm hạn chế quyền lực của
nhà vua, vì thế khi quyền lực của vua được tăng cường mạnh lên thì
vua thường khơng tham dự hội nghị của cơ quan đại diện đẳng cấp
nữa và tìm cách loại bỏ nó


Chính thể qn chủ trung ương tập quyền có đặc điểm là quyền
lực nhà nước tập trung vào tay vua hoặc quốc vương. Vua nắm toàn
quyền nhưng trong hoạt động điều hành vua dựa vào triều đình và bộ
máy quan lại giúp việc từ trung ương xuống đến địa phương. Toàn bộ
bộ máy nhà nước từ trung ương xuống đến địa phương tạo thành một
thể thống nhất.


Hình thức cộng hồ phong kiến tồn tại ở một số thành phố châu
Âu (Phơlôrenxơ của Italia, Nốpgôrớt và Psơcốp của Nga...) sau khi
giành được sự tự quản bằng các con đường khác nhau như: bỏ tiền ra
mua sự tự trị từ nhà nước phong kiến, đấu tranh vũ trang...Quyền lực
ở các thành phố đó tập trung trong tay giới quý tộc thành thị tập hợp

trong Hội đồng thành phố được lập trên nguyên tắc bầu ra, chịu trách
nhiệm điều hành các công việc và quan hệ của thành phố. Chính ở các
thành phố này đã sớm hình thành các quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa.


Về hình thức cấu trúc: chủ yếu là cấu trúc đơn nhất (tập trung, đơn
nhất chia lẻ). Đôi lúc cũng có cấu trúc liên bang: cộng hịa liên bang
Gugenơtốp ở phía nam nước Pháp thế kỷ XVI.
Chế độ chính trị: biện pháp chủ yếu là lừa dối và bạo lực. nhà
nước phong kiến cơng khai và hợp pháp hóa việc sử dụng bạo lực để
quản lý nhà nước.


2. Pháp luật phong kiến
2.1. Bản chất của pháp luật phong kiến
Về mặt bản chất giai cấp, pháp luật phong kiến thể hiện ý chí của
giai cấp địa chủ, phong kiến, là phương tiện để bảo vệ trật tự xã hội
phong kiến, trước hết là quan hệ sản xuất phong kiến.
Nó ghi nhận sự bất bình đẳng giữa các đẳng cấp khác nhau trong
xã hội, sự lệ thuộc của nông dân vào giai cấp địa chủ, bảo vệ sự áp
bức bóc lột của giai cấp địa chủ phong kiến đối với nông dân


Về phương diện xã hội, Trong những hoàn cảnh, điều kiện lịch sử
cụ thể pháp luật phong kiến không chỉ thể hiện ý chí của giai cấp địa
chủ phong kiến mà cịn phản ánh ý chí chung của tồn xã hội.
Ví dụ: Trong bộ Quốc triều hình luật của nhà Lê ngồi các quy
định thể hiện ý chí, bảo vệ lợi ích của giai cấp địa chủ phong kiến, ta
cịn gặp rất nhiều quy định mà mục đích là để thiết lập trật tự xã hội

như: Thể lệ chia ruộng đất công, quy định các vấn đề bảo vệ ruộng
đất, quy định về vấn đề thừa kế...


2.2. Những đặc điểm cơ bản của pháp luật phong kiến
- Pháp luật phong kiến là pháp luật đẳng cấp và đặc quyền
Pháp luật phong kiến công khai tuyên bố cho mỗi đẳng cấp có
những đặc quyền riêng.
Quyền lợi cao nhất trong xã hội Phong kiến thuộc về vua, vua có
tồn quyền, sau vua là các địa chủ lớn, tăng lữ có rất nhiều quyền
(quyền xét xử đối với nơng dân, đặt ra luật lệ, quyền thu thuế, quyền
bắt nông dân phải lao dịch cho mình...).


- Pháp luật phong kiến mang tính dã man, tàn bạo.
Mục đích hình phạt của pháp luật phong kiến chủ yếu nhằm gây
đau đớn về thể xác và tinh thần cho con người, làm nhục, hạ thấp
danh dự, nhân phẩm của con người. Chính vì vậy, các hình phạt được
quy định trong pháp luật như: chém đầu, treo cổ, dìm nước, voi giày,
tứ mã phanh thây, ném vạc dầu, thích chữ vào mặt... được áp dụng
rộng khắp ở các nhà nước phong kiến.


- Pháp luật phong kiến là pháp luật của kẻ mạnh.
Pháp luật phong kiến hợp pháp hố tính chất chun quyền và
tuỳ tiện sử dụng bạo lực.
Ở giai đoạn đầu pháp luật phong kiến cho phép các lãnh chúa
phong kiến có pháp luật của riêng lãnh địa mình. Pháp luật cho phép
sử dụng bạo lực để giải quyết tranh chấp. Ví dụ những quy định về
đấu gươm, đấu súng ở Châu Âu.

Mặt khác, Toà án phong kiến được quyền xét xử bất kỳ vụ việc
nào từ những lĩnh vực thuộc về nhà nước cho đến những việc thuộc về
đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật...


- Pháp luật phong kiến liên quan mật thiết tới tơn giáo và đạo đức
phong kiến.
Ví dụ, ở các nước phương Tây, Toà án giáo hội can thiệp, xét xử cả
những công việc không thuộc phạm vi tôn giáo. Ở phương Đông như
Việt Nam trong các quy định của pháp luật có nhiều quy định về nghi
lễ tơn giáo, đạo đức, tập quán như quy định tại các Điều 511, Điều
504, Điều 543, Điều 642 của Quốc Triều Hình Luật.


2.3. Hình thức của pháp luật phong kiến
Hình thức phổ biến của pháp luật phong kiến là tập quán pháp.
Bên cạnh luật của nhà vua cịn có luật, lệ riêng của lãnh chúa
phong kiến.
Hình thức văn bản quy phạm pháp luật cũng phát triển với sự ra
đời của nhiều bộ luật cơng phu.
Ví dụ: Nhà nước phong kiến Việt Nam có bộ Quốc Triều hình luật (Bộ
luật Hồng Đức) biên soạn năm 1483, Bộ Hoàng triều luật lệ (Luật Gia
Long) biên soạn năm 1815.



×