Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Tải Top 7 mẫu phân tích khổ cuối bài Tràng giang hay chọn lọc - HoaTieu.vn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.15 KB, 10 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>1. Dàn ý phân tích khổ cuối bài Tràng Giang</b>


I. Mở bài: giới thiệu khổ thơ cuối của bài thơ Tràng giang
II. Thân bài: phân tích khổ thơ cuối bài Tràng Giang


1. Hai câu đầu: màu sắc cổ điển của các hình ảnh thiên nhiên


Các hình ảnh mây, núi, gió được thể hiện rất rõ và nổi bật qua đoạn thơ
Hình ảnh lớp mây thể hiện nỗi buồn của tác giả vơ bờ


Hình ảnh cánh chim lẻ loi, thể hiện nỗi buồn của tác giả thêm sâu nặng


Hình ảnh cánh chim khơng chỉ báo hiệu hồng hơn mà cịn chỉ cái tơi nhỏ nhoi, cơ đọng
của tác giả


2. Hai câu cuối:


Nhà thơ có cảm giác nhớ quê hương khi đứng trước cảnh thiên nhiên
Nỗi buồn của Huy Cận được thể hiện rất sâu sắc và nổi bật


Khát vọng sự đẹp đẽ, tươi đẹp về quê hương đất nước, góp sức mình cho q hương, đất
nước


III. Kết bài: nêu cảm nhận của em về khổ thơ cuối của bài Tràng giang
Ví dụ:


Khổ thơ cuối bài thơ Tràng giang thể hiện cảnh núi non hùng vĩ của sông nước. bên cạnh
đó cịn thể hiện cái tơi nhỏ nhoi của tác giả.


<b>2. Phân tích khổ cuối bài Tràng Giang</b>



Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới. Thơ ông chịu ảnh
hưởng của thơ Đường, thơ Pháp, giọng thơ ảo não. Thơ Huy Cận trước cách mạng tháng
8 thường mang tâm trạng buồn, u uất. Đó cũng là mợt tâm trạng chung của cả thế hệ mợt
dân tợc.


Bài thơ "Tràng giang" được trích từ tập "Lửa Thiêng" thể hiện một nỗi buồn cô đơn, một
nỗi buồn nhớ nhà, nhớ q hương trong cảnh hồng hơn trước tràng giang.


Khổ thơ cuối là nỗi nhớ trào dâng của tác giả, một nỗi nhớ quê hương da diết khi đứng
trước hồng hơn, nơi sơng dài trời rợng:


<i>"Lớp lớp mây cao đùn núi bạc</i>
<i>....</i>


<i>Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà"</i>


Đây là khổ thơ kết tinh của làng quê "dợn dợn vời con nước" của Huy Cận, của mợt tấm
lịng sâu lắng thiết tha với quê hương, đất nước.


Hai câu đầu là một bức tranh nhiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ:
<i>"Lớp lớp mây cao đùn núi bạc</i>
<i>Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa"</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<i>"Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm</i>
<i>Mặt đất mây đùn cửa ải xa"</i>


Một cánh chim nhỏ xuất hiện trong câu thơ gợi ấn tượng về sự cô đơn, bơ vơ, nhỏ nhoi
đến tội nghiệp khiến cho không gian càng thêm rộng lớn. Một cách cảm nhận vừa gần
gũi, vừa tinh tế. Hình ảnh bóng chiều như thu lại sa xuống từ cánh chim:



<i>"Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa"</i>
Trước không gian vô tận ấy, tâm trạng nhà thơ là nỗi nhớ nhà:


<i>"Lòng quê dợn dợn vời con nước</i>
<i>Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà"</i>


Tư thế ấy có khiến ta liên tưởng đến Lý Bạch:"Cửa đầu vọng minh nguyệt - Đê đầu tư cố
hương"?


Âm hưởng hai câu thơ Đường thi tuyệt tác của Thôi Hiệu phảng phất ở đây:
<i>Nhật mộ hương quan hà xứ thị</i>


<i>Yên ba giang thượng sử nhân sầu.</i>


Thế nhưng Thơi Hiệu phải có "khói sóng" mới "buồn lịng ai". Cịn nhà thơ của chúng ta
"khơng khói hồng hơn" mà "lịng q" vẫn "dợn dợn vời con nước"! Từ láy "dợn dợn"
và từ "vời" khiến nỗi buồn triền miên, xa xôi, dàn trải mãi đến vô tận, đến khôn cùng!
Chỉ với 4 câu thơ ngắn gọn, Huy Cận đã trải lịng mình trên từng trang thơ để thể hiện
tình yêu quê hương , đất nước tha thiết.


Huy Cận vốn là một trong những nhà thơ nổi tiếng của phong trào thơ mới. Thơ ông vốn
đặc biệt vì trong hồn thơ ln ẩn chứa mợt nét hoài cổ buồn và sầu. Đặc biệt là bài thơ
Tràng Giang với khổ thơ thứ tư đã cho ta thấy rõ điều đó.


Đó là mợt khổ thơ rất đẹp trong bài, tuy mang một chút buồn. Một vẻ đẹp của một buổi
chiều trên sông nước, gợi một nỗi buồn sầu nhân thế:


<i>Lớp lớp mây cao đùn núi bạc</i>
<i>Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa</i>



Đây là một bức tranh thiên nhiên tả cảnh buổi chiều, rất sinh động. Đọc câu thơ đầu, ta tự
hỏi. Phải chăng đây còn là câu thơ nổi bật một nỗi sầu trong thi sĩ, nỗi sầu này đang dâng
lên trùng trùng lớp lớp, như dồn nén và ứ đọng lại trong mảnh hồn của thi nhân, đến tràn
ngập cả bầu trời. Đặc biệt trong thơ Huy Cận ln ẩn chứa những hình ảnh cánh chim,
mợt trong những hình ảnh thường xuất hiện trong thơ ca cổ. Nét cổ điển một cánh chim
nhỏ chấm phá trên nền trời khi chiều bắt đầu buông, thể hiện rõ nét sự nhỏ bé, đơn cơi
trong lịng thi sĩ và càng khiến bài thơ trở nên mông lung, vắng lặng, buồn hiu hơn nữa.


<i>Lòng quê dợn dợn vời con nước</i>
<i>Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà</i>


Đây là hai câu thơ đã diễn tả được hết nỗi nhớ quê hương và tình u với tổ quốc trong
lịng thi sĩ. Thơ Huy Cận mang nặng ý vị cổ điển là đây. Trời rộng, sông dài, một người
đứng đơn côi giữa mênh mông rợng lớn, khiến ta liên tưởng mợt ý thơ tốt ra từ thơ
Đường:


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Người xưa nhìn sóng trên sơng nên nỗi nhớ nhà càng thấm thía. Thì Huy Cận khơng cần
điều đó, cái hồn sầu trong lịng đã như ngấm vào máu, thấm vào từng tế bào của nhà thơ
mất rồi. Thể hiện một sự mến thương cao đợ, mợt tấm lịng u nước thiết tha của Huy
Cận, và còn thường trực hơn nhiều. Và đây cũng là một nét tâm trạng của thanh niên tiểu
tư sản lúc bấy giờ.


Tố Hữu đã nói “sống giữa quê hương mà bơ vơ như kiếp đi đày” quả thực nói rất đúng về
tâm trạng thanh niên nói chung và tâm trạng riêng của Huy Cận trong khổ thơ này. Và
càng cho ta hiểu nỗi buồn thấm thía của mợt thời đất nước ta lúc bấy giờ.


Là khổ thơ xuất sắc nhất trong tác phẩm, và cũng là khổ thơ thể hiện rõ nhất nét tâm
trạng của mợt chàng trai trí thức tiểu tư sản lúc bấy giờ. Thế mới hiểu vì sao người ta nói
Huy Cận là cái mảnh hồn thiêng sông núi, và là nỗi sầu của nhân thế. Nhờ kết hợp những
biện pháp nghệ thuật tài hoa đã làm nổi bật giá trị nội dung, tư tưởng của một phong cách


thơ mới tài năng. Và Huy Cận mãi về sau khi nhắc đến vẫn sẽ luôn là một mảnh hồn
không thể tách rời với văn học Việt Nam.


<b>3. Phân tích khổ cuối bài thơ Tràng Giang đầy đủ</b>


Nền thơ 1930 – 1945 đã đóng góp cho thi đàn văn học Việt Nam nhiều phong cách độc
đáo. Nếu ta theo Thế Lữ vào giấc mơ tiên, vào cuộc đời bất tận theo cách sôi nổi cuống
quýt vội vàng của Xuân Diệu “muốn cắn trái xn hồng” thì ta cũng có thể đi theo Huy
Cận đi vào bể sầu nhân thế. Chẳng cần đi tới tập thơ Lửa thiêng chỉ riêng bài Tràng giang
cũng đã làm nên hồn thơ “ảo não” Huy Cận. Và khổ thơ cuối là khổ thơ sâu lắng tha thiết
nhất trong trường buồn Tràng giang của ông.


<i>Lớp lớp mây cao đùn núi bạc</i>
<i>…</i>


<i>Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.</i>


Nếu như trong ba khổ thơ đầu chúng ta thấy tâm trạng buồn của một “nỗi buồn” thế hệ
mang tính thời đại, mợt nỗi buồn khơng tìm ra lối thốt nó như kéo dài triền miên, nó như
dàn trải theo mênh mơng vơ địch của sơng nước, thì tới khổ thơ cuối tâm trạng ấy được
nâng lên chiều cao, lan tỏa trong khói hồng hơn của buổi chiều tàn.


<i>Lớp lớp mây cao đùn núi bạc</i>
<i>Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa</i>


Ở dịng thơ này ta thấy đơi mắt của nhà thơ dường như đang nhìn thấy rất xa nơi cuối
chân trời “Tràng giang”. Thật vậy khơng gì vui bằng lúc rạo rực bình minh, nhưng cũng
khơng gì buồn bằng cái buổi ngày tàn của“bóng chiều sa”. Nhưng chính lúc ấy trong thơ
Huy Cận với “Tràng giang” lại rạng lên vẻ đẹp tráng lệ với “lớp lớp” những tầng mây
hợp thành “núi mây” khổng lồ, được vạt nắng chiếu rọi thành “núi bạc”. Những đám mây


trắng xốp ấy cứ to dần lên như hình quả núi và đằng sau hình quả núi ấy là mợt mặt trời
chói lọi sắp tắt khiến cho núi mây trở thành núi bạc, một cảnh rực rỡ hiếm có khi hồng
hơn đang lụi dần, khơng gian dường như có mợt sự vận đợng lặng lẽ: mây cứ đùn lên mãi
chiếm lĩnh cả bầu trời cao, khiến cho ở đấy mây cũng đầy nỗi buồn rợn ngợp.


Tác giả đã dùng cái có của thiên nhiên để nói về cái khơng của tình người trong cái bể
trời bao la ấy. Câu thơ gợi nhớ nỗi buồn của Đỗ Phủ khi ông không chốn nương thân da
diết nhớ quê hương:


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Ta thấy trong suốt hành trình Tràng giang hình ảnh thi nhân cơ đơn trong từng cảnh vật
đổi thay nhưng cùng chung dáng vẻ “trôi nổi mơng lung lạc lồi vơ định”, mợt cành củi
khơ bập bềnh trôi trên sông (củi một cành khô lạc mấy dịng), mợt đám bèo xanh trơi nổi
trên sơng (bèo dạt về đâu hàng nối hàng). Với khổ thơ cuối hình ảnh thi nhân, nỗi buồn
của thi nhân lại thấp thoáng ẩn hiện trong mợt hình ảnh cơ đơn lạc lồi. Đó là mợt cánh
chim, chim nhỏ nhoi đang chở nặng bóng chiều, nghiêng cánh nhỏ cố bay về chân trời xa
vắng.


Cánh chim bay lượn tuy gợi lên một chút ấm cúng cho cảnh vật nhưng mông lung quá,
nỗi buồn ở đây càng thêm da diết trong nhớ thương. Nó khơng đóng khung cảnh sơng
nước ở trước mặt mà mở ra đến chân trời của miền quê xa. Nếu như câu thơ “Lớp lớp
mây cao đùn núi bạc” gợi lên cái cao, cái bồng bềnh của cảnh mây trời thì câu thơ tiếp
theo lại trĩu xuống theo hình ảnh “bóng chiều sa”. Có lẽ bóng chiều ấy đang chở nặng
mợt tâm tình buồn nhớ của thi nhân nên mới có chữ “sa” chứ không phải là “xa”. Phải
chăng cái nỗi buồn cơ đơn cùng nỗi buồn “sầu nhân thế” đó càng gợi lên trong nỗi buồn
của nhà thơ. Nó thể hiện sâu đậm trong hình ảnh thi nhân mợt mình đứng lẻ loi giữa vũ
trụ bao la, lặng lẽ cảm nhận cái vĩnh hằng, cái vô tận của không gian đối lập với kiếp
người.


<i>Lòng quê dợn dợn vời con nước</i>
<i>Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà</i>



Chuyển sang câu thơ thứ ba đợt ngợt xuất hiện hai tiếng “lịng q” khơng phải là ánh
mắt nhìn vào mình, nhìn theo đến hun hút vào “tràng giang” mà chính là cõi lịng nhìn
vào mình rồi nhìn về phía chân trời xa xơi.


“Lịng q” đó là nỗi lịng nhớ q hương. Và cũng có nghĩa diễn nơm na là: của người
trí thức tây học này vốn đã bị thị thành hóa giờ đây nó đang trở lại thành tấm lịng của
người cố hương giàu tình làng nghĩa xóm. Hai nghĩa trên nó sẽ định ra cho sự giải thốt
cơ đơn. Phải thành cái mình thứ hai nữa mới trở về chính q hương mình.


Hai tiếng “dợn dợn” gợi lên mn nhịp sóng: sóng nước, sóng lòng diễn tả sự rợn ngợp
của nhà thơ trước cảnh trời nước mênh mơng trong khoảnh khắc hồng hơn gắn liền với
tình q cố hương:


<i>Q hương kh́t bóng hoàng hơn</i>
<i>Trên sơng khói sóng cho buồn lòng ai.</i>


Dịng thơ cuối cùng gợi ngay đến 2 câu thơ của Thôi Hiệu thời Đường cũng là tâm tình
quê của Huy Cận. Với Huy Cận lịng q đã nhớ q sẵn. Đó là nhớ nhà, nhớ những
người ruột thịt, những gốc chuối bờ tre. Vì thế khơng có mợt sự gợi ý ngoại cảnh thì tấm
lịng ấy vẫn đăm đắm hướng về q nhà để hi vọng kiếm một chút niềm thân mật ở làng
q sơng nước, nơi chơn nhau cắt rốn của mình.


Mới đọc bài thơ Tràng giang ta có cảm tưởng tất cả bài thơ là thiên nhiên. Nó rất hoang
vắng, nó đợc thoại với chính nó. Thế nhưng bốn dịng thơ cuối bợc lợ chân thực nhất, sâu
đậm nhất tình u quê hương của tác giả. Và ở hoàn cảnh đất nước bị đô hộ càng yêu quê
hương thắm thiết bao nhiêu thì thi nhân càng “ảo não” bấy nhiêu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

tình u thiêng liêng cao cả, nó mở đường cho tình yêu Tổ quốc, tình yêu giang sơn đất
nước.



<b>4. Phân tích khổ 4 bài Tràng giang</b>


Đọc thơ của Huy Cận người đọc cảm nhận rõ được tình yêu thiên nhiên, u q hương
đất nước sâu nặng trong lịng ơng. Bằng tình u nồng nàn và ln cháy trong tim ông
luôn hướng về quê hương đất nước dù hiện tại ông đang đứng trên mảnh đất quê hương.
Khổ cuối bài Tràng giang là tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước.


Tác giả với tình yêu quê hương đất nước yêu cảnh sắc quê hương vì thế mà bức tranh
thiên nhiên vẫn tiếp tục được mở ra với những chi tiết mới:


<i>“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,</i>
<i>Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.</i>


<i>Lòng quê dợn dợn vời con nước,</i>
<i>Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”</i>


Câu thơ đầu đã gợi mở ra cảnh phía chân trời xa, những đám mây trắng chồng xếp lên
nhau trùng trùng điệp điệp dưới phản chiếu ánh dương lấp lánh như núi bạc. Huy Cận
học ý thơ của Đỗ Phủ qua bản dịch nghĩa của Nguyễn Công Trứ: “Mặt đất mây đùn từ ải
xa.” Đã phác họa bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, hoành tráng đẹp một cách tráng lệ lung
linh.


Nhưng đến câu thơ thứ hai: “Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa”. Thơ xưa khi nói
đến chiều thường buồn điểm xuyết trên nền khơng gian là cánh chim về tổ. Huy Cận vẽ
cánh chim trao nghiêng đặt trong dấu hai chấm như để nhấn mạnh cả bóng chiều như rơi
xuống góp phần gợi nỗi buồn da diết về sự bé nhỏ của con người giữa cuộc đời. Không
gian rộng lớn bao la nhưng lại làm cánh chim nghiêng ngả với đôi cánh nhỏ của mình.
Nhưng trong câu thơ trên Huy Cận có nhắc đến thời điểm “bóng chiều” là là khoảng thời
gian đặc trưng cho tâm trạng nhớ nhà nhớ quê hương da diết của những người con xa q


chính vì thế mà hai câu tiếp theo đã bộc lộ rõ tâm trạng ấy:


<i>“Lòng quê dợn dợn vời con nước,</i>
<i>Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”</i>


Lần đầu tiên thi sĩ bộc lộ tâm trạng nỗi nhớ q hương được hiện lên từ khói hồng hơn,
từ con nước dợn dợn. Nó đã gợi ta nghĩ đến cảm giác đang rợn lên trong tâm trí con
người hay những con sóng nhấp nhơ trên sóng nước rất khó phân định chỉ biết qua từ
“dợn dợn” sóng nước, sóng lịng đang hịa quyện vào nhau mênh mang trên dịng sơng.
Chỉ biết tấm lịng thương nhớ q hương khơng chỉ ở trong ý thức mà đã xâm lấn cảm
giác của con người thấm thía.


Câu thứ 4 “Khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà” tính đối thoại với mợt tình cảm quan
niệm thơ đi trước cho ta nghĩ đến tiếng thơ của Thôi Hiệu:


<i>“Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”</i>


Với Huy Cận khơng cần khói sóng nào cần đến tác dụng của ngoại cảnh mà vẫn nhớ quê
hương, nỗi niềm thương nhớ ln thường trực trong lịng người. Đó là cách bày tỏ tình
cảm thật sâu sắc. Cũng giống như Bà Huyện Thanh Quan:


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Đứng trên quê hương, đất nước mà vẫn nhớ quê hương đất nước. Phải chăng đó là nỗi
buồn sơng núi của mợt trí thức yêu nước sống trong thân phận vong quốc nô, nỗi buồn
của một thế hệ thanh niên yêu nước sống dưới thời Pháp đương thời.


Bức tranh thiên nhiên gây ấn tượng bởi vẻ đẹp kì vĩ mĩ lệ của khung cảnh trời chiều đậm
màu sắc nhưng bức tranh quá rộng lớn làm đầy lên nỗi cô đơn nhớ thương khắc khoải của
nhân vật trữ tình.


Tràng giang là tiếng buồn của hồn thơ Huy Cận được gợi lên từ sự đối lập giữa không


gian mênh mông cao rộng với nhỏ bé mong manh. Nỗi buồn khơng hồn tồn vơ cớ đó là
nỗi buồn thương về kiếp người cuộc đời về quê hương đất nước. Nỗi buồn gắn với quan
niệm thẩm mĩ của các nhà thơ mới cái đẹp sánh đôi với cái buồn. Đó cũng là nỗi buồn
của thế hệ thanh niên mà trong thơ của Huy Cận thường đem nỗi buồn vào vũ trụ bao la.
Bài thơ còn là sự kết hợp hài hào giữa yếu tố cổ điển và hiện đại với các nghệ thuật thất
ngôn trường thiên, phép đối ngẫu, thi tứ, bút pháp tả cảnh ngụ tình lấy điểm tả diện đã
làm nổi bật khổ cuối của bài thơ.


Tuy chỉ là một khổ thơ nhưng khổ thơ cuối lại có ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong việc
bộc lộ tâm trạng của Huy Cận khi đứng trên quê hương ngắm nhìn cảnh đẹp kì vĩ trên đất
nước mình mà trong lịng khơng khỏi bồi hồi xúc đợng từ đó bợ lợ tình u thiên nhiên
u q hương kín đáo mà cũng tha thiết của tác giả.


Khi ta phân tích khổ thơ cuối bài Tràng giang dường như nó giúp khơi gợi trong chúng ta
tình u q hương đất nước tha thiết, yêu cảnh sắc quê hương mình từ đó mà dạy chúng
ta cách trân trọng c̣c sống, trân trọng những gì đang có.


<b>5. Phân tích khổ cuối bài thơ Tràng giang</b>


Nhà thơ Huy Cận có rất nhiều bài thơ hay miêu tả về cảnh thiên nhiên, tình yêu quê
hương đất nước, nỗi nhớ nhà trong đó nổi bật nhất là bài thơ " tràng giang" nó là bài thơ
tiêu tiêu biểu của phong trào thơ mới. trong bài thơ " tràng giang " khổ thơ cuối của bài
thơ khổ thơ này đã thể hiện tâm trạng buồn, cô đơn, bơ vơ của tác giả khi nhớ nhà:


<i>"Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,</i>
<i>Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa,</i>


<i>Lòng quê dợn dợn vời non nước,</i>
<i>Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà."</i>
Huy Cận lại khéo vẽ nét đẹp cổ điển và hiện đại cho bầu trời trên cao:



<i>Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,</i>
<i>Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.</i>


Tác giả đã dùng những từ láy " lớp lớp" ở đây để miêu tả rõ hình ảnh của những đám mây
nhiều nó từng lớp từng lớp đã làm bạc đi cả bầu trời, câu thơ :"lớp lớp mây cao đùn núi
bạc" nhà thơ đã dùng biện pháp so sánh ẩn dụ và bút pháp chấm phá với "mây cao đùn
núi bạc" thành "lớp lớp" đã khiến người đọc tưởng tượng ra những núi mây trắng được
ánh nắng chiếu vào như dát bạc. Hình ảnh mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng
thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ mợt tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ:


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

từng lớp mây cứ đùn ra mãi thành núi bạc. Đây cũng là mợt nét thơ đầy chất hiện đại, bởi
nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ điển quen thuộc. Và nét hiện đại càng bộc lộ rõ hơn
qua dấu hai chấm thần tình trong câu thơ sau.


Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều. Trời mây thì bao la, rợng
lớn như vậy cịn chim thì chao nghiêng nhưng ở đây không phải là chao nghiêng mợt
cách bình thường mà "chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa":Chim nghiêng cánh nhỏ
kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên
cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả khơng gian nhưng gợi được thời gian
bởi nó sử dụng "cánh chim" và "bóng chiều", vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả
hồng hơn trong thơ ca cổ điển.có lẽ những đàn chim đang vội vã bay về tổ ấm của mình
để tránh được cái " bóng chiều sa".


Dường như những cánh chim đó đang bị đè nặng của cảnh xế chiều buông xuống và điều
đặc biệt hơn là cánh chim khơng bình thường mà chim nghiêng bỏi đơi cánh nhỏ bằng
đơi cánh nhỏ của mình chim bay về tổ ấm của mình để tránh được mợt khơng gian rợng
lớn buổi chiều tà. chim bay đi đâu cho thốt khỏi cái bóng chiều tà đang đè nặng xuống
mình? Nhưng giữa khung cảnh cổ điển đó, người đọc lại bắt gặp nét tâm trạng hiện đại:



<i>Lòng quê dợn dợn vời con nước,</i>
<i>Khơng khói hoàng hơn cũng nhớ nhà.</i>


"Lịng q dợn dợn vời non nước" Lịng q ở đây muốn nói lên nỗi nhớ quê hương của
nhà thơ, sự hướng tâm chứ khơng chỉ đơn thuần là tấm lịng chất phác, quê mùa. Hai từ
"dợn dợn" cho ta cảm nhận sóng biển đang ở bên ta, sóng biển cũng biết nhớ thương hay
tác giả đang nhớ thương vậy?


"Dợn dợn" là một từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy trước đó. Từ láy
này hơ ứng cùng cụm từ "vời con nước" cho thấy một nỗi niềm bâng khuâng, cơ đơn của
"lịng q". Hai từ "dợn dợn" cịn gợi cho ta thấy được sự lên xuống uốn lượn của sóng
biển hay nỗi nhớ trào dâng của nhà thơ khi đứng trước cảnh hoang vắng của một buổi
chiều tà. Và nỗi nhớ ấy không chỉ một lần mà là liên tục, nhiều lần nhưng nỗi ấy mới chỉ
là "dợn dợn" mà chưa phải là cuồng nhiệt. Câu thơ muốn nói lên lịng nhớ q hương khi
tác giả sơng nước. hay trong truyện kiều cũng ả nỗi nhớ nhà nhưng lại chưa biết đâu là
nhà khi:


<i>"Bốn phương mây trắng một màu</i>
<i>Trông vời cố quốc biết đâu là nhà"</i>


Kiều nhớ quê nhà nhưng bốn phương đều là một màu làm sao để nhận ra được đâu là nhà
hay trong cuộc sống của cơ như thế thì sẽ biết về đâu và đâu sẽ là nhà?vâng lòng nhớ quê
hương được gợi lên bởi từ” mây trắng ", cánh chim chiều và được tác giả nhấn mạnh ở
từ" con nước'. Tác giả kết thúc bài thơ một cách nhẹ nhàng nhưng sâu lắng:


<i>"Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà"</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Xưa kia nhà thơ thơi hiệu buồn vì cõi tiên mù mịt, q nhà cách xa, khói sóng trên sơng
gợi cho tác giả thấy mờ mịt mà sầu. Nhưng nay Huy Cận buồn trước cảnh khơng gian
hoang vắng,sóng "gợn tràng giang "khiến ơng nhớ tới quê hương như một nguồn ấm áp


vá là tổ ấm hạnh phúc đối với ơng. Thơi hiệu tìm giấc mơ tiên chỉ thấy hư vơ, đó là lịng
khát khao mợt cõi q hương thực tại cịn Huy Cận mợt mình đối diện với khung cảnh vơ
tình, hoang vắng lịng ơng lại muốn được trở về với q hương mang nặng tình thương và
mang lại sự ấm áp cho tác giả đó cũng là nỗi khát vọng của ơng.


Bằng những biện pháp so sánh và sự tài tình miêu tả của nhà thơ đã thể hiện rõ nỗi buồn,
nỗi nhớ nhung quê hương của tác giả. Nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê
hương, nhưng quê hương đã khơng cịn. Đây là nét tâm trạng chung của nhà thơ mới lúc
bây giờ, mợt nỗi lịng đau xót trước cảnh mất nước.


<b>6. Phân tích khổ cuối bài Tràng giang ngắn gọn</b>


Trong bài thơ Tràng giang của nhà thơ Huy Cận, khổ thơ cuối là một trong những khổ
thơ cơ đọng, giàu hình tượng và nghệ thuật nhất, cũng là khổ thơ thể hiện rõ nhất tâm
trạng của chủ thể trữ tình. Qua khổ thơ, người đọc có thể thấy được những nét hiện đại
pha lẫn với yếu tố cổ điển đã làm nổi bật nên nỗi nhớ nhà và tâm trạng lo lắng trước thời
cuộc, vận mệnh đất nước của người thanh niên.


Thiên nhiên trong đoạn thơ này có sự vận đợng dữ dợi, những đám mây trắng từ đâu đùn
về tạo thành những dãy núi bạc trên bầu trời in bóng dưới dịng sơng, câu thơ như mợt
bức tranh sơn thủy, hữu tình. “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” câu thơ cũng gợi lên vẻ đẹp
hùng vĩ tráng lệ của non sơng mà qua đó ta cảm nhận được tình cảm của thi nhân đối với
quê hương đất nước.


Câu thơ thứ 2 là hình ảnh của một cánh chim chiều nhưng được miêu tả rất đặc biệt, bóng
chiều như có cả hình khối và sức nặng đang đè lên cánh chim nhỏ nhoi. Con chim thì như
đang vợi vã chạy trốn bóng chiều đang sa xuống. Hình ảnh thơ như nói hợ nỗi bơ vơ, sự
lạc lồi của chính nhà thơ bởi giờ đây ơng cảm thấy mình cũng như cánh chim nhỏ nhoi
kia, muốn chạy trốn cuộc đời nhưng không biết đi về phương nào.



Câu thơ thứ 3 “Lòng quê dợn dợn vời con nước” sử dụng cách nói kiệm lời. Lịng q tức
là nỗi lòng cứ từng đợt, từng đợt trào dâng (dợn dợn), nó cũng giống như những con sóng
bên sơng cứ tiếp nối nhau về chân trời xa vời vợi.


Nỗi buồn nhớ quê như mênh mang vô tận bao trùm cả không gian. Theo Huy Cận thì thời
kì này ơng đang sống ở xa q hương mà như khơng có q hương. Trước sơng nước
mênh mơng càng thấy trống vắng lạc lồi, càng khao khát sự đoàn tụ, sum vầy.


Câu thơ kết “Khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà” gợi nhớ câu thơ của Thơi Hiệu song
ý thơ lại có những nét khác. Thơi Hiệu nhìn khói sóng trên sơng rồi liên tưởng đến những
ngọn khói lam chiều mà lịng trào dâng nỗi nhớ q hương. Cịn ở đây dù khơng có khói
mà cứ chiều xuống nỗi nhớ nhà lại cồn cào đau đầu trong lịng thi nhân. Hình như so với
Thơi Hiệu thì nỗi nhớ trong Huy Cận nó canh cánh, da diết, chảy bỏng hơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

chiều thì cuối cùng tác giả cũng phải bật thốt lên về nỗi nhớ thương của mình trong khổ
thơ cuối cùng này. Phải dồn nén thế nào, nỗi nhớ chan chứa và sâu lắng ấy mới được nhà
thơ gói gọn trong hai dịng thơ cuối.


Bài thơ Tràng giang, đặc biệt là khổ thơ cuối cùng, là sự kết tinh của những hình ảnh thơ
hiện đại và cổ điển. Cách vận dụng sáng tạo thơ xưa của Thôi Hiệu với sự diễn đạt của
riêng nhà thơ đã tạo nên một phong cách rất Huy Cận. Qua đây, người đọc có thể thấy
được cảnh đẹp kì vĩ của non sơng đất nước và sự cơ đơn, lạc lõng của người thanh niên
đứng trước trời đất mà bất lực về bản thân.


<b>7. Phân tích 2 khổ thơ cuối bài Tràng Giang</b>


Trong số các nhà thơ mới trước Cách mạng, Huy Cận là mợt nhà thơ có chất thơ ảo não
nhất. Thơ ông luôn chất chứa một nỗi sầu nhân thế. “Tràng Giang” là một bài thơ gắn
liền với tên tuổi của Huy Cận với những nỗi niềm yêu nước thiết tha. Đặc biệt, nỗi niềm
thương nhớ ấy càng được thấy rõ trong phần phân tích hai khổ thơ cuối bài Tràng giang


dưới đây:


<i>Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;</i>
<i>Mênh mông không một chuyến đò ngang.</i>


<i>Không cầu gợi chút niềm thân mật,</i>
<i>Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.</i>


<i>Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,</i>
<i>Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.</i>


<i>Lòng quê dợn dợn vời con nước,</i>
<i>Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.</i>
Trước mắt người đọc hiện lên một khung cảnh hắt hiu:


<i>Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;</i>
<i>Mênh mông không một chuyến đò ngang.</i>


<i>Không cầu gợi chút niềm thân mật,</i>
<i>Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.</i>


Từng đám bèo cứ lặng lẽ nối tiếp nhau trơi theo dịng nước mà khơng biết trơi về đâu, tựa
như dịng đời bơ vơ, vơ định, cảm thấy mình bất lực và nhỏ bé. Ở đây có sự đối lập giữa
những thứ đang có và những thứ khơng có. Chỉ có dịng nước mênh mông với những
cánh bèo nối tiếp nhau trôi trong vơ định, khơng có lấy mợt cây cầu dù chênh vênh,
khơng có lấy mợt con đị dù nhỏ bé. Hai bên bờ sông mà như hai thế giới, không có mợt
chút liên hệ nào, dù gần mà cũng thành xa xôi không thể với tới. Hai bên bờ chạy song
song, cùng “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”, ko chút thân mật, khơng chút giao hịa nào cả.
Khung cảnh thiên nhiên ấy, cũng như tâm trạng của nhà thơ vậy. Giữa trời đất bao la
nhưng khơng tìm được những tâm hồn đồng điệu với mình, khơng ai có thể hiểu mình.


Nỗi cơ đơn cứ thế chồng chất chất chồng, làm cho con người ta càng cảm thấy nhỏ bé
giữa thiên nhiên, càng khao khát hơn sự đồng cảm, yêu thương.


Khơng nhìn dịng nước buồn hiu hắt nữa, nhà thơ dắt chúng ta nhìn đến cao hơn:
<i>Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Trong thơ của Huy Cận cũng có cánh chim và đám mây như trong mợt số bài thơ cổ nói
về buổi chiều, tuy nhiên, hai hình ảnh này khơng có tác dụng hơ ứng cho nhau như trong
thơ cổ, mà chúng cịn có ý nghĩa trái ngược nhau. Trong buổi chiều muộn, nhưng từng
lớp, từng lớp mây trên cao kia vẫn chất chồng lên nhau, tạo thành những núi bạc, nổi bật
trên nền trời xanh trong. Đây là một cảnh vật hùng vĩ biết bao! Đó khơng phải đám mây
cơ đơn lững lờ giữa tầng khơng khi chiều về như trong thơ của Hồ Chí Minh. Mây ở đây
chất chồng, ánh lên trong nắng chiều, làm cho cả bầu trời trở nên đẹp đẽ và rực rỡ. Giữa
khung cảnh ấy, một cánh chim nhỏ nhoi xuất hiện. Cánh chim bay giữa những lớp mây
cao đẹp đẽ, hùng vĩ như càng làm nổi bật lên cái nhỏ bé của nó. Nó đơn cơi giữa trời đất
bao la, tựa như tâm hồn nhà thơ bơ vơ giữa đất trời này.


Đặt cánh chim và những núi mây bạc ở thế đối lập, đã tô đậm thêm nỗi buồn trong lòng
nhà thơ. Nỗi buồn như thấm đượm, lan tỏa trong khắp cả không gian:


<i>Lòng quê dợn dợn vời con nước,</i>
<i>Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.</i>


Tầm mắt trở lại trên dịng nước. Từng đợt sóng nước dập dềnh, nhẹ nhàng uốn lượn
nhưng cũng tồn tại rất lâu, lan tỏa rất xa. Đó là hình ảnh miêu tả, nhưng cũng chính là
tâm trạng của tác giả – mợt cảm giác cô đơn,


</div>

<!--links-->

×