Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Dự thảo tóm tắt Luận án Tiến sĩ Sinh học: Ứng dụng kỹ thuật xét nghiệm ái tính kháng nguyên giới hạn (LAg-Avidity) để ước tính tỷ lệ mới nhiễm HIV trên các nhóm có nguy cơ cao lây...

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1002.38 KB, 27 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
-----------------------

TRẦN HỒNG TRÂM

ỨNG DỤNG KỸ THUẬT XÉT NGHIỆM ÁI TÍNH KHÁNG NGUYÊN GIỚI HẠN
(LAg -Avidity) ĐỂ ƢỚC TÍNH TỶ LỆ MỚI NHIỄM HIV TRÊN CÁC NHÓM CÓ
NGUY CƠ CAO LÂY NHIỄM HIV Ở VIỆT NAM.

Chuyên ngành: Vi sinh vật học
Mã số: 62420107

DỰ THẢO TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ SINH HỌC

Hà Nội – 2017


Cơng trình được hồn thành tai:
Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương & Trường Đại học Khoa học Tự nhiên

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS.TS. Nguyễn Anh Tuấn
2. PGS.TS. Nguyễn Quang Huy

Phản biện:
Phản biện:
Phản biện:

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng cấp Đại học Quốc gia chấm luận án tiến sĩ họp tại


Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội vào hồi….giờ….phút,
ngày ….tháng…..năm 2018

Có thể tìm hiểu luận án tại:
1. Thư viện Quốc gia Việt Nam;
2. Trung tâm Thông tin – Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội


MỞ ĐẦU
Tính đến 2016, UNAIDS ghi nhận số người lớn mới nhiễm HIV trên thế giới nằm chủ
yếu độ tuổi lớn hơn 15 [111]. Tuy nhiên đến năm 2017 UNAIDS ước tính số người trưởng
thành mới nhiễm HIV giảm 8% so với giữa 2010 và 2015, giảm 11% so với giữa 2010 và
2016 [113].
Theo thống kê của UNAIDS Việt Nam, tổng số người nhiễm HIV ở Việt Nam có
khoảng 250,000 người lớn và trẻ em. Nhóm người lớn trong độ tuổi 15 - 49 có tỷ lệ hiện
nhiễm HIV khoảng 0,4%. Ước tính có khoảng 11,000 người mới nhiễm HIV trong năm
2016 [112]. So sánh số liệu nhiễm HIV/AIDS, tử vong báo cáo năm 2016, số trường hợp
nhiễm HIV phát hiện mới giảm 1,1%, số bệnh nhân AIDS giảm 39% và người nhiễm HIV
tử vong giảm 15% [2]. Trên thế giới, các phương pháp xét nghiệm HIV hiện nay chủ yếu
chỉ tính được tỷ lệ hiện nhiễm [1] là một tỷ lệ mặc dù quan trọng nhưng có những hạn chế
trong việc tìm hiểu sự lan truyền HIV mới nhất.
Sinh phẩm miễn dịch gắn men tóm bắt BED là sinh phẩm đầu tiên được thương mại
hóa xác định được tỷ lệ mới nhiễm HIV. Sinh phẩm BED dựa trên nguyên tắc xác định
thời gian nhiễm HIV bằng xác định sự có mặt của một số yếu tố trong huyết thanh hoặc
huyết tương. Sinh phẩm BED sử dụng một peptide có 3 nhánh được thiết kế đặc hiệu, sử
dụng các trình tự, hay các đoạn, gp41 của các phân nhóm HIV‐1 khác nhau. Đoạn
peptide chung cho nhiều phân nhóm này sau đó được dùng để đo tỷ lệ đang tăng lên của
kháng thể IgG đặc hiệu HIV so với IgG toàn phần sau giai đoạn chuyển đổi huyết thanh [1].
Tỷ lệ kháng thể IgG kháng HIV so với kháng thể IgG toàn phần tăng lên theo thời gian
nhiễm cho phép ước tính thời gian nhiễm. Hạn chế của sinh phẩm BED là ước lượng cao tỉ

lệ mới nhiễm HIV‐1 do phân loại sai một số các trường hợp nhiễm đã lâu (đã nhiễm hơn 1
năm) thành mới nhiễm trong các nghiên cứu cắt ngang [2]. Tỉ lệ nhiễm đã lâu bị phân loại
sai là mới nhiễm được gọi là tỷ lệ phân loại sai gần đây (tỷ lệ FRR). Để hiệu chỉnh sai
số này, chúng ta cần sử dụng công thức hiệu chỉnh [3,4]. Sinh phẩm BED chỉ mới được
thẩm định và tính tốn tỷ lệ phân loại sai FRR với một số quần thể tại Châu Phi, Châu Âu
và Mỹ; do đó vẫn chưa thể biết có thể áp những tỷ lệ này cho các khu vực khác như
Châu Á hay khơng.
Kỹ thuật miễn dịch gắn men ái tính kháng nguyên giới hạn rIDR‐m – rIDR-m
Limiting Antigen Avidity Enzyme Immunoassay (sinh phẩm LAg-Avidity) là kỹ thuật thế
hệ mới xác định tỷ lệ mới nhiễm tập trung vào các đặc tính kháng thể bao gồm cả ái lực
của kháng thể kháng HIV dựa trên nguyên tắc là các kháng thể được tổng hợp sớm trong
quá trình nhiễm HIV sẽ gắn với kháng ngun khơng mạnh bằng những kháng thể hồn
chỉnh hơn được tổng hợp ở giai đoạn sau. Ái lực kháng thể tăng lên theo quá trình nhiễm
bệnh là do đáp ứng miễn dịch đối với q trình nhiễm bệnh hồn thiện hơn. Kỹ thuật mới
này sử dụng một protein tái tổ hợp chung cho nhiều phân nhóm (rIDR‐M) gộp 3 trình tự
của các khu vực quyết định miễn dịch (rIDR) của gp41, đại diện cho các đa dạng phân
nhóm HIV‐1 từ A đến E (nhóm M). Kết quả nghiên cứu ở một s ố nư ớc cho thấy sinh
phẩm này cho kết quả tốt như nhau đối với tất cả các phân nhóm HIV‐1 khác nhau đang
lưu hành trên thế giới. Tuy nhiên, cần những nghiên cứu đánh giá trên thực địa nhằm xác
định độ chính xác của sinh phẩm LAg-Avidity để ước tính tỷ lệ mới nhiễm.
Với sự hỗ trợ của CDC, Viện VSDTTƯ đã tiến hành nghiên cứu “ Ứng dụng kỹ thuật
xét nghiệm ái tính kháng nguyên giới hạn (LAg-Avidity) để ước tính tỷ lệ mới nhiễm HIV
trên các nhóm có nguy cơ cao lây nhiễm HIV ở Việt Nam” để tìm ra cách tính tốn tỷ lệ
mới nhiễm HIV phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh Việt Nam.
1


MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Định lượng và so sánh tỷ lệ phân loại sai của sinh phẩm BED và LAg- Avidity EIA
trong nhóm bệnh nhân đang điều trị ARV tại các phịng khám ngoại trú (PKNT) để ước tính

tỷ lệ mới nhiễm HIV-1 tại Việt nam
2. Ứng dụng kỹ thuật LAg Avidity EIA để ước tính tỷ lệ mới nhiễm HIV trong các
nhóm đối tượng có nguy cơ cao lây nhiễm HIV: NCMT, PNBD, TDĐGN ở Việt Nam;
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu cắt ngang trên quần thể những người tham gia điều trị tại các phòng
khám ngoại trú ở Việt Nam, và
- Sử dụng mẫu điều tra trong nghiên cứu Lồng ghép các chỉ số hành vi và sinh học
(IBBS) của hai vòng 2006 và 2009
CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN
Luận án bao gồm 120 trang không kể tài liệu tham khảo và phụ lục; gồm 3 chương,
30 bảng, 38 hình, tham khảo 185 tài liệu trong và ngồi nước. Bố cục luận án gồm: Mở đầu
4 trang, tổng quan 45 trang, vật liệu và phương pháp nghiên cứu 20 trang, kết quả và bàn
luận 50 trang, kết luận 1 trang, kiến nghị 1 trang; 3 bài báo có liên quan trực tiếp đến luận
án đã được công bố.

2


CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Dặcđiểm vi rút HIV
Nhiễm HIV (vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người) và AIDS (Hội chứng suy giảm
miễn dịch mắc phải) là một quá trình bệnh lý do một loại vi rút thuộc chi Lentivi rút, họ
Retroviridae gây ra. Thời gian trung bình từ khi nhiễm HIV đến khi tiến triển thành AIDS
khoảng 10 năm. Hai loại HIV đã được định rõ đặc điểm: HIV-1 và HIV-2. HIV có dạng
hình cầu, kích thước khoảng 80 - 120 nm, nhỏ hơn khoảng 60 lần so với một tế bào hồng
cầu. Cấu tạo HIV gồm 3 lớp: bao ngoài, phần vỏ trong, phần lõi.
1.2. Một số thuật ngữ trong dịch tễ học và xét nghiệm HIV
1.3.Các phƣơng pháp và kỹ thuật xét nghiệm xác định tỷ lệ hiện nhiễm HIV ở Việt Nam
Xét nghiệm HIV được tiến hành theo ba chiến lược khác nhau tùy thuộc vào mục đích
xét nghiệm, tỷ lệ hiện nhiễm HIV của quần thể xét nghiệm [1].

1.3.1. hương pháp xét nghiệm gián ti p HIV
Là phương pháp phát hiện sự hiện diện của kháng thể kháng HIV trong máu hoặc dịch
tiết của cơ thể người để xác định tình trạng nhiễm HIV.
1.3.2. hương pháp xét nghiệm trực ti p
Tóm bắt trực tiếp tác nhân gây bệnh (hay còn gọi chung là xét nghiệm vi rút học) như
phát hiện kháng nguyên vi rút trong máu (P24), các axit nucleotit của virut: ARN hoặc
ADN provirut (tế bào nhiễm) hoặc phân lập vi rút bằng nuôi cấy tế bào.
1.4. Các kỹ thuật xét nghiệm xác định tỷ lệ mới nhiễm HIV trên thế giới và ở Việt Nam
1.4.1. Các kỹ thuật xét nghiệm mới nhiễm HIV trên th giới
Từ năm 2008, WHO/ UNAID đã thành lập một nhóm chuyên gia kỹ thuật để phát triển
các hướng dẫn quốc gia, đánh giá và sử dụng các xét nghiệm phát hiện sớm nhiễm HIV.
Đến năm 2017, tám kỹ thuật xét nghiệm mới nhiễm HIV đã được sử dụng trên thế giới.
1.4.2. Các kỹ thuật xét nghiệm mới nhiễm ở Việt Nam
Các kỹ thuật phát hiện p24, ARN/ADN, Western Blot được sử dụng là xét nghiệm
thường quy trong phát hiện tỷ lệ hiện nhiễm. Tuy nhiên hiện nay tại Việt Nam chưa có một
nghiên cứu nào sử dụng các sinh phẩm này để ước tính tỷ lệ mới nhiễm trong giám sát dịch
tễ học cho một quần thể nào đó do giá thành cao và cỡ mẫu cần quá lớn.
Đến năm 2010, sinh phẩm BED và LAg-Avidity mới chính thức đưa vào nghiên cứu ở
Việt Nam với quy mơ lớn.
1.4.3. Những nghiên cứu ước tính tỷ lệ mới nhiễm trên th giới
Đến 2011 đã có ít nhất 7 nghiên cứu trên thực địa về tỷ lệ mới nhiễm HIV tại: Việt Nam,
Ethiopia, Nam Phi, Mozambique, Đông Phi, Kenya, và Mỹ.
1.5. Ƣớc tính tỷ lệ mới nhiễm HIV trên thế giới
Tỷ lệ mới nhiễm là một chỉ số đo lường mức độ lan truyền HIV trong cộng đồng. Ước
tính tỷ lệ mới nhiễm được ứng dụng trong các trường hợp sau [115]:
- Giám sát quần thể những người nhiễm HIV
- Đánh giá ảnh hưởng của các tác động can thiệp phòng chống HIV,
- Lựa chọn quần thể để đưa vào thử nghiệm lâm sàng, theo dõi tính hiệu quả đối với
việc can thiệp sớm hoặc điều trị sớm
Phương pháp xác định trực tiếp : là phương pháp sử dụng các xét nghiệm sớm mới

nhiễm HIV để tính được tỷ lệ mới nhiễm trong quần thể.
Phương pháp xác định gián tiếp: là phương pháp sử dụng số liệu trong giám sát
dịch tễ học để ước tính tỷ lệ mới nhiễm HIV.
3


CHƢƠNG 2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Nghiên cứu định lƣợng và so sánh tỷ lệ phân loại sai (PLS) trên quần thể
những ngƣời tham gia điều trị tại các phòng khám ngoại trú.
Đối tượng nghiên cứu: chưa từng điều trị thuốc kháng vi rút ART; đã nhiễm HIV
hơn 12 tháng; ít nhất 18 tuổi tại thời điểm tham gia và; đồng ý tham gia nghiên cứu.
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang, phân tích tìm tỷ lệ phân loại sai PLS
Các kỹ thuật xét nghiệm trong nghiên cứu:
Các mẫu trong nghiên cứu đã được xét nghiệm chẩn đoán HIV theo chiến lược III của
Bộ Y tế: sử dụng 3 loại sinh phẩm khác nhau về nguyên lý hoặc chuẩn bị kháng nguyên
khác nhau.
Các kỹ thuật sử dụng tiếp cho xét nghiệm mới nhiễm: BED, LAg-Avidity, Western
Blot được tiến hành làm trực tiếp ở phòng xét nghiệm Tham chiếu quốc gia HIV – Viện Vệ
sinh Dịch tễ trung ương.
Các xét nghiệm bổ sung khác: xét nghiệm kiểu gen, đo tải lượng, xét nghiệm phát hiện
người đang điều trị ARV được thực hiện tại CDC Atlanta trên những mẫu lưu gửi từ Viện
Vệ sinh dịch tễ Trung ương để khẳng định lại đối với những mẫu khó và kết,
Các y u tố cần đánh giá trong nghiên cứu
- Phân tích ý nghĩa các dặc điểm của quần thể tham gia nghiên cứu về: độ tuổi, giới
tính, thời gian nhiễm; các kết quả xét nghiệm HIV, CD4, đo tải lượng HIV với lâm sàng;
các bệnh nhiễm trùng cơ hội; các nhóm có nguy cơ cao).
- Phân tích tỷ lệ phân loại sai FRR là mới nhiễm của từng sinh phẩm: sinh phẩm BED,
LAg- Avidity theo từng miền: Bắc và Nam,
- Xem xét các trường hợp nghi ngờ bằng xét nghiệm bổ sung: XN Western Blot, XN
kiểu gen, XN đo tải lượng HIV,

- Phân tích tỷ lệ phân loại sai PLS cho cả hai sinh phẩm sau khi loại những bệnh nhân
đang điều trị ART.
- Phân tích tỷ lệ phân loại sai PLS theo từng phịng khám ngoại trú theo từng miền,
- Tìm hiểu, phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả tỷ lệ phân loại sai PLS.
- So sánh tỷ lệ phân loại sai PLS, ngưỡng OD cut-off của các nghiên cứu xét nghiệm
sớm HIV ở Việt Nam với các nước trên thế giới
- Tính khả thi của các sinh phẩm khi áp dụng trong tương lai.
2.2. Nghiên cứu thử nghiệm sinh phẩm LAg- Avidity sử dụng mẫu điều tra trong
nghiên cứu “Lồng ghép các chỉ số hành vi và sinh học (IBBS)” của hai năm 2006 và 2009.
Nghiên cứu này áp dụng phương pháp nghiên cứu hồi cứu sử dụng lại tồn bộ thơng
tin, các mẫu huyết tương được lưu giữ tại Viện từ các nghiên cứu “Lồng ghép các chỉ số
hành vi và sinh học” IBBS 2006 (vòng I) và IBBS 2009 (vòng II).
hương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu này áp dụng theo phương pháp “Ước tính tỷ
lệ mới nhiễm dựa trên việc sử dụng kết hợp hai hoặc nhiều kỹ thuật xét nghiệm mới”
4


Kỹ thuật xét nghiệm: Phịng thí nghiệm tham chiếu quốc gia HIV – Viện Vệ sinh
Dịch tễ Trung ương trực tiếp làm các xét nghiệm LAg-Avidity, BED và xét nghiệm đo tải
lượng HIV trên hệ thống máy Roche.
Cơ sở nhập liệu: Số liệu xét nghiệm được nhập vào phần mềm exel do CDC thiết kế,
các mẫu chứng được kiểm soát độ tuyến tính, độ chính xác bằng biểu đồ Levey-Jennings và quy
tắc Westgard. Các bộ câu hỏi phỏng vấn sẽ được nhập vào phần mềm STATA để phân tích.
Các y u tố phân tích trong nghiên cứu:
- Phân tích trên kết quả XN mới nhiễm trên các nhóm PNBD, NCMT, MSM theo
vùng,
- Phân loại các tỷ lệ hiện nhiễm và tỷ lệ mới nhiễm HIV trên từng nhóm riêng biệt:
PNBD, NCMT theo vùng và năm triển khai IBBS, sử dụng FRR đã tìm ra trong nghiên cứu
trước đó với FRR của miền Bắc là 2,62, FRR miền Nam là 0,69
- Phân loại các tỷ lệ hiện nhiễm và tỷ lệ mới nhiễm HIV trên từng nhóm riêng biệt:

PNBD, NCMT theo vùng và năm triển khai IBBS, chỉ sử dụng giá trị FRR = 0,69 (miền
Nam),
- So sánh các tỷ lệ mới nhiễm HIV trên 3 nhóm nguy cơ cao theo từng miền khác nhau
và FRR khác nhau (theo kết quả FRR của nghiên cứu trước đó),
- Phân tích tính chính xác của kỹ thuật LAg-Avidity và tính khả thi khi áp dụng trong
thực tế.
Đạo đức trong nghiên cứu: Hai nghiên cứu trên đã được thông qua hội đồng y đức
của CDC Atlanta và Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương.

5


CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
3.1. Nghiên cứu định lƣợng và so sánh tỷ lệ phân loại sai (PLS) của sinh phẩm
BED và LAg- Avidity EIA trong nhóm bệnh nhân đang điều trị ARV tại các phòng
khám ngoại trú ở Việt Nam.
Tổng số có 1927 mẫu đã được thu thập từ các phòng khám ngoại trú (PKNT) gửi về
Viện VSDTTƯ và Pasteur thành phố HCM. Sau khi loại bỏ những mẫu bệnh phẩm thiếu
thông tin trong bộ phỏng vấn, các mẫu bệnh phẩm không trùng khớp với thông tin thu thập
và những mẫu không đáp ứng tiêu chuẩn lựa chọn ban đầu của nghiên cứu, tổng số mẫu
được đưa vào phân tích cuối cùng là 1845 người trong đó: miền Bắc chọn được 972 người,
miền Nam là 873 người.
3.1.1. Đánh giá đặc điểm chung của những người tham gia nghiên cứu
Các đặc điểm ở các mức độ khác nhau của 1845 người tham gia nghiên cứu về: tuổi,
giới tính, thời gian nhiễm HIV, tế bào CD4, các bệnh nhiễm trùng cơ hội, các nhóm nguy cơ
thì đều cho giá trị p<0,01: có nghĩa là có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Bảng 3.1. Đặc điểm của những người tham gia nghiên cứu
Đặc điểm

Miền Bắc,

(n,%)

Miền Nam

n = 972

n= 873

(n,%)

Nhóm tuổi (năm)

Tổng số
p-value

(n,%)
n=1845

< 0,001

18-24

70 (7,2)

133 (15,2)

203 (11,0)

25-34


600 (61,7)

599 (68,6)

1199 (65,0)

35-44

244 (25,1)

121 (13,9)

365 (19,8)

45-54

51 (5,3)

17 (2,0)

68 (3,7)

7 (0,7)

3 (0,3)

10 (0,5)

55+
Giới


< 0,001

Nam

577 (59,4)

411 (47,1)

988 (53,5)

Nữ

386 (39,7)

462 (52,9)

848 (46,0)

Khơng có thơng tin

9 (0,9)

9 (0,5)

Thời gian xét nghiệm
phát hiện HIV dương
tính tính từ lần đầu
tiên (theo năm)


< 0,001

1-2

424 (43,6)

445 (51,0)

869 (47,1)

2-3

248 (25,5)

327 (37,5)

575 (31,2)

>3

300 (30,9)

101 (11,6)

401 (21,7)

6


Đặc điểm


Miền Bắc,
(n,%)

Miền Nam

n = 972

n= 873

(n,%)

Mức tế bào CD4

Tổng số
p-value

(n,%)
n=1845

< 0,001

<50 tế bào/mm3

117 (12,0)

31 (3,6)

148 (8,0)


50-199 tế bào/ mm3

158 (16,3)

105 (12,0)

263 (14,3)

200-349 tế bào/ mm3

218 (22,4)

249 (28,5)

467 (25,3)

350-499 tế bào/ mm3

263 (27,1)

257 (29,4)

520 (28,2)

>=500 tế bào/ mm3

213 (21,9)

229 (26,2)


442 (24,0)

Khơng có thơng tin

3 (0,3)

2 (0,2)

5 (0,3)

Lao

93/968(9,6)

29/111 (26,1)

PCP

15/968 (1,6)

0/111 (0)

0,39

15/1079 (1,4)

Nấm Candida

84/968 (8,7)


11/111 (9,9)

0,60

95/1079 (8,8)

Herpes Zoster

22/968 (2,3)

6/111 (5,4)

0,06

28/1079 (2,6)

Ỉa chảy mạn tính

62/968 (6,4)

6/111 (5,5)

0,84

68/1079 (6,3)

453/936 (48,4)
6/936 (0,6)

303/823

(36,8)

5/937 (0,5)

1/823 (0,1)

Các nhiễm trùng cơ hội
< 0,001

122/1079 (11,3)

Nhóm nguy cơ
Nghiện chích ma túy
Nam tình dục đồng
giới
Phụ nữ mại dâm

< 0,001

756/1759 (43,0)

0,13

7/1759 (0,4)

1,00

9/1760 (0,5)

4/823 (0,5)


3.1.2. Xác định tỷ lệ phân loại sai mới nhiễm của từng sinh phẩm BED, LAgAvidity
Bảng 3.2. Kết quả xét nghiệm mới nhiễm HIV bằng hai sinh phẩm BED, LAgAvidity (n= 1845)
Kỹ thuật xét
Số mẫu làm
Số mẫu phát
Tỷ lệ phân loại sai (PLS)
nghiệm
xét nghiệm
hiện mới
mới nhiễm (%)
nhiễm HIV
( với khoảng tin cậy 95%)
1845
67
3,6 (2,8 – 4,5)
BED
1845
50
2,7 (2,1 – 3,6)
LAg-Avidity
Bảng 3.2 cho thấy trong số 1845 mẫu đã nhiễm HIV > 1 năm: sinh phẩm BED
phân loại sai mới nhiễm (<1 năm) là 67 mẫu tương đương với tỷ lệ PLS = 3,6% với
khoảng tin cậy 95 CI (2,8 – 4,5); sinh phẩm LAg-Avidity phân loại sai mới nhiễm 50 mẫu
tương đương với tỷ lệ PLS= 2,7% với khoảng tin cậy 95 CI (2,1 -3,6). Với kết quả sơ bộ
7


ban đầu này ta thấy sinh phẩm LAg-Avidity có tỷ lệ PLS mới nhiễm HIV thấp hơn so với
sinh phẩm BED và điều đó cũng có nghĩa là sinh phẩm LAg-Avidity có vẻ như tốt hơn so

với sinh phẩm BED.
Tuy nhiên vì đây là nghiên cứu đầu tiên về tỷ lệ phân loại sai ở Việt Nam cũng
như khu vực Đông Nam Á trên cả hai loại sinh phẩm BED, LAg-Avidity và đặc biệt đây là
nghiên cứu đầu tiên trên thế giới về việc xác định tỷ lệ phân loại sai cho sinh phẩm LAgAvidity, vì vậy để kết luận tỷ lệ phân loại sai nào là chính xác nhất ở Việt Nam thì cần
phải xem xét và đánh giá nhiều khía cạnh khác nhau.
3.1.2.1. Phân tích các mẫu phân loại sai mới nhiễm trên những đặc điểm chung của
quần thể nghiên cứu đối với sinh phẩm BED
Khi phân tích số lượng mẫu phân loại sai mới nhiễm HIV theo từng miền Bắc,
Nam và theo từng đặc điểm của quần thể nghiên cứu đối với sinh phẩm BED kết quả ở
bảng 3.3 phía dưới cho thấy: tổng số mẫu phân loại sai mới nhiễm cả hai miền Nam Bắc
là 67/1845 (=3,6%) khoảng tin cậy (95 CI: 2,8-4,5) trong đó: 57/972 (=5,86%) với
khoảng tin cậy (95 CI: 4,38-7,34) ở miền Bắc và 10/873 (=1,15%) khoảng tin cậy (95 CI:
0,36-1,70) ở miền Nam, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê p < 0,00. Tuy nhiên khi phân
tích các mẫu PLS mới nhiễm theo từng miền với các đặc điểm về: nhóm tuổi (p=0,32),
thời gian đã nhiễm HIV (p= 0,90), mức độ tế bào CD4 (p=0,18), các bệnh nhiễm trùng cơ
hội (p=KXĐ), và nhóm nguy cơ cao (p=0,16) thì đều cho thấy sự khác biệt khơng có ý
nghĩa thống kê, chưa có đủ số liệu để phân tích, chỉ riêng giới tính (p=0,01<0,05) sự khác
nhau có ý nghĩa thơng kê.
Vì vậy xét trên đặc điểm chung sự khác biệt có ý nghĩa thống kê thì tỷ lệ PLS mới
nhiễm HIV có sự khác biệt rõ rệt giữa miền Bắc 5,86% và miền Nam 1,15%.
Bảng 3.3. Tỷ lệ phân loại nhầm là mới nhiễm của sinh phẩm BED
Miền Bắc
Miền Nam
Tổng số
Đặc điểm
Giá trị p
(n/N,%)
(n/N,%)
(n/N, %)
Tỷ lệ xác định nhầm là mới

66/1845
57/972 (5,86)
9/873 (1,03)
< 0,001
nhiễm
(3,58)
Nhóm tuổi (theo tuổi)
6/203 (3,0)
18-24
4/70 (5,7)
2/133 (1,5)
45/1199
25-34
38/600 (6,3)
7/599 (1,2)
0,32
(3,8)
35-44
11/244 (4,5)
0/121 (0)
11/365 (3,0)
45-54
2/51 (3,9)
0/17 (0)
2/68 (2,9)
55+
2/7 (28,6)
0/3 (0)
2/10 (20)
Giới

Nam
36/577 (6,2)
1/411 (0,2)
0,01
37/988 (3,7)
Nữ
21/386 (5,4)
8/462 (1,7)
29/848 (3,4)

8


Miền Bắc
(n/N,%)

Đặc điểm
Thời gian xét nghiệm
phát hiện HIV dương
tính tính từ lần đầu tiên
(theo năm)
1-2
2-3tế bào CD4
Mức
3+
<50 tế bào/mm3
3

50-199 tế bào/ mm
200-349 tế bào/ mm3

350-499 tế bào/ mm3
>=500 tế bào/ mm3
Các nhiễm trùng
cơ hội
Lao
PCP
Nấm Candida
Herpes Zoster
Ỉa chảy mạn tính
Nhóm nguy cơ
Nghiện chích ma túy
Nam tình dục đồng giới
Phụ nữ mại dâm

Miền Nam
(n/N,%)

Giá trị p

Tổng số
(n/N, %)

0,90
28/424 (6,6)
11/248 (4,4)
18/300 (6,0)

5/445 (1,1)
2/327 (0,6)
2/101 (2,0)


33/869 (3,8)
13/575 (2,3)
20/401 (5,0)

7/117 (6,0)
7/158 (4,4)
13/218 (6,0)
16/263 (6,1)
14/213 (6,6)

0/31 (0)
2/105 (1,9)
0/249 (0)
2/257 (0,8)
5/229 (2,2)

7/148 (4,7)
9/263 (3,4)
13/467 (2,8)
18/520 (3,5)
19/442 (4,3)

6/93 (6,5)
0/15 (0,0)
9/84 (10,7)
0/22 (0,0)
2/62 (3,2)

0/29 (0,0)

0/0 (0,0)
0/11 (0,0)
0/6 (0,0)
0/6 (0,0)

29/454 (6,4)
0/6 (0,0)
0/5 (0,0)

2/303 (0,7)
0/1 (0,0)
0/4 (0,0)

0,18

NA

0,16

6/122 (4,9)
0/15 (0,0)
9/95 (9,5)
0/28 (0,0)
2/68 (2,9)

31/757 (4,1)
0/7 (0,0)
0/9 (0,0)

NA: khơng tính được vì có ít số liệu; khơng có trường hợp nào cho kết quả sai báo cáo

là mắc nhiễm trùng cơ hội ở miền Nam.
3.1.2.2. Phân tích các mẫu phân loại sai mới nhiễm trên những đặc điểm chung
của quần thể nghiên cứu đối với sinh phẩm LAg-Avidity
Bảng 3.4 phía dưới cho thấy khi phân tích trên tổng số mẫu xét nghiệm mới nhiễm
HIV bằng sinh phẩm LAg - Avidity theo từng miền Bắc, Nam kết quả cho thấy: tổng số
mẫu PLS mới nhiễm cả hai miền Bắc, Nam là 50/1845 (=2,7%) với khoảng tin cậy (95
CI: 2,1-3,6) trong đó: miền Bắc 38/972 (3,9%) với khoảng tin cậy (95 CI: 2,69-5,13),
miền Nam 12/873 (1,3%) với khoảng tin cậy (95 CI: 0,07-1,5), sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê với p<0,001. Nhưng khi phân tích các mẫu PLS mới nhiễm theo từng miền với
các đặc điểm về: nhóm tuổi (p=0,69), giới tính (p=0,14), thời gian đã nhiễm HIV (p=
0,66), mức độ tế bào CD4 (p=0,50), các bệnh nhiễm trùng cơ hội (p=KXĐ), và nhóm
nguy cơ cao (p=0,36) thì đều cho thấy sự khác biệt khơng có ý nghĩa thống kê.
9


Vì vậy cũng như sinh phẩm BED, đa số các mẫu xét nghiệm bị phân loại sai là mới
nhiễm HIV bằng sinh phẩm LAg-Avidity đều nằm trong nhóm tuổi 25–34 và đã bị nhiễm
HIV chưa đến 2 năm, không phân tích được theo nhóm tuổi, giới tính, thời gian nhiễm HIV,
mức đơh tế bào và nhóm quần thể nếu phân biệt ra từng miền do số liệu chưa đủ để phân
tích. Tuy nhiên nếu xem xét trên tổng số cỡ mẫu xét nghiệm cho từng miền Nam, Bắc cho
thấy tỷ lệ PLS mới nhiễm HIV có sự khác biệt giữa miền Bắc 3,9% và miền Nam 1,3%.
Theo hướng dẫn của WHO/UNAIDS 2010 cần làm thêm những xét nghiệm khác để đủ
căn cứ kết luận tỷ lệ phân loại sai cho từng loại sinh phẩm. Nhóm nghiên cứu đã làm
thêm xét nghiệm Western Lot, xét nghiệm kiểu gen, xét nghiệm phát hiện thành phần
thuốc ARV trong huyết tương và xét nghiệm đo tải lượng HIV trên các mẫu nghi ngờ và
mẫu phân loại sai mới nhiễm HIV của hai sinh phẩm BED, LAg-Avidity.
Bảng 3.4. Tỷ lệ phân loại nhầm là mới nhiễm của sinh phẩm
LAg-Avidity
Đặc điểm
Tỷ lệ xác định nhầm là mới


Miền Bắc

Miền Nam

(n/N,%)

(n/N,%)

Giá trị
p

Tổng số
(n/N, %)

38/972
(3,91)

5/873 (0,57)

18-24

4/70 (5,7)

1/133 (0,8)

25-34

25/600 (4,2)


4/599 (0,7)

35-44

7/244 (2,9)

0/121 (0)

45-54

0/51 (0)

0/17 (0)

0/68 (0)

2/7 (28,6)

0/3 (0)

2/10 (20)

Nam

24/577 (4,2)

1/411 (0,2)

Nữ


14/386 (3,6)

4/462 (0,9)

1-2

23/424 (5,4)

3/445 (0,7)

2-3

8/248 (3,2)

2/327 (0,6)

10/575 (1,7)

3+

7/300 (2,3)

0/101 (0,0)

7/401 (1,7)

<50 tế bào/mm3

6/117 (5,1)


0/31 (0,0)

6/148 (4,1)

50-199 tế bào/ mm3

6/158 (3,8)

0/105 (0,0)

200-349 tế bào/ mm3

6/218 (2,8)

0/249 (0,0)

6/467 (1,3)

350-499 tế bào/ mm3

8/263 (3,0)

1/257 (0,4)

9/520 (1,7)

nhiễm

< 0,001


43/1845
(2,33)

Nhóm tuổi (theo tuổi)

55+

5/203 (2,5)
0,69

29/1199 (2,4)
7/365 (1,9)

Giới
0,14

25/988 (2,5)
18/848 (2,1)

Thời gian ghi nhận kể từ lần
xét nghiệm HIV dương tính
lần đầu tiên (theo năm)
0,66

26/869 (3,0)

Mức tế bào CD4

10


0,50

6/263 (2,3)


>=500 tế bào/ mm3

12/213 (5,6)

4/229 (1,8)

16/442 (3,6)

Lao

6/93 (6,5)

0/29 (0,0)

6/122 (4,9)

PCP

0/15 (0,0)

0/0 (0,0)

0/15 (0,0)

Nấm Candida


6/84 (7,1)

0/11 (0,0)

6/95 (1,5)

Herpes Zoster

0/22 (0,0)

0/6 (0,0)

0/68 (0,0)

Ỉa chảy mạn tính

1/62 (1,6)

0/6 (0,0)

1/68 (1,5)

18/453 (3,7)

1/303 (0,3)

19/756 (2,5)

0/6 (0)


0/1 (0)

Các nhiễm trùng cơ hội

Nhóm nguy cơ
Nghiện chích ma túy
Nam tình dục đồng giới

0,36

0/7 (0)

Phụ nữ mại dâm
0/5 (0)
0/4 (0)
0/9 (0)
NA: khơng tính được vì có ít số liệu; khơng có trường hợp cho kết quả sai báo cáo là mắc
nhiễm trùng cơ hội ở miền Nam
3.1.2.3. Xác định tỷ lệ phân loại sai dựa vào các xét nghiệm bổ sung: Western Blot, xét
nghiệm kiểu gen, xét nghiệm thành phần thuốc ARV có trong huyết tương bệnh nhân, đo tải
lượng HIV
Tất cả các mẫu bệnh phẩm có kết quả phân loại sai là mới nhiễm với một trong hai
sinh phẩm đều được làm xét nghiệm kiểu gen và đã xác định các mẫu này đều thuộc HIV‐ 1
phân nhóm CRF01_AE. Như vậy, xét nghiệm kiểu gien vi rút HIV khẳng định tỷ lệ PLS
khác biệt theo vùng không phải do sự khác biệt về các phân nhóm HIV‐1 vì tất cả các mẫu
bệnh phẩm đều là phân nhóm CRF01_AE. Mặt khác xét nghiệm kiểu gen cũng phát hiện ra
đột biến kháng thuốc trong huyết tương của bệnh nhân. Có hai loại kháng thuốc: kháng thuốc
tự nhiên đối với người chưa từng điều trị thuốc ARV và kháng thuốc khi bệnh nhân không
tuân thủ theo quy định trong thời gian điều trị ARV. Biết được điều này giúp cán bộ tại các

phòng khám ngoại trú kịp thời tư vấn cho bệnh nhân cách điều trị thuốc ARV phù hợp nhất,
thêm vào đó cũng là một lần phỏng vấn lại để xác định rõ ràng bệnh nhân đã điều trị ARV
hay chưa. Một ưu điểm nữa của xét nghiệm kiểu gen trong nghiên cứu này đó là đã phát hiện
ra bốn mẫu có mã nghiên cứu khác nhau ở cùng một phịng khám ngoại trú nhưng có kiểu
gen và kiểu hình trùng khớp hồn tồn nhau. Nhờ đó nhóm nghiên cứu đã làm điều tra lại và
phát hiện ra để đạt được cỡ mẫu theo hợp đồng đã ký với Viện, phòng khám ngoại trú đã sử
dụng một mẫu chia ra bốn ống với 4 mã khác nhau. Đây cũng là thực tế đã xảy ra ở một số
nghiên cứu khác. Vì vậy để có tính chặt chẽ trong nghiên cứu thì những xét nghiệm hiện đại
phải được đưa vào nghiên cứu để loại bỏ những sai sót làm ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng.
Xét nghiệm khẳng định Western Blot cho tất cả các mẫu PLS mới nhiễm HIV, bảng
3.5 cho thấy: sáu mẫu bệnh phẩm (5 của miền Bắc và 1 của miền Nam) có kết quả xét
nghiệm Western Blot là mới nhiễm, các mẫu bệnh phẩm này đều có số lượng tế bào CD4
lớn hơn 450 tế bào/mm3. Điều này xảy ra có thể do thơng tin từ các bệnh án cũng như sự
khai báo của mỗi cá nhân đã có những sai số đáng kể. Mặt khác các mẫu phân loại sai mới
nhiễm này có thể là nằm trong nhóm chứng đặc biệt (được gọi là Elite Controller) đây là
11


nhóm hơi khó tìm và quản lý trong cộng đồng người nhiễm HIV do có đặc tính dù khơng
điều trị ARV nhưng họ có khả năng tự miễn dịch khá tốt (xét nghiệm CD4, kháng thể ln
ổn định khơng có xu hướng tăng lên qua thời gian), mặt khác số đo tải lượng HIV ln thấp,
Nhóm người này chỉ chiếm 1-2% trong cộng đồng được tích lũy qua thời gian [34, 37, 62,
124]. Trong nghiên cứu này, những người này chủ yếu là ở miền Bắc (n=5/6). Trong khi
cần nhiều nghiên cứu trên thế giới để xác định những yếu tố liên quan đến nhóm chứng
đặc biệt trong quần thể thì ở Việt Nam có sự khác biệt về dịch tễ học HIV ở miền Bắc và
miền Nam. Điều đó có thể ảnh hưởng đến kết quả của thử nghiệm mới nhiễm dựa vào
kháng thể.
Các mẫu phân loại sai mới nhiễm HIV tiếp tục được làm xét nghiệm phát hiện
thành phần thuốc ARV có trong huyết tương bệnh nhân. Kết quả như sau:
Bảng 3.6. Kết quả xét nghiệm thuốc ARV trên các mẫu PLS mới nhiễm HIV

BED
LAg-Avidity
67
50
Tổng số mẫu PLS mới nhiễm
26 +
19 +
Kết quả ARV (+/-)
Loại bỏ 26 mẫu khơng
Loại bỏ 19 mẫu
Kết quả (Loại/chấp nhận)
đưa vào phân tích
khơng đưa vào
phân tích
Bảng 3.6 với sinh phẩm BED 26 mẫu phân loại sai nhiễm HIV đã cho kết quả dương
tính với thuốc ARV; còn với sinh phẩm LAg-Avidity 19 mẫu phân loại sai mới nhiễm cho kết
quả dương tính với ARV. Như vậy khi phân tích bộ số liệu xét nghiệm: đối với sinh phẩm
BED phải loại bỏ 26 người phân loại sai mới nhiễm đã điều trị ARV và loại bỏ 19 người phân
loại sai mới nhiễm HIV đã điều trị ARV đối với sinh phẩm LAg-Avidity. Kết quả này cho
thấy những trường hợp đã điều trị ARV ảnh hưởng đáng kể đến kết quả xét nghiệm tìm tỷ lệ
mới nhiễm HIV trong cộng đồng. Đây là hạn chế của sinh phẩm mà nhóm nghiên cứu sẽ phải
tiếp tục cải tiến để hoàn thiện hơn chất lượng sinh phẩm.
Điều này cho thấy mặc dù đã loại trừ rất kỹ đầu vào nhưng tại thời điểm nghiên cứu
diễn ra, thông tin hồ sơ bệnh án của bệnh nhân ở các phịng khám ngoai trú cịn rất sơ sài,
thiếu nhiều thơng tin. Việc loại trừ theo tiêu chuẩn phụ thuộc hoàn toàn vào việc phỏng vấn
trực tiếp người tham gia nghiên cứu. Lý giải cho vấn đề vẫn cịn sót lại những trường hợp đã
điều trị ARV trong nghiên cứu có thể do:
- Trường hợp nhiễm HIV đầu tiên của Việt Nam đã được phát hiện ở thành phố Hồ
Chí Minh, thuốc ARV đã được đưa vào sử dụng ở thành phố Hồ Chí Minh trước Hà Nội và
các số liệu gần đây cho thấy tỷ lệ kháng thuốc của HIV tại thành phố Hồ Chí Minh cao hơn

Hà Nội [82, 83].
- Ngồi ra, vì các loại thuốc kháng vi rút ARV đã có mặt ở miền Nam lâu hơn miền
Bắc nên những người bị nhiễm HIV trong nghiên cứu này có thể đã từng được điều trị bằng
thuốc, sau đó bỏ trị một thời gan dài nên khi phỏng vấn họ không nhớ và vẫn khai là chưa
từng điều trị thuốc ARV.
12


Kết quả cuối cùng khi tính lại tỷ lệ phân loại sai (PLS) cho cả hai sinh phẩm BED,
LAg-Avidity sau khi loại bỏ những trường hợp đã điều trị ARV:
Bảng 3.7. Kết quả tỷ lệ phân loại sai mới nhiễm sau khi loại bỏ những trường hợp đã điều trị
ARV của sinh phẩm BED và LAg- Avidity
Tổng số mẫu PLS mới Tỷ lệ PLS mới
Tổng số mẫu PLS
nhiễm sau khi loại bỏ nhiễm sau khi loại
Tỷ lệ PLS
Kỹ thuật mới nhiễm ban đầu
những ngƣời đã điều trị trừ nhóm đã điều
(95 CI*)
n/N
ARV
trị ARV (%)
n/N
(95 CI)
LAgAvidity EIA

50/1845

2,7
(2,1 – 3,6)


31/1826

1,7
(1,2-2,4)

BED-CEIA

67/1845

3,6
(2,8 -4,5)

41/1819

2,3
(1,6-2,9)

*95 CI: khoảng tin cậy 95%
Bảng 3.7 cho thấy: sau khi loại trừ 26 mẫu phân loại sai mới nhiễm HIV đã điều trị
ARV của sinh phẩm BED thì tỷ lệ phân loại sai đã giảm từ 3,6% xuống còn 2,3%; đối với
sinh phẩm LAg-Avidity, sau khi loại trừ 19 mẫu phân loại sai mới nhiễm HIV thì tỷ lệ
phân loại sai đã giảm từ 2,7% xuống còn 1,7%. Điều này cũng phù hợp với hướng dẫn
của WHO/UNAIDS năm 2010, cập nhật 2015 [115, 116]. Theo báo cáo của WHO 2015,
nhóm CEPHIA đã đưa ra bằng chứng về sự ảnh hưởng của những người đang điều trị
ARV đối với tỷ lệ PLS mới nhiễm: tỷ lệ phân loại sai của sinh phẩm SEDIA HIV LAgAvidity EIA thấp 1,3% (95 CI: (0,3 – 3,2) nếu chưa điều trị ARV, nhưng tỷ lệ PLS sẽ cao
58,8% (95 CI: 49,2 -68) nếu tính trên những người đã điều trị ARV.
Bảng 3.8 cho thấy khi phân tích tỷ lệ PLS cho từng phịng khám ngoại trú theo
từng miền, cỡ mẫu chưa đủ để có thể phân tích, chỉ có thể phân tích trên tổng số mẫu của
từng miền, kết quả chỉ ra: đối với sinh phẩm BED có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê

giữa miền Nam là 1,0% và miền Bắc là 3,40 %; với sinh phẩm LAg-Avidity cũng cho kết
quả khác biệt về tỷ lệ phân loại sai giữa miền Nam là 0,7% và miền Bắc là 2,6%. Các tệ
này cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ PLS giữa hai khu vực miền Bắc
và miền Nam cho cả hai loại sinh phẩm. Đáng chú ý là tỷ lệ PLS của BED tại khu vực
miền Bắc tương tự với tỷ lệ PLS của BED đã được báo cáo tại nước láng giềng Trung
Quốc là 6,6% (bảng 3.9) [125, 129] . Cho đến nay, chưa có nước nào ngồi Việt Nam
báo cáo là tỷ lệ PLS có sự khác biệt theo khu vực vì vậy cần có thêm các nghiên cứu
để đánh giá thêm về vấn đề này.

13


Bảng 3.8. Tỷ lệ phân loại sai phân theo từng phòng khám ngoại trú của
từng miền Bắc, Nam đối với hai sinh phẩm BED, LAg
Miền Nam
# mới nhiễm
BED FRR 95% CI # mẫu
BED

95%
# mới nhiễm
LAg FRR
LAg
CI

HCM-01 296
HCM-02 79
HCM-06 87
HCM-10 202
HCM-QTD 209


1
0
1
4
3

0.3%
0.0%
1.1%
2.0%
1.4%

296
79
87
202
209

2
0
1
2
1

0.7%
0.0%
1.1%
1.0%
0.5%


Tổng số = 873

9

1.0%

873

6

0.7%

Miền Bắc
HN-DA
HN-TL
HP
QN

385
176
264
121

16
10
4
2

4.2%

5.7%
1.5%
1.7%

385
176
270
122

12
11
1
1

3.1%
6.3%
0.4%
0.8%

Tổng số = 946

32

3.4%

953

25

2.6%


OPC

# mẫu

0.341.66%

2.254.55%

0.151.25

1.593.61

1.11Tổng toàn
1.611819 41
2.3%
1826
31
1.7%
bộ =
2.99%
2.29%
Cho đến thời điểm hiện tại, đây là nghiên cứu xác định tỷ lệ PLS đầu tiên được ti n
hành ở Đông Nam Á với sinh phẩm BED và là lần đầu tiên trên th giới thử nghiệm với
sinh phẩm LAg-Avidity. Trong nghiên cứu này, tỷ lệ PLS của sinh phẩm LAg-Avidity là
1,7% (95% CI: 1,11 – 2,29) thấp hơn một cách có ý nghĩa thống kê so với tỷ lệ PLS của
sinh phẩm BED là 2,3% (95% CI: 1,61-2,99).
Theo khuyến cáo của WHO/UNAIDS, tỷ lệ PLS lý tưởng là ≤ 2% [115]. So sánh hai
tỷ lệ trên cho thấy, tỷ lệ PLS của sinh phẩm LAg-Avidity đã đạt được giá trị mong muốn
của WHO, còn tỷ lệ PLS của BED tuy chưa đạt nhưng cũng gần với giá trị mong muốn.

Điều này chưa xác định được liệu LAg-Avidity có tốt hơn BED hay khơng?
Kết quả này cũng được đưa ra so sánh với các nghiên cứu trên thế giới tìm tỷ lệ PLS
mới nhiễm HIV trên sinh phẩm BED [4, 27, 55, 56, 66, 67, 72, 77, 81, 129]. Bảng 3.9 phía
dưới cho thấy: nghiên cứu tìm tỷ lệ phân loại sai đã được triển khai từ năm 2002 cho đến
nay vẫn là vấn đề thế giới quan tâm nhằm chấm dứt đại dịch HIV vào năm 2030 và số người
mới nhiễm HIV ít hơn 200,000 người trên toàn cầu vào năm 20130 [116]. Các nghiên cứu
này được thực hiện trên nhiều phân nhóm khác nhau: A, B, C, D, F, G, A/E, B/C trên nhiều
nhóm quần thể nghiên cứu: NCMT, nhóm chưa điều trị ARV, phụ nữ trước sinh chưa điều
trị ARV, PNBD trước điều trị ARV, MSM chưa điều trị ARV… Số lượng mẫu thu thập
14


cũng khác nhau trong từng nghiên cứu, tại thời điểm hiện tại số lượng mẫu nghiên cứu của
Việt Nam lớn thứ hai thế giới (n=1845 mẫu) sau Zimbabwe (2749 mẫu) và lớn hơn nhiều so
với nghiên cứu ở: Trung Quốc (300 mẫu), Salvador (150 mẫu), Rwanda (141 mẫu), Nam
Phi (430 mẫu), Uganda 2005 (226 mẫu), 2003 (473 mẫu), nghiên cứu thuần tập trên các
nước Baltimore, Maryland, USA (488 mẫu). Ước tính tỷ lệ PLS của Việt Nam với sinh
phẩm BED là thấp nhất (2,3%) so với tất cả các nước trên thế giới: Trung Quốc (6,6%),
Salvador (10,7%), Rwanda (3,6%), Nam Phi (11,2%), Uganda 2005 (12,4%), 2003 (16,1%),
Zimbabwe (5,2%), nghiên cứu thuần tập trên các nước Baltimore, Maryland, USA (10,2%).
Kết quả này cho thấy nghiên cứu tỷ lệ phân loại sai HIV ở Việt Nam dường như đang là tốt
nhất thế giới vì đã rút kinh nghiệm từ các nghiên cứu trước để cải tiến dần sinh phẩm BED
và tuân thủ chặt chẽ theo các hướng dẫn WHO/UNAIDS nhằm đạt được kết quả ước tính tỷ
lệ PLS chính xác nhất và đáp ứng được tiêu chuẩn mà WHO/UNAID đưa ra tỷ lệ PLS lý
tưởng với các xét nghiệm mới nhiễm ≤ 2%.
Tỷ lệ phân loại sai mới nhiễm của sinh phẩm LAg-Avidity được đưa ra so sánh với
các nghiên cứu tìm tỷ lệ phân loại sai của BED vì đây là nghiên cứu đầu tiên trên thế giới.
Theo bảng 3.8 ở trên tỷ lệ phân loại sai của LAg-Avidity là 1,70% thấp hơn hẳn so với tất
cả các các nghiên cứu trên thế giới với sinh phẩm BED. Xét về ngưỡng mong muốn của
WHO ≤ 2% thì có thể thấy tỷ lệ này phù hợp với tiêu chuẩn của WHO.

Bảng 3.10. Ảnh hưởng của kết quả đo tải lượng trong phân loại sai
BED và LAg- Avidity
Tổng số mẫu PLS mới Tỷ lệ PLS sau khi
Tổng số mẫu
nhiễm sau khi loại bỏ loại trừ nhóm xét
PLS mới
Tỷ lệ PLS
Kỹ thuật
nhóm xét nghiệm đo nghiệm đo tải lƣợng
nhiễm
(95 CI)
tải lƣợng thấp
thấp
n/N
n/N
(95 CI)
LAg-Avidity
1,7
1,2
31/1826
22/1817
EIA
(1,2-2,4)
(0,8-1,9)
2,3
1,7
BED-CEIA
41/1819
31/1809
(1,6-2,9)

(1,2-2,4)
3.1.2.4. Các yếu tố tác động đến tỷ lệ phân loại sai mới nhiễm HIV
Sau tất cả những phân tích và đánh giá trên kết quả cho thấy tỷ lệ PLS mới nhiễm
của LAg-Avidity thấp hơn so với tỷ lệ PLS mới nhiễm của BED, điều này có nghĩa là sinh
phẩm LAg-Avidity tốt hơn so với sinh phẩm BED với các lý do giả định như sau:
- Kỹ thuật BED CEIA sử dụng một peptide tổng hợp của HIV‐1 phân nhóm B, E, và
D, trong khi LAg-Avidity ra đời sau đã cải tiến hơn bao phủ hầu hết các phân nhóm thuộc
nhóm M. Vì vậy do các phân nhóm HIV‐1 trong quần thể nghiên cứu ở Việt Nam là
CRF01_AE nên có thể sinh phẩm BED sẽ bị hạn chế hơn với LAg-Avidity [102],
- Mặt khác cũng có thể do mức kháng thể IgG cao hoặc sự khác biệt về động học
của kháng thể trong quần thể nghiên cứu này có thể ảnh hưởng đến BED mà không ảnh
hưởng đến LAg-Avidity [ 1 1 8 ] .
- Một lý do nữa là sinh phẩm LAg-Avidity có thể khơng bị ảnh hưởng một cách có
15


ý nghĩa thống kê bởi nhóm chứng đặc biệt (elite controller), là những người nhiễm HIV
lâu năm nhưng có tải lượng vi rút thấp và nồng độ kháng thể HIV thấp, và sinh phẩm
này có khả năng tốt hơn để phân biệt được những người này là nhiễm đã lâu so với
sinh phẩm BED. Cần triển khai các nghiên cứu khác để có thể có số liệu so sánh tốt hơn.
Hạn chế của nghiên cứu:
- Thứ nhất nghiên cứu chưa đủ số lượng mẫu để phát hiện sự khác biệt của tỷ lệ
FRR theo các đặc điểm lâm sàng, đặc điểm về nhân chủng học của từng khu vực miền
Bắc và miền Nam.
- Thứ hai, có thể có sai số trả lời trên bộ câu hỏi về tiền sử điều trị bằng thuốc
kháng vi rút ARV vì do tự mỗi cá nhân khai báo nên có thể có trường hợp đã từng sử dụng
ART nhưng không nhớ hoặc không báo cáo dẫn đến phân loại sai là mới nhiễm.
- Thứ ba, sinh phẩm LAg-Avidity vẫn cịn đang trong q trình nghiên cứu đánh
giá. Đây mới chỉ là kết quả PLS đầu tiên trên thế giới, cần phải có thêm nhiều nghiên cứu
về tỷ lệ PLS để xác định liệu tỷ lệ PLS có khác biệt giữa các khu vực và khác biệt với

các phân nhóm HIV‐1 khác hoặc PLS liệu có ổn định qua các năm khơng. Theo khuyến
cáo của WHO/UNAIDS tỷ lệ phân loại sai mới nhiễm HIV nên được đánh giá thường
xuyên (5 năm/lần) để có những hiệu chỉnh kịp thời khi có sự thay đổi [116].
- Cuối cùng, vì có những hạn chế về số liệu các bệnh nhiễm trùng cơ hội nên không
thể thực hiện được các phân tích sâu hơn.
Cần kiểm tra để hiểu được sự khác biệt về tỷ lệ PLS giữa hai sinh phẩm và giữa khu
vực miền Bắc và miền Nam. Chính vì vậy một nghiên cứu tiếp theo đã được triển khai tiếp
sử dụng những mẫu huyết tương được lưu lại từ nghiên cứu IBBS để đánh giá khả năng
ứng dụng vào thực tế của sinh phẩm LAg-Avidity. Khi những nghiên cứu hiệu chỉnh sinh
phẩm LAg-Avidity được tiến hành tiếp theo và đưa ra tỷ lệ PLS thấp nhất (lý tưởng là tỷ lệ
này nhỏ hơn 2% đối với cả khu vực miền Bắc và miền Nam), khi đó cả hai sinh phẩm sẽ
được lựa chọn để ứng dụng cho các nghiên cứu “Giám sát Hành vi và các Chỉ số Sinh
học” (IBBS) của Việt Nam để ước tính tỷ lệ mới nhiễm HIV‐1 trong các quần thể có
nguy cơ cao theo chiến lược mới của Bộ Y tế.
3.1. Ứng dụng kỹ thuật LAg Avidity EIA để ước tính tỷ lệ mới nhiễm HIV trong các
nhóm đối tượng có nguy cơ cao lây nhiễm HIV: NCMT, NBD, TDĐGN ở Việt Nam
trong nghiên cứu IBBS 2005 & 2009;
Nghiên cứu IBBS là nghiên cứu về “Giám sát Hành vi và các Chỉ số Sinh học” với
quy mô lớn, được triển khai ở 10 tỉnh của cả nước mang tính đại diện cao, với số lượng mẫu
lớn >10,000 mẫu. Do nghiên cứu được tiến hành ngay sau khi kết thúc nghiên cứu tìm tỷ lệ
phân loại sai mới nhiễm năm 2012 nên chúng tôi đã sử dụng kết quả PLS trên sinh phẩm
LAg-Avidity cho từng miền Nam, Bắc đã được phân tích năm 2012 để ước tính cỡ mẫu cần
thiết cho nghiên cứu này. Hệ số PLS cho miền Bắc là 2,62% (95 CI: 1,61- 3,64; CoV 19,7)
và tỷ lệ PLS cho miền Nam là 0,69 (95 CI: 0,14 - 1,24; CoV 40,7).
Các mẫu dương tính với HIV theo chiến lược III của Bộ Y tế được chọn lọc đưa vào
nghiên cứu.
3.1.1. Đánh giá k t quả xét nghiệm mới nhiễm bằng sinh phẩm LAg-Avidity trên
ba nhóm nguy cơ cao của điều tra IBBS theo từng miền Nam, Bắc.
16



Tỷ lệ hiện nhiễm của: nhóm NCMT 2006 (52,7%) và 2009 (36,9%); nhóm PNBD
2006 (10,5%) và 2009 (10,2%); nhóm MSM 2006 (10,3%) và 2009 (16,9%).
Tỷ lệ mới nhiễm nhiễm của: nhóm NCMT 2006 (1,0%) và 2009 (0,93%); nhóm
PNBD 2006 (0,14%) và 2009 (0,64%); nhóm MSM 2006 (0,76%) và 2009 (2,5%).
Bảng 3.10. Kết quả xét nghiệm mới nhiễm LAg-Avidity trên ba nhóm NCMT, PNBD,
MSM ở Miền Bắc
Năm và nhóm
Tỷ lệ hiện nhiễm Số lƣợng mẫu xét
Số mẫu
Tỷ lệ mới
nghiên cứu IBBS
(%)
nghiệm
mới nhiễm nhiễm (%)
HIV
Nhóm nghiện chích ma túy (NCMT)
2006 NCMT
52,7
863
9
1,0
2009 NCMT
36,9
2353
22
0,93
Nhóm phụ nữ bán dâm (PNBD)
2006 PNBD
10,5

1397
2
0,14
2009 PNBD
10,2
2649
17
0,64
Nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới (Men Sex with Men-MSM)
2006 MSM
10,3
397
3
0,76
2009 MSM
16,9
799
20
2,5
Bảng 3.11, chỉ ra tỷ lệ hiện nhiễm và tỷ lệ mới nhiễm ở miền Nam của các nhóm
nguy cao trong nghiên cứu này như sau:
- Tỷ lệ hiện nhiễm của: nhóm NCMT 2006 (25,2%) và 2009 (24,8%); nhóm PNBD
2006 (8,6%) và 2009 (6,5%); nhóm MSM 2006 (7,6%) và 2009 (10,4%).
- Tỷ lệ mới nhiễm nhiễm của: nhóm NCMT 2006 (0,4%) và 2009 (1,08%); nhóm
PNBD 2006 (0,5%) và 2009 (0,2%); nhóm MSM 2006 (0,3%) và 2009 (0,6%).
Bảng 3.11. Kết quả xét nghiệm mới nhiễm LAg-Avidity trên ba nhóm NCMT, PNBD,
MSM ở Miền Nam
Năm và nhóm
Tỷ lệ hiện nhiễm Số lƣợng mẫu xét
Số mẫu

Tỷ lệ mới
nghiên cứu IBBS
(%)
nghiệm
mới nhiễm nhiễm (%)
HIV
Nhóm nghiện chích ma túy (NCMT)
2006 NCMT
25,2
1155
5
0,4
2009 NCMT
24,8
1477
16
1,08
Nhóm phụ nữ bán dâm (PNBD)
2006 PNBD
8,6
2149
10
0,5
2009 PNBD
6,5
2808
7
0,2
Nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới (Men Sex with Men-MSM)
2006 MSM

7,6
393
1
0,3
2009 MSM
10,4
797
5
0,6
17


Như vậy để đáp ứng với yêu cầu cỡ mẫu lớn, nhóm nghiên cứu đã sử dụng số lượng
mẫu thu thập và lưu trữ được của cả 2 năm IBBS 2006 và IBBS 2009. Ở đây coi các mẫu có
chất lượng giống nhau để phân tích, theo biểu đồ 3.8 và 3.10 của miền Bắc và miền Nam
cho thấy: mặc dù cỡ mẫu của IBBS cả 2 năm 2006 và 2009 đưa vào nghiên cứu là khá lớn
tổng số là 17,237 mẫu nhưng số lượng mẫu có kết quả mới nhiễm HIV là rất ít. Điều đó cho
thấy rằng phải tăng cỡ mẫu thêm nữa thì mới có thể có các ước tính chính xác để so sánh
giữa các nhóm và các vòng IBBS.
3.1.2. Phân loại các tỷ lệ hiện nhiễm và tỷ lệ mới nhiễm HIV trên từng nhóm
riêng biệt, từng miền
Dựa vào tỷ lệ phân loại sai của sinh phẩm LAg-Avidity đã được tính ở nghiên cứu
trước thì tỷ lệ phân loại sai ở Miền Bắc (2,62%), ở miền Nam (0,69%). Tổng số lượng mẫu
cần cho nghiên cứu được tính theo bảng 3.12, 3.13 sau:
Bảng 3.12. Cỡ mẫu cần điều chỉnh theo tỷ lệ mới nhiễm thực tế của nghiên cứu IBBS theo
tỷ lệ phân loại sai PLS miền Bắc (2,62%)
Các đặc tính XN: ω = 130 và CoVω = 4.68%, ε = 2.62% và CoVε = 19.7%
Tỷ lệ hiện nhiễm (%)

10


10

10

20

25

25

Tỷ lệ mới nhiễm (%)

1.0

1.0

2.0

2.0

2.5

5.0

Độ chính xác mong muốn (%)

50

25


50

50

50

50

16,300

/A

4,050

12,100

12,700

2,200

Cỡ mẫu cần thiết

Bảng 3.13. Cỡ mẫu cần điều chỉnh theo tỷ lệ mới nhiễm thực tế của nghiên cứu IBBS theo
tỷ lệ phân loại sai PLS miền Nam (0,69%)
Các đặc tính XN: ω = 130 và CoVω = 4.68%, ε = 2.62% và CoVε = 19.7%
Tỷ lệ hiện nhiễm (%)

10


10

10

20

25

25

Tỷ lệ mới nhiễm (%)

1.0

1.0

2.0

2.0

2.5

5.0

Độ chính xác mong muốn (%)

50

25


50

50

50

50

Cỡ mẫu cần thiết
6,850 62,700 2,850 4,100 3,650
1,450
Với cỡ mẫu được tính tốn lại như bảng 3.12; 3.13 trên thì nghiên cứu này cần phải có
cỡ mẫu lớn hơn nhiều cho từng nhóm và dù có sử dụng tổng số lượng mẫu cho từng nhóm
trong cả hai nghiên cứu IBBS 2005 và 2009 cũng vẫn chưa đạt được cỡ mẫu cần cho nghiên
cứu, Tuy nhiên nhóm nghiên cứu vẫn tiếp tục phân tích tỷ lệ nhiễm mới theo từng nhóm và
từng vùng để đưa ra một con số cụ thể làm bằng chứng cung cấp cho nhóm chuyên gia CDC
Atlanta và WHO tiếp tục có biện pháp cải tiến cả kỹ thuật lẫn phương pháp nhằm đua ra cách
tính tốn tỷ lệ mới nhiễm chính xác và phù hợp nhất cho từng nước, từng khu vực.
Biểu đồ 3.11; 3.12 chỉ ra tỷ lệ mới nhiễm HIV trên nhóm PNBD tại miền Bắc là
0,0% cho năm 2005 và 1,38% năm 2009 và tại miền Nam là 1,66% cho năm 2005 và 0,63%
cho năm 2009. Tỷ lệ này được tính dựa vào tỷ lệ phân loại sai PLS của miền Bắc = 2,62%
(95% CI: 1,61- 3,64; CoV 19,7), miền Nam = 0,69% (95% CI: 0,14 – 1,24; CoV 40,7).
18


Điều này chứng tỏ rằng cỡ mẫu chưa đủ để có cơ sở cho việc phân tích sâu. Tuy nhiên đây
là nghiên cứu đầu tiên trên thế giới với cỡ mẫu cũng lớn nhất thế giới nên dù kết quả như
thế nào cũng cần công bố cho các nước đặc biệt là UNAIDS/WHO được biết để có những
giải pháp cải tiến kịp thời cho các nghiên cứu tiếp theo


Biểu đồ 3.11, 3.12.. Tỷ lệ hiện nhiễm và tỷ lệ mới nhiễm HIV trên nhóm PNBD - IBBS
Biểu đồ 3.13, 3.14 chỉ ra tỷ lệ mới nhiễm HIV trên nhóm NCMT tại miền Bắc là 0%
cho cả hai năm 2005 & 2009 và ở miền Nam 1,07% năm 2006 và 3,62% năm 2009.

Biểu đồ 3.13, 3.14. Tỷ lệ hiện nhiễm và tỷ lệ mới nhiễm HIV trên nhóm NCMT của IBBS
hai năm 2006 & 2009
Biểu đồ 3.15; 3.16 chỉ ra tỷ lệ mới nhiễm HIV trên nhóm NCMT tại miền Bắc là 1,75% cho
năm 2005 và 7,35% cho năm 2009 và tại miền Nam là 0,85% cho năm 2005 và 1,75% cho
năm 2009.

19


Biểu đồ 3.5. Tỷ lệ hiện nhiễm và tỷ lệ mới nhiễm HIV trên nhóm MSM của IBBS hai năm
2006 & 2009
3.1.3. Đánh giá kỹ thuật LAg-Avidity trên cơ sở xét nghiệm
Các nghiên cứu tìm tỷ lệ phân loại sai mới nhiễm HIV cũng như nghiên cứu tìm tỷ lệ
mới nhiễm HIV sử dụng sinh phẩm BED, LAg-Avidity là loại sinh phẩm mới được đưa vào
Việt Nam, cần có quá trình thẩm định/đánh giá sinh phẩm trước khi sử dụng. Nghiên cứu
này là nghiên cứu đầu tiên ở Việt Nam cũng như lần đầu tiên trên thế giới nên vẫn còn
những hạn chế nhất định đang cần cải tiến thêm và có những nghiên cứu tiếp theo để có thể
đưa ra chiến lược xét nghiệm mới HIV, có thể áp dụng triển khai rộng rãi trong giám sát
dịch tễ học HIV ở Việt Nam.
Với mục tiêu phục vụ cho giám sát dịch tễ học để tìm ra tỷ lệ mới nhiễm hàng năm
của HIV, việc tìm tỷ lệ phân loại sai cũng được đánh giá giống như việc tìm tỷ lệ dương tính
giả, âm tính giả khi xác nhận một phương pháp xét nghiệm đã được thương mại hóa tại một
nước hay một đơn vị sử dụng.
Theo công bố của nhà sản xuất về những hạn chế của sinh phẩm LAg-Avidity thì
sinh phẩm này chỉ sử dụng ở mức độ quần thể, giá trị chính xác của nó cịn thấp (đặc biệt là
những mẫu có ngưỡng mật độ quang ODn gần sát với ngưỡng cutoff của sinh phẩm),

khoảng 2-3% số người nhiễm lâu bao gồm những người đã mắc AIDS bị phân loại nhầm là
mới nhiễm [31, 103]. Vì vậy tỷ lệ phân loại sai mới nhiễm ở phân tích cuối cùng cho thấy
với sinh phẩm LAg-Avidity là 1,2% là phù hợp với công bố của sinh phẩm. Thông thường
các sinh phẩm làm xét nghiệm kháng nguyên kháng thể khác phục vụ cho mục đích chẩn
đốn sẽ được đánh giá về độ nhạy, độ đặc hiệu của sinh phẩm bằng cách chọn lọc một
lượng mẫu âm tính và mẫu dương tính đã biết trước kết quả rồi cho chạy thử nghiệm lặp lại
nhiều lần và tính tốn kết quả so sánh với công bố của nhà sản xuất. Tuy nhiên hiện nay
sinh phẩm này chưa có ý định sử dụng trong mục đích chẩn đốn mà chỉ sử dụng cho mục
đích dịch tễ học nên giá trị tỷ lệ phân loại sai thường được xem xét và tính tốn, coi đó là độ
chính xác của sinh phẩm.
20


Mặt khác nhà sản xuất cũng khuyến cáo nên xem xét giá trị dự đoán (the predictive
value) sử dụng trong điều kiện quần thể khác nhau tức là: giá trị dự đoán mới nhiễm HIV
nếu sử dụng ở quần thể có tỷ lệ mới nhiễm thấp thì sai số dự đốn sẽ cao hơn so với những
quần thể có tỷ lệ mới nhiễm cao [43, 44, 103, 118]. Điều này cũng chính là một trong những
hạn chế của nghiên cứu vì muốn đưa ra một giá trị dự đốn chính xác thì yêu cầu cỡ mẫu rất
lớn như đã từng nêu trên những phần trên.
Một điều lưu ý nữa nhà sản xuất đưa ra độ tái lặp của kỹ thuật cần đạt độ tuyến tính R²>0,9.
Chính vì vậy trong tất cả các lần chạy sàng lọc hay khẳng định của sinh phẩm BED CEIA
hay LAg-Avidity, mẫu chứng âm NC, chứng dương cao HPC, chứng dương thấp LPC, chất
chuẩn CAL luôn được chạy lặp lại và theo dõi trên biểu đồ Levey Jening theo nguyên tắc
Westgard và theo dõi độ tuyến tính của các chứng[102, 103]. Các mẫu khi chạy khẳng định
sẽ làm lặp lại 3 lần/mẫu trong từng lần chạy, mức độ chênh lệch giữa các lần chạy được xem
xét ở độ chênh lệch giữa các lần lặp lại là ± 0,1
Hiện tại, Việt Nam là nước đầu tiên trên thế giới áp dụng mơ hình của
UNAIDS/WHO sử dụng sinh phẩm LAg Avidity để đánh giá tỷ lệ mới nhiễm HIV trên các
nhóm quần thể nguy cơ cao bao gồm các nhóm: NCMT, PNBD và MSM.
Kết quả của nghiên cứu này đã được báo cáo ở các hội nghị quốc tế cho các nước

khác trên thế giới tham khảo. Ở cả hai nghiên cứu đã phát hiện có nhiều trường hợp bị phân
loại sai là mới nhiễm HIV kể cả ở mức độ quốc gia cũng như các vùng miền. Việt Nam có
hai số liệu đại diện về tỷ lệ mới nhiễm HIV trên các nhóm nguy cơ cao tại hai thời điểm
khác nhau. Kết quả của nghiên cứu này không chỉ ra một cách rõ ràng liệu tỷ lệ mới nhiễm
HIV là thực sự tăng hay giảm từ năm 2005 đến năm 2009 [115, 116, 125]. Điều này có thể
do cỡ mẫu thực tế mà chúng ta sử dụng từ nghiên cứu IBBS chưa đủ lớn để đáp ứng được
cỡ mẫu lý thuyết được được WHO/UNAIDS khuyến cáo trên tồn cầu.
Nhóm kỹ thuật cũng đã bàn bạc để tìm giải pháp làm thế nào để tăng được cỡ mẫu
theo yêu cầu nhưng phụ thuộc rất nhiều vào các điều kiện khác nhau: nguồn tiền cho nghiên
cứu, sinh phẩm, chất lượng mẫu…
Một số vấn đề đặt ra là ngoài số lượng mẫu từ nghiên cứu IBBS được coi là nghiên
cứu có số lượng mẫu lớn nhất Việt Nam từ trước đến nay vẫn không đáp ứng được cỡ mẫu
yêu cầu thì cần phải tìm kiếm một số mẫu từ các nghiên cứu khác,
Giả định có thể lấy một số mẫu từ nghiên cứu hành vi khác do Ngân Hàng Thế giới tài
trợ hay do dự án Quỹ Toàn cầu tài trợ, Nhưng điều này khơng khả thi vì số lượng mẫu cũng
chỉ mang tính cộng cơ học khơng mang tính đại diện cho Việt Nam, Bên cạnh đó nhóm kỹ
thuật cũng xem xét đến số liệu của giám sát trọng điểm HIV hàng năm, Nhưng hiện tại cũng
chưa chắc chắn là tồn bộ số lượng mẫu đó đang được bảo quản tốt và đủ lượng mẫu để
làm, Một lý do khác nữa là cho dù có đủ số mẫu để làm thì cần tìm nguồn kinh phí hỗ trợ
mua sinh phẩm và triển khai xét nghiệm.
Mặt khác việc xây dưng phương pháp tìm tỷ lệ mới nhiễm HIV phù hợp ở Việt Nam
cũng cần cụ thể hóa thành một chiến lược xét nghiệm rõ ràng để nhóm kỹ thuật dễ dàng
21


thực hiện. Cho đến nay theo khuyến cáo của CDC và WHO, Viện đang sử dụng chiến lược
xét nghiệm mới nhiễm sau:
Mẫu HIV+

Huyết thanh học


Sinh phẩm: LAg-Avidity, BED

Đã xác định mới
nhiễm

Đã xác định nhiễm
lâu

Đo tải lƣợng
(VL)

VL >1000 bản
sao/mL

VL ≤ 1000
bản sao/mL

Phân loại

Mới nhiễm

Nhiễm lâu

Hiện nay sinh phẩm LAG- Avidity EIA đã phát triển thành sinh phẩm chẩn đoán
nhanh, kết quả thẩm định phương pháp này đã được nhóm nghiên cứu của CDC Atlanta báo
cáo trong hội nghị quốc tế phòng chống AIDS năm 2017 tổ chức tại Pháp (IAS 2017). Bộ Y
tế đã giao cho Viện VSDTTƯ thẩm định chất lượng sinh phẩm Asanté™ HIV-1 Rapid
Recency™ Assay, kết quả cũng vừa được báo cáo tại Châu Phi tháng 3 năm 2018. Sau khi
kết quả đánh giá đạt Bộ Y tế đang có kế hoạch sẽ ứng dụng sinh phẩm vào: chương trình

giám sát trọng điểm (bao gồm 20 tỉnh) nhằm phát hiện các điểm nóng lây truyền HIV;
chương trình dự phịng: dự phịng cho bạn tình của người mới nhiễm, đưa ra các can thiệp
phù hợp cho nhóm nguy cơ cao, hiểu rõ cách thức lây truyền HIV và đánh giá hiệu quả các
can thiệp cho nhóm nguy cơ cao,
Kết quả này cũng đã được Bộ Y tế lên kế hoạch đưa vào chiến lược quốc gia trong chẩn
đoán nhiễm HIV.

22


KẾT LUẬN
I. Định lƣợng và so sánh tỷ lệ phân loại sai (PLS) của sinh phẩm BED và LAgAvidity EIA trong nhóm bệnh nhân đang điều trị ARV tại các phịng khám ngoại trú ở
Việt Nam.
1. Phân tích ý nghĩa các đặc điểm của quần thể tham gia nghiên cứu: sự khác nhau có
ý nghĩa thống kê p<0,01.
2. Phân tích tỷ lệ PLS là mới nhiễm của từng sinh phẩm BED, LAg ngay sau khi xét
nghiệm
 Tỷ lệ PLS sinh phẩm BED: 5,86% với khoảng tin cậy (95 CI: 4,38-7,34) ở miền
Bắc và 1,15% khoảng tin cậy (95 CI: 0,36-1,70) ở miền Nam,
 Tỷ lệ PLS sinh phẩm LAg-Avidity: miền Bắc 3,9% với khoảng tin cậy (95 CI:
2,69-5,13), miền Nam 1,3% với khoảng tin cậy (95 CI: 0,07-1,5),
3. Phân tích tỷ lệ PLS cho cả hai sinh phẩm sau khi loại trừ các trường hợp trùng,
đã điều trị ARV, trường hợp đặc biệt: sinh phẩm BED giảm xuống còn 1,7%; đối với sinh
phẩm LAg-Avidity giảm xuống cịn 1,2%.
4. Phân tích tỷ lệ PLS từng phòng khám ngoại trú theo từng miền Bắc, Nam sau loại trừ:
 Sinh phẩm BED: miền Nam là 1,0% và miền Bắc là 3,40 %;
 Sinh phẩm LAg-Avidity: miền Nam là 0,7% và miền Bắc là 2,6%.
5. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả FRR: LAg-Avidity bao phủ hết các
phân nhóm HIV-1 và khơng bị ảnh hưởng bởi nhóm Elite controller nên tốt hơn BED, do
sai sót từ q trình phỏng vấn, nhóm điều trị ARV.

6. So sánh tỷ lệ PLS của các nghiên cứu xét nghiệm sớm HIV ở Việt Nam với các nước
trên thế giới: BED (1,7%), LAg-Avidity (1,2%) thấp nhất so với các nước trên thế giới.
II. Ứng dụng kỹ thuật LAg Avidity EIA để ƣớc tính tỷ lệ mới nhiễm HIV trong
các nhóm đối tƣợng có nguy cơ cao lây nhiễm HIV: NCMT, PNBD, TDĐGN ở Việt
Nam trong nghiên cứu IBBS 2006 & 2009
1. Tỷ lệ mới nhiễm HIV ở miền Bắc:
- Nhóm PNBD là 0,0% năm 2005 và 1,38% năm 2009, khơng so sánh được.
- Nhóm NCMT là 0% cả hai năm 2006 & 2009, không so sánh được.
- Nhóm MSM là 7,35% năm 2009 đã tăng gấp 4,2 lần so với năm 2006 là 1,75%
2. Tỷ lệ mới nhiễm HIV ở miền Nam
- Nhóm PNBD là 1,66% năm 2009 cao gấp 0.38 lần so với 0,63% năm 2009.
- Nhóm NCMT là 3,62% năm 2009 cao gấp 3.38 lần so với 1,07% năm 2006.
- Nhóm MSM là 1,75% năm 2009 cao gấp 2.05 lần so với 0,85% năm 2006.
3. Đánh giá kỹ thuật LAg-Avidity và tính khả thi khi áp dụng trong thực tế
Nghiên cứu này là nghiên cứu đầu tiên ở Việt Nam cũng như lần đầu tiên trên thế giới,
mặc dù đã đưa ra tỷ lệ phân loại sai với LAg- Avidity 1,2% là thấp nhất so với các nghiên
cứu khác trên thế giới nhưng vẫn còn những hạn chế nhất định đang cần cải tiến thêm và có
những nghiên cứu tiếp theo để làm căn cứ cho Bộ Y tế có thể đưa ra chiến lược xét nghiệm
quốc gia mới HIV, có thể áp dụng triển khai rộng rãi trong giám sát dịch tễ học HIV ở Việt
Nam.
23


×