Project Appraisal
CÁC TRỌNG SỐ PHÂN PHỐI VÀ CÁC NHU CẦU THIẾT YẾU
Cả hai được sử dụng để đưa các xem xét về mặt công bằng xã hôïi vào thẩm đònh dự án.
Xét về một khiá cạnh, chúng là các biến tấu xuất phát từ đònh đề thứ ba của Harberger.
Trong phương pháp các trọng số phân phối: Những lợi ích đang tới với người trong các nhóm có
thu nhập thấp cần được đánh giá cao hơn bằng cách gán một trọng số lớn hơn 1 cho phần lợi ích
này. Tương tự, nếu dự án được tài trợ qua việc đánh thuế tác động chủ yếu lên người có thu
nhập cao, thì những chi phí này cần được gán một trọng số nhỏ hơn 1. Gán chính xác những trọng
số là bao nhiêu cho những chi phí và lợi ích này phụ thuộc vào phán xét của nhà phân tích, bằng
điều này người ta đưa tính chủ quan vào trong phân tích.
Để đơn giản hoá các vấn đề, thay vì lo lắng về các chủng loại giầu và nghèo khác nhau
và gán nguyên một dãy các trọng số cho lợi ích và chi phí, trên thực tế người ta gán một khoản
phụ phí dương (khoản phạt âm) cho các lợi ích (tổn thất hoặc là mất mát) tới với những người ở
dưới mức nghèo khó. Mức nghèo khó được xác đònh dựa trên một số tiêu chuẩn độc lập với dự
án. Đồng thời, tỉ lệ của phụ phí (chẳng hạn 5% hoặc 12% hoặc 20%) là một vấn đề thuộc về phán
xét chủ quan. Đồng thời, trọng số về phía chi phí thường bò bỏ qua.
Do đó, để đưa vào các xem xét về mặt phân phối, NPV kinh tế sẽ được cải biến như sau
đây:
NPV
e
e
(với tác động phân phối) = NPV
e
e
+ PVE
g
*phụ phí phân phối (chẳng hạn 15%) - PVE
b
*phạt phân phối (chẳng hạn 10%)
Trong đó, PVE
g
là một ngoại tác tích cực (tốt) tới với những người ở dưới mức nghèo khó
và PVE
b
là một ngoại tác tiêu cực (xấu), nếu có, tới với những người ở dưới mức nghèo khó.
Điều này có nghóa là nếu một dự án cung cấp các lợi ích cho người dưới mức nghèo khó,
thì một phụ phí dương sẽ được gán cho phần lợi ích tới với họ. Tương tự một khoản phạt âm trên
tổn thất của người dưới mức nghèo khó được đưa vào nếu dự án tác động bất lợi tới nhóm này
theo cách nào đó. Do đó phương pháp các trọng số phân phối quan tâm tới các lợi ích hay mất mát
trực tiếp tới với người dưới mức nghèo khó.
Trong phương pháp các nhu cầu thiết yếu : Nếu dự án thỏa mãn một số nhu cầu thiết yếu cho
những người nghèo trong xã hôïi, thì một phụ phí nhu cầu thiết yếu được gán cho lượng bổ sung
(hoặc là một phần của nó) hiện giờ đang được tiêu dùng là (Q
0
d
– Q
0
) do kết quả của dự án nhằm
tính tới ngoại tác tới với phần còn lại của xã hôïi (hãy nhớ rằng phần lượng khác là Q
0
- Q
0
s
chỉ là
thay thế cho phần đang được sản xuất bởi các nhà sản xuất khác). Các lợi ích tới với chính nhóm
hưởng lợi đã được tính tới trong nhu cầu đối với hàng hoá và dòch vụ đang xét và không có trọng số
nào được gán cho chúng cả. Không có trọng số bổ sung nào được gán cho những lợi ích và chi phí
tư nhân này. Đồng thời, phụ phí các nhu cầu thiết yếu chỉ có mặt khi các nhu cầu thiết yếu nào đó
1
Project Appraisal
được thỏa mãn bởi dự án này chứ không thể có được bằng cách nào khác. Đây là sự khác biệt cơ
bản so với phương pháp các trọng số phân phối.
Do đó, để đưa vào các xem xét về nhu cầu thiết yếu, NPV sẽ được cải biến như sau đây :
NPV
e
e
(với nhu cầu thiết yếu) = NPV
e
e
+ (Q
0
d
– Q
0
)*phụ phí nhu cầu thiết yếu (chẳng hạn 15%)
Đo lường phụ phí nhu cầu thiết yếu này như thế nào? Có một cách là đánh giá lượng lợi
ích nào thỏa mãn các nhu cầu thiết yếu của người nghèo và sau đó gán một phụ phí chủ quan,
phản ánh giá trò mà xã hôïi đònh ra cho sự tiêu dùng hàng hoá hay dòch vụ này vì là thứ cần thiết.
Để làm cho phần phụ phí này chính xác hơn, có thể thực hiện một đánh giá về “độ sẵn lòng chi
trả” (điều tra hoặc đánh giá tuỳ tình hình), nó sẽ cho biết chính xác hơn rằng xã hôïi đánh giá
những lợi ích này là bao nhiêu.
Một cách khác để ước tính phụ phí nhu cầu thiết yếu là như sau đây. Nếu tồn tại một cách
khác thay thế để cung ứng chính những nhu cầu thiết yếu này cho chính nhóm được hưởng lợi
hoặc nhóm mục tiêu này, thì chi phí của việc cung cấp hàng hoá hay dòch vụ này sẽ là một thước
đo cho tổng phụ phí nhu cầu thiết yếu cần được gán cho dự án. Dự án, bằng cách phục vụ các
nhu cầu thiết yếu, đang tiết kiệm được các nguồn lực mà chính ra đã mất đi để cung cấp chính
những nhu cầu thiết yếu này theo con đường thay thế khác, và vì thế những tiết kiệm chi phí này
là một thước đo cho độ sẵn lòng chi trả của xã hôïi đối với các nhu cầu thiết yếu này.
Minh hoạ: Một dự án đường giao thông nối liền một làng quê với điạ điểm thò trường và thò trấn
gần đó, nơi các cư dân nghèo của làng quê có thể bán các sản phẩm của họ và cũng có thể tiếp
cận với dòch vụ chăm sóc sức khỏe. Nhưng một số cư dân nghèo trong khu nhà ổ chuột cũng bò
bứng đi chỗ khác để xây dựng dự án đường giao thông này.
Trong cả hai phương pháp các trọng số phân phối và các nhu cầu thiết yếu, các lợi ích tư
nhân của các dân làng nghèo từ việc tiếp cận đòa điểm thò trường cũng như dòch vụ chăm sóc sức
khỏe đã được đưa vào nhu cầu dùng để tính lợi ích kinh tế của dự án. Các chi phí (mất mát) tư
nhân của các cư dân khu ổ chuột cũng sẽ được đưa vào nhu cầu (hoặc là chi phí).
Trong phương pháp các trọng số phân phối, phần lợi ích của dự án tới với người dưới mức
nghèo khó sẽ được gán một phụ phí dương, trong khi mất mát tới với những cư dân khu ổ chuột sẽ
được gán cho một khoản phạt.
Trong phương pháp các nhu cầu thiết yếu, nếu dự án đường giao thông không cung cấp
sự tiếp cận với dòch vụ chăm sóc sức khỏe (một nhu cầu thiết yếu), thì phân tích kinh tế sẽ là
hoàn thiện mà không phải lo về tác động phân phối của dự án. Tuy nhiên, trong trường hợp này,
dự án đường giao thông thỏa mãn dòch vụ chăm sóc sức khỏe cho người nghèo, và vì thế một phụ
phí nhu cầu thiết yếu cần được bổ sung vào các lợi ích kinh tế của dự án.
2
Project Appraisal
Giá trò của lợi ích bổ sung này hay tổng phụ phí là gì? Có thể tìm được nó bằng cách ước
tính độ sẵn lòng chi trả của xã hôïi đối với dòch vụ chăm sóc sức khỏe cho những dân làng nghèo
này. Nói cách khác, nếu có thể cung cấp cùng dòch vụ chăm sóc sức khỏe y như vậy bằng cách
đưa bác só hay y tá tới làng quê 2 tuần một lần, thì chi phí của dòch vụ thay thế này (tiền công
cho bác só hay y tá, chi phí vận tải v.v...) là một thước đo cho phụ phí nhu cầu thiết yếu cần được
bổ sung vào lợi ích kinh tế của dự án đường giao thông này.
Ví dụ khác: Có một dự án nhằm cung cấp các bữa ăn giữa ngày cho học sinh trong trường tiểu
học, nhờ nó mà só số có mặt của nhà trường tăng lên. Chúng ta tính tới ngoại tác nhu cầu thiết
yếu của só số tăng lên này như thế nào ?
3