Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

KINH NGHIỆM sử DỤNG kết hợp các PHƯƠNG TIỆN và PHƯƠNG PHÁP dạy học TÍCH cực vào GIẢNG dạy bài “đọc TIỂU THANH kí” (độc TIỂU THANH kí) của NGUYỄN DU SGK NGỮ văn 10 BAN cơ bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.17 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
TÊN ĐẦU ĐỀ
TRANG
1.MỞ ĐẦU..............................................................................................................
1
1.1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................
1
1.2. Mục đích nghiên cứu........................................................................................
2
1.3. Đối tượng nghiên cứu.......................................................................................
3
1.4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................
3
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ......................................................
3
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.........................................................
3
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm..........................
6
2.3. Sáng kiến kinh nghiệm ....................................................................................
7
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường ...........................................................................
17
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ ..................................................................................
18
3.1.Kết luận ............................................................................................................
18
3.2. Kiến nghị .........................................................................................................
19
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................


20


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
KINH NGHIỆM SỬ DỤNG KẾT HỢP
CÁC PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC VÀO
GIẢNG DẠY BÀI “ĐỌC TIỂU THANH KÍ” (ĐỘC TIỂU THANH KÍ) CỦA
NGUYỄN DU - SGK NGỮ VĂN 10 - BAN CƠ BẢN
1.PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Hiện nay dạy văn trong nhà trường phổ thông đang là một thử thách lớn với
mỗi giáo viên. Dạy thế nào cho hay, để đạt được hiệu quả cao, tạo sự hứng thú,
say mê cho học sinh quả thực là cả một vấn đề lớn, địi hỏi mỗi giáo viên dạy
văn phải khơng ngừng suy nghĩ, tìm tịi để có thể giúp học sinh không chỉ hiểu
đúng văn bản, biết cách làm một bài văn nghị luận văn học mà còn phải đam
mê, yêu thích mơn văn.
Là người rất quan tâm đến sự nghiệp “trồng người”và đặc biệt là môn
Ngữ văn, cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng đưa ra ý kiến vô cùng giá trị
cho việc gợi mở, tìm tịi một cách thức dạy học mới: “Học sinh học nhiều, nhớ
nhiều là điều đáng khuyến khích, nhưng đó khơng phải là điều chủ yếu. Điều
chủ yếu là dạy học sinh suy nghĩ, sáng tạo... Chúng ta phải xem lại cách dạy
văn trong nhà trường phổ thông của ta, không nên dạy như cũ. Bởi vì dạy như
cũ thì khơng những việc dạy văn không hay, mà việc đào tạo con người mới
cũng khơng có kết quả. Vì vậy dứt khốt chúng ta phải có cách dạy khác, phải
dạy cho học sinh biết suy nghĩ, suy nghĩ bằng trí óc của mình, và diễn tả sự suy
nghĩ đó theo theo cách của mình thế nào cho tôt nhất”. Dạy học nhằm tạo ra sự
tác động trong nhận thức và tình cảm, sự tích cực suy nghĩ, niềm đam mê ham
thích sáng tạo, tìm tịi của học sinh chứ khơng phải tạo ra thói quen trơng chờ và
bắt chước - đó là một tư tưởng quan trọng, kiên quyết và mạnh mẽ.
Chủ trương đổi mới phương pháp dạy học của Bộ Giáo dục và Đào tạo là

lấy học sinh làm trung tâm, nâng cao vai trò của học sinh trong giờ học. Giáo
viên chỉ có vai trị hướng dẫn, chỉ đường để học sinh tự nắm lấy tri thức. Từ đó
giúp học sinh phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói
quen và khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kĩ năng vận dụng kiến thức vào
những tình huống khác nhau trong học tập và trong thực tiễn, tạo niềm tin, niềm
vui và niềm hứng thú trong học tập. Luật giáo dục số 38/2005/QH11, Điều 28
quy định: “Phương pháp giáo dục phổ thơng phải phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học,
môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn
luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại
niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
Muốn đổi mới cách học, phải đổi mới cách dạy. Cách dạy sẽ quyết định
cách học. Để học sinh có thể nắm bắt bài học một cách chủ động, giáo viên
không chỉ sử dụng các tài liệu như SGK, SGV, các tài liệu tham khảo mà còn
phải sử dụng đa dạng các phương tiện, thiết bị dạy học như tranh ảnh, bảng phụ,
1


máy chiếu , băng thu thanh , băng ghi hình , đĩa CD , phần mềm máy vi tính, các
đồ dùng thí nghiệm trực quan... Tuy nhiên, phương tiện dạy học không chỉ dừng
ở mức minh họa nội dung dạy học mà phải trở thành công cụ nhận thức, là một
bộ phận hữu cơ của cả phương pháp và nội dung dạy học. Do yêu cầu tăng hoạt
động thực hành, nên khi xây xây dựng chương trình cần đặt đúng vị trí của thiết
bị dạy học bộ mơn. Có thể nói, thiết bị dạy học là điều kiện khơng thể thiếu
được cho việc triển khai chương trình sách giáo khoa nói chung và đặc biệt cho
việc triển khai đổi mới phương pháp dạy học hướng vào hoạt động tích cực, chủ
động của học sinh. Đáp ứng yêu cầu này, phương tiện, thiết bị dạy học phải tạo
điều kiện thuận lợi cho học sinh thực hiện các hoạt động độc lập hoặc các hoạt
động nhóm.
Trong thời đại cơng nghệ thơng tin phát triển như vũ bão, hầu hết các nhà

trường đều được trang bị hệ thống máy vi tính, máy chiếu để phục vụ cho công
tác giảng dạy đạt chất lượng tốt hơn. Vì thế chúng ta cần tận dụng tối ưu các
thiết bị hiện đại này.
Trong quá trình dạy học văn, chúng ta không chỉ dạy những tác phẩm văn
học hiện đại mà còn dạy những tác phẩm văn học trung đại. Và việc dạy các tác
phẩm văn học trung đại luôn là vấn đề không hề dễ dàng đối với mỗi giáo viên,
bởi những khác biệt về mặt chữ viết, quan niệm về cái đẹp, hoàn cảnh xã hội,
nội dung sáng tác…mà như Giáo sư Phan Trọng Luận từng nhấn mạnh: “Nội
dung sáng tác xưa kia dù tiến bộ đến đâu vẫn cách xa chúng ta về thế giới quan,
về lí tưởng thẩm mĩ, về cuộc sống giữa nội dung và các sáng tác ngày xưa với tư
tưởng, tình cảm của những con người ngày nay”. Vì thế địi hỏi mỗi người giáo
viên phải nỗ lực không ngừng để giờ dạy của mình trở nên hấp dẫn, dễ hiểu, dễ
cảm đối với học sinh.
Sau nhiều năm giảng dạy, cùng với việc đổi mới phương pháp giảng dạy
thì việc sử dụng phương tiện đã giúp cho tơi có các tiết dạy trên lớp đạt hiệu quả
cao hơn, đặc biệt là các tiết dạy về văn học trung đại. Tôi đã tự tích lũy cho
mình một số kinh nghiệm nhỏ về việc sử dụng kết hợp các thiết bị, phương tiện
dạy học và các phương pháp dạy học tích cực vào việc giảng dạy các tiết đọc
văn, cụ thể là bài học “Đọc Tiểu Thanh kí” (Độc Tiểu Thanh kí) của tác giả
Nguyễn Du. Bài học này được học trong thời gian hai tiết học.
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Khi viết đề tài này tơi có mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình
vào sự thành cơng chung của tiết dạy và vào lĩnh vực nghiên cứu này. Đồng
thời, qua đề tài này tôi muốn được lắng nghe, tham khảo ý kiến của các đồng
nghiệp để đề tài của tôi hoàn thiện hơn, cũng như hoàn thiện hơn phương pháp
giải dạy của mình.
Đồng thời qua đề tài này tơi cũng mong muốn lồng ghép nội dung rất thực
tế là rèn luyện kĩ năng sống, tấm lòng trắc ẩn yêu thương con người cho học
sinh, hướng học sinh đến với Chân - Thiện - Mĩ.
Cần cho học sinh thấy được Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, danh nhân

văn hóa thế giới với niềm cảm thông sâu sắc với số phận nàng Tiểu Thanh nói
riêng và thân phận những con người tài sắc mà bất hạnh nói chung. Qua đây,
2


thấy được một biểu hiện cơ bản của chủ nghĩa nhân văn ở thiên tài Nguyễn Du:
lòng thương người, tiếc tài và tâm sự sâu kín của chính nhà thơ gửi gắm trong
tác phẩm. Chính ý thức nghệ sĩ hịa quyện với tấm lịng nhân ái sau sắc đã góp
phần tạo nên vẻ đẹp của bài thơ. Học sinh cần rèn luyện kỹ năng, phương pháp
tiếp cận một tác phẩm văn học chân chính.
Qua tác phẩm học sinh tự rút ra bài học về cách sống để hoàn thiện bản
thân.
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là bài học “Đọc Tiểu Thanh kí” (Độc
Tiểu Thanh kí) của tác giả Nguyễn Du trong chương trình Ngữ văn 10 - Ban cơ
bản. Người nghiên cứu sau khi tham khảo tài liệu tìm hiểu về bài học đã viết đề
tài này.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Từ việc tìm hiểu đặc điểm chung về một vài phương pháp dạy học tích cực
lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên áp dụng cụ thể vào một số tiết học cụ thể
trong chương trình Ngữ Văn 10- Ban cơ bản.
Để đạt được kết quả nghiên cứu, tôi đã vận dụng tổng hợp các phương
pháp : phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết, phương pháp điều tra
khảo sát thực tế, thu thập thơng tin, quan sát, tìm hiểu, phân tích, tổng hợp, quy
nạp, so sánh, thực nghiệm, xây dựng kế hoạch bài học, giảng dạy cụ thể trong
một giờ đọc văn “Đọc Tiểu Thanh kí” (Độc Tiểu Thanh kí) của tác giả Nguyễn
Du sau đó rút kinh nghiệm để triển khai đề này.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1.1. Khái niệm về phương tiện dạy học

- Phương tiện dạy học là những đối tượng vật chất được giáo viên sử dụng
với tư cách là những phương tiện tổ chức đều khiển hoạt động nhận thức của
người học nhằm đạt mục tiêu dạy học.
- Phương tiện dạy học là toàn bộ các phương tiện mang tin, phương tiện
truyền tin và phương tiện tương tác trong sự hỗ trợ và điều khiển quá trình dạy
học.
Ví dụ: sách giáo khoa, bảng viết, tranh ảnh, phim, các đoạn clip, máy
chiếu...
2.1.2 Vai trò của phương tiện dạy học
- Giúp học sinh dễ hiểu bài, hiểu bài sâu sắc hơn và nhớ bài lâu hơn.
Phương tiện dạy học tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sự nghiên cứu dạng bề
ngồi của đối tượng và các tính chất có thể tri giác trực tiếp của chúng.
- Phương tiện dạy học giúp là sinh động nội dung học tập, nâng cao hứng
thú học tập bộ môn.
- Phương tiện dạy học còn giúp cho học sinh phát triển năng lực nhận thức,
đặc biệt là khả năng quan sát, tư duy (phân tích, tổng hợp các hiện tượng, rút ra
những kết luận có độ tin cậy ...).
- Giúp giáo viên tiết kiệm được thời gian trên lớp trong mỗi tiết học. Giúp
3


giáo viên điều khiển được hoạt động nhận thức của học sinh, kiểm tra và đánh
giá kết quả học tập của các em được thuận lợi và có hiệu suất cao.
-Ngày trước, để minh họa nội dung bài giảng, thầy giáo chỉ có khả năng sử
dụng lời nói giàu hình tượng và gợi cảm kèm theo những cử chỉ, điệu bộ biểu
đạt nội tâm hoặc có thêm bộ tranh giáo khoa hỗ trợ. Hiện tại có cả một loạt
phương tiện để thầy giáo tuyển trạch sử dụng như: máy chiếu , băng thu thanh ,
băng ghi hình , đĩa CD , phần mềm máy vi tính… Tiến tới mọi thầy giáo phải có
khả năng soạn bài giảng trên máy vi tính được nối mạng , biết sử dụng đầu máy
đa năng để thực hiện bài giảng của mình một cách sống động, hiệu qủa, phát huy

cao nhất tính tích cực học tập của học sinh.
2.1.3 Khái niệm về phương pháp dạy học
- Thuật ngữ phương pháp bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp (Methodos) có nghĩa là
con đường để đạt mục đích. Theo đó, phương pháp dạy học là con đường để đạt
mục đích dạy học.
- Phương pháp dạy học là một hệ thống hành động có mục đích của giáo
viên nhằm tổ chức hoạt động nhận thức và thực hành của học sinh, đảm bảo học
sinh lĩnh hội nội dung học vấn.
- Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong
Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII (tháng 1-1993); Nghị quyết Trung ương 2
khóa VIII (tháng 12 - 1996) được thể chế hóa trong Luật giáo dục (tháng 121998) , được thể chế hóa trong các chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đặc biệt
là chỉ thị số 15 (tháng 4 - 1999)
- Luật giáo dục, điều 28.2, đã ghi: “phương pháp giáo dục phổ thơng phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc
điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm
việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức và thực tiễn, tác động đến
tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”
- Phương pháp dạy học là cách thức hành động của giáo viên và học sinh
trong quá trình dạy học. Cách thức hành động bao giờ cũng diễn ra trong những
hình thức cụ thể. Cách thức và hình thức khơng tách nhau một cách độc lập.
Phương pháp dạy học là những hình thức và cách thức hoạt động của giáo viên
và học sinh trong những điều kiện dạy học xác định nhằm đạt mục đích dạy học.
Phương pháp dạy học là những hình thức và cách thức, thơng qua đó và bằng
cách đó giáo viên và học sinh lĩnh hội những hiện thực tự nhiên và xã hội xung
quanh trong những điều kiện học tập cụ thể.
2.1.4 Một số phương pháp dạy học trong nhà trường.
* Phương pháp vấn đáp:
- Vấn đáp (đàm thoại) là phương pháp trong đó giáo viên đặt ra những câu
hỏi để học sinh trả lời, hoặc học sinh có thể tranh luận với nhau và với cả giáo
viên; qua đó học sinh lĩnh hội được nội dung bài học.

- Có ba cách vấn đáp: vấn đáp tái hiện, vấn đáp giải thích - minh họa, vấn
đáp tìm tịi.
* Phương pháp đọc sáng tạo:
- Đọc sáng tạo là phương pháp đặc biệt với bộ môn văn. Đọc sáng tạo bao
4


gồm cả đọc thầm, đọc thành tiếng. Mỗi người đọc đem phần kinh nghiệm sống,
vốn văn hóa riêng của mình vào việc tiếp nhận văn bản, tiếp nhận một cách chủ
động sáng tạo. Đọc diễn cảm là một hình thức của đọc sáng tạo.
- Nếu hoạt động này làm tốt sẽ giúp học sinh hình dung, tưởng tượng nội
dung ẩn chứa trong bài. Chỉ khi nào thực sự hiểu, cảm nhận được cái hay cái đẹp
của văn bản, lúc đó mới có thể đọc diễn cảm được và ngược lại, đọc diễn cảm
văn bản cũng chính là cách giúp học sinh hiểu sâu hơn về văn bản.
* Phương pháp nêu vấn đề:
- Phương pháp dạy học nêu vấn đề là một trong những phương pháp dạy
học mà ở đó giáo viên là người tạo ra tình huống có vấn đề, tổ chức, điều khiển
học sinh phát hiện vấn đề, học sinh tích cực, chủ động, tự giác giải quyết vấn đề
thơng qua q trình đó mà lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, nhằm đạt được mục
tiêu dạy học.
- Ở phương pháp này, học sinh tích cực, chủ động, tự giác tham gia hoạt
động học, tự mình tìm ra tri thức cần học chứ không phải được thầy giảng giải
một cách thụ động, học sinh là chủ thể sáng tạo ra hoạt động học. Học sinh
không những được học nội dung học tập mà còn được học con đường và cách
thức tiến hành dẫn đến kết quả đó. Học sinh học được cách phát hiện và giải
quyết vấn đề.
* Phương pháp phân tích, bình giảng:
- Phương pháp phân tích là phân chia các vấn đề cần bàn luận thành các
bộ phận để có thể xem xét một cách cặn kẽ và kĩ càng. Trong việc giảng dạy đọc
hiểu văn bản văn học, cần phải có sự phân tích, chia nhỏ vấn đề để đi sâu vào

từng khía cạnh của tác phẩm nhằm mục đích hiểu được những tầng ý nghĩa của
văn bản và dụng ý của nhà văn gửi gắm trong tác phẩm.
- Cịn phương pháp bình giảng để thấy được cái hay, cái đẹp của tác phẩm
văn học, đem đến cho học sinh những xúc cảm thẩm mĩ, và thêm yêu, thêm quý
tác phẩm văn học.
- Có thể nói trong việc dạy học mơn ngữ văn khơng thể thiếu được
phương pháp phân tích, bình giảng bởi nếu khơng có phân tích, bình giảng sẽ
khơng thấy được ý đồ nghệ thuật của nhà văn cũng như những sáng tạo độc đáo
và tài năng của tác, thấy được những thành công của tác giả trong việc điều
khiển những “con chữ” để tạo nên những hình tượng nghệ thuật bất hủ và những
trang chi tiết, hình ảnh in đậm mãi trong tâm trí người đọc.
* Phương pháp hoạt động nhóm
- Lớp học được chia thành từng nhóm nhỏ từ 4 đến 6 người. Tuỳ mục
đích, request của vấn đề học hỏi, các nhóm được phân chia khơng hẹn mà có hay
có chủ tâm, được duy trì yên ổn hay thay đổi trong từng phần của tiết học, được
giao cùng một nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác nhau.
- Nhóm tự bầu nhóm trưởng nếu thấy cần. Trong nhóm có xác xuất phân
việc mỗi người một phần việc. Trong nhóm nhỏ, mỗi thành viên đều phải làm
việc hăng hái, chẳng thể ỷ lại vào một đôi người hiểu biết và năng động hơn.
Các thành viên trong nhóm giúp đỡ nhau tìm hiêu vấn đề nêu ra trong khơng khí
thi đua với các nhóm khác. Kết quả làm việc của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết
5


quả học hỏi chung của cả lớp. Để trình diễn kết quả làm việc của nhóm trước
tồn lớp, nhóm có xác xuất cử ra một đại diện hoặc phân việc mỗi thành viên
trình diễn một phần nếu nhiệm vụ giao cho nhóm là khá phức tạp.
- Phương pháp hoạt động nhóm giúp các thành viên trong nhóm san sẻ
các băn khoăn, kinh nghiệm của bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức mới.
Bằng cách nói ra những điều đang nghĩ, mỗi người có xác xuất nhận rõ trình độ

hiểu biết của mình về chủ đề nêu ra, thấy mình cần học hỏi thêm những gì. Bài
học trở nên quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không phải là sự tiếp thụ bị động từ
giáo viên. Thành công của bài học nước phụ thuộc vào sự nồng nhiệt tham gia
của mọi thành viên, vì vậy phương pháp này cịn làm gọi là phương pháp cùng
tham gia.
2.2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM
- Một trong những trọng tâm của đổi mới chương trình và sách giáo khoa
giáo dục phổ thông là tập trung vào đổi mới phương pháp dạy học, thực hiện dạy
học dựa vào hoạt động tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh với sự tổ chức
và hướng dẫn thích hợp của giáo viên nhằm phát triển tư duy độc lập, sáng tạo
góp phần hình thành phương pháp và nhu cầu, khả năng tự học, bồi dưỡng hứng
thú học tập, tạo niềm tin và niềm vui trong học tập. Tiếp tục tận dụng các ưu
điểm của phương pháp truyền thống và dần dần làm quen với những phương
pháp mới.
- Trước đây khi chưa sử dụng kết hợp các phương pháp dạy học tích cực
cùng với việc sử dụng các phương tiện dạy học, trong mỗi tiết dạy đọc văn, tôi
vẫn thường xuyên sử dụng nhiều phương pháp khác nhau đặc biệt là phương
pháp đàm thoại phát vấn, nêu vấn đề để học sinh trả lời. Song tôi vẫn nhận thấy
kết quả đạt được chưa cao bởi chưa thực sự phát huy được tính tích cực của học
sinh, kết của giờ dạy được phản ánh như sau:
+ 65 % học sinh nắm được nội dung ngay tại lớp và có thể làm đúng bài
tập, biết vận dụng vào các bài tập khác.
+ 35 % hiểu rất lơ mơ về bài học và không thể làm được các bài tập ứng
dụng.
+ 25 % học sinh tham gia phát biểu ý kiến xây dựng bài
+ 10 % học sinh khi giáo viên gọi lên mới trả lời và thường trả lời chưa đạt
yêu cầu.
Số còn lại chỉ ngồi nghe và ghi theo hướng dẫn của giáo viên, giờ học thiếu
sơi nổi

Điều tra bất kỳ 10 em thì có: 4 em hiểu bài, 3 em khơng rung động với nội
dung bài học, 3 em cho rằng câu hỏi giáo viên đặt ra rất khó.
- Bài thơ “Đọc Tiểu Thanh kí” (Độc Tiểu Thanh kí) của tác giả Nguyễn Du
là bài thơ còn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau từ hoàn cảnh ra đời, thời điểm
sáng tác đến nội dung tư tưởng. Dịch thơ cũng rất khó, thơ càng hay dịch càng
khó và Độc Tiểu Thanh kí là một bài thơ hay, có những câu rất khó dịch cho sát.
Ngay cả bản dịch nghĩa cũng còn những chỗ chưa nhất trí về cách hiểu ý nghĩa
trong bản chữ Hán. Vì vây, tơi thiết nghĩ cần phải giúp các em từ chỗ còn hiểu
6


biết, mơ hồ, nông cạn về bài thơ cần phải hiểu thật đúng, thật sâu sắc về tác
phẩm này để thấy được tính chất cơ đọng, hàm súc, “lời ít ý nhiều”và cách biểu
hiện tư tưởng, tình cảm của nhà thơ trong tác phẩm cũng như nghệ thuật tinh tế,
điêu luyện của tác giả.
- Để tiết học được sinh động hấp dẫn hơn, học sinh học bài được hứng
thú, say mê và nắm bắt tinh thần của bài học một cách đúng đắn và sâu sắc nhất,
tôi đã suy nghĩ và quyết định sử dụng phương tiện điện tử có sử dụng các hình
ảnh minh họa kết hợp với việc sử dụng linh hoạt các phương pháp giảng dạy vào
từng phần, từng mục của bài để soạn bài học này để giúp học sinh có thể vừa
khắc sâu kiến thức về lý thuyết, vừa củng cố kiến thức bằng các dẫn chứng sinh
động, cụ thể, vừa có thể giúp học sinh biết cách phân tích hoặc bình giảng một
văn bản văn học theo đặc trưng thể loại.
- Bài học được phân phối thời gian trong 2 tiết, nội dung bài học thì nhiều
mà thời gian lại có hạn với biết bao điều cần khai thác, cần hỏi, cần để học sinh
tìm hiểu, nắm bắt. Đối tượng tiếp nhận bài học lại là học sinh trường trung du,
điều kiện kinh tế cịn khó khăn nên nhiều em chưa thực sự chú tâm vào học
hành, còn hạn chế nhiều về năng lực cảm thụ, lỗ hổng kiến thức cịn nhiều nên
khơng phải em nào cũng yêu thích học văn và hơn nữa khơng phải em nào cũng
có khao khát tìm kiếm khám phá về bài học.

2.3. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÊN BÀI DẠY: ĐỌC TIỂU THANH KÍ (ĐỘC TIỂU THANH KÍ) CỦA
TÁC GIẢ NGUYỄN DU
- Mức độ cần đạt của bài học này là:
* Về kiến thức:
- Cảm nhận được niềm cảm thương mà Nguyễn Du dành cho Tiểu Thanh, cho
tất cả những kiếp người tài hoa trong xã hội và tâm sự khao khát tri âm hướng
về hậu thế của nhà thơ.
- Hình ảnh thơ mang ý nghĩa biểu trưng sâu sắc.
- Thấy được nghệ thuật đặc sắc của thơ trữ tình Nguyễn Du.
* Về kĩ năng:
-Đọc - hiểu thơ Đương luật theo đặc trưng thể loại.
* Thái độ:
- Có thái độ trân trọng những giá trị văn hóa tinh thần và những người sáng tạo
ra chúng.
- Yêu gia đình, yêu quê hương đất nước, biết sống yêu thương, nhân ái, khoan
dung, biết đấu tranh vì cái thiện, vì lẽ phải, cơng bằng xã hội.
* Định hướng năng lực, phẩm chất:
- Năng lực đọc hiểu văn bản, năng lực giao tiếp, năng lực giải quyết vấn đề,
năng lực công nghệ thông tin, sử dụng ngôn ngữ, vận dụng kiến thức liên môn,
phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề…
- Phẩm chất: Bồi đắp tình yêu văn học dân tộc; gia đình, hương đất nước, trân
trọng và gìn giữ giá trị tinh thần vô giá của dân tộc.
7


NỘI DUNG CỤ THỂ
HOẠT ĐỘNG 1: KHỞI ĐỘNG
- Giáo viên cho học sinh xem phim tài liệu về Nguyễn Du và đặt câu hỏi:
- Em hãy cho biết nội dung đoạn phim?

- Học sinh suy nghĩ, thảo luận; Giáo viên quan sát, hỗ trợ học sinh.
- Học sinh trả lời câu hỏi. Giáo viên nhận xét, chuẩn hóa kiến thức
Giáo viên dẫn dắt vào bài: Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du từng tâm sự:
“Trải qua một cuộc bể dâu/ Những điều trơng thấy mà đau đớn lịng”. Một
trong “những điều trơng thấy” khiến trái tim ơng thổn thức khơng ngi chính
là số phận khổ đau của những người phụ nữ trong xã hội cũ, đặc biệt là nhũng
người phụ nữ tài sắc mà bạc mệnh. Ông từng cất tiếng kêu thương “Đau đớn
thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”. Ơng đã khóc thương
cho nàng Kiều, cảm thương cho cơ Cầm mà “nước mắt thấm áo”. Có thể thấy
rằng chủ nghĩa nhân đạo như một sợi chỉ đỏ xuyên xuốt trong các sáng tác của
Nguyễn Du, không chỉ trong thơ chữ Nôm mà cả trong thơ chữ Hán. Khơng chỉ
thương xót cho số phận bất hạnh của người phụ nữ Việt Nam, mà tấm lòng ấy
của nhà thơ cịn vượt qua thời gian và khơng gian để xót thương cho nàng Tiểu
Thanh - người con gái có tài, có sắc sống vào khoảng đầu đời Minh – Trung
Quốc.
HOẠT ĐỘNG 2: HÌNH THÀNH KIẾN THỨC
I.TÌM HIỂU CHUNG
1. Tìm hiểu về tác giả Nguyễn Du
- Giáo viên đặt câu hỏi: Anh/chị hãy cho biết những hiểu biết của mình về
tác giả Nguyễn Du.
- Học suy nghĩ, tái hiện kiến thức và trả lời:
Vì ở học kì 2 chương trình Ngữ văn lớp 10 đã có một bài học về tác giả
Nguyễn Du nên ở phần tác giả của bài học này, giáo viên có thể trình chiếu cho
học sinh tham khảo một số hình ảnh về quê hương, con người, mộ phần của đại
thi hào Nguyễn Du và những sáng tác của ông để tạo tâm thế học tập.
-Giáo viên nhấn mạnh một số ý cơ bản về tác giả:
+ Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới.
+ Các sáng tác của ơng chứa chan nội dung nhân đạo sâu sắc và mới mẻ
2.Tìm hiểu về nàng Tiểu Thanh:
- Giáo viên yêu cầu học làm việc cá nhân, đọc phần tiểu dẫn SGK (kĩ

thuật đọc sáng tạo) và trả lời câu hỏi: Phần tiểu dẫn trong SGK cung cấp cho
chúng ta những tri thức nào liên quan đến việc đọc tác phẩm?
- Học sinh đọc sau đó trả lời câu hỏi: Cuộc đời số phận nàng Tiểu Thanh:
đó là một cơ gái Trung Quốc, sống đầu thời nhà Minh, có nhan sắc và có tài
năng nghệ thuật - thi ca, âm nhạc. Năm 16 tuổi, cô phải làm vợ lẽ một nhà
quyền quý. Cô bị người vợ cả hay ghen hành hạ, bắt phải sống riêng trên núi
Cơ Sơn cạnh Tây Hồ. Vì đau buồn, cô sinh bệnh rồi chết ở tuổi 18. Người vợ cả
8


kia không chỉ hành hạ Tiểu Thanh đến chết mà cịn cho đốt những bài thơ của
cơ, may mắn có một số bài thơ cịn sót lại.
- Giáo viên u cầu học sinh suy nghĩ, liên hệ thêm: Ngoài tác phẩm này
ra, Nguyễn Du cịn có những tác phẩm nào viết về những người tài sắc mà bất
hạnh?
- Học sinh suy nghĩ, liên hệ và trả lời: Ngoài nhân vật Tiểu Thanh,
Nguyễn Du còn viết về một số nhân vật “hồng nhan bạc mệnh” khác như Thúy
Kiều, Đạm Tiên (Truyện Kiều).
-Giáo viên mở rộng: Thực ra vấn đề “hồng nhan bạc mệnh” không phải là
vấn đề mới mẻ mà đã được nói đến từ trước (bất hạnh của người cung nữ cũng
là bất hạnh của người tài sắc và Cung ốn ngâm khúc có câu: Oan chi những
khách tiêu phịng/ Mà xui phận bạc nằm trong má đào). Nhưng dẫu sao người
cung nữ cũng không phải là trường hợp phổ biến cho số phận tài sắc. Chỉ đến
Nguyễn Du, ông mới chú ý đến một lớp người có thân phận thấp trong xã hội
như nàng Tiểu Thanh, Thúy Kiều, Đạm Tiên. Họ đều có tài năng và sắc đẹp,
nhất là tài năng nghệ thuật tức là những người đại diện cho giá trị, là tinh hoa
của giới phụ nữ nhưng cuộc đời họ đều bất hạnh vẫn là đối tượng có nhiều vấn
đề hơn để nhà thơ quan tâm đến.
3. Tìm hiểu về văn bản Đọc Tiểu Thanh kí (Độc Tiểu Thanh kí) của tác giả
Nguyễn Du.

a, Hồn cảnh sáng tác
- Giáo viên hỏi: qua những tìm hiểu của anh/chị, hãy cho biết hoàn cảnh
sáng tác của bài thơ.
- Học sinh suy nghĩ, trả lời:
- Đây là một câu hỏi khó nên giáo viên cung cấp cho học sinh: Hồn cảnh
sáng tác của bài thơ còn nhiều ý kiến khác nhau. Chẳng hạn: Bài thơ được sáng
trong hoàn cảnh cụ thể nào? Khi trên đường đi sứ hay khi ở Việt Nam, ở Thăng
Long hay ở Huế?
+ Cụ Đào Duy Anh viết: “Do hai câu phá và thừa thấy hình như Nguyễn Du viết
bài này sau khi được đọc Tiểu Thanh kí chính ở Tây Hồ, nơi có mộ của Tiểu
Thanh, khi ơng đi qua Hàng Châu. Vì thế chúng tôi đặt bài ấy ở đây, trong Bắc
hành tạp lục”.
+ Cịn nhà nghiên cứu Trương Chính thì cho rằng: “Bài này không phải làm khi
qua mộ Tiểu Thanh ở Tây Hồ, nên không ở trong Bắc hành tạp lục”.
+ Mai Quốc Liên lại cho rằng: “Với đầu đề Độc Tiểu Thanh kí - tức nhân đọc
truyện Tiểu Thanh, cảm xúc mà làm thơ, thì việc đọc này có lẽ xảy ra vào lúc
Nguyễn Du ở nhà phải hơn. Ở nhà, thong dong đọc Tiểu Thanh kí trước song
cửa, cịn “vất vả như đi sứ” (thời xưa), đâu dễ có ngày giờ ngồi đọc sách”.
Trong tình hình tư liệu hiện nay, chúng ta đành chấp nhận theo một cách
hiểu tạm cho là có lí nhất, có thể xem như gần với sự thật nhất mà thôi. Nghĩa là
chúng ta tạm giả định: Nguyễn Du viết bài thơ này ở Việt Nam, khi ông đang
làm quan với nhà Nguyễn. Nhà thơ ngồi viết bên cửa sổ, cảm hứng khi đọc tập
truyện kí ghi chép về cuộc đời ngàn Tiểu Thanh (Chứ không phải là đọc tập thơ
– phần dư của Tiểu Thanh).
9


b, Nhan đề bài thơ
- Giáo viên đặt câu hỏi: Có thể hiểu nhan đề bài thơ theo các nghĩa nào?
- HS suy nghĩ và trả lời: Nhan đề có hai nghĩa:

+ Đọc tập thơ của Tiểu Thanh.
+ Đọc Tiểu Thanh truyện (Truyện viết về nàng Tiểu Thanh)
c, Đọc văn bản:
- Giáo viên nêu yêu cầu cách đọc: chậm, buồn, sâu lắng. Riêng hai câu cuối
đọc giọng đau đớn, lo âu, thảng thốt.
- Giáo viên gọi 1 học sinh đọc diễn cảm phần phiên âm và bản dịch thơ;
yêu cầu một học sinh khác đọc chậm phần dịch nghĩa. Đến câu nào có chú thích,
kết hợp đọc chú thích của câu ấy để cả lớp hiểu rõ nghĩa. Ví dụ: “Chỉ viếng nàng
qua một tập sách đọc trước cửa sổ”. Ý nói: đọc tập kí kể về cuộc đời Tiểu
Thanh.
d, Hình dung chủ thể trữ tình của bài thơ
- Giáo viên nêu câu hỏi: Sau khi đọc bài thơ, bước đầu chúng ta hình dung
được điều gì về chủ thể trữ tình – tác giả bài thơ? (Đọc cái gì? Ở đâu? Từ đó
cảm nghĩ về ai? Về điều gì?)
- Học sinh tưởng tượng, tái hiện: Chủ thể trữ tình – tác giả bài thơ đọc
tập kí (truyện) kể về cuộc đời Tiểu Thanh ở bên cửa sổ. Từ đó, cảm nghĩ về cuộc
đời, số phận nàng Tiểu Thanh, về “nỗi hờn kim cổ” và nghĩ về chính mình ba
trăm năm sau.
e, Thể thơ và bố cục:
- Giáo viên yêu cầu học sinh xác định thể thơ trong nguyên tác và trong bản
dịch thơ.
- Học sinh xác định: thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật.
- Giáo viên nêu vấn đề và hỏi: Với thể thơ ấy, có thể chia bài thơ theo cấu
trúc chung, phổ biến của thể thơ thất ngơn bát cú Đường luật. Lại cũng có thể
chia bài thơ thành hai phần để phân tích: 4 câu đầu (tiền giải); 4 câu cuối (hậu
giải). Anh, chị chọn cách phân chia nào để tiếp cận, đi sâu tìm hiểu nội dung tư
tưởng và đặc sắc nghệ thuật của bài thơ?
- Học sinh trả lời:
+ 4 câu đầu: Cảm nghĩ của nhà thơ về cuộc đời, số phận nàng Tiểu Thanh
+ 4 câu cuối: Cảm nghĩ của nhà thơ về những người tài sắc nói chung và

về chính mình.
II. HƯỚNG DẪN ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN
Để giúp học sinh có hứng thú học tập tốt hơn, giáo viên có thể trình chiếu
một vài hình ảnh về những bức tranh về địa danh Tây Hồ, núi Cô Sơn hoặc là
những thay đổi của cảnh vật xưa và nay.
1, Bốn câu thơ đầu
- Giáo viên yêu cầu học sinh đọc diễn cảm 4 câu thơ đầu trong cả ba văn
bản phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ và yêu cầu học sinh so sánh giữa bản dịch
thơ với dịch nghĩa và phiên âm để hiểu đúng và đầy đủ hơn về điều tác giả muốn
nhắn gửi trong tác phẩm.
- Giáo viên gợi: Hãy đọc lại hai câu thơ mở đầu (cả dịch thơ và dịch nghĩa)
10


đặc biệt là câu đầu tiên, hãy cho biết nhà thơ đang nghĩ về điều gì? Cảm xúc của
tác giả khi nghĩ về điều ấy?
- Học sinh suy nghĩ, cảm nhận và trả lời:
+ Nhà thơ đang nghĩ về sự hoang tàn, hoang phế của “Tây Hồ cảnh đẹp” (vườn
hoa bên Tây Hồ). “Gò hoang” hay “đã thành bãi hoang rồi” có nghĩa là khung
cảnh tươi đẹp nơi đây đã bị hủy hoại lâu rồi, trở thành một nơi trơ trụi, hoang
vắng, đìu hiu.
+ Trong câu thơ có giọng xót xa, nuối tiếc của nhà thơ trước cái đẹp bị tàn phá,
vùi dập, huỷ hoại phũ phàng- là cảm xúc mang tính nhân văn khá phổ biến
trong văn học trung đại (thơ Nguyễn Trãi, Bà huyện Thanh Quan...)
- Giáo viên đặt câu hỏi: Địa danh “Tây Hồ” được nhắc đến trong câu đầu
cịn gợi nhớ đến ai? Từ đó, câu thơ này còn phải được hiểu thế nào?
- Học sinh suy nghĩ, liên hệ, suy luận và trả lời:
+ Cảnh đẹp “Tây Hồ” gợi nhớ đến người con gái đã từng sống ở Cơ Sơn cạnh
Tây Hồ, từng gắn bó với nơi này - tức Tiểu Thanh. Giống như cảnh đẹp Tây Hồ,
cuộc đời của người con gái tài sắc này cũng bị hủy hoại, chỉ còn một vài bài thơ

may mắn sót lại.
+ Điều này có nghĩa là: nhà thơ tiếc nuối, xót xa cho cảnh đẹp của Tây Hồ nay
đã thành bãi hoang nhưng thực chất là bày tỏ sự xót xa, tiếc nuối cho Tiểu
Thanh – người con gái tài sắc mà bạc mệnh.
- Giáo viên yêu cầu học sinh: So sánh phiên âm và bản dịch thơ ở câu 2,
bản dịch đã chuyển tải hết ý các từ “độc điếu”, “nhất chỉ thư” chưa?
- Học sinh tìm tịi, phát hiện:
+ “Độc điếu”- một mình viếng thương tâm thế cô đơn của tác giả.
+ “Nhất chỉ thư”- một tập sách - tập kí về cuộc đời Tiểu Thanh.
 Nghĩa câu 2: Một mình viếng thương nàng qua một tập sách viết về cuộc đời
nàng đọc trước cửa sổ.
 Câu dịch chưa chuyển tải hết ý thơ. Câu thơ nguyên tác cho thấy hình ảnh
một con người với tâm thế cơ đơn, mang một lịng đau tìm gặp một hồn đau. Nó
cho thấy sự đồng cảm sâu sắc của trái tim vĩ đại.
- Giáo viên tổ chức cho học sinh trao đổi, thảo luận theo nhóm với các câu
hỏi sau:
+Nhóm 1: Từ “ son phấn , “văn chương” trong câu 3, 4 gợi cho em những cách
hiểu nào? “ son phấn , “văn chương” tượng trưng cho điều gì?
+ Nhóm 2: Chú thích (2) cho biết chữ “thần” ở đây nghĩa là gì? Từ đó hãy diễn
đạt lại cho rõ hơn về cụm từ “son phấn có thần”.
+ Nhóm 3: Đọc phần dịch nghĩa, cho biết “hận” được hiểu như thế nào? Và
“hận” về việc gì? Những việc sau khi chết là những việc gì? Em có nhận xét gì
về những việc đó?
+ Nhóm 4: Nhà thơ nói gì về nàng Tiểu Thanh qua 2 câu 3-4.
+ Nhóm 5: Thái độ của nhà thơ thể hiện qua 2 câu 3-4.
(Các câu hỏi được chiếu trên máy chiếu để học sinh dễ nắm bắt)
- Học sinh viết cách hiểu của mình ra giấy, đại diện từng nhóm lên trình
bày:
11



+Nhóm 1:
(+) Nếu hiểu “son phấn”, “văn chương” là chủ thể tự hận, tự thương thì có
nghĩa là: Son phấn có thần chắc phải xót xa vì những việc sau khi chết/ Văn
chương khơng có số mệnh mà cũng bị đốt dở.
(+) Nếu hiểu “son phấn”, “văn chương” là đối tượng thương cảm của người
đời thì có nghĩa là: Son phấn như có thần, sau khi chết người ta cịn thương
tiếc/ Văn chương có số mệnh gì mà người ta phải bận lịng đến những bài thơ
cịn sót lại sau khi đốt.
Son phấn: là hình ảnh chỉ người phụ nữ có nhan sắc, tức Tiểu Thanh. Văn
chương: là chỉ những bài thơ của nàng Tiểu Thanh. Nhưng nó cũng cịn có
nghĩa là chỉ tài hoa, trí tuệ của nàng.
+ Nhóm 2: “Thần” là sự linh thiêng, là phần linh hồn của người đã chết. Son
phấn có thần nghĩa là “Tiểu Thanh có linh thiêng”...
+Nhóm 3: “Hận” là “xót xa vì những việc sau khi chết”. Sau khi Tiểu Thanh
chết rồi, những bài thơ mà nàng để lại cũng bị đốt. Người vợ cả vẫn cịn ghen
tức, hằn học, chưa bng tha Tiểu Thanh mặc dù nàng đã buồn khổ mà chết.
Người vợ cả đốt tập thơ của nàng sau khi nàng chết phần dư là tập thơ bị đốt
cịn sót lại.
+Nhóm 4: Tiểu Thanh là người có số phận bất hạnh: Đau khổ, cơ đơn khi cịn
sống; bị dày vị, hành hạ khi đã chết. Tài hoa, trí tuệ của nàng cũng bị hủy diệt
cho đến cùng (văn chương không có tội tình gì cũng phải chung số phận như
người sáng tạo ra nó).
+Nhóm 5: Tác giả tiếc thương cho Tiểu Thanh - người tài hoa bạc mệnh. Đồng
thời tỏ thái độ bất bình, ốn trách những kẻ đã gây ra bất hạnh cho Tiểu Thanh.
- Các nhóm khác góp ý, bổ sung, giáo viên kết luận lại các vấn đề.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh khái quát, đánh giá (Dành cho HS khá,
giỏi): Từ những phân tích cụ thể nêu trên, ta thấy Tiểu Thanh hiện lên trong thơ
Nguyễn Du thế nào? Nếu có một thế giới khác sau khi chết dành cho con người
thì cái chết của Tiểu Thanh đã có thể coi là một sự giải thốt trọn vẹn chưa? Vì

sao?
- Học sinh khái qt, đánh giá:
+ Tiểu Thanh là một người con gái có số phận bất hạnh. Nàng có tài năng và
nhan sắc nhưng khơng được hưởng một cuộc sống hạnh phúc. Thậm chí những
gì nàng để lại cũng bị truy diệt đến cùng.
+ Nếu có một thế giới khác sau khi chết dành cho con người thì cái chết của
Tiểu Thanh chưa thể coi là một sự giải thốt trọn vẹn vì ở thế giới bên kia, nàng
vẫn phải xót xa cho chính mình bởi những gì người ta đã làm đối với di thơ của
nàng.
- Giáo viên giảng giải, phân tích: Là một cô gái đẹp và tài hoa, Tiểu
Thanh cũng xứng đáng được xem là biểu tượng cho cái đẹp và những giá trị văn
hóa tinh thần của đời sống con người. Mà cái đẹp, nhất là nhan sắc và tài năng
nghệ thuật, lại khơng phải là thứ mà tạo hóa hay xã hội muốn hoặc có thể ban
phát cho tất cả mọi người, nghĩa là nó rất quý, rất hiếm. Từ đây, có thể hiểu rộng
hơn về tâm trạng, thái độ của đại thi hào Nguyễn Du:
12


+ Nhà thơ xót xa, nuối tiếc cái đẹp và những giá trị tinh thần đẹp đẽ của con
người đã sớm khơng cịn tồn tại.
+ Đồng thời bất bình với cái xã hội mà ở đó tài năng con người không được nảy
nở, nhan sắc con người không được trân trọng, bảo vệ.
(Giáo viên có thể tiểu kết bằng việc sơ đồ hóa các đơn vị kiến thức của 4
câu thơ đầu và trình chiếu trên máy chiếu để học sinh ghi nhớ, khắc sâu kiến
thức bài học.)
2, Bốn câu thơ cuối
- Giáo viên gọi một học sinh đọc lại bốn câu thơ cuối, cả phiên âm, dịch
thơ và dịch nghĩa.
- Giáo viên hỏi: Từ cuộc đời và số phận nàng Tiểu Thanh, tác giả khái quát:
“Nỗi hờn kim cổ trời khơn hỏi”. Vậy, “Nỗi hờn kim cổ” là gì?

- Học sinh trả lời: “Nỗi hờn kim cổ” là mối hận từ xưa đến nay, mối hận
của người xưa và người nay.
- Giáo viên hỏi: Người xưa là ai? Người nay là ai? Họ hận điều gì?
- Học sinh trả lời:
+ Người xưa có lẽ là Tiểu Thanh và những người phụ nữ cùng cảnh ngộ.
+ Người nay: Những người phụ nữ hồng nhan bạc mệnh, tài mệnh tương đố
cùng thời với Nguyễn Du và thế hệ những nhà thơ tài năng nhưng gặp nhiều khổ
đau, bất hạnh trong cuộc đời như Nguyễn Du.
+ Họ hận một sự thật vô lí như đã thành một định lệ, thơng lệ, một quy luật
trong cuộc đời: cứ người đẹp, người tài là đều không gặp may, đều bất hạnh, bị
thù ghét, vùi dập. Đó là “tài mệnh tương đố”, “tài hoa bạc phận”, “hồng nhan
đa truân…
- Giáo viên giảng giải: Nếu ở 4 câu đầu, Nguyễn Du chủ yếu hướng sự
thương cảm đến Tiểu Thanh thì đến câu 5, trái tim Nguyễn Du đã hướng tới sự
đồng cảm, xót thương đến mọi kiếp hồng nhan bạc mệnh tương đố.
- Giáo viên nêu vấn đề: Tại sao Nguyễn Du lại cho rằng “nỗi hờn kim cổ”
ấy trời khôn hỏi tức là “không thể hỏi trời được”? Ba chữ “trời khơn hỏi” cho ta
hình dung giọng điệu của câu thơ và thái độ của tác giả thế nào?
- Học sinh suy nghĩ và trả lời:
+ Khơng thể hỏi trời được vì đó là câu hỏi từ xưa đến nay chưa có lời đáp.
Hỏi trời vơ ích vì trời cũng bất lực khơng trả lời được. Thực tế nghiệt ngã ấy đã
và vẫn cứ diễn ra.
+ Giọng ốn trách, thể hiện thái độ bất bình của nhà thơ khi ý thức về sự
chà đạp tài năng, nhan sắc đã và đang tồn tại trong xã hội phong kiến.
Giáo viên chuyển ý: Từ quy luật nghiệt ngã này, Nguyễn Du đã nghĩ về
mình, bộc bạch tâm sự của mình.
- Giáo viên yêu cầu học sinh: So sánh chữ “ngã” (tôi, ta) với chữ
“khách” của bản dịch?
- Học sinh tìm tịi, phát hiện:
+ Ngã: tơi, ta cái tơi trực tiếp hiện diện hiếm có trong thơ cổ.

+Khách: khách thể nói chung làm mất ý chủ thể, cái tôi của Nguyễn Du.
- Giáo viên yêu cầu học sinh: Đọc dịch nghĩa câu 6 và cho biết nhà thơ đã
13


tự xem mình là người cùng hội cùng thuyền với ai? Tại sao Nguyễn Du lại tự
nhận như vậy?
- Học sinh suy nghĩ và trả lời: Nhà thơ đã tự xem mình là người cùng hội
cùng thuyền với Tiểu Thanh (“kẻ mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã”). Tự
nhận như vậy là vì Nguyễn Du cũng thấy mình có điểm tương đồng với số phận
những người tài sắc như Tiểu Thanh. Bản thân nhà thơ cũng là người có tài
năng văn chương nhưng cuộc đời long đong, lận đân.
- Giáo viên hỏi: Việc tự xem mình là người cùng hội cùng thuyền với Tiểu
Thanh đã cho thấy thái độ nào của nhà thơ với người con gái tài sắc này? Qua
thái độ ấy, ta thấy được điều gì về tấm lịng, tình cảm của nhà thơ dành cho
những người tài sắc mà bất hạnh trong cuộc sống?
- Học sinh suy nghĩ và trả lời: Nhà thơ đồng cảm sâu sắc với Tiểu Thanh.
Thái độ ấy cũng chính là cách nhà thơ bày tỏ sự chia sẻ, cảm thông và trân
trọng của mình đối với những tài tử, văn nhân, những quốc sắc thiên hương,
những người tài hoa trong xã hội.
- Giáo viên dẫn dắt và nêu vấn đề tiếp: Từ sự đồng cảm với Tiểu Thanh,
Nguyễn Du nghĩ về mình hơn ba trăm năm sau (2 câu thơ cuối). Về con số “ba
trăm năm lẻ” trong câu 7, có hai ý kiến:
+ Hơn ba trăm năm là được tính từ khi Tiểu Thanh chết đến lúc Nguyễn Du biết
và khóc cho Tiểu Thanh.
+ Đây là con số ước lệ chỉ thời gian dài.
Anh/chị chọn cách lí giải nào? Vì sao? (GV cung cấp tư liệu để HS có cơ sở suy
nghĩ: Theo Tiểu Thanh truyện viết cuối đời Minh, Tiểu Thanh mất năm 1612).
- Học sinh suy nghĩ, trả lời:
+ Tính từ khi Tiểu Thanh mất năm 1612 đến khi Nguyễn Du mất năm 1820

thì thời gian cũng chỉ là hơn 200 năm. Như vậy, kiến giải thứ nhất là khơng
đúng.
+ Vậy chỉ có thể cho rằng: ba trăm năm lẻ là con số ước lệ chỉ khoảng thời
gian dài, rất dài, dai hơn cả khoảng thời gian từ khi Tiểu Thanh chết đến lúc
Nguyễn Du biết và khóc cho Tiểu Thanh.
- Giáo viên đặt câu hỏi: Vậy điều mà nhà thơ trăn trở sau ba trăm năm lẻ là
gì?
- Học sinh suy nghĩ và trả lời: Khơng biết người đời sau có ai khóc cho
mình khơng.
- Giáo viên nêu vấn đề: Cần phải hiểu khóc ở đây thế nào? Có sự liên hệ
nào giữa việc nhà thơ “viếng nàng” (Tiểu Thanh) qua tập sách đọc trước cửa sổ
với việc người đời sau có ai “khóc Tố Như”?
- Học sinh lí giải: Khóc ở đây là sự đồng cảm, chia sẻ, là tri âm. Nguyễn
Du mong đợi người đời sau đồng cảm với mình, chia sẻ tâm sự của mình như
mình đã đồng cảm, chia sẻ với Tiểu Thanh.
- Giáo viên diễn giảng: Câu thơ cho thấy:
+ Nguyễn Du khao khát tri âm.
+ Cảm hứng tự thương chính là nét mới mang tinh thần nhân bản của văn học
trung đại Việt Nam giai đoạn thế kỉ XVIII- nửa đầu thế kỉ XIX- thời đại con
14


người không chỉ ý thức về nhân phẩm, về tài năng cá nhân mà còn thức tỉnh về
nỗi đau của chính mình, đây là dấu hiệu của cái tơi cá nhân.
+ Tấm lịng nhân đạo lớn lao, “con mắt trơng thấu sáu cõi và tấm lịng nghĩ suốt
nghìn đời” của Nguyễn Du. Bởi ơng khơng những khóc thương cho Tiểu Thanh,
cho những kiếp hồng nhan bạc phận thuở trước, khóc thương cho những kiếp tài
hoa bạc mệnh đương thời, trong đó có cả chính ơng mà cịn khóc cho người đời
sau phải khóc mình (kiếp tài hoa bạc mệnh vẫn còn trong tương lai).
- Giáo viên hỏi học sinh: Vậy nỗi băn khoăn đó của đại thi hào Nguyễn

Du đã tìm được sự tri âm của người đời sau chưa ?
- Học sinh tìm hiểu và trả lời : nỗi băn khoăn đó của đại thi hào Nguyễn
Du đã tìm được sự tri âm của của bao thế hệ người Việt Nam sau này.
+ Từ khi tác phẩm của Nguyễn Du ra đời đến nay, ơng ln có vị trí trang trọng
trong lòng người Việt Nam.
+ Đặc biệt, ở thế kỉ XX, chưa đến 300 năm, cả dân tộc ta “khóc” Nguyễn Du
qua tiếng khóc, tiếng ca của Tố Hữu: “Tiếng thơ ai động đất trời....”(Kính gửi
cụ Nguyễn Du).
+ Năm 1965, cả nước ta long trọng kỉ niệm 200 năm ngày sinh Nguyễn Du. Thế
giới công nhận ông là danh nhân văn hóa...
Giáo viên có thể yêu cầu học sinh đọc hoặc cung cấp cho học sinh biết về
bài thơ “Kính gửi cụ Nguyễn Du” của nhà thơ Tố Hữu.
(Giáo viên có thể tiểu kết bằng việc sơ đồ hóa các đơn vị kiến thức của 4
câu thơ cuối và trình chiếu trên máy chiếu để học sinh ghi nhớ, khắc sâu kiến
thức bài học.)
III. PHẦN TỔNG KẾT BÀI HỌC
1. Chủ đề bài thơ:
- Giáo viên yêu cầu học sinh xác định chủ đề của bài thơ
- Học sinh xác định bài thơ có chủ đề kép: Bài thơ khơng chỉ là niềm cảm
thông sâu sắc của tác giả đối với số phận nàng Tiểu Thanh nói riêng và thân
phận những con người tài sắc mà bất hạnh nói chung mà cịn là tâm sự sâu kín
của chính bản thân Nguyễn Du.
2. Nội dung:
- Giáo viên nêu câu hỏi: Mạch vận động của cảm xúc (tứ thơ) trong bài như
thế nào?
- Học sinh trả lời: Mạch vận động của cảm xúc (tứ thơ): Đọc truyện  xót
xa, thương tiếc cho nàng Tiểu Thanh tài sắc mà bạc mệnh suy nghĩ, tri âm với
số phận những người tài hoa, tài tử  tự thương cho số phận tương lai của
mình, khao khát tri âm.
(Giáo viên có thể trình chiếu mạch vận động của cảm xúc trong bài thơ

bằng sơ đồ để học sinh dễ nắm bắt.)
- Giáo viên hỏi: Theo anh/chị, giá trị nhân đạo của tác phẩm có phải chỉ
biểu hiện ở niềm thương cảm cho số phận bất hạnh của Tiểu Thanh và những
người như nàng khơng? Vì sao?
- Học sinh trả lời:
15


+ Nguyễn Du xót xa, thương cảm cho Tiểu Thanh- một hồng nhan bạc mệnh,
một tài năng thi ca đoản mệnh, cho những kiếp hồng nhan đa truân, tài tử đa
cùng nói chung.
+ Với cảm hứng tự thương và sự tri âm sâu sắc, ông đã đặt vấn đề : quyền sống
của người nghệ sĩ, sự cần thiết phải tôn vinh, trân trọng những người làm nên
các giá trị văn hóa tinh thần.
3. Nghệ thuật:
- Giáo viên yêu cầu học sinh: Từ việc phân tích từ ngữ, hình ảnh thơ,
anh/chị đánh giá thế nào về ngôn ngữ của bài thơ? (Giáo viên có thể gợi cho học
sinh nhớ lại các từ ngữ, hình ảnh đã phân tích để từ đó nhận xét khái quát: vườn
hoa bên Tây Hồ, son phấn, thần, văn chương, nỗi hơn kim cổ…)
- Học sinh suy nghĩ trả lời:
+ Ngôn từ cô đọng, đa nghĩa, giàu hình ảnh, có giá trị biểu cảm cao.
+ Sử dụng tài tình phép đối và khả năng thống nhất những hình ảnh đối lập
trong hình ảnh, ngơn từ.
- Giáo viên hỏi : nhận xét về kết cấu của bài thơ :
- Học sinh suy nghĩ trả lời: Kết cấu chặt chẽ, lôgic, mỗi phần đều hướng về
chủ đề tác phẩm.
- Giáo viên yêu cầu học sinh đối chiếu những gì vừa tổng kết với mục “Kết
quả cần đạt” trong SGK trang 131.
- Giáo viên gọi một học sinh đọc phần ghi nhớ trong SGK trang 134.
HOẠT ĐỘNG 3: THỰC HÀNH

- Giáo viên đưa ra bài tập thực hành: Có ý kiến cho rằng: Mặc dù hai câu
cuối thất niêm nhưng ý tứ tồn bài nhất qn, liền mạch hay nói cách khác là kết
cấu bài thơ chặt chẽ. Dựa vào những hiểu biết của anh/ chị về thể thơ thất ngôn
bát cú Đường luật, hãy làm sáng tỏ nhận định trên (Câu hỏi 4 phần Hướng dẫn
học bài, SGK trang133)
- Học sinh làm bài tập và trả lời:
Bài thơ thất ngôn bát cú gồm 4 phần: đề, thực, luận, kết (2câu/phần). Hai
câu đề bắt đầu bằng một sự kiện khơi gợi cảm xúc của nhà thơ về Tiểu Thanh.
Hai câu thực thừa tiếp và mở rộng mạch cảm xúc về Tiểu Thanh ở hai câu đề.
Hai câu luận khái quát, nâng lên thành hiện tượng có tính quy luật về những
người tài sắc mà bạc mệnh và bắt đầu liên hệ đến bản thân nhà thơ. Tiếng khóc
ở hai câu kết có ý nghĩa khái quát, mở rộng “sợi dây” đồng cảm vượt khoảng
cách thời gian tạo nên độ dư ba: Người đời nay thương người đời xưa, người
đời sau thương người đời nay. Kết cấu của bài thơ như vậy là rất chặt chẽ,
lôgic, mỗi phần đều hướng về chủ đề.
HOẠT ĐỘNG 4: ỨNG DỤNG, VẬN DỤNG
-Giáo viên chia lớp thành các nhóm, yêu cầu các nhóm (6 học sinh/nhóm)
làm các cơng việc sau:
+Từ nhóm 1 đến nhóm 3: Ngâm bài thơ Đọc Tiểu Thanh kí, phần dịch thơ
+Từ nhóm 4 đến nhóm 7: Hãy bình giảng hai câu thơ đầu của bài thơ
- Các nhóm học sinh làm việc, giáo viên quan sát và hỗ trợ.
- Đại diện các nhóm lên trình bày
16


- Các nhóm khác nhận xét, bổ sung
- Giáo viên chốt lại vấn đề
- Giáo viên giao bài tập về nhà cho học sinh:
+ Dựa vào nội dung bài thơ, lí giải tại sao Nguyễn Du lại có sự đồng cảm, tri âm
sâu sắc với Tiểu Thanh?

+Anh (chị) hiểu gì về tâm sự của Nguyễn Du được gửi gắm trong bài thơ này?
HOẠT ĐỘNG 5: MỞ RỘNG, BỔ SUNG
- Giáo viên yêu cầu học sinh:
+ Nắm chắc những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Đọc Tiểu
Thanh kí.
+ Tìm đọc tập thơ chữ Hán và các sáng tác viết bằng chữ Nôm, đặc biệt là kiệt
tác Truyện Kiều của Nguyễn Du.
+Tham khảo thêm các bài tập trong Sách “Bài tập Ngữ văn 10”
+ Luyện viết những đoạn văn nghị luận văn học theo đề bài ở phần ứng dụng
2.4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
GIÁO DỤC, VỚI BẢN THÂN, ĐỒNG NGHIỆP VÀ NHÀ TRƯỜNG.
Qua việc sử dụng tốt các phương tiện dạy học và áp dụng một số phương
pháp có tính tích cực trong việc tìm hiểu tác phẩm Đọc Tiểu Thanh kí của tác giả
Nguyễn Du trong chương trình Ngữ Văn 10 - ban cơ bản áp dụng cho 3 lớp
10C1, 10C4 và 10C9 tôi thấy rằng:
- Hầu hết học sinh hiểu, nắm chắc, khắc sâu được kiến thức về tác phẩm.
- Học sinh hứng thú trong cách tìm hiểu tác phẩm. Tạo khơng khí sơi nổi
trong tranh luận tìm hiểu vấn đề, có những phát hiện mới mẻ có tính sáng tạo
trong giờ học. Các em rất hứng thú với tiết học và hăng say phát biểu ý kiến xây
dựng bài. 85% các em hiểu bài ngay tại lớp và làm thành công các bài tập trong
sách giáo khoa cũng như các bài tập lấy ở các tài liệu tham khảo khác.
- Tránh được việc thụ động đọc chép trong bài giảng của giáo viên.
- Giáo viên rất nhàn trong quá trình lên lớp mà vẫn đạt được những mục
đích của tiết dạy. Chủ động cùng khám phá tri thức với học sinh.
- Áp dụng làm các dạng bài tập về tác phẩm đạt hiệu quả cao, đặc biệt là
với những đề bài có tính phát hiện và phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo
của học sinh.
- Đặc biệt thông qua tác phẩm này và các bài thơ viết theo thể thất ngôn bát
cú Đường luật mà các em đã học trước đó, các em đã hiểu một cách có hệ thống
về đặc điểm thể loại, nội dung và nghệ thuật của thơ thất ngôn bát cú Đường luật

nói chung và bài thơ Đọc Tiểu Thanh kí nói riêng. Mặt khác, các em cũng có thể
hiểu biết sâu sắc hơn về cảm hứng sáng tác, chất liệu sáng tác, cũng như chủ
nghĩa nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của đại thi hào Nguyễn Du. Từ đó các em có
điều kiện nắm chắc tác phẩm để vận dụng kiến thức đã học vào bài làm trên lớp.
Bên cạnh đó tơi cũng gợi mở những vấn đề có tính chất mới mẻ đối với các em
để một số học sinh khá, giỏi tiếp tục tìm tịi đi sâu tìm hiểu tác phẩm thơ viết
theo thể Đường luật của các tác giả Việt Nam thời trung đại. Đồng thời tôi cũng
khuyến khích các em đọc thêm một số tác phẩm đặc sắc khác của tác giả
17


Nguyễn Du như các bài thơ trong tập Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm,
Bắc hành tạp lục và đặc biệt là kiệt tác Truyện Kiều… và của các tác giả khác
như Nguyễn Trãi, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương....để có cái nhìn tồn diện
hơn về thể loại. Kết hợp trong những bài giảng về thơ thất ngôn bát cú Đường
luật của văn học trung đại Việt Nam, chúng tôi cũng nhấn mạnh đến vai trò, tác
dụng của văn học nói chung và của thơ ca nói riêng trong việc hồn thiện nhân
cách và tâm hồn cho học sinh. Đó là mục đích mà người thầy giáo dạy văn phải
hướng tới.
Cụ thể:
Lớp

Học hứng thú

10C1
43/47 học sinh
10C4
42/45 học sinh
10C9
33/37 học sinh

Kết quả kiểm tra viết các lớp:

Lớp


số

10C1
10C4
10C9

47
45
37

Điểm giỏi
Số
%
lượng
8
17,02 %
9
20 %
5
13,51 %

Hiểu bài
47/47 học sinh = 100%
45/45 học sinh = 100%
37/37 học sinh = 100%


Điểm khá
Số
%
lượng
30
63,82%
28
62,22 %
24
64,86 %

Điểm trung bình
Số
%
lượng
9
19,14 %
8
17,77 %
8
21,62 %

- Chất lượng môn học ở lớp được nâng lên, giảm thiểu tối đa thời gian học sinh
chỉ biết lắng nghe và ghi chép. Vì thế học sinh cũng có tâm thế thoải mái và
khơng cịn ngại những giờ học văn. Các em cịn đề nghị các tiết sau cơ cũng làm
như vậy để các em dễ học hơn và được phát biểu những suy nghĩ, những quan
điểm của mình và biết vận dụng vào việc làm văn để phân tích, bình giảng tác
phẩm theo đặc trưng thể loại.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

3.1. KẾT LUẬN
Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nhấn mạnh: “Cái quan trong nhất
trong giảng dạy nói chung và giảng dạy văn nói riêng là rèn luyện bộ óc, là rèn
luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp nghiên cứu, phương pháp tìm tịi,
phương pháp vận dụng kiến thức”. Như thế, dạy văn không chỉ là công việc
thuyết giảng của giáo viên, mà là cách thức học sinh hoạt động nhằm phát huy
tiềm năng sáng tạo thẩm mĩ. Giáo viên giữ vai trò khơi gợi tâm thế nhận thức
cũng như duy trì cảm hứng trong “cuộc giao tiếp im lặng” giữa nhà văn và bạn
đọc- học sinh.
Với việc sử dụng giáo án điện tử có sử dụng các hình ảnh minh họa và các
thiết bị hỗ trợ khác kết hợp với việc sử dụng linh hoạt các phương pháp trong
18


một bài học đã giúp tơi có được những thành công nho nhỏ trong việc dạy học.
Đề tài này không phải là một hướng đi mới mà chỉ là một phương pháp cụ thể
hoá vấn đề vào những tiết dạy cụ thể trong quá trình lên lớp hàng ngày của giáo
viên.
Tuy nhiên để thực hiện một cách có hiệu quả các phương pháp trên với một
tiết dạy cụ thể đòi hỏi giáo viên phải có sự sáng tạo, lịng u nghề, có các
phương tiện hiện đại hỗ trợ trong quá trình thực hiện. Và đây khơng phải là
những phương pháp duy nhất mà trong quá trình đọc hiểu tác phẩm văn học giáo
viên cần áp dụng linh hoạt các phương pháp một cách phù hợp với từng tiết dạy
cụ thể phù hợp với đối tượng học sinh.
3.2. KIẾN NGHỊ
Với đề tài này, tôi xin kiến nghị với nhà trường và cấp trên một số vấn đề
như sau:
- Đề nghị Sở giáo dục và nhà trường tổ chức các lớp bồi dưỡng về ứng
dụng công nghệ thông tin,c ách sử dụng các thiết bị dạy học hiện đại cho cán bộ
giáo viên để họ tích cực hơn trong việc giảng dạy, tránh tình trạng “dạy chay,

học chay”, giúp cho bài dạy trở nên sinh động, hấp dẫn hơn và học sinh có nhiều
thời gian để trao đổi, thảo luận, tìm tịi, phát hiện ra vấn đề hơn.
- Kính mong Sở giáo dục đào tạo và nhà trường tổ chức những buổi tọa
đàm hoặc báo cáo chuyên đề về phương pháp giảng dạy các tác phẩm văn học
trung đại Việt Nam theo đặc trưng thể loại. Nếu làm được điều này, giáo viên sẽ
có điều kiện trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau để góp phần nâng cao trình
độ chun mơn và cách giảng dạy các tác phẩm văn học nước ngồi.
- Đối với giáo viên trực tiếp đứng lớp, tơi đề nghị giáo viên hình thành và
phát triển năng lực đọc sáng tạo cho học sinh.
Tôi rất cảm ơn các đồng chí đã dành thời gian để đọc sáng kiến kinh
nghiệm này.Tôi nghĩ những hiểu biết và những kinh nghiệm của mình như một
giọt nước giữa biển cả bao la, tơi rất mong được sự đóng góp ý kiến chân thành
và sự giúp đỡ của các đồng chí để đề tài của tơi được hồn thiện hơn cũng như
hồn thiện hơn về phương pháp giảng dạy của mình.
Một lần nữa xin cảm ơn các đồng chí. Kính chúc các đồng chí sức khỏe và
hạnh phúc.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày18 tháng5năm2021
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.

Phạm Thị Ngọc

19


Tài liệu tham khảo

1. Sách giáo khoa Ngữ văn 10 tập 1 – Sách giáo viên Ngữ văn 10 tập 1.
Phan Trọng Luận – Tổng chủ biên
2. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên), Thiết kế bài học tác phẩm văn chương,
NXB Giáo dục,2007.
3. Phương Lựu (Chủ biên) Lý luận văn học.
4.
Bùi Duy Tân (Chủ biên), Tư liệu văn học 10 – NXB Giáo dục,2001
5. Nguyễn Khắc Phi (Chủ biên), Phân tích, bình giảng tác phẩm văn học 10 –
NXB Giáo dục ,2000.
6. Nguyễn Hải Hà (Chủ biên) Cảm thụ tác phẩm văn chương – NXB Giáo dục
2007
7.
Nguyễn Văn Tùng (chủ biên) Tác phẩm văn học trong nhà trường – những
vấn đề trao đổi, NXB Đại học quốc gia Hà Nội,2000.
8.
Lã Nhâm Thìn, Bùi Minh Tốn (chủ biên), Ơn tập Ngữ văn 10, NXB Giáo
dục, 2006.
9.
Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình, sách giáo khoa lớp
10, mơn Ngữ Văn - Bộ giáo dục và đào tạo.
10. Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục Trung học phổ thông- Bộ giáo
dục và đào tạo.
11. Vũ Quốc Anh, Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ
Văn lớp 10, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2010.

20




×