Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tích hợp giáo dục kĩ năng sống vào giảng dạy phần công dân với đạo đức trong chương trình giáo dục công dân lớp 10 ở trường THCSTHPT quan sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.92 KB, 19 trang )

MỤC LỤC

I. PHẦN MỞ ĐẦU................................................................................................1
1.1. Lý do chọn đề tài........................................................................................1
1. 2. Mục dích nghiên cứu đề tài......................................................................2
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ...................................................3
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm...................................................3
2.2. Thực trạng vẫn đề.......................................................................................6
III. KẾT LUẬN...................................................................................................13
IV. NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT................................................................14
4.1. Đối với Sở GD&ĐT Thanh Hoá..............................................................14
4.2. Đối với trườngTHCS&THPT Quan Sơn .................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................16


I. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay nội dung giáo dục kĩ năng sống đã được nhiều quốc gia trên thế
giới đưa vào dạy cho học sinh trong các trường phổ thơng, dưới nhiều hình thức
khác nhau. Chương trình hành động Parar về giáo dục cho mọi người đã đặt ra
trách nhiệm cho mỗi quốc gia phải đảm bảo cho người học được tiếp cận với
chương trình giáo dục kĩ năng sống phù hợp và kĩ năng sống cần được coi như
một nội dung của chất lượng giáo dục.
Ở Việt Nam, để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện giáo dục thế hệ
trẻ, đáp ứng nguồi nhân lực phục vụ sự nghiệp Cơng nghiệp hố, Hiện đại hoá
đất nước, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học,
giáo dục phổ thông đã và đang đổi mới mạnh mẽ theo bốn trụ cột của giáo dục
thế kỉ XXI, mà thực chất tiếp cận kĩ năng sống đó là: “Học để biết, học để làm,
học để khẳng định mình và học để cùng chung sống”. Mục tiêu giáo dục phổ
thông đã và đang chuyên hướng từ chủ yếu là trang bị kiến thức sang trang bị
những năng lực cần thiết cho các em học sinh. Phương pháp giáo dục phổ thông


cũng đã và đang được đổi mới theo hướng phát triển tính tích cực, tự giác chủ
động sáng tạo của người học, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, tăng
cường khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào
thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học
sinh. Nội dung giáo dục kĩ năng sống đã được tích hợp trong một số mơn học và
hoạt động giáo dục có tiềm năng trong trường phổ thơng, việc giáo dục kĩ năng
sống cho hoc sinh phổ thơng cịn được thực hiện qua nhiều chương trình, dự án
như: Giáo dục bảo vệ mơi trường, phịng chống HIV/AIDS, giáo dục phịng
chống ma t, phịng chống tai nạn thương tích …Đặc biệt rèn luyện kĩ năng
sống cho học sinh đuợc xác định là một trong những nội dung cơ bản của phong
trào thi đua “ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong các
trường phổ thơng .

1


Với cách tiếp cận này, việc giáo dục kĩ năng sống khơng nặng nề, q tải
mà nó giúp cho việc học tập của các môn học và tham gia các hoạt động giáo
dục của học sinh trở nên nhẹ nhàng, thoải mái, thiết thực và hiệu quả hơn. Kĩ
năng sống rất đa dạng và mang đặc trưng vùng miền. Việc sử dụng phương pháp
và kĩ thuật dạy học cũng rất đa đạng, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện dạy học
cụ thể. Vì vậy giáo viên cần vận dụng một cách linh hoạt sáng tạo cho phù hợp
với nhu cầu, trình độ của học sinh và đặc điểm hồn cảnh của nhà trường, địa
phương. Do vậy bản thân tôi đã chọn đề tài: Tích hợp giáo dục kĩ năng sống vào
giảng dạy phần Công dân với đạo đức trong chương trình Giáo dục cơng dân
lớp 10 ở trường THCS&THPT Quan Sơn .Để nghiên cứu.
1. 2. Mục dích nghiên cứu đề tài
1.2.1 Mục đích
- Đưa ra những phương pháp để: Tích hợp giáo dục kĩ năng sống vào giảng
dạy phần Công dân với đạo đức trong chương trình Giáo dục cơng dân lớp 10 ở

trường THCS&THPT Quan Sơn .
- Lấy một số ví dụ để chứng minh cho những phương pháp đưa ra.
1.2.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Tích hợp giáo dục kĩ năng sống vào giảng dạy phần Cơng
dân với đạo đức trong chương trình Giáo dục cơng dân lớp 10 ở trường
THCS&THPT Quan Sơn.
- Về thời gian: Đề tài này được tôi nghiên cứu và ứng dụng Từ tháng
9/2020-tháng 5/2021.
1.2.3. Đối tượng nghiên cứu
Tích hợp giáo dục kĩ năng sống vào giảng dạy phần Công dân với đạo đức
trong chương trình Giáo dục cơng dân lớp 10 ở trường THCS&THPT Quan
Sơn.
1.2.4. Phương pháp nghiên cứu :
-Nghiên cứu tài liệu.
-Phương pháp phỏng vấn.
-Phương pháp thự tiễn.
2


.

II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Trên thế giới hiện nay đã và đang tồn tại nhiều định nghĩa và quan niệm
khác nhau về kĩ năng sống. Mỗi định nghĩa được thể hiện dưới những cách thức
khác nhau. Thông thường, kĩ năng sống được hiểu là những kĩ năng thực hành mà
con người cần để có được sự an tồn, cuộc sống khỏe mạnh với chất lượng cao.
Theo tổ chức Y tế Thế giới (WHO), kĩ năng sống là những kĩ năng tâm lý
xã hội và giao tiếp mà mỗi cá nhân có thể có để tương tác với những người khác
một cách hiệu quả với giải pháp tích cực hoặc ứng phó với những vấn đề hay

những thách thức của cuộc sống hàng ngày.(2)
Theo quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF), kĩ năng sống là tập hợp
rất nhiều kĩ năng tâm lý xã hội và giao tiếp cá nhân giúp cho con người đưa ra
những quyết định có cơ sở, giao tiếp một cách có hiệu quả, phát triển các kĩ
năng tự xử lý và quản lý bản thân nhằm giúp họ có một cuộc sống lành mạnh và
có hiệu quả. Từ kĩ năng sống có thể thể hiện thành những hành động cá nhân và
những hành động đó sẽ tác động đến hành động của những người khác cũng như
dẫn đến những hành động nhằm thay đổi môi trường xung quanh, giúp nó trở
nên lành mạnh.
Theo tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc
(UNESCO), kĩ năng sống gắn với 4 trụ cột của giáo dục, đó là: Học để biết
(Learning to know) gồm các kĩ năng tư duy như: kĩ năng tư duy phê phán, kĩ
năng tư duy sáng tạo, kĩ năng ra quyết định, kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng
nhận thức được hậu quả ...; Học để làm (Learning to do) gồm các kĩ năng thực
hiện công việc và các nhiệm vụ như: kĩ năng đặt mục tiêu, kĩ năng đảm nhận
trách nhiệm; kĩ năng quản lí thời gian; kĩ năng tìm kiếm và xử lí thơng tin ...;
Học để tự khẳng định (Learning to be) gồm các kĩ năng cá nhân như: kĩ năng
ứng phó căng thẳng, kĩ năng kiểm sốt cảm xúc, kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng
thể hiện sự tự tin ...; Học để cùng chung sống (Learning to live together) gồm
3


các kĩ năng xã hội như: kĩ năng giao tiếp, kĩ năng thương lượng, kĩ năng tự
khẳng định, kĩ năng hợp tác, kĩ năng làm việc theo nhóm, kĩ năng thể hiện sự
cảm thông ...; (6)
Từ những quan niệm trên đây, có thể thấy kĩ năng sống bao gồm một loạt
các kĩ năng cụ thể, cần thiết cho cuộc sống hằng ngày của con người. Bản chất
của kĩ năng sống là kĩ năng tự quản lý bản thân và kĩ năng xã hội cần thiết để cá
nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả. Nói cách khác, kĩ
năng sống là kĩ năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử với

người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của
cuộc sống.
Như vậy, các kĩ năng sống nhằm giúp chúng ta chuyển dịch kiến thức "cái chúng ta biết” và thái độ, giá trị - "cái chúng ta nghĩ, cảm thấy, tin tưởng”
thành hành động thực tế - “làm gì và làm bằng cách nào?” là tích cực nhất và
mang tính chất xây dựng.
Kĩ năng sống thường được thiết lập với một nền tảng riêng biệt, do đó
mọi người có thể hiểu và thực hành. Kĩ năng sống liên hệ mật thiết với những
nội dung giáo dục thực hành giúp chúng ta trả lời những câu hỏi như là: Chúng
ta cần làm gì để có thái độ quyết đoán? Quyết định của chúng ta liên quan đến
những điều gì?
- Khái niệm kĩ năng sống được hiểu rất khác nhau. Ở một số nước như:
Trung Quốc; Singapore; Thái Lan ... đào tạo kĩ năng sống chính là để giáo dục
cách vệ sinh, dinh dưỡng, giáo dục phòng chống bệnh tật hoặc giáo dục hịa bình
... Ở một số nước khác như: Mỹ; Anh; Pháp; Nhật ... kĩ năng sống đào tạo tập
trung vào giáo dục hành vi, giáo dục an toàn trên đường phố, hay giao dục bảo
vệ môi trường ... (3)
Kĩ năng sống vừa mang cả tính cá nhân vừa mang tính xã hội. Tính cá
nhân bởi vì đó là khả năng của mỗi cá nhân. Tính xã hội là vì trong mỗi giai
đoạn của sự phát triển xã hội, mỗi tôn giáo, cá nhân được yêu cầu để có sự phù
hợp với những kĩ năng sống ấy. Chẳng hạn: kĩ năng sống của mỗi cá nhân trong
thời bao cấp khác với kĩ năng sống của các cá nhân trong cơ chế thị trường,
4


trong giai đoạn hội nhập; kĩ năng sống của người sống ở miền núi khác với kĩ
năng sống của người sống ở vùng biển; kĩ năng sống của người sống ở nông
thôn khác với kĩ năng sống của người sống ở thành phố.
Trong điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam nói riêng và bối cảnh tồn
cầu nói chung, càng ngày chúng ta càng nhận ra tầm quan trọng của việc học các
kĩ năng sống để ứng phó với sự thay đổi, biến động của môi trường kinh tế, xã

hội và tự nhiên. Chính vì vậy rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh được xác định
là một nội dung cơ bản của phong trào thi đua "Xây dựng trường học thân thiện,
học sinh tích cực" trong các trường phổ thông, giai đoạn 2008 - 2013 do Bộ
Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo, triển khai và thực hiện.
Qua nghiên cứu tài liệu và hoạt động thực tiễn của bản thân. Tôi nhận
thấy: những kĩ năng sống cơ bản cần tích hợp cho học sinh thơng qua mơn Giáo
dục công dân ở bậc THPT như sau:
- Kĩ năng tự nhận thức
- Kĩ năng giao tiếp
- Kĩ năng lắng nghe tích cực
- Kĩ năng thể hiện sự cảm thơng
- Kĩ năng giải quyết mâu thuẫn
- Kĩ năng hợp tác
- Kĩ năng kiểm sốt cảm xúc
- Kĩ năng ứng phó với căng thẳng
- Kĩ năng tìm kiếm sự hỗ trợ
- Kĩ năng thể hiện sự tự tin
- Kĩ năng tư duy phê phán
- Kĩ năng tư duy sáng tạo
- Kĩ năng ra quyết định
- Kĩ năng giải quyết vấn đề
- Kĩ năng kiên định
- Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm
- Kĩ năng đặt mục tiêu
5


- Kĩ năng quản lí thời gian
- Kĩ năng tìm kiếm và xử lí thơng tin ..
2.2. Thực trạng vẫn đề

1. Vài nét khái quát về huyện Quan Sơn

Quan Sơn là huyện miền núi, vùng cao biên giới Việt – Lào của tỉnh
Thanh Hóa. Từ Thành phố Thanh Hóa lên trung tâm huyện 150 km về phía Tây.
Quan Sơn có đường biên giới dài 66km giáp với hai huyện Viêng Xay, Sầm Tớ,
tỉnh Hủa Phăn Nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.
Quan Sơn được chia tách từ huyện Quan Hóa cũ để thành lập huyện mới
theo Nghị định 72/CP, ngày 18/11/1996 của Chính phủ. Huyện có diện tích tự
nhiên 92.662ha. Trong đó đất lâm nghiệp trên 78.000 ha bằng 84.176 % diện
tích tự nhiên, độ che phủ rừng đến nay đạt 88,6%, gồm rừng tự nhiên và rừng
trồng. Rừng tự nhiên 66000ha chiếm 84,62% chủ yếu là nứa, vầu, gỗ thuần loài
hoặc hỗn giao. Rừng trồng 12000ha = 15,38% có luồng, lát và cây thân gỗ khác,
cả hai loại rừng đan xen nhau tạo thành một màu xanh bạt ngàn, mát mắt, môi
trường trong lành, xinh đẹp. Rừng là nguồn thu lợi lớn, ổn định lâu dài về kinh
tế cho đồng bào. Quan sơn có nhiều phong cảnh đẹp, tạo ra các điểm du lịch
sinh thái tiềm năng gọi mời du khách đến thăm quan, chiêm ngưỡng thiên nhiên
tuyêt diệu: Núi Pù Cọ, Hang hòm xã Trung Xuân, Thác bản Xày, Thác Ma Ngao
bản Din xã Trung Hạ, Núi Pù Mằn bản Ngàm, Mỏ nước nóng bản Khạn xã
Trung Thượng, Động Nang Non xã Sơn Lư, Thác ba tầng suối Nhài xã Sơn
Điện, Núi Pha Hen, Pha Dùa bắc cầu nhịp đá ở Mường Mìn giáp với Sơn Thủy.
6


Động Bo Cúng lung linh huyền ảo ở bản Chanh, Núi lá hoa Xia Nọi quanh năm
rực rỡ muôn màu, rừng đào và cây dược liệu mới trồng ở vũng Cộp xã Sơn Thủy
và nhiều cảnh đẹp khác tăng thêm lịng hiếu kỳ cho du khách mn phương đến
với Quan Sơn và tua du lịch Quan Sơn (Việt Nam)- Viêng Xay (Lào).
Đến ngày 01/04/2019 dân số Quan Sơn có 40.526 người, gồm 14 dân tộc
anh em cùng chung sống ở 12 đơn vị hành chính trực thuộc huyện. Trong đó có
4 dân tộc trên 1.000 người là: dân tộc Thái 32.562/40.526 người chiếm

80.346%, dân tộc Kinh 3.736 người chiếm 9,22%, dân tộc Mường 3,132 người
chiếm 7,728% và dân tộc H’Mông 1.056 người chiếm 2,605%. Cịn lại 10 dân
tộc khác có 51 người = 0,101% dân số toàn huyện.
Chịu ảnh hưởng chung của khí hậu nhiệt đới gió mùa và tiểu khí hậu do địa
hình tạo nên, ảnh hưởng trực tiếp của gió tây nam khơ nóng từ tháng 4 đến tháng 7.
Nhiệt độ trung bình hàng năm là 250C; nhiệt độ cao nhất là 300C đến 390C; thấp nhất
từ 40C đến 100C, có thời điểm xuống đến 00C (tại các điểm vùng cao); độ ẩm trung
bình 86%.
Huyện Quan Sơn có vị trí chiến lược quan trọng về KT - XH, QP - AN của
khu vực miền núi và tỉnh Thanh Hóa: với cửa khẩu quốc tế Na Mèo – Nặm Xôi và
cửa khẩu tiểu ngạch Tam Thanh - Sầm Tớ, thuận lợi cho phát triển kinh tế vùng biên
giới, phát triển giao thương với nước bạn Lào, xây dựng biên giới hịa bình hợp tác
và hữu nghị; có quốc lộ 217 nối các huyện đồng bằng với các trung tâm phát triển
của tỉnh, với nước bạn Lào là yếu tố thuận lợi cho phát triển du lịch, cho giao lưu
hợp tác và liên kết phát triển đồng thời giữ vị trí rất quan trọng về chính trị, an ninh,
quốc phịng.
Giáo dục kĩ năng sống là một vấn đề không mới trong dạy học và cũng
không xa lạ trong thực tiễn cuộc sống vì nó là lĩnh vực giáo dục liên ngành. Tuy
nhiên, đặc trưng của môn Giáo dục công dân là không chỉ cung cấp cho học sinh
kiến thức của môn học phù hợp với đặc điểm lứa tuổi mà điều quan trọng hơn là
hình thành và phát triển những kĩ năng vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống
của học sinh, đồng thời hình thành và phát triển cảm xúc, thái độ đúng đắn trước
các vấn đề liên quan đến nội dung bài học cho các em. Vì vậy, mơn học này có
khả năng tích hợp ở nhiều mức độ khác nhau với các nội dung giáo dục kĩ năng
sống cả về kiến thức, kĩ năng, thái độ. Do đó, khi tích hợp giáo dục kĩ năng sống
cần đảm bảo nguyên tắc: không gượng ép, không làm nặng nội dung, không làm
biến dạng môn học.
Tuy nhiên, qua thực tế dự một số giờ của đồng nghiệp ở trường hiện nay
tơi nhận thấy, có nhiều giáo viên bộ mơn Giáo dục cơng dân quan niệm rằng:
Tích hợp giáo dục kĩ năng sống là vơ hình dung làm nặng thêm nội dung kiến

7


thức bài học, biến dạng mơn học dưới hình thức đơn điệu khơ cứng. Bên cạnh
đó, có một bộ phận giáo viên dạy chéo môn, không tâm huyết với nghề, ít đọc
sách, báo, ít quan tâm đến các vấn đề chính trị xã hội, việc tự học, tự bồi dưỡng
cịn hạn chế, cho nên ngại tích hợp vì cho rằng chỉ cần tập trung vào kiến thức
bài học là đủ, khơng cần phải tích hợp những nội dung khác.
Để phát huy vai trị giáo dục bộ mơn, giúp học sinh rèn luyện hành vi có
trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và Tổ quốc; giúp học sinh có
khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống, xây dựng mối
quan hệ tốt đẹp với gia đình, bạn bè và mọi người, sống tích cực, chủ động, an
tồn, hài hịa và lành mạnh. Giáo viên phải là những người có lịng nhiệt huyết,
biết lựa chọn và kết hợp tốt các phương pháp dạy học và hình thức kiểm tra
đánh giá, đẩy mạnh phong trào thi đua học tập sôi nổi, hiệu quả, động viên kịp
thời học sinh có những tiến bộ. Trên cơ sở đó tiếp tục nâng cao chất lượng giáo
dục, thực hiện được mục tiêu giáo dục THPT. Vì vậy, nhận thấy trong rất nhiều
biện pháp nhằm phát huy vai trò giáo dục bộ mơn, tơi mạnh dạn sử dụng biện
pháp tích hợp giáo dục kĩ năng sống trong giảng dạy.
Thông qua chương trình Giáo dục cơng dân lớp 10, giáo viên có thể tích
hợp giáo dục kĩ năng sống trong phần thứ hai: “Công dân với đạo đức”. Tùy
vào nội dung kiến thức của từng bài, từng mục ... giáo viên có thể lựa chọn tích
hợp các loại kĩ năng sống phù hợp. Qua việc giáo dục kĩ năng sống sẽ làm thay
đổi nhận thức của học sinh về môn học và đặc biệt sẽ hình thành những kĩ năng
sống cơ bản cho học sinh.
- Vì điều kiện kinh tế -xã hội cịn rất là khó khăn Bà con nhân dân ủa các
làng bản thì đang ịn nghèo,làm khơng đủ ăn .
- Cơng nghệ thơng tin cịn rất hạn chế mặ dù thời đại khoa học 4.0 nhưng
nhân dân bà còn rất ít hiểu biết về công nghệ thông tin hiện đại. Chính vì thế đây
là cái thiệt thịi rất lớn chậm phát triển về kinh tế xã hội.

- Trình độ dân trí thì cịn lạc hậu ,một phần cũng ảnh hưởng không nhỏ sự
phát triển kinh tế -xã hội ả đất nước nói chung và huyện nhà nói riêng.Đơi khi
học sinh trở thành( người máy,rô bốt )`
8


Trong bài 10: Quan niệm về đạo đức. Giáo viên có thể tích hợp kĩ năng
so sánh, kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng thể hiện sự tự tin, kĩ năng thể hiện sự
thông cảm ...(5)
Khi dạy mục 1.a: Đạo đức là gì? Giáo viên có thể u cầu học sinh lấy
một số ví dụ về hành vi của cá nhân tuy không vi phạm pháp luật nhưng lại trái
với chuẩn mực đạo đức xã hội. Qua ví dụ đó, em rút ra cho mình được điều gì?
Ví dụ 1: Một số bạn đi xe buýt gặp người tàn tật, thương bệnh binh, người
già, trẻ em, phụ nữ mang thai ... nhưng khơng nhường ghế ngồi.
Câu hỏi:
1. Em có suy nghĩ gì khi các bạn hành động như vậy?
2. Nếu gặp các trường hợp trên em sẽ hành động như thế nào? Vì sao?
Ví dụ 2: Trong lớp bố bạn Nam đau nặng, phải nằm viện, nhưng một số
bạn không hề hỏi thăm, động viên hay giúp đỡ Nam.
Câu hỏi:
1. Em có suy nghĩ gì khi các bạn hành động như vậy? Vì sao?
2. Nếu chúng ta biết hỏi thăm, động viên hay giúp đỡ thì sẽ giúp ích được
gì cho bạn Nam?
Trong bài 11: Một số phạm trù cơ bản của đạo đức học. Tùy theo các
phạm trù như: nghĩa vụ, lương tâm, nhân phẩm, danh dự, hạnh phúc, giáo viên
có thể tích hợp các kĩ năng phù hợp như: kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng tự
nhận thức, kĩ năng ứng phó với những căng thẳng ...
Ví dụ 1: Khi dạy xong phạm trù nghĩa vụ, lương tâm, giáo viên có thể đưa
ra tình huống sau:
Trên đường đi học về, cách trường khoảng 500m Hùng nhìn thấy mấy

viên gạch vỡ nằm ngay giữa đường. Có lẽ gạch rơi ra từ chiếc xe ô tô của ai đó
chở vật liệu xây dựng. Xe vừa lướt qua, bỗng Hùng chợt nghĩ trên đoạn đường
này thường xuyên có nhiều xe máy, xe đạp và trẻ con đi qua; nếu cứ để đó thì
thật khơng an tồn cho người qua lại, thế nào cũng có người bị ngã.
9


Hùng nói với mấy bạn cùng đi dừng xe lại để nhặt gạch, kẻo có người bị
ngã. Thế nhưng, một bạn nói đó khơng phải là việc của các bạn và không ai
dừng lại. Hùng dừng lại, lặng lẽ nhặt mấy viên gạch vỡ và xếp gọn vào ven
đường. Xong việc, Hùng đạp xe về nhà và thấy lịng mình thật vui.
Câu hỏi:
1. Tại sao Hùng lại thấy vui khi nhặt xong những viên gạch vỡ xếp vào
ven đường?
2. Em có suy nghĩ gì về việc mấy bạn cùng lớp khơng hưởng ứng lời đề
nghị của Hùng?
3. Nếu có mặt ở đó em sẽ hành động như thế nào? Vì sao?
Ví dụ 2: Khi dạy phạm trù hạnh phúc, giáo viên hướng dẫn lớp tiến hành
một trò chơi “Vẽ cây tâm trí” bằng cách đặt câu hỏi sau: theo em hạnh phúc
được biểu hiện như thế nào?. Giáo viên yêu cầu các em vẽ ra những điều làm
cho các em hạnh phúc bằng cách thể hiện qua các nhánh cây như: đạt được điểm
cao; bố mẹ mua cho bộ áo quần mới; giúp bố mẹ một số công việc của gia đình;
có được sự quan tâm, tơn trọng của mọi người; được bản thân, bạn bè, thầy cô
tặng cho một món quà ... Với mỗi biểu hiện học sinh dùng bút màu để vẽ ra.
Nhóm nào vẽ càng nhiều nhánh cây thể hiện những điều làm các em hạnh phúc,
biểu thị một vịng trịn khép kín, đẹp sẽ là nhóm thắng cuộc. Sau phần hoạt
động của học sinh, giáo viên có thể kết luận hạnh phúc là gì? Định hướng trong
nhận thức và cách xác định giá trị, làm tăng thêm kĩ năng hợp tác, lắng nghe,
chia sẻ giữa các bạn trong nhóm và lớp học. Học sinh sẽ tiếp cận với phạm trù
hạnh phúc một cách sâu sắc, toàn diện.

Trong bài 12: Cơng dân với tình u, hơn nhân và gia đình. Giáo viên
dùng phương pháp thảo luận nhóm, với những câu chuyện phù hợp, hấp dẫn, lôi
cuốn sự tập trung của học sinh. Thông qua những câu chuyện, tác động trực tiếp
tới suy ngh
ĩ, cảm xúc của người học. Qua đó giúp học sinh hình thành kĩ năng xác định
giá trị, cảm thông, chia sẻ với những người xung quanh mình. Giúp học sinh tích
cực suy nghĩ để có thể lập luận chặt chẽ, đưa ra những ví dụ dẫn chứng, rèn
10


luyện tính kiên định, tư duy phê phán và khả năng giao tiếp có hiệu quả. Với
những mối quan hệ trong cuộc sống như quan hệ với bạn bè, bố, mẹ, hàng
xóm ... học sinh sẽ lựa chọn cách ứng xử phù hợp với từng đối tượng và trong
từng hoàn cảnh cụ thể. Kĩ năng giao tiếp được coi là một trong những kĩ năng
quan trọng, kĩ năng này có thể thể hiện bằng lời nói, sự trao đổi thơng tin giữa
các học sinh hoặc cũng có thể sử dụng kĩ năng giao tiếp không lời (kĩ năng lắng
nghe). Sự lắng nghe, chia sẻ, biết tôn trọng các ý kiến giữa các thành viên trong
lớp sẽ làm cho học sinh tự tin, cởi mở, làm cho mối quan hệ giữa học sinh và
giáo viên trở nên gần gũi. Qua đó q trình học tập sẽ tích cực hơn.
Ví dụ: Khi dạy mục 1.b: Thế nào là một tình yêu chân chính? Giáo viên
có thể đưa ra các mẫu chuyện sau đây:
Mẩu chuyện 1: Trong một buổi giao lưu Hạ đã gặp Sơn và đã thầm yêu
Sơn - một người chiến sỹ biên phịng. Gia đình và bạn bè chê bai Hạ vì sao
khơng u những chàng trai có địa vị xã hội, có học vấn, có tiền của ... lại u
một người lính biên phịng.
Mẩu chuyện 2: Hùng và Hiền học với nhau một lớp từ phổ thông. Hai
người thường xuyên giúp đỡ nhau trong cuộc sống và học tập. Cả hai đều đậu vào
Đại học và đến năm cuối Đại học họ đã cơng bố cho gia đình và bạn bè về tình
u của họ.
Mẩu chuyện 3: Ơng An và ơng Hồng là chỗ bạn bè thân thiết. Thủy con

gái ông An một người con gái giỏi giang, xinh đẹp ... Hai ông muốn làm thông gia
với nhau nên đã cùng với con trai ơng Hồng tìm mọi cách để có được tình cảm
của Thủy.
Câu hỏi: Trình bày quan điểm về các trường hợp trên?
Trong bài 16: Tự hoàn thiện bản thân. Giáo viên dùng phương pháp thảo
luận nhóm; phương pháp động não ... để tích hợp giáo dục các kĩ năng như: kĩ
năng đặt mục tiêu; kĩ năng giải quyết vấn đề; kĩ năng ra quyết định; kĩ năng thể
hiện sự tự tin; ... với phương pháp này giáo viên có thể tập hợp nhiều ý kiến
khác nhau trong một thời gian ngắn, tạo khơng khí học tập sơi nổi, học sinh sẽ
chủ động, tích cực, tự tin.Khi dạy mục 2.a. Thế nào là tự hoàn thiện bản thân?
11


Giáo viên cho học sinh nghiên cứu 2 mẫu chuyện trong sách giáo khoa Giáo dục
công dân 10 (trang 113); hoặc 2 mẫu chuyện sau đây để tích hợp vào bài:
Mẫu chuyện 1: Anh Lê Hồng Sơn – Sinh năm 1979, nhà ở vùng 3, xã Phú
Gia, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh, bị tật nguyền từ bé, cả hai tay anh đều
không vận động, cử động được. Với nghị lực vươn lên, anh đã tự chọn một nghề
để làm ni sống mình và giúp thêm được cho gia đình – nghề mộc. Nghề này
đã khó với người bình thường có đủ chân tay, lại càng khó hơn cho người khuyết
tật. Hồng Sơn đã kiên trì tập nghề mộc hàng ngày, dùng đơi chân của mình làm
thay đơi tay để đục, cưa, xẻ, đóng. Từ những chiếc ghế đơn giản, cho đến chiếc
tủ, chiếc bàn uống nước, chiếc phản ... anh lần lượt làm được và làm rất đẹp.
Anh dùng hai chân đục, ghép mộng, ghép gỗ thành thạo, khéo léo như đôi tay
của người thợ cả. Sản phẩm của anh được nhiều bà con mua về dùng. Nhưng
cảm phục hơn, khi anh đã giỏi nghề và bán được nhiều sản phẩm, anh đã tự mở
một tổ sản xuất, sửa chữa đồ gỗ tại nhà, mời thêm nhiều người khuyết tật trong
xã về cùng làm nghề mộc. Việc làm của anh đã được Chủ tịch nước gửi thư khen
ngợi, được Bộ lao động – Thương binh và xã hội tặng bằng khen.
( Trích báo tuổi trẻ số: 12/ttre ngày:23 tháng 4 năm 2012)

Mẩu chuyện 2: Anh Nguyễn Công Hùng – 24 tuổi, quê ở xã Nghi Diên,
huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, bị liệt và teo hai chân từ nhỏ, nhưng với nghị
lực vượt lên số phận, anh tự học tin học, trở thành thầy giáo dạy tin học ngay tại
nhà anh. Hiện nay cơ sở anh dạy tin học cho gần 200 cháu nhỏ, riêng những
cháu khuyết tật được anh dạy miễn phí. Cơng Hùng từ năm 2005 đến 2006 đã
nhận được nhiều giải thưởng như: "Hiệp sĩ công nghệ thông tin" – 2005, giải
thưởng

“Ngày

sáng

tạo

Việt

Nam”,

giải

thưởng

"Hộ

i thi tin học không chuyên toàn quốc lần thứ 11", và gần đây nhất – giải thưởng
“Quỹ học bổng mãi mãi tuổi 20″ (Quỹ liệt sĩ Đặng Thuỳ Trâm – tặng giải
thưởng cho những gương mặt thanh niên, sinh viên xuất sắc nhất toàn quốc –
2006).
( Trích báo tuổi trẻ số: 04/ttre ngày:12 tháng4 năm 2010)
Câu hỏi: Nêu suy nghĩ của bản thân về các nhân vật trên?

12


Việc giáo viên đưa ra tình huống, các mẫu chuyện, các trò chơi ... giúp
giảm lối học thụ động, sách vở, tăng cường khả năng vận dụng kiến thức vào
thực tế, khuyến khích học sinh tích cực xem xét, thảo luận về một tình huống,
một câu chuyện, nhân vật có thật trong thực tế. Với những tình huống giáo viên
đưa ra, học sinh tiếp nhận lý thuyết bằng cách giải quyết những vấn đề thực tế.
Từ đó tăng cường khả năng suy nghĩ độc lập, kiên định khi tiếp cận tình huống
dưới nhiều góc độ, tăng cường tính sáng tạo để tìm giải pháp cho vấn đề, kĩ năng
đánh giá các giải pháp đã lựa chọn. Phát triển kĩ năng giao tiếp, ứng xử, tinh
thần tập thể, tính trách nhiệm và tự khẳng định mình của học sinh. Nâng cao
lịng tin vào khả năng giải quyết vấn đề trong tương lai.
Việc tích hợp giáo dục kĩ năng sống là hướng đến người học, một mặt
đáp ứng nhu cầu của người học tạo ra những năng lực để đáp ứng trước những
thử thách của cuộc sống và nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân. Mặt
khác việc tích hợp giáo dục kĩ năng sống vào bộ môn thông qua những phương
pháp hướng đến học sinh, phương pháp dạy học tương tác, cùng tham gia, đề
cao vai trò chủ động, tự giác của học sinh sẽ có những tác động tích cực đến mối
quan hệ giữa thầy, cơ giáo và học sinh, giữa học sinh với học sinh. Đồng thời
học sinh sẽ cảm thấy mình được tham gia giải quyết các vấn đề có liên quan đến
cuộc sống của bản thân, học sinh sẽ thích thú và tích cực học tập hơn. Trên cơ sở
đó chất lượng giáo dục cũng được nâng lên.
Để việc tham gia rèn luyện kĩ năng sống của học sinh được hiệu quả, cần
hội tụ 4 yếu tố cơ bản: bản thân các em, gia đình, nhà trường và xã hội. Học sinh
cần có sự cố gắng và hợp tác với thầy, cô giáo trong quá trình học tập. Gia đình
phải thương yêu, định hướng, hỗ trợ tạo điều kiện nhưng không bắt ép các em,
cha mẹ cần dành nhiều thời gian lắng nghe con mình hơn. Gia đình động viên
giúp các em tránh xa tệ nạn xã hội, bố trí thời gian học tập, vui chơi phù hợp.
Gia đình phải là nơi xây dựng cho các em thái độ u thích mơn học, khơng coi

nhẹ mơn học. Chính việc làm này sẽ giúp học sinh hoàn thiện hơn về nhân cách,
đạo đức, nâng cao được chất lượng giáo dục. Với nhà trường, quan tâm đào tạo
và lồng ghép tích cực để tạo cơ hội cho học sinh rèn luyện kĩ năng sống. Giáo
13


viên phải đến với học sinh bằng trái tim nồng ấm, chan chứa tình yêu thương và
trách nhiệm của mình. Đối với xã hội cần có những chủ trương, chính sách kịp
thời để nhà trường có điều kiện, có cơ sở đưa các nội dung giáo dục kĩ năng
sống tích hợp vào trong các mơn học.(10)
Thiết nghĩ việc tích hợp giáo dục kĩ năng sống chỉ là một trong rất nhiều
các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, cần khẳng định việc tích hợp
giáo dục kĩ năng sống không phải là giải pháp vạn năng để giải quyết được tất cả
những tồn tại trên. Tuy nhiên trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần tích cực
chủ động áp dụng các biện pháp khác nhau để giúp cho học sinh hình thành các
kĩ năng sống phù hợp với các lứa tuổi. Bản thân tôi nhận thấy không chỉ môn
Giáo dục cơng dân tích hợp giáo dục kĩ năng sống, mà các mơn khác trong hệ
thống giáo dục cũng có thể làm được điều nhiều.
Có thể nói rằng người giáo viên dạy giáo dục cơng dân phải là nhà chính
trị lão luyện, là người nghệ sỹ đích thực, đam mê, tâm huyết với mỗi tiết dạy,
phải lường hết và ứng xử linh hoạt, khéo léo trước mọi tình huống khơng có
trong “kịch bản”, phải thả hồn vào mỗi bài dạy để thắp sáng trong trái tim học
trò những rung cảm lành mạnh trước cái đẹp, cái chính nghĩa, cái cao cả của
cuộc đời, thanh lọc tâm hồn bằng thứ ánh sáng thuần khiết trong suốt như pha lê.
Chính sự thao thức trăn trở đã là yếu tố quan trọng quyết định thành công
của giờ dạy. Kinh nghiệm bản thân cho thấy: Sau khi tích hợp nội dung giáo dục
kĩ năng sống vào trong các bài dạy thì học sinh học say sưa hơn, hứng thú cảm
nhận bài, đồng thời có nhiều em đưa ra những phát hiện, những ý tưởng, những
câu trả lời khá thú vị và sâu sắc, giúp học sinh hình thành mối quan hệ tốt đẹp
với bạn bè, gia đình, người thân và mọi người, sống chủ động tích cực, tránh xa

các tệ nạn xã hội, có trách nhiệm với bản thân, gia đình, cộng đồng, Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Từ đó kết quả học tập và rèn luyện đạo đức cũng
được nâng cao.
III. KẾT LUẬN
Trong hệ thống các môn khoa học, môn Giáo dục cơng dân có vai trị rất
lớn trong việc hình thành kĩ năng sống cho học sinh, thế nhưng cho tới nay việc
14


giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong môn học còn bị coi nhẹ - một trong
những nguyên nhân cơ bản làm cho đạo đức, tư cách, lối sống của một bộ phận
học sinh đang xuống cấp ở mức báo động, đe doạ đến sự phát triển nhân cách
của học sinh.
Chính vì vậy, tơi đã mạnh dạn chọn đề tài: Tích hợp giáo dục kĩ năng
sống vào giảng dạy phần Cơng dân với đạo đức trong chương trình Giáo dục
công dân lớp 10 ở trường THCS&THPT Quan Sơn . Với những phương pháp
tích hợp như trên, bước đầu đã thu được những kết quả khả quan về chất lượng
dạy và học của bộ mơn, đặc biệt là góp phần to lớn trong việc giáo dục tư cách,
đạo đức, lối sống, kĩ năng sống cho học sinh. Sau khi thực hiện đề tài này vào
một số bài dạy cụ thể đã nêu ở trên, căn cứ vào kết quả khảo sát nêu trên tôi
nhận thấy đã thu được một số kết quả đáng mừng.
Về phía học sinh: Phần đơng các em đã có nhận thức đúng đắn, đầy đủ
về các kĩ năng sống đã được giáo dục, từ đó có ý thức hơn trong việc giao tiếp
ứng xử hàng ngày cho đúng mực hơn. Ngồi ra cịn giúp các em có kĩ năng tổ
chức hoạt động, các trị chơi tạo khơng khí thoải mái, hứng thú trong học tập,
tạo cơ hội cho các em thể hiện năng lực của bản thân, thể hiện tình đồn kết với
các bạn trong lớp.
Về phía giáo viên: Thấy được tác dụng của việc lồng ghép giáo dục kĩ
năng sống vào trong thực tế là rất quan trọng. Công việc này phải thực hiện
thường xuyên liên tục thì hiệu quả sẽ càng cao

.

Bài học kinh nghiệm: Để nâng cao được chất lượng giáo dục toàn diện

cần phải tích hợp giáo dục kĩ năng sống vào một số nội dung của chương trình
Giáo dục cơng dân, cần phải hiểu việc tích hợp kĩ năng sống khơng làm nặng nề,
quá tải nội dung kiến thức, mà làm cho học sinh sẽ hứng thú hơn với môn học,
không cịn cảm thấy kiến thức khơ khan, xa vời mà thiết thực, gần gũi. Giúp cho
học sinh cảm thấy bài học nhẹ nhàng, bổ ích. Giáo dục kĩ năng sống là hình
thành cách sống tích cực trong xã hội hiện đại, là xây dựng những hành vi lành
mạnh và thay đổi những hành vi, thói quen tiêu cực. Trên cơ sở đó giúp người
học có cả kiến thức, giá trị, thái độ và các kĩ năng thích hợp. Đánh giá chất
15


lượng giáo dục phải bao hàm đánh giá mức độ đạt được các kĩ năng sống và tác
động của kĩ năng sống đối với xã hội, học sinh.
Muốn nâng cao được chất lượng giáo dục bộ môn, giáo viên cần nhận
thấy rõ được thực trạng của quá trình giáo dục, đưa ra những cách thức khác
nhau phù hợp với đặc điểm của môn học, đặc điểm của từng học sinh, điều kiện
của từng lớp. Trong đó việc tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là một
trong những việc làm cần thiết. Kĩ năng sống được coi là một khía cạnh của chất
lượng giáo dục, đánh giá chất lượng giáo dục cần tính đến những tiêu chí đánh
giá kĩ năng sống của học sinh.
Cách tích hợp như trên có thể áp dụng cho bất kỳ một bài học nào với sự
thiết kế và nghiệp vụ sư phạm của từng giáo viên, song địi hỏi mỗi giáo viên
phải có sự đầu tư khá nhiều thời gian và công sức để thu thập tài liệu, thông tin,
để lựa chọn nội dung tích hợp cho phù hợp với bài học.
IV. NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
Nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc hình thành kĩ năng sống, bản

thân tơi đã và đang nỗ lực học hỏi, lựa chọn phương pháp dạy học trong đó có
việc tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho phù hợp với đặc thù môn học, bám sát
đối tượng học sinh, rèn luyện kĩ năng và tinh thần tự giác, trung thực trong hoạt
động học tập, qua kiểm tra đánh giá phản ánh đúng năng lực của học sinh. Tôi
mạnh dạn đề xuất một số ý kiến sau:
4.1. Đối với Sở GD&ĐT Thanh Hoá
- Cần hỗ trợ, tạo điều kiện hơn nữa về cơ sở vật chất, các phương tiện dạy
học như: máy chiếu Projecter, máy chiếu hắt, các phòng chức năng, đồ dùng dạy
học, băng đĩa, các tư liệu tham khảo ... Đặc biệt là đối với tường miền núi chúng
tôi đang thực sự thiếu thốn và cần nhiều hơn về các phương tiện dạy học,cơ sở
vật chất, phương tiện dạy học là điều kiện rất cần thiết cho giáo viên chúng tơi
có thể thực hiện đổi mới phương pháp và tích hợp các vấn đề chính trị xã hội
vào bài dạy mơn Giáo dục cơng dân tích cực và hiệu quả hơn.

16


4.2. Đối với trườngTHCS&THPT Quan Sơn .
- Ban giám hiệu nhà trường cũng như ban chuyên môn nhà trường quan
tâm hơn nữa đến các hoạt động, tổ chức các buổi ngoại khóa với các nội dung
trong chương trình, tạo sân chơi lành mạnh cho học sinh, giúp các em phát huy
hết năng lực, sở trường của bản thân mình, tránh xa các tệ nạn xã hội. nhà
trường cần tổ chức nhiều buổi nói chuyện, xê mi na về vấn đề kĩ năng sống như:
giáo dục giới tính, cách ứng xử trong giao tiếp, sống hợp tác, đoàn kết ở tập
thể… mở nhiều chương trình tập huấn về kĩ năng sống, xây dựng những mơ
hình kĩ năng sống để thi đua giữa các trường, cho giáo viên cốt các đi tham quan
các mơ hình điển hình của các trường có lồng ghép tốt về giáo dục kĩ năng sống.
- Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội
trong việc giáo dục thái độ, động cơ, mục đích học tập, lao động đúng đắn - hình
thành kĩ năng sống cho học sinh.

- Cần tạo điều kiện cho các tổ chức như Đoàn thanh niên, hội nữ sinh nhà
trường tổ chức các buổi họp nói chuyện chuyên đề, các buổi học giáo dục kĩ năng
sống, mở các lớp tập huấn về việc tích hợp giáo dục kĩ năng sống trong bộ môn
Giáo dục công dân và các giáo viên tham gia công tác chủ nhiệm trong trường.
Trên đây là một chút kinh nghiệm nhỏ bé của bản thân tơi mà tơi đã đúc
rút được trong q trình giảng dạy. Chắc chắn trong quá trình thực hiện viết đề
tài bản thân tôi không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Kính mong được
sự góp ý, bổ sung, giúp đỡ của các đồng chí, đồng nghiệp để bài viết của tơi
hồn thiện hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn.
Tơi xin cam đoan là đề tài của bản thân không cop py
của người khác .
Xác nhân của ban giám hiệu

Người viết SKKN

Phạm Bá Chắn
17


TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1.Diane TillMan "Những giá trị sống cho Tuổi trẻ" - NXB TP. HCM, 2000.
2. Fileserve "Tài liệu tập huấn về kĩ năng sống của Unicef" - NXB TP. HCM,
2004.
3.Mai Văn Bính "Giáo dục cơng dân 10" sách giáo viên - NXB giáo dục, 2006.
4. Lê Văn Chiến "Tài liệu tập huấn về kĩ năng sống cho trẻ em" - NXB trẻ,
2006.
5. Hồ Thanh Diện "Thiết kế bài giảng giáo dục công dân 10" - NXB Hà Nội,
2006.
6. Hồ Thanh Diện "Câu hỏi luyện tập giáo dục công dân 10" - NXB giáo dục,

2006. -Lê Văn Chiến "Kĩ năng sống dành cho bạn trẻ" - NXB trẻ, 2006.
7. Mai Văn Bính "Giáo dục cơng dân 10" - NXB giáo dục, 2007.
8. Larry King "Những bí quyết giao tiếp tốt" - NXB TP. HCM, 2008.
9. Đinh Văn Đức "Dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng môn giáo dục công
dân" - NXB Đại học sư phạm, 2010.
10. Vũ Hồng Tiến "Tình huống giáo dục cơng dân 10" - NXB giáo dục, 2008.
11.Đặng Thúy Anh, Lê Minh Châu, Nguyễn Thị Thanh Mai "Giáo dục kĩ năng
sống trong môn giáo dục công dân ở Trường THPT" - NXB giáo dục 2010

18



×