Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Một số kinh nghiệm góp phần nâng cao hiệu quả tiết đọc văn qua khai tác và tổ chức dạy học sáng tạo phần tiêu dẫn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.32 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
1. Mở đầu...........................................................................................................1
1.1.Lí do chọn đề tài...........................................................................................1
1.2. Mục đích nghiên cứu...................................................................................1
1.3. Đối tượng nghiên cứu..................................................................................2
1.4. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................2
2. Nội dung........................................................................................................2
2.1. Cơ sở lí luận:...............................................................................................2
2.2. Thực trạng của vấn đề.................................................................................4
2.3. Các giải pháp thực hiện...............................................................................5
2.4. Hiệu quả của sáng kiến..............................................................................13
3. Kết luận và đề xuất.....................................................................................14
3.1. Kết luận......................................................................................................14
3.2. Đề xuất.......................................................................................................14


1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
Bộ mơn Ngữ văn khơng chỉ có đọc văn, ngồi ra cịn làm văn, tiếng Việt,
học các kiến thức bổ trợ khác. Nhưng đọc văn là khâu quan trọng nhất, gắn liền
với việc bồi dưỡng năng lực đọc văn, thẩm văn, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm,
nhân cách cao đẹp. Tuy vậy trong những tiết dạy đọc văn giáo viên và học sinh
khi chuẩn bị và tiến hành các hoạt động dạy, học văn bản thường lướt qua phần
“I. Tiểu dẫn”. Có thể vì cho rằng kiến thức phần này nằm ngồi văn bản, ít quan
trọng, khơng hay sử dụng trong bài văn, trong thi cử hoặc đã có trong sách giáo
khoa ai cũng thấy, cũng biết. Trước hết phải hiểu kiến thức phần này này sẽ giúp
học sinh có được một lối nhỏ (dù khơng phải là con đường chính thức) để đi vào
thế giới nghệ thuật của một tác phẩm văn học. Hơn nữa học sinh sẽ có cơ sở để
đọc hiểu những văn bản đọc văn khác. Đây là phần kiến thức định hướng cần
thiết để khám phá, giải mã, tìm hiểu nội dung, nghệ thuật của văn bản. Đồng
thời sẽ là phần tạo hứng thú, sự chủ động học tập rất tốt cho học sinh cũng như


tác động lớn đến việc ghi nhớ kiến thức lâu dài. Tôi thực sự thấy rất cần thiết
đầu tư, nghiên cứu thiết kế cũng như tổ chức tốt phần Tiểu dẫn này sẽ góp phần
quan trọng tạo nên thành cơng của giờ học đọc văn. Vì vậy, tơi viết sáng kiến
kinh nghiệm với đề tài: Một số kinh nghiệm góp phần nâng cao hiệu quả tiết
đọc văn qua khai thác và tổ chức dạy học sáng tạo phần tiểu dẫn.
1.2 Mục đích nghiên cứu
Mơn Ngữ văn ngồi việc trang bị cho học sinh những tri thức để đánh giá
đúng các vấn đề văn học, tạo cho các em có khả năng khám phá vẻ đẹp của tác
phẩm văn chương cịn có nhiệm vụ giúp các em hình thành và phát triển khả
năng tự chủ và tự học, nhất là năng lực sử dụng sách giáo khoa, nghe, ghi chép,
tìm kiếm thơng tin trên cơ sở đó trau dồi phẩm chất linh hoạt, độc lập, sáng tạo
của tư duy, phát triển năng lực giao tiếp và hợp tác trong q trình học nhóm,
học ngoài giờ lên lớp và ứng dụng vào thực tế đời sống.
Với đề tài Một số kinh nghiệm góp phần nâng cao hiệu quả tiết đọc văn
qua khai thác và tổ chức dạy học sáng tạo phần tiểu dẫn các bài học đọc văn
khơng cịn nặng nề, nhàm chán trơi qua. Đề tài sẽ định hướng giúp người dạy
văn và học văn có một hướng tiếp cận mới, sâu và rộng nhiều màu sắc hơn đối
với một phần của bài học tưởng là khơ khan với những số liệu có sẵn. Tôi chắc
chắn rằng với đề tài này tôi đã giúp học sinh tiếp cận bài học theo hướng “mở”,
hứng thú, say mê hơn, góp phần định hướng, giải mã kiến thức cần đạt tới của
tiết học. Từ đó như một lẽ tự nhiên các em nắm vững tri thức văn chương và còn
tiếp cận được nhiều tri thức khác, thể hiện nhiều phẩm chất, năng lực của mình.
Góp phần đổi mới mục tiêu giáo dục phổ thông từ trang bị kiến thức sang nâng
cao năng lực người học theo tinh thần của Nghị quyết số 29-NQ/TW cũng như
theo tinh thần của Nghị quyết 88 ngày 28/11/2014 của Quốc hội về đổi mới
Chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông đã xác định những yêu cầu cần
đạt được về phẩm chất, năng lực của học sinh: Năng lực tự chủ và tự học, năng
lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo.
2



1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài này của tôi sẽ có thể áp dụng vào bất cứ tiết học đọc hiểu văn bản
nào, ở bất cứ cấp học nào. Bởi lẽ những kiến thức phần Tiểu dẫn lồng ghép
trong bài học sẽ giúp học sinh buộc phải hiểu nội dung vấn đề của tiết dạy vừa
nâng cao hiểu biết vừa có hứng thú trong học tập theo một phương pháp chủ
động tự tìm tịi, nghiên cứu sáng tạo. Trên cơ sở đó giáo viên có điều kiện thuận
lợi để thực hiện hiệu quả bài dạy của mình. Tơi đã áp dụng kinh nghiệm này ở
hai khối dạy 11 và 12 năm học 2020-2021 ở cả lớp khối D và lớp khối A, khối
A1 đều rất hiệu quả.
1.4 Phương pháp nghiên cứu:
- Nghiên cứu tài liệu nghiệp vụ dạy học bộ môn Ngữ văn lớp 11, lớp 12,
sách giáo khoa, sách giáo viên, các tài liệu tham khảo, ý kiến của các nhà nghiên
cứu, các nhà quản lí chun mơn, các giáo viên giỏi trong toàn quốc trên các bài
báo, tạp chí khoa học…
- Phân tích, so sánh, đối chiếu yêu cầu giữa chuẩn kiến thức, kĩ năng đối
với bộ môn Ngữ văn bậc THPT với những sản phẩm trên thực tế tìm hiểu của
học sinh, tìm ra những hạn chế chủ yếu của học sinh khi học Ngữ văn nhất là khi
đọc hiểu phần Tiểu dẫn. So sánh các lớp dạy. Trong đó năm học này các lớp chú
trọng phát huy năng lực tìm hiểu kiến thức đọc hiểu phần tiểu dẫn tạo hứng thú
cho học sinh tiếp cận, tiếp thu bài học. Từ đó có những đánh giá, kết luận được
rút ra.
- Đưa ra những giải pháp, những đề xuất có tính khoa học để giáo viên có
thể vận dụng vào việc phát huy kiến thức văn hóa, xã hội giúp cho học sinh phát
huy hết khả năng phát hiện, vận dụng, khám phá, tư duy sáng tạo, năng lực giao
tiếp và các kĩ năng sống cần thiết. Từ đó liên hệ đến nội dung, nghệ thuật của
văn bản sẽ tiếp nhận.
- Phương pháp điều tra, thu thập thông tin: Trị chuyện, tìm hiểu, dự giờ
thăm lớp cùng với đồng nghiệp, học sinh và trực tiếp giảng dạy nhiều năm trên
lớp.


2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận.
2.1.1. Đọc hiểu là gì?
Đọc hiểu là hoạt động cơ bản của con người để lĩnh hội tri thức và bồi
dưỡng tâm hồn.
Đọc là một hoạt động của con người, dùng mắt để nhận biết các kí hiệu
và chữ viết, dùng trí óc để tư duy và lưu giữ những nội dung mà mình đã đọc và
sử dụng bộ máy phát âm phát ra âm thanh nhằm truyền đạt đến người nghe.
Hiểu là phát hiện và nắm vững mối liên hệ của sự vật, hiện tượng, đối
tượng nào đó và ý nghĩa của mối quan hệ đó. Hiểu cịn là sự bao qt hết nội
dung và có thể vận dụng vào đời sống. Hiểu là phải trả lời được các câu hỏi Cái
gì? Như thế nào? Làm thế nào?
Đọc hiểu là đọc kết hợp với sự hình thành năng lực giải thích, phân tích,
khái quát, biện luận đúng- sai về logic, nghĩa là kết hợp với năng lực, tư duy và
biểu đạt.
3


2.1.2 Đọc hiểu văn bản là gì?
Dạy đọc hiểu là việc giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng những kỹ
năng để đọc hiểu văn bản thông qua các hoạt động, thao tác và theo một quy
trình nhất định nào đó. Khi đọc một văn bản, người đọc hiểu phải thấy được:
+ Thể loại của văn bản, nội dung của văn bản; mối quan hệ ý nghĩa của
cấu trúc văn bản do tác giả tổ chức và xây dựng.
+ Thấy được tư tưởng, ý đồ, mục đích của tác giả gửi gắm trong tác phẩm.
+ Đối với văn bản là tác phẩm văn học: cảm nhận được giá trị đặc sắc của
các hình tượng, yếu tố nghệ thuật; ý nghĩa của từ ngữ được dùng trong
cấu trúc văn bản.
Như vậy đọc hiểu văn bản là hoạt động đọc và giải mã các tầng ý nghĩa

của văn bản thông qua khả năng tiếp nhận của người đọc. Đọc hiểu tác phẩm
văn chương là tiếp xúc với văn bản, hiểu được nghĩa hiển ngôn, nghĩa hàm ẩn,
các biện pháp nghệ thuật, thông hiểu các thơng điệp tư tưởng, tình cảm của
người viết và giá trị tự thân của hình tượng nghệ thuật. Đọc hiểu là quá trình
thâm nhập vào văn bản với thái độ tích cực, chủ động.
Theo GS. Trần Đình Sử trong bài viết Đọc hiểu văn bản - khâu đột phá
trong nội dung và phương pháp dạy văn cũng đã khẳng định: Dạy văn là dạy cho
học sinh năng lực đọc, kỹ năng đọc để học sinh có thể đọc – hiểu bất cứ văn bản
nào cùng loại. Từ đọc hiểu văn mà trực tiếp nhận các giá trị văn học, trực tiếp
thể nghiệm các tư tưởng và cảm xúc được truyền đạt bằng nghệ thuật ngơn từ,
hình thành cách đọc riêng có cá tính. Đó là con đường duy nhất để bồi dưỡng
cho học sinh năng lực của chủ thể tiếp nhận thẩm mỹ. Do đó hiểu bản chất môn
văn là môn dạy đọc văn vừa thể hiện cách hiểu thực sự bản chất của văn học,
vừa hiểu đúng thực chất việc dạy văn là dạy năng lực, phát triển năng lực là chủ
thể của học sinh.
Nghị quyết số 88 ngày 28/11/2014 của Quốc hội về đổi mới Chương
trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông đã quy định: “Mục tiêu giáo dục phổ
thông là tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực
cơng dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học
sinh.” Để thực hiện mục tiêu này, giáo dục phổ thông cần “Nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống văn hóa, lịch sử,
đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng
kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học
tập suốt đời”. Hơn nữa, trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa với những tác động tích cực của nền kinh tế tri thức và tiến bộ của thông
tin, truyền thông, dạy học Ngữ văn cần phải giúp người học hình thành một hệ
thống phẩm chất, năng lực đáp ứng được với yêu cầu mới.
Theo từ điển Tiếng Việt: Năng lực là khả năng huy động tổng hợp các
kiến thức, kỹ năng để thực hiện thành công một loại công việc trong một bối
cảnh nhất định. Năng lực gồm có năng lực chung và năng lực đặc thù. Năng lực

chung là năng lực cơ bản cần thiết mà bất cứ người nào cũng cần phải có để
sống và học tập, làm việc. Năng lực đặc thù thể hiện trên từng lĩnh vực khác
nhau như năng lực đặc thù môn học là năng lực được hình thành và phát triển do
đặc điểm của mơn học đó tạo nên.
4


2.1.3 Đọc hiểu tiểu dẫn là gì?
Phần Tiểu dẫn mang tính chất, chức năng dẫn dắt, gợi mở để học sinh dựa
vào đó mà tìm hiểu bài, học bài; giáo viên soạn bài dựa vào đó mà lựa chọn
phương pháp dạy học phù hợp.
Cụ thể nhiệm vụ của phần Tiểu dẫn trong sách giáo khoa Ngữ văn là cung
cấp các thông tin liên quan đến đọc hiểu văn bản cho học sinh. Các tri thức về
văn học sử như kiến thức về đặc điểm thời đại, hoàn cảnh ra đời của văn bản văn
học, cuộc đời và sự nghiệp văn chương của nhà văn, phong cách nghệ thuật của
tác giả; cung cấp tri thức lí luận văn học ở dạng trực tiếp như thể loại. Đó chính
là những phương tiện để khám phá văn bản theo quan điểm tiếp cận đồng bộ,
giúp học sinh hiểu sâu sắc kiến thức văn học và tự các em có thể thẩm định,
đánh giá kiến thức văn học ở một mức độ nào đó.
Khai thác phần Tiểu dẫn, giáo viên phải giúp học sinh có cái nhìn sơ lược
về nội dung nghệ thuật của văn bản. Điều này được xem là định hướng ban đầu
để tiếp cận văn bản. Thông tin khái quát về nội dung của tác phẩm giúp cho hoạt
động đọc hiểu văn bản không đi chệch quỹ đạo, giúp người tiếp nhận hiểu một
cách đúng đắn về văn bản. Đặc biệt, đối với văn bản chỉ là đoạn trích thì phần
tóm tắt nội dung tác phẩm giúp cho học sinh nắm bắt một cách đầy đủ về tác
phẩm như cốt truyện, tình tiết, nhân vật trong tác phẩm. Phần tóm tắt nội dung
của tác phẩm là những câu chuyện có tác dụng khơi gợi hứng thú cho học sinh
trước khi đi vào đọc hiểu văn bản. Hơn thế nó cịn có tác dụng khơi gợi giúp học
sinh tìm đọc trọn vẹn tác phẩm, tạo cho sở thích đọc sách cho các em. Điều này
có ý nghĩa tốt cho việc học văn của học sinh.

2.2. Thực trạng của vấn đề
2.2.1. Thực trạng chung.
Ngày nay, xu thế chung của xã hội là phát triển các ngành khoa học kĩ
thuật. Dưới mái trường phổ thông, các em học sinh thường chú trọng đến bộ
môn khoa học tự nhiên hơn là bộ môn khoa học xã hội. Dù hôm nay môn Ngữ
văn rất quan trọng với kỳ thi vượt cấp và kỳ thi tốt nghiệp quốc gia nhưng đại đa
số học sinh vẫn chưa quen với sự ngang hàng giữa bộ môn khoa học xã hội với
bộ môn khoa học tự nhiên. Trường THPT nơi tơi đang cơng tác dù có những học
sinh vốn có năng khiếu về văn học, yêu thích văn chương nhưng vẫn vơ cùng
khó khăn trong việc tiếp cận với bộ mơn khoa học giàu tính nhân văn này. Bởi
vậy, mỗi giờ học văn diễn ra trong tâm thế còn thờ ơ đón nhận của học sinh và
trong nỗi niềm trăn trở của người thầy.
Ngoài ra, trong các đề kiểm tra ở các kì thi ít ra nội dung trong phần Tiểu
dẫn nên khi khai thác nhiều giáo viên, học sinh thực sự chưa quan tâm và
thường dạy, học lướt qua phần này. Giáo viên thường cung cấp kiến thức về tác
giả, tác phẩm nhưng chưa có sự quan tâm đến việc hướng dẫn HS vận dụng nó
để giải mã văn bản và để giải các đề Làm văn có liên quan. Khả năng khai thác
và tổ chức dạy phần Tiểu dẫn của giáo viên còn hạn chế nên chỉ dạy qua loa,
hình thức dạy đơn điệu, khơng gợi được hứng thú học tập cho học sinh.
2.2.2. Thực trạng đối với giáo viên
5


Các giáo viên ở trường THPT Lê Lợi Thọ Xuân đã ln thường xun tìm
tịi, vận dụng nhiều sáng kiến kinh nghiệm vào trong bài dạy của mình: có nhiều
bài tham gia dự thi đã được xếp giải. Tuy giáo viên rất tâm huyết và tích cực
nhưng cịn lúng túng trong việc tìm ra phương pháp dạy hiệu quả nhất với từng
lớp học sinh có trình độ, niềm đam mê văn chương khác nhau. Phương pháp dạy
đọc hiểu phần Tiểu dẫn đơi khi máy móc rập khn, khơng gây hứng thú cho
học sinh. Thậm chí do quy định của thời lượng chương trình, có lúc người giáo

viên phải cắt thời gian dành cho phần tiểu dẫn, yêu cầu học sinh đọc tại nhà...
Người giáo viên nên hướng dẫn học sinh hiểu đằng sau những dữ kiện ngắn gọn
về tác giả (tên, tuổi, quê quán, những nét chính về cuộc đời...), sự nghiệp sáng
tác( số lượng tác phẩm, phong cách, vị trí của tác giả...), tác phẩm( hồn cảnh
sáng tác,vị trí, xuất xứ, giá trị...) sẽ tiềm tàng nguồn tri thức phong phú, những
câu chuyện thú vị, những mối liên hệ rất quan trọng đến bài học.
Trong thời đại ngày nay, khi sự giao lưu văn hóa quốc tế được gia tăng,
khi điều kiện tiếp xúc các nguồn văn bản được mở rộng hơn bao giờ hết. Trong
bối cảnh đó trình độ văn hóa được đánh giá bằng năng lực nắm bắt, tiếp nhận
thông tin, xử lý thông tin từ các văn bản khác nhau. Người lao động và người
công nhân hiện đại là người biết nắm bắt thông tin nhanh nhạy. Mà muốn thế
trước hết họ phải biết đọc, không phải chỉ biết đọc chữ, đọc diễn cảm, mà trước
hết phải biết đọc hiểu, qua một văn bản phải biết đâu là chỗ quy tụ thông tin, đâu
là câu then chốt thể hiện tư tưởng của tác giả. Muốn vậy cánh cửa đầu tiên đó là
đọc hiểu tốt phần Tiểu dẫn.
Đặc biệt giáo viên mới chú trọng việc cung cấp kiến thức về tác giả, tác
phẩm nhưng chưa có sự quan tâm đến việc hướng dẫn học sinh vận dụng nó để
giải mã văn bản. Giáo viên đã khơng đặt nó trong mối quan hệ với văn bản đọc
hiểu và thông tin về thể loại của văn bản cũng không được giáo viên vận dụng
thường xuyên để tiếp cận văn bản.
2.3. Giải pháp
Phương pháp đọc hiểu nói đến các hoạt động chủ động tư duy trong quá
trình đọc, nhằm giúp người đọc có được các kết quả đọc hiểu một cách sắc sảo,
hiệu quả như : Kích hoạt kiến thức nền, thực hiện các sự kết nối, suy diễn, đặt
các câu hỏi, tạo hình ảnh trực quan hóa, tự giám sát trong quá trình đọc.
2.3.1 Giải pháp 1: Đọc, nghiên cứu, tìm hiểu và soạn bài hiệu quả phần
Tiểu dẫn
Khai thác những nội dung chủ yếu trong phần Tiểu dẫn là yêu cầu học
sinh khai thác những thông tin xoay quanh tiểu sử, sự nghiệp sáng tác văn học
của tác giả và những thông tin khái quát về văn bản đọc hiểu. Tuy nhiên giáo

viên định hướng khai thác thông tin theo cách dạy học tích hợp và tích cực;
phương pháp và phương tiện dạy học linh hoạt hiện đại để khai thác phần Tiểu
dẫn đạt hiệu quả cao nhất.
Cụ thể:
* Khi khai thác phần tiểu sử tác giả, giáo viên phải chú ý đến việc vận dụng
những thông tin về tác giả trong tiếp nhận văn bản. Cần tìm hiểu những chi tiết
về tên, tuổi, hoàn cảnh xuất thân, gia đình, sở thích, cá tính của nhà văn. Khi
khai thác phần cuộc đời thì chú ý đến những bước ngoặt trong cuộc đời có ý
6


nghĩa hình thành cá tính, bản lĩnh của nhà văn có ảnh hưởng đậm nét đến q
trình hình thành văn bản. Thông tin về tiểu sử của tác giả khi đưa vào sách giáo
khoa đều có dụng ý soi sáng cho văn bản.
+ Đầu tiên như việc giới thiệu năm sinh năm mất của một tác giả ngồi nắm
bắt thơng tin cá nhân. Học sinh qua đó sẽ thấy được đặc điểm lịch sử, văn hóa
của thời đại. Điều này sẽ là cơ sở để nhìn nhận đánh giá nội dung, tư tưởng của
văn bản. Khi nắm bắt được điều này học sinh sẽ nhìn nhận thấu đáo nội dung
của văn bản mà khơng bao giờ bị nhầm lẫn. Ví dụ như tác giả Nguyễn Khoa
Điềm sinh năm 1943, nhà thơ Xuân Quỳnh sinh năm 1942 hay nhà thơ Thanh
Thảo 1946 thì khơng thể nhầm lẫn là các nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng
chiến chống Pháp được. Vì tính tuổi ra lúc kết thúc chiến dịch Điện Biên Phủ
1954 họ đều đang nhỏ tuổi. Họ là lớp nhà thơ trẻ trong thời kì kháng chiến
chống Mĩ nên các tác phẩm của họ trong chương trình Ngữ văn 12 đều sẽ có nội
dung liên quan đến hiện thực lịch sử. Bởi văn học luôn bám sát và phản ánh hiện
thực cuộc sống và nhà văn ln là “thư kí trung thành của thời đại”.
+ Phần thông tin về tên của tác giả cũng chứa đựng những điều thú vị. Ví dụ
như tác giả Lê Hữu Trác có tên hiệu là Hải Thượng lãn - ông già lười ở đất
Thượng Hồng có liên quan đến quê hương phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương
quê ông. Đặc biệt hơn là ngay từ đầu cho học sinh ấn tượng về thái độ coi

thường danh lợi của vị danh y này khi vào kinh chữa bệnh cho cha con chúa
Trịnh Sâm. Tương tự tác giả Tản Đà, Nam Cao cũng như vậy...
+ Phần thông tin về quê quán của các tác giả cũng ảnh hưởng rất nhiều đễn
phong cách sáng tác của mỗi người. Nếu như khi giới thiệu Tố Hữu quê ở Thừa
Thiên Huế thì rất dễ trơi qua thơng tin. Nhưng nếu giới thiệu, tìm hiểu vùng đất
ấy là quê hương của những điệu hị, điệu lí, của những câu “Nam ai, Nam bình”
thì sẽ nhớ sâu đậm giọng thơ trong bài Việt Bắc là giọng thủ thỉ tâm sự, giọng
ngọt ngào, tha thiết. Hay nhà thơ Xuân Diệu khi “Cha đàng ngoài, mẹ ở đàng
trong”, bản thân lại sống, làm việc ở nhiều vùng đất khác như Quy Nhơn, Mĩ
Tho, Hà Nội...đều để lại dấu ấn rõ nét trong thơ ông và trong bài Vội vàng. Có
thể kể thêm Hồng Phủ Ngọc Tường là nhà ăn sinh ra, lớn lên, học tập, trưởng
thành đều gắn bó với Huế. Có lẽ vì vậy mà tác phẩm Ai đã đặt tên cho dịng
sơng thể hiện một kiến thức uyên bác, sự say đắm tài hoa vô cùng về sông
Hương, về xứ Huế.
+ Các giai đoạn trong cuộc đời nhà văn là những mốc thời điểm quan trọng
có ảnh hưởng đến sự chuyển biến về tư tưởng trong sáng tác của nhà văn. Vì vậy
khi giới thiệu về tác giả cần chú ý đến đặc điểm này. Ví dụ như nhà thơ Huy
Cận, Xuân Diệu không thể quên hai giai đoạn trước và sau Cách mạng tháng
Tám năm 1945. Nếu trước khi tham gia các mạng họ là các nhà thơ tiêu biểu cho
phong trào Thơ mới với cái tôi tiểu tư sản xa rời quần chúng nên nhìn chung rơi
vào tình trạng buồn, cơ đơn luôn khao khát giao cảm với đời. Nhà văn Nguyễn
Tuân cũng có bước chuyển biến trong đề tài, trong phong cách nghệ thuật. Trước
Cách mạng ông đi vào 3 đề tài chủ yếu: chủ nghĩa xê dịch, vang bóng một thời
và đề tài tha hóa trụy lạc. Sau cách mạng tháng Tám 1945 đề tài trong sáng tác
của Nguyễn Tn phong phú, đa dạng, ln dùng ngịi bút của mình phục vụ
nhân dân, phụng sự cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Phong các sáng
7


tác của ơng cũng có những chuyển biến. Đơn cử là tinh thần dân tộc và lòng yêu

nước được phát huy mạnh mẽ trong tác phầm của ông. Cái đẹp của người tài hoa có
thể tìm thấy trong nhân dân trên mọi lĩnh vực như người lao động lái đò trên dịng
sơng Đà. Thiên nhiên vẫn cịn là những cơng trình thiên tạo tuyệt vời...
+ Khi giới thiệu tác giả chúng ta chú ý đến việc khái quát là phong cách
nghệ thuật của nhà văn bởi dây là một nội dung quan trọng để vận dụng giải mã
văn bản. Nếu biết được phong cách của một tác giả thì người đọc sẽ dễ dàng có
một hướng tiếp cận đúng đắn tác phẩm của tác giả đó, giúp học sinh hình dung
những nét khái quát về phong cách nghệ thuật của tác giả. Đó là một nội dung
gợi dẫn cần thiết để học sinh có hướng tiếp nhận tác phẩm chính xác hơn, nhất là
những nét phong cách được thể hiện trong văn bản đọc hiểu. Ví dụ: Giới thiệu
phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân “uyên bác, tài hoa” .Thông tin này sẽ
giúp ta tiếp nhận tác phẩm “Người lái đị sơng Đà” của Nguyễn Tn rất hiệu
quả. Khai thác nét phong cách tài hoa của Nguyễn Tuân trong tác phẩm qua việc
sử dụng ngôn ngữ phong phú và sáng tạo khi miêu tả sự đau đớn của người lái
đò trong cuộc vật lộn với nước, đá sông Đà ở trùng vi thạch trận vịng thứ
nhất.Ơng chỉ thay đổi một phụ âm đầu trong từ “méo xệch”. So với thông
thường “méo xệch” chỉ đơn thuần diễn tả nỗi đau làm biến dạng khuôn mặt
nhưng với từ “méo bệch” không chỉ có nghĩa trên mà cịn thấy sự nhợt nhạt của
khn mặt với nỗi đau đến mức tê dại...Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng cần
lưu ý đến nhận định trong tiểu dẫn: “Hồn thơ phóng khống, hồn hậu, lãng mạn,
tài hoa”. Từ thơng tin có được ở nhận định trên mà khi đọc - hiểu chúng ta sẽ có
hướng tiếp nhận văn bản một cách đúng đắn để cảm nhận được cái nhìn, cảm
xúc của chủ thể trữ tình biểu hiện ở hình ảnh thơ, ở những chi tiết về người lính
Tây Tiến có xuất thân ở chốn Hà thành....Phong cách nghệ thuật của các tác giả
còn lồng ghép khi giới thiệu các tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác của
tác giả.
* Khai thác những thông tin khái quát chung về văn bản đọc - hiểu trong
phần giới thiệu về văn bản thì hồn cảnh sáng tác, xuất xứ, vị trí của và đặc biệt
là đặc trưng thể loại của tác phẩm là nội dung không thể bỏ qua.
+ Hoàn cảnh sáng tác cho thấy ảnh hưởng trực tiếp của thời đại, cuộc

sống của tác giả đối với tác phẩm. Trong giờ đọc - hiểu văn bản, giáo viên
không chỉ làm công việc giản đơn là cung cấp thơng tin về hồn cảnh sáng tác
mà điều cần thiết là nêu bật vai trị của hồn cảnh sáng tác chi phối toàn bộ tác
phẩm văn học. Trong sách giáo khoa vở kịch Hồn Trương chỉ giới thiệu tác
phẩm viết 1981 và đến 1984 mới ra mắt công chúng. Nếu chỉ đơn thuần cho học
sinh ghi nhớ điều này thì rất thiếu sót. Mà các em phải hiểu được hồn cảnh xã
hội và văn học thời kì này đã có chuyển biến mạnh mẽ khác so với trước thập kỉ
80. Số phận con người, vấn đề cá nhân những vấn đề tiêu cực nóng bỏng của đời
sống trở thành nguồn cảm hứng sáng tạo. Từ đó khi đọc hiểu vở kịch học sinh có
thể tư duy với hiện tượng vênh lệch “ bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”
Lưu Quang Vũ qua đó sẽ phê phán biểu hiện tiêu cực của lối sống quá chạy theo
tầm thường vật chất, thích hưởng thụ đến nỗi trở nêm phàm phu, tho thiển hoặc
lối sống lấy cớ tâm hồn cao quý, tinh thần đáng trọng mà không quan tâm đến
sinh hoạt vật chất, khơng phấn đấu vì hạnh phúc trọn vẹn.
8


+ Về phần giới thiệu xuất xứ, vị trí của văn bản đọc hiểu: Nếu văn bản
đọc hiểu là một đoạn trích thì Tiểu dẫn sẽ giới thiệu về vị trí đoạn trích trong tác
phẩm. Với thơng tin về vị trí đọan trích người đọc sẽ theo dõi được mạch cảm
xúc trong tác phẩm nếu nó là thơ, nắm được diễn biến của cốt truyện nếu nó là
truyện. Bài học trong sách giáo khoa thường chỉ lấy một đoạn trích làm nội dung
học tập. Để hiểu đoạn trích, việc đọc tồn bộ tác phẩm là cần thiết nhưng khó
thực hiện trong phạm vi nhà trường. Vì vậy, tìm hiểu xuất xứ, vị trí đoạn trích là
một cách để biết chung về tác phẩm. Từ đó có cơ sở để cảm nhận nội dung và ý
nghĩa đoạn trích. Biết về xuất xứ của văn bản, học sinh đồng thời cũng biết được
đôi nét về nội dung, nghệ thuật của văn bản. Bởi vì, tác phẩm văn học là một hệ
thống chỉnh thể được cấu tạo bằng ngôn ngữ nghệ thuật, được cấu kết chặt chẽ
trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức.
+ Một yêu cầu đặt ra trong hoạt động đọc hiểu trong dạy học Ngữ văn

theo tinh thần đổi mới là phải gắn với đặc trưng thể loại. Dạy tác phẩm văn
chương theo thể lọai là dựa vào đặc trưng riêng của từng thể lọai để định hướng
tiếp cận, phân tích, lý giải bình giá giá trị tác phẩm văn học trong nhà trường.
Ngồi ra cị giúp học sinh có kiến thức lí luận mọt cách sát với nhu cầu khi làm
văn. Nhấn mạnh lúc này để kiến thức lý luận sẽ khơng khơ khan, khó hiểu khi
liên hệ đến văn bản đọc hiểu cụ thể. Thực tế trong chương trình của sách giáo
khoa hiện nay thường tập trung lựa chọn những tác phẩm tiêu biểu cho những
thể loại quen thuộc làm văn bản mẫu cho hoạt động đọc hiểu văn bản. Trên cơ
sở đó hướng dẫn cách thức phân tích tác phẩm văn học, hướng dẫn cách chiếm
lĩnh các tri thức lí luận và lịch sử văn học gắn với thể loại văn học. Để hiểu được
điều này, sách giáo khoa đã cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ lược về
thể loại của văn bản đọc hiểu trong phần Tiểu dẫn mà khi tiếp cận văn bản giáo
viên và học sinh phải biết vận dụng nó để việc đọc hiểu diễn ra một cách thuận
lợi. Ví dụ: Để hướng dẫn cho học sinh đọc hiểu văn bản “Ai đã đặt tên cho
dịng sơng” của Hồng Phủ Ngọc Tường, giáo viên cần cho các em hiểu về thể
loại bút kí. Theo từ điển thuật ngữ văn học là ghi lại những con người thực và sự
việc mà nhà văn đã tìm hiểu nghiên cứu cùng với những cảm nghĩ của mình
nhằm thể hiện một tư tưởng nào đó. Sức hấp dẫn và thuyết phục của bút kí tùy
thuộc vào tài năng, trình độ quan sát nghiên cứu, khám phá, diễn đạt của tác giả
đối với các sự kiện được đề cập đến. Tác phẩm Ai đã đặt tên cho dịng sơng là
một bút kí đặc sắc mà qua đó học sinh sẽ vừa được làm quen với một thể loại
văn học, vừa được biết đến một phong cách bút ký Hoàng Phủ Ngọc Tường tinh
tế tài hoa kết hợp nhuần nhuyễn chất trí tuệ và tính trữ tình, chất nghị luận sắc
sảo và sự hiểu biết uyên bác được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết
học, văn hoá, địa lý, lịch sử, hội hoạ, âm nhạc, thơ ca… Đoạn trích trong sách
Ngữ văn 12 là đoạn miêu tả từ bắt đầu nơi rừng già, dịng sơng xi về miền đất
Châu Hố, uốn mình qua kinh thành Huế rồi đi về với biển cả. Thế cho nên có
một cách tiếp cận tác phẩm là căn cứ vào thể loại sẽ giúp học sinh hiểu dụng ý
nhà văn muốn gửi đến các đặc điểm của con sơng theo từng dịng chảy. Sơng
Hương - mãnh liệt nơi rừng già vùng thượng nguồn; sông Hương - êm đềm nơi

đồng bằng và ngoại vi thành Huế; sông Hương - thơ mộng soi bóng kinh thành
Huế; sơng Hương - day dứt chia tay Huế để về với biển cả. Đồng thời đặc trưng
9


thể loại bút ký là tiếng nói của "cái tơi" chủ thể nên "cái tôi" càng thể hiện đậm
nét bao nhiêu bài viết càng dễ đi vào lòng người bấy nhiêu. Chắc rằng nhà văn
đã rất ý thức điều ấy nên "cái tơi" Hồng Phủ ln xuất hiện: "tơi thường nghe
nói đến…", "tơi nghĩ rằng…", "… đánh thức trong tâm hồn tôi…", "tôi thất
vọng…" , "tôi hi vọng...", như để trò chuyện, tâm sự và nhiều khi thuyết minh lý
giải cho bạn đọc hiểu rõ hơn về dịng sơng. Hơn nữa giá trị hàng đầu của bút ký
là giá trị nhận thức. Một bài bút ký hay như Ai đã đặt tên cho dịng sơng giúp
người đọc được hiểu thêm về dịng sơng Hương, hiểu thêm về kinh đơ Huế, về
xứ Huế, qua đó mà thêm yêu quê hương đất nước mình và người đọc cịn được
hiểu sâu hơn sức mạnh và giá trị của ngôn từ nghệ thuật..... Ngay trong phần
giới thiêu đặc trưng thể loại giáo viên sơ lược lấy ví dụ qua văn bản sẽ khiến học
sinh khi mới đàu đọc văn bản không phải chờ giảng giải mới hiểu mà bước đầu
có cảm nhận u thích tác phẩm văn học đặc biệt là thể kí.
+ Một nội dung quan trọng không thể thiếu nữa trong phần tiểu dẫn là tìm
hiểu khái quát nội dung, nghệ thuật của tác phẩm. Đây là định hướng ban đầu để
tiếp cận văn bản đúng hướng...
2.3.2. Giải pháp 2. Tổ chức cho học sinh tiến hành hoạt động học bằng
hệ thống các câu hỏi từ câu hỏi tái hiện đến những câu hỏi gợi mở, nêu vấn
đề, câu hỏi tình huống...
Trên cơ sở những nội dung cơ bản được đề cập trong phần Tiểu dẫn, giáo
viên xây dựng câu hỏi nhằm đạt được mục tiêu là học sinh tiếp cận được tri thức
gì qua phần Tiểu dẫn? Giáo viên xây dựng một hệ thống câu hỏi tái hiện, câu hỏi
gợi mở câu hỏi nêu vấn đề, câu hỏi tình huống để học sinh lần lượt nắm bắt vấn
đề. Đầu tiên có thể đặt câu hỏi tái hiện quen thuộc: Theo em phần tiểu dẫn trong
bài học này cần nắm những nội dung cơ bản nào? Học sinh phải luôn nhớ được :

Về tác giả phải nắm rõ những đặc điểm về thân thế, cuộc đời, sự nghiệp sáng
tác, phong cách nghệ thuật, những đánh giá về tác giả đó; Về tác phẩm học sinh
phải biết rõ hoàn cảnh ra đời, thể loại, những nhận định về nội dung và nghệ
thuật của tác phẩm. Tuy nhiên cần phải tiếp tục đặt câu hỏi sáng tạo khác. Đặt ra
những tình huống mới và giúp học sinh giải quyết là cách để các em nắm lấy
kiến thức một cách vững chắc nhất. Loại câu hỏi này phù hợp với đổi mới
phương pháp dạy học hiện đại. Ví dụ : Câu hỏi nêu vấn đề cho hồn cảnh ra đời
của tác phẩm. Anh/chị biết gì về hoàn cảnh ra đời của tác phẩm Chiếc thuyền
ngoài xa của Nguyễn Minh Châu? Nguyễn Minh Châu sáng tác vào năm 1983,
lúc này cuộc kháng chiến chống Mĩ đã kết thúc, đất nước thống nhất trong nền
độc lập hòa bình. Cuộc sống mới với “mn mặt đời thường” đã trở lại sau
chiến tranh. Nhiều vấn đề của đời sống văn hóa, nhân sinh trước đây do hồn
cảnh chiến tranh chưa được chú ý nay đã được đặt ra, nhiều quan niệm đạo đức
phải được nhìn nhận lại trong tình hình mới. Như một tất yếu khách quan văn
học phải đổi mới. Và Nguyễn Minh Châu là nhà văn “mở đường tinh anh và tài
năng nhất”. Hoàn cảnh ấy giúp anh/chị hiểu sâu tác phẩm như thế nào? Câu
hỏi đặt ra cho học sinh vấn đề: lí giải mối quan hệ giữa hoàn cảnh sáng tác và
nội dung tác phẩm. Khi dạy tác phẩm Chí phèo của nhà văn Nam Cao nên đặt ra
câu hỏi vì sao đề tài người nơng dân, người trí thức cứ trở đi, trở lại trong sáng
tác của Nam Cao, vì sao Nam Cao lại dành cho Chí Phèo lịng tin tưởng về
10


phẩm giá con người hoặc những câu hỏi tương tự người đọc có thể trả lời bằng
chính cuộc đời gắn bó u thương với người nơng dân, người trí thức của Nam
Cao.
Các câu hỏi trong phần Tiểu dẫn có thể chỉ là một tình huống để cho học
sinh phát hiện hay huy động vốn hiểu biết của mình để giải quyết tình huống ấy.
Các vấn đề hay câu hỏi được đưa ra sẽ giúp học sinh phát triển tư duy, xâu chuỗi
vấn đề một cách mạch lạc đồng thời tạo hứng thú cho học sinh vào tiết học mới

để khám phá vấn đề cịn đang bỏ ngỏ. Ví dụ khi dạy tác phẩm “Chí Phèo” của
Nam Cao giáo viên sẽ cho câu hỏi “Nỗi khổ của Chị Dậu và Lão Hạc là gì?”.
Đây là câu hỏi học sinh sẽ vận dụng kiến thức trong chương trình Ngữ văn lớp 8
để trả lời, giáo viên sẽ lấy đó làm tiền đề để dẫn đến một nỗi khổ nữa của người
nông dân trong giai đoạn 1930 – 1945 đó là bi kịch bị tha hóa và bi kịch bị từ
chối quyền làm người. Những bi kịch này được Nam Cao tái hiện chân thực
trong tác phẩm Chí Phèo. Việc thay đổi hình thức ở câu hỏi để dẫn dắt học sinh
được tham gia trực tiếp giải quyết vấn đề là một hoạt động thiết thực chuyển
giao nhiệm vụ cho học sinh một cách rõ ràng, tạo hứng thú cho học sinh vào
phần hình thành kiến thức trong văn bản.
2.3.3. Giải pháp 3. Tổ chức cho học sinh khai thác nội dung phần Tiểu
dẫn bằng các hoạt động khởi động.
Hiện nay hầu hết các tiết học, giáo viên thường chọn cho mình hình thức
khởi động bằng cách tổ chức các trò chơi nhanh như: Đuổi hình bắt chữ, Giải ơ
chữ, Ngơi sao may mắn, Vịng quay kì diệu… Trị chơi giúp cho hoạt động dạy
học trở nên sôi nổi, cuốn hút, giúp học sinh rèn luyện sự mạnh dạn, tự tin, khả
năng phản xạ nhanh, sự sáng tạo, nâng cao tinh thần đoàn kết và sự tương tác
giữa học sinh với học sinh, học sinh với giáo viên...Trong tiết học Ngữ văn các
trò chơi thường được giáo viên tổ chức liên quan đến kiến thức của các tiết học
trước như học sinh sẽ được tái hiện kiến thức về tác giả, tác phẩm hay kiểm tra
nhận thức của học sinh về những vấn đề liên quan đến bài học mới, làm tiền đề
để giáo viên dẫn vào bài một cách hấp dẫn.
Tôi thường khai thác sử dụng trò chơi, video, tranh ảnh cho hoạt động
khởi động vào những tiết đọc - hiểu văn bản đặc biệt là khi tìm hiểu Tiểu dẫn.
Điều này giúp cho tiết học khơng cịn khơ khan nặng nề về lí thuyết mà học sinh
có cảm giác như bản thân đang được chứng kiến trải nghiệm thực về đời sống
của từng nhà văn và tác phẩm của họ. Cách tổ chức :
- Giáo viên chọn nguồn tư liệu trình chiếu
- Thiết kế phiếu học tập hoặc các câu hỏi trả lời nhanh (Có thể sử dụng
phiếu học tập khác nhau tùy vào nội dung bài dạy và cách thiết kế của giáo viên)

- Giáo viên trình chiếu video hoặc tranh ảnh cho học sinh xem, đồng thời
phát phiếu học tập
- Học sinh vừa xem vừa hoàn thành phiếu học tập
Từ câu trả lời của HS, giáo viên giới thiệu, dẫn dắt vào bài mới.
Mỗi hoạt động khởi động trong giờ học Ngữ văn cũng giống như món ăn
khai vị trong một bữa tiệc, tạo tâm thể chủ động cho học sinh khi vào tiết học.
Tơi cịn thường khuyến khích và tổ chức các hình thức làm việc nhóm cho học
sinh, thơng qua đó học sinh sẽ có điều kiện trình bày những kiến thức của mình
11


về tác giả văn học, những học sinh khác nghe và điều chỉnh. Có thể giao cho
mỗi nhóm tìm hiểu một phương diện nào đó về tác giả và trình bày trước lớp,
các nhóm khác góp ý, giáo viên là nhân tố xúc tác để tạo nên các cuộc tranh luận
tích cực trong giờ học. Có như vậy học sinh sẽ có điều kiện để kiểm nghiệm
thơng tin mình thu thập được có tính chính xác như thế nào, nếu cần sẽ điều
chỉnh ra sao. Và tất yếu được tranh luận học sinh sẽ ghi nhớ rất tốt thơng tin.
Ngồi ra giáo viên có thể sử dụng hình thức khởi động bằng việc chuyển
hóa thơng tin cần khai thác thành dạng sơ đồ, biểu đồ, hình vẽ, biểu tượng... Ví
dụ bài Tun ngơn Độc lập của Hồ Chí Minh có thể đưa ra sơ đồ tư duy để học
sinh dễ hình dung bài học.

12


2.3.4. Giải pháp 4. Tổ chức cho học sinh khai thác sâu sắc hơn nội
dung phần Tiểu dẫn bằng hình thức kể chuyện để tạo sự lôi cuốn, hấp dẫn.
Những thông tin khô khan không bao giờ làm học sinh hứng thú nhưng
những câu chuyện , giai thoại luôn được học sinh đón nhận một cách hào hứng,
bởi nó phù hợp với tâm lí học sinh, nó giúp hình thành và tơ đậm thêm lịng u

q của học sinh đối với nhà văn, đối với mơn văn học. Ví dụ Giáo viên kể lại
chuyện khi Huy Cận vừa làm xong bài thơ Tràng giang gửi cho Xuân Diệu xem
trước. Xuân Diệu vội vàng chép tay, rồi gửi theo đường bưu điện cho Thế Lữ.
Đọc xong, Thế Lữ khen hay và hỏi: "Huy Cận là tay nào mà làm thơ hay thế!".
Xuân Diệu bảo: "Huy Cận là bạn tôi". Thế Lữ lại hỏi: "Là bạn sao không đưa
thẳng cho tôi mà lại gửi thư?". Xuân Diệu đáp: "Tôi muốn gửi thế để kiểm tra
xem thử thơ có hay thật khơng?". Mấy ngày sau, Huy Cận ra Hà Nội, Xuân
Diệu đưa ông đến báo Ngày nay giới thiệu với Ban biên tập. Đó là lần đầu tiên
Huy Cận tiếp xúc với giới văn chương, báo chí. Từ đó, họ rất q ơng, đăng thơ
ông đều đặn trên báo Ngày Nay. Tuần ấy, báo đăng bài Tràng giang của Huy
Cận. Ngay ngày hôm sau, mới 6 giờ sáng, Lưu Trọng Lư đã đến đập cửa Huy
Cận tại số nhà 40 Hàng Than (lúc ấy Lưu Trọng Lư ở dưới nhà, Huy Cận và
Xuân Diệu ở trên gác), mà rằng: "Trời, Tràng giang hay quá Cận ơi! Hôm nay cụ
Ngô Tất Tố hỏi tôi: "Huy Cận là thằng cha nào mà làm bài thơ hay thế? Bài thơ
này hồn thơ Đường mà hay hơn thơ Đường”...mình phải khao cậu mới được.
Thế là hai nhà thơ đến hiệu phở Nghi Xuân (ở Hàng Quạt) nổi tiếng. Lưu Trọng
Lư chiêu đãi Huy Cận nhưng lại quên mang tiền vì ơng nổi tiếng là người lơ
đãng. Rốt cuộc, Huy Cận lại mời phở Lưu Trọng Lư. Hoặc Nhà văn Nam Cao
có bút danh như vậy là do ghép chữ đầu tên huyện (Nam) với chữ đầu tên
13


tổng(Cao) để nhớ ơn mảnh đất đã sinh thành. Nam Cao cịn có nghĩa nước Nam,
cao cả, cao sang nữa...
Trường hợp văn bản là đoạn trích thì việc kể chuyện có nghệ thuật rất
quan trọng để tóm tắt tác phẩm.
Đặc biệt kể chuyện hấp dẫn trong mục giới thiệu về các tác phẩm tiêu
biểu tròn sự nghiệp sáng tác của mỗi tác giả có thể hỏi học sinh biết và kể lại
ngắn gọn về tác phẩm nào em thích hoặc chính giáo viên là người kể chuyện để
dẫn dắt, giới thiệu.

2.3.5. Giải pháp 5. Sử dụng công nghệ thông tin hỗ trợ để tạo hứng thú
khi dạy Tiểu dẫn
Chương trình giáo dục phổ thông Việt Nam sau 2015 xác định một trong
những năng lực mà học sinh cần đạt được đó chính là năng lực ứng dụng cơng
nghệ thơng tin. Nghĩa là một trong những năng lực cốt lõi mà học sinh phải đạt
được qua q trình học phổ thơng chính là biết sử dụng cơng nghệ thơng tin để
hỗ trợ học tập và đi vào thực tiễn cuộc sống. Trước hết là với việc tự học phần
tiểu dẫn. Biện pháp này góp phần quan trọng vào việc hình thành thói quen, kĩ
năng đọc sách, tự nghiên cứu tài liệu (tài liệu giấy, tài liệu điện tử) cho các em một kĩ năng không thể thiếu trước xu thế bùng nổ thơng tin và tồn cầu hóa như
hiện nay. Hoạt động này được tiến hành ở nhà nhằm chuẩn bị bài trước khi đến
lớp; tìm hiểu nâng cao, mở rộng vấn đề liên quan đến bài học hoặc được tiến
hành ngay tại lớp trước khi trao đổi, thảo luận (với những tài liệu ngắn). Ví dụ
để dạy học bài “Vợ nhặt” của chương trình Ngữ văn 12, giáo viên có thể trình
chiếu một số hình ảnh nạn đói năm 1945 và từ đó dẫn dắt học sinh rằng có
những năm tháng dân tộc ta đã phải trải qua cái đói, cái nghèo một cách bi thảm
như vậy nhưng vượt lên tất cả, con người vẫn sống với nhau bằng tình u
thương vơ bờ bến. Đó là thơng điệp nhà văn Kim Lân gửi gắm qua truyện ngắn
“Vợ nhặt”....
Có thể nói thời đại ngày nay là thời đại của thông tin, chỉ trong thời gian
rất ngắn với sự hỗ trợ của cơng nghệ người ta có thể có được thơng tin về mọi
tác phẩm, mọi tác giả văn học lớn. Bên cạnh đó số lượng tài liệu tham khảo dưới
các hình thức rất đa dạng và phong phú như các tạp chí thường kỳ, các cuốn
sách tham khảo, blog cá nhân … cũng vơ cùng lớn học sinh khơng khó để tra
cứu thông tin quê quán, xuất thân, con người, sáng tác, tư tưởng. Vì vậy áp dụng
cơng nghệ thơng tin trong việc soạn bài, trình bày trong các giờ học là phát huy
tinh thần chủ động, tích cực của mỗi học sinh nhằm tự chiếm lĩnh lượng thông
tin cần thiết thì sẽ ghi nhớ rất lâu, sẽ tạo được hứng thú tìm hiểu tiếp những bài
học tiếp theo.
2.4. Hiệu quả của SKKN với hoạt động giáo dục, với bản thân,
đồng nghiệp, nhà trường:

2.4.1. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục
Với việc đầu tư, nghiên cứu, tìm tịi sáng tạo, học tập về việc dạy học hiệu
quả sáng tạo phần Tiểu dẫn chắc chắn người giáo viên sẽ khai thác có chiều sâu
các thơng tin về tác giả, tác phẩm trên cơ sở những thông tin đã cung cấp trong
sách giáo khoa. Quan trong hơn nữa học sinh có thể tự khai thác và chuẩn bị bài
ở nhà chủ động và hiệu quả hơn so với trước. Mặt khác trong hoạt động học với
14


cách tổ chức dạy học phần Tiểu dẫn hiệu quả sẽ tạo được sự hấp dẫn, hứng thú
cho người học. Các em biết cách sử dụng những thông tin trong Tiểu dẫn để tiếp
nhận, phân tích các hình tượng văn học trong văn bản. Đồng thời học sinh biết
cách huy động những kiến thức phục vụ cho các đề Làm văn có liên quan. Vì
vậy kết quả học văn những năm qua trong kì thi Tốt nghiệp bộ mơn năm sau
luôn cao hơn năm trước và đều vượt mặt bằng của tỉnh.
2.4.2. Hiệu quả của SKKN đối với bản thân, đồng nghiệp, nhà trường.
Sáng kiến này có thể áp dụng cho mọi đối tượng học sinh, mặc dù trong
phạm vi nghiên cứu của đề tài này chỉ ở hai khối lớp 11, 12 năm học này tôi áp
dụng. Các em sẽ có sự nghiên cứu, chuẩn bị bài có hiệu quả. Giáo viên có thể
sử dụng như một tài liệu giảng dạy vì dễ áp dụng và có hiệu quả cao. Đặc biệt là
cơ sở tốt để giáo viên kiểm chứng, đánh giá tiết dạy của đồng nghiệp khi dự giờ,
thăm lớp.
2.4.3. Kết quả kiểm nghiệm
Với phương pháp trên, tôi thực hiện ở các lớp: 11A1, 11A12, 11A7, 12A2,
12A10 tại trường THPT nơi tôi đang công tác năm hoc 2020 - 2021. Học sinh
được kiểm tra trắc nghiệm khách quan dạng câu hỏi "có hoặc khơng?": Anh/ chị
có thích học phần Tiểu dẫn khơng? Kết quả 100% đều rất thích học,
Cịn kết quả học tập của các lớp tơi dạy năm học này dưới đây là một minh
chứng:
Lớp


11A1
KhốiA
11A7
KhốiD
11A12
Khối A
12A2
Khối A1
12A10
Khối D

Tổng
Giỏi
Khá
Tỉ lệ Số
Tỉ lệ
số học Số
học
%
học
%
sinh
sinh
sinh
42
2
4,8
39
92,8


TB
Yếu
Số học Tỉ lệ Số
Tỉ
sinh
%
học
lệ
sinh %
1
2,4
0
0

42

4

9,6

36

85,6

2

4,8

0


0

42

3

7,1

27

64,3

12

28,6

0

0

40

09

23,4

31

76,6


0

0

0

0

45

13

28,9

32

71,1

0

0

0

0

3. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
3.1. Kết luận
Như vậy, dạy học sáng tạo phần tiểu dẫn trong tiết đọc văn đã góp phần

ra hứng thú và hiệu quả hơn trong việc tiếp nhận và lĩnh hội ý nghĩa tác phẩm.
Nhìn chung việc vận dụng một số cách thức, kỹ thật dạy học như trên đã mang
lại hiệu quả nhất định. Học sinh có chú ý nhiều hơn tới giờ học văn và bài học
15


về tác giả văn học. Học sinh cũng đã đảm bảo những kiến thức cơ bản nhất định
về tác giả và văn bản đó. Có như vậy mỗi giờ học văn sẽ khơng cịn là sự thờ ơ
đón nhận của học trị.
3.2. Đề xuất
- Thực tế dù cịn nhiều khó khăn nhưng quan trọng nhất trong sự thành
công mỗi bài dạy là giáo viên phải có hứng thú, say mê cơng việc, đi sâu vào cải
tiến soạn, giảng có chiều sâu, linh hoạt, tích cực, tiến bộ có tác dụng kích thích
lịng ham học hỏi. Đồng thời cần hướng dẫn học sinh chuẩn bị nội dung bài học
ở nhà, sau đó kiểm tra sự chuẩn bị của các em và quan tâm học sinh yếu, kém,
tuyên dương, động viên kịp thời nếu những học sinh này làm tốt nhiệm vụ được
giao. Bên cạnh đó các phịng học phải được đảm bảo hệ thống tivi, mạng
internet, máy chiếu sẽ hỗ trợ quan trọng cho thực hiện hoạt động học.
Với đóng góp nhỏ trên, tôi mong rằng sẽ được đồng nghiệp tham khảo, góp
ý, giúp tơi hồn thiện để tiết đọc văn trong chương trình ngày càng có hiệu quả
hơn, thực sự đem lại hứng thú cho học trị.
Tơi xin chân thành cảm ơn!

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hoá, ngày 09 tháng 05 năm 2021
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, khơng sao chép nội dung của
người khác.
Ký tên


Lê Thị Thái

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Ngữ Văn 11,12 chương trình chuẩn - Bộ GDĐT- NXB
Giáo dục 2006
2. Sách Giáo viên Ngữ Văn 11,12 chương trình chuẩn - Bộ GDĐT- NXB
Giáo dục 2006
3. Tài liệu Tập huấn giáo viên “Dạy học, kiểm tra, đánh giá theo chuẩn kiến
thức, kỹ năng trong chương trình Giáo dục phổ thơng, mơn Ngữ Văn, cấp
THPT” (Hà Nội, tháng 7, 2010)
4. Một số tài liệu khác do cá nhân sưu tầm trên Internet.
5. Phương pháp dạy học Văn (Phan Trọng Luận - NXB ĐHQG 1999).
6. Tài liệu tập huấn Dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo
định hướng phát triển năng lực học sinh môn Ngữ Văn cấp trung học phổ
thông - Bộ Giáo dục và đào tạo (2014), .
7. Nghị quyết số 88 ngày 28/11/2014 của Quốc hội về đổi mới Chương trình,
sách giáo khoa giáo dục phổ thơng.
8. Tài liệu tâp huấn “Phương pháp và kĩ thuật tổ chức hoạt động học theo
nhóm và hướng dẫn học sinh tự học môn Ngữ văn” năm 2017.
9. Từ điển thuật ngữ văn học, Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, NXB ĐHQGHN,
1997.
10. Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo thể loại (Nguyễn Viết
Chữ - NXB ĐHQG 2001)
11. Tham khảo các sáng kiến của đồng nghiệp.
17



SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT LÊ LỢI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ KINH NGHIỆM GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU
QUẢ TIẾT ĐỌC VĂN QUA KHAI THÁC VÀ TỔ CHỨC
DẠY HỌC SÁNG TẠO PHẦN TIỂU DẪN

Người thực hiện: Lê Thị Thái
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc mơn: Ngữ Văn

18
THANH HỐ NĂM 2021



×