Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Nghiên cứu khu hệ ếch nhái tại khu bảo tồn thiên nhiên thượng tiến huyện kim bôi tỉnh hòa bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.82 MB, 90 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
---------------------

LƯU QUANG VINH

NGHIÊN CỨU KHU HỆ ẾCH NHÁI TẠI KHU
BẢO TỒN THIÊN NHIÊN THƯỢNG TIẾN TỈNH HOÀ BÌNH

Chuyên ngành: Quản lý bảo vệ tài nguyên rừng
Mã số: 60. 62. 68

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. Lê Xuân Cảnh

Hà Nội, 2009


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Ếch nhái hay lưỡng cư, lưỡng thê là lớp động vật có xương sống đầu
tiên thích nghi với môi trường sống ở cạn, với những đặc điểm sinh học, sinh
thái khác với các nhóm động vật có xương sống ở cạn khác. Ếch nhái chỉ sống
ở vùng nước ngọt, phân bố giới hạn trên các lục địa, không sống được ở môi


trường quá lạnh, biển và các vực nước lợ. Cho đến nay, trên Thế giới đã xác
định được 6.433 loài ếch nhái, thuộc 59 họ và 3 bộ [43].
Phần lớn ếch nhái là các lồi có ích cho nơng nghiệp, một số lồi được
dùng làm thực phẩm, dược liệu có giá trị và trong các phịng thí nghiệm sinh
học. Ngồi ra, chúng cịn là là một mắt xích quan trọng trong mạng lưới thức
ăn của các hệ sinh thái tự nhiên.
Cho đến nay những nghiên cứu về ếch nhái trên phạm vi toàn quốc
cũng như tại các khu vực ở Việt Nam vẫn chưa đầy đủ. Hàng năm tại các
Vườn Quốc gia (VQG), Khu bảo tồn thiên nhiên (Khu BTTN), nhiều loài Ếch
nhái mới vẫn được phát hiện, bổ sung cho danh lục của khu vực và quốc gia.
Vì vậy, nghiên cứu về khu hệ ếch nhái có ý nghĩa về phương diện lý
luận: Nhằm đóng góp những tư liệu cho việc phân vùng địa lý tự nhiên và là
cơ sở cho phân vùng kinh tế - sinh thái, từ đó góp phần định hướng bảo tồn và
khai thác sử dụng một cách hợp lý tài nguyên ếch nhái nói riêng, tài nguyên
động vật nói chung.
Khu BTTN Thượng Tiến được thành lập năm 1995, nằm ở trung tâm
tỉnh Hịa Bình, cách thành phố Hịa Bình khoảng 85km về phía Tây – Nam.
Tổng diện tích tự nhiên của Khu bảo tồn là 7.308ha, nằm trên địa giới hành
chính của 3 xã: Thượng Tiến, Kim Tiến huyện Kim Bôi và xã Quý Hòa huyện
Lạc Sơn. Theo kết quả điều tra cơ bản năm 1994 [8],[9]: Hệ thực vật có 311


2

lồi, thuộc 255 và 88 họ; Hệ động vật có 280 loài và loài phụ, thuộc 86 họ và
25 bộ. Tuy nhiên, theo đánh giá những con số trên đây mới chỉ là kết quả điều
tra sơ bộ, với mục đích chính là phục vụ cho xây dựng luận chứng Kinh tế Kỹ thuật và cịn chưa chính xác do hạn chế về mặt thời gian. Yêu cầu nghiên
cứu về khu hệ động vật nói chung và khu hệ ếch nhái nói riêng của Khu
BTTN Thượng Tiến là rất lớn.
Với đặc điểm tự nhiên và khí hậu đặc trưng, khu hệ ếch nhái đóng một

vai trị quan trọng trong khu hệ động vật tại Khu BTTN Thượng Tiến. Theo
thống kê năm 1995, có tổng số 28 lồi ếch nhái thuộc 5 họ, 1 bộ đã được ghi
nhận tại đây. Tuy nhiên, kết quả điều tra này đã ghi nhận cách đây hơn một
thập kỷ, hơn nữa đây chỉ là kết quả điều tra sơ bộ và được thực hiện trong thời
gian ngắn. Vì vậy, nghiên cứu khu hệ ếch nhái ở Thượng Tiến sẽ có ý nghĩa về
phương diện thực tiễn là: 1) Xây dựng cơ sở dữ liệu về nguồn tài nguyên rừng
tại khu bảo tồn; 2) Hoạch định các giải pháp và chiến lược cho việc quản lý đa
dạng sinh học và phát triển nguồn tài nguyên động vật theo hướng bền vững.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn trên, chúng tôi đã tiến hành thực
hiện đề tài “Nghiên cứu khu hệ ếch nhái tại Khu Bảo tồn thiên nhiên
Thượng Tiến, tỉnh Hịa Bình”.


3

Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Trên Thế giới
Nghiên cứu về động vật đã được các nhà khoa học quan tâm từ lâu.
Một trong những nội dung quan trọng là nghiên cứu khu hệ. Khu hệ động vật
(fauna) là tập hợp các lồi động vật có tính chất lịch sử trong một khu vực hay
một lãnh thổ xác định. Nghiên cứu khu hệ động vật bao gồm các nội dung
chính: Các yếu tố hình thành khu hệ (điều kiện tự nhiên, lịch sử địa chất); đặc
điểm thành phần loài, phân bố tự nhiên, nguồn gốc loài; mối quan hệ giữa các
cá thể trong một quần thể, giữa các quần thể động vật với nhau và giữa các
quần thể động vật với các quần thể thực vật; hiện trạng quần thể các loài động
vật. Đây là cơ sở khoa học cho công tác bảo tồn, khai thác và sử dụng tài
nguyên theo hướng bền vững.
Cho đến nay, trên Thế giới hiện đã ghi nhận được 6.433 loài ếch nhái
thuộc 59 họ, 3 bộ, trong đó: bộ Khơng đi (Anura) có 5.679 lồi, 47 họ; bộ

có đi (Caudata) 580 lồi, 9 họ; bộ Khơng chân (Gymnophiona hay Apoda)
có 174 lồi, 3 họ (Frost, 2009). Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng:
Rừng nhiệt đới là nơi đa dạng nhất về thành phần lồi ếch nhái. Ví dụ, Thái
Lan là một trong các quốc gia nằm trong vùng nhiệt đới và được đánh giá có
khu hệ ếch nhái khá phong phú. Theo thống kê, tổng số có 130 lồi ếch nhái,
thuộc 8 họ và 3 bộ được ghi nhận ở nước này [52].
Tương tự, Trung Quốc cũng là một quốc gia có tính đa dạng cao về các
lồi ếch nhái. Theo thống kê của Zhao và Adler (1993), tổng số 274 loài ếch
nhái, thuộc 11 họ và 3 bộ đã được ghi nhận tại Trung Quốc. Trong đó, bộ
Khơng đi có 250 lồi (chiếm 91,24%) thuộc 7 họ, bộ Có đi 23 lồi thuộc
3 họ và bộ Khơng chân chỉ có 1 loài [58].


4

Một ví dụ nữa chứng minh cho nhận định về tính đa dạng của các lồi
ếch nhái tại khu vực nhiệt đới đó là Ấn Độ. Berkeley (2009) đã thống kê được
213 loài ếch nhái thuộc 10 họ, 3 bộ. Trong số 213 lồi thì có 27 lồi thuộc họ
Megophryidae, 35 loài thuộc họ Bufonidae, 33 loài thuộc họ Microhylidae, 55
loài thuộc họ Ranidae, 43 loài thuộc họ Rhacophoridae và 7 lồi thuộc họ
Ichthyophiidae [40]. Thơng tin về tính đa dạng tài nguyên ếch nhái của một số
nước trong khu vực Đông Nam Á được thể hiện trong bảng 1.1.
Bảng 1-1. Thành phần lồi ếch nhái một số nước Đơng Nam Á
Tên nước
Lào

Gymnophiona
Số họ Số loài
1
1


Caudata
Số họ Số loài
1
1

Anura
Số họ Số loài
5
58

Tổng số
Số họ Số loài
7
60

Myanmar

0

0

1

1

5

81


6

82

Philippin

1

3

0

0

6

93

7

96

Thái Lan

1

4

1


1

7

107

9

112

Việt Nam*

1

1

1

5

9

163

11

174

Malaysia


1

7

0

0

5

193

6

200

Indonesia

1

10
0
0
8
246
9
256
(Nguồn: Bùi Thị Hải Hà, 2003; * Nguyen Van Sang et al., 2009)

Cho đến nay, có rất nhiều phương pháp nghiên cứu về thành phần loài

của ếch nhái đã và đang được áp dụng như điều tra theo tuyến, ô tiêu chuẩn,
bẫy hố và điều tra theo tiếng kêu [54]. Tùy vào điều kiện cụ thể, mỗi phương
pháp có những ưu nhược điểm riêng. Ví dụ, Doan, T.M. (2003), khi nghiên
cứu về thành phần lồi ếch nhái, bị sát ở rừng mưa nhiệt đới đã sử dụng hai
phương pháp: Điều tra theo tuyến và ơ tiêu chuẩn. Dựa trên kết quả phân tích,
tác giả đã đưa ra nhận định: Số lượng cá thể ếch nhái, bò sát thu được khi sử
dụng phương pháp điều tra theo tuyến nhiều hơn khi sử dụng phương pháp
điều tra theo ơ tiêu chuẩn (ơ có dạng hình vng). Ngồi ra, nhiều lồi quan
trọng cũng đã được ghi nhận bằng phương pháp điều tra theo tuyến.


5

Tuy nhiên, khi điều tra một loài ở sinh cảnh cụ thể, việc điều tra theo
phương pháp lấy mẫu theo ô tiêu chuẩn là tốt hơn. Trong các cuộc điều tra dài
hạn, thì hai phương pháp đó là có hiệu quả tương đương, xét về số lượng loài
và cá thể thu được.
Nhóm ếch nhái hoạt động chủ yếu vào ban đêm và sống ở quanh các
khe suối, vì vậy với thời gian điều tra ngắn thì phương pháp điều tra theo
tuyến là thích hợp và hiệu quả nhất [42].
Mục đích cơ bản của nghiên cứu sinh thái học là để giải thích về phân
bố và sự phong phú của các lồi theo mơi trường sống, đó cũng là những cơ
sở dữ liệu quan trọng nhằm đề xuất các giải pháp bảo tồn. Về sinh thái học
ếch nhái, Gregorio & Pizarro (2008) khi nghiên cứu mối quan hệ giữa sinh
cảnh, khí hậu, sự tác động của con người và cấu trúc cảnh quan đến sự phong
phú của các loài ếch nhái ở Tây Ban Nha cho thấy rằng: sự thay đổi về khí
hậu ảnh hưởng mạnh đến tính đa dạng lồi hơn so với sự không đồng nhất về
sinh cảnh; mức độ phong phú của các loài ếch nhái gia tăng theo độ cao của
các dãy núi; sự xuất hiện của con người có mối quan hệ chặt chẽ với sự phong
phú của các lồi chim và thú, nhưng ít ảnh hưởng đến tính đa dạng lồi của

các lồi động vật biến nhiệt. Mặt khác, nghiên cứu chỉ ra rằng các loài ếch
nhái là phong phú hơn ở những vùng đất có mặt của con người mà ít bị tác
động tiêu cực (như các trang trại) [44].
Trong số các lớp động vật trên Thế giới hiện nay, ếch nhái là lớp động
vật nguy cấp nhất. Theo thống kê gần 1/3 số loài trong tổng số 6.433 loài trên
Thế giới đứng bên bờ vực của sự tuyệt chủng và 200 loài đã không được ghi
nhận trong những năm gần đây. Các nguyên nhân dẫn đến tình trạng này có
liên quan đến sự gia tăng dân số và hoạt động sống của con người. Cụ thể, có


6

6 nguyên nhân chính dẫn đến nguy cơ tuyệt chủng của các loài ếch nhái: Phá
hủy sinh cảnh, lây nhiễm bệnh tật, ơ nhiễm thuốc trừ sâu, biến đổi khí hậu,
loài ngoại lai xâm hại và săn bắt quá mức [39].
Bảo tồn các loài ếch nhái với mục tiêu là bảo vệ quần thể ếch nhái, sinh
cảnh sống của chúng và tạo ra một mơi trường bình đẳng, tơn trọng và bảo vệ
tự nhiên nói chung và động vật hoang dã nói riêng. Để làm được điều này, các
nhà khoa học đã đề xuất phối hợp bảo tồn bằng 5 giải pháp sau: (1) Giáo dục
môi trường, (2) Tăng cường thực thi chính sách, pháp luật, (3) Kiểm sốt hoạt
động tàn phá sinh cảnh, (4) Những hoạt động cho bảo vệ môi trường sống, (5)
Quản lý và đầu tư cho nghiên cứu khoa học [39].
1.2. Ở Việt Nam
Tổng hợp đầu tiên về khu hệ bò sát, ếch nhái miền Nam Việt Nam
được thực hiện bởi Morice (1875). Tác giả đã thống kê được 114 lồi bị sát
và 13 lồi ếch nhái. Morice (1875) cũng đưa ra một danh sách đầu tiên về các
loài ếch nhái thu được ở Tây Ninh, Sài Gòn và Hà Tiên (hiện nay thuộc tỉnh
Kiên Giang) [56].
Tirant (1885), trong một cơng trình nghiên cứu về bị sát, ếch nhái Việt
Nam và Campuchia, đã xác định được 166 lồi bị sát, ếch nhái. Trong đó, có

17 lồi ếch nhái, trong đó 16 lồi thuộc bộ Khơng đi (Anura) và 1 lồi
thuộc bộ Khơng chân (Gymnophiona). So với Morice (1875), số loài tác giả
phát hiện được nhiều hơn do mở rộng khu vực nghiên cứu [56].
Trong số các nhà nghiên cứu người Pháp (thời kỳ Pháp thuộc), những
người đặc biệt quan tâm nghiên cứu đến bò sát, ếch nhái ở Việt Nam có thể kể
đến là: Vaillant (1834-1914), Mocquard (1834-1917), Pellegrin (1873-1944),
Chabanaud (1876-1959), Angel (1881-1950) và Bourret (1884-1957). Bourret


7

là nhà khoa học dẫn đầu trong lĩnh vực nghiên cứu ếch nhái, bị sát ở Đơng
Dương. Ơng đã viết một số lượng lớn các bài báo và sách về bò sát, ếch nhái
ở Việt Nam: Năm 1937, Bourret đã cơng bố lồi Ophryophryne poilani thu
được ở Quảng Trị, Quảng Bình. Năm 1939, ơng cơng bố 12 lồi ếch nhái, bị
sát trong đó có các lồi: Ophryophryne microstoma, Huia nasia, Rana kuhlii,
Rhacophorus leucomystax và Philautus banaensis. Năm 1942, trong chuyên
khảo về ếch nhái Đông Dương Bourret đã ghi nhận thêm 4 loài ếch nhái:
Rana kokchangae, Rana verrucospinosa, Megophrys longipes, Philautus
petersi. Các kết quả nghiên cứu của ông trong giai đoạn này được viết thành
cuốn “Les batraciens de L’Indochine (Ếch nhái ở Đơng Dương) xuất bản năm
1942 (Bourret,1942), trong cơng trình này, ơng đã tổng kết ở Đơng Dương có
171 lồi ếch thuộc 9 họ và 3 bộ, trong đó có 2 lồi thuộc bộ Khơng chân
(Gymnophiona), 4 lồi thuộc bộ Có đi (Caudata), 165 lồi thuộc bộ Khơng
đi (Anura). Trong số 171 lồi, có 59 lồi thuộc 9 họ, 3 bộ phân bố ở Việt
Nam (Bourret, 1936, 1941a, 1941b, 1942a, 1942b, 1943). Bourret cũng đã
ước lượng có 82 lồi ếch nhái xuất hiện ở Việt Nam [41],[46].
Trong giai đoạn từ năm 1945 – 1954 khơng có ghi nhận mới cho khu
hệ ếch nhái ở Việt Nam do bị ảnh hưởng của chiến tranh. Sau khi miền Bắc
Việt Nam được giải phóng (năm 1954) và từ năm 1956 nghiên cứu ếch nhái

lại được tiếp tục và ngày càng được đẩy mạnh. Trong thời gian này, các cơng
trình nghiên cứu về ếch nhái chủ yếu do các nhà khoa học Việt Nam đảm
nhiệm. Kết quả điều tra ếch nhái ở miền Bắc của Trần Kiên và cộng sự từ
năm 1956 đến 1976 đã ghi nhận 68 loài ếch nhái [14]. Đào Văn Tiến (1977)
đã cơng bố danh lục và khóa định loại cho 87 lồi ếch nhái ở Việt Nam, trong
đó có 85 lồi ếch nhái khơng đi, 1 lồi cá cóc và 1 loài ếch giun [23].


8

Nghiên cứu về ếch nhái được đẩy mạnh đặc biệt từ những năm 1990 trở
lại đây. Việc thành lập các VQG, Khu BTTN đã đòi hỏi phải tiến hành khảo
sát và đánh giá tổng thể về hiện trạng nguồn tài nguyên sinh vật nhằm tạo lập
cơ sở khoa học cho việc xây dựng phương án quản lý. Vì vậy, danh lục các
lồi động vật trong đó có thành phần lồi ếch nhái đã được công bố, bổ sung
qua nhiều đợt khảo sát của nhiều chuyên gia trong và ngoài nước qua các dự
án nghiên cứu ở các khu như: Hoàng Liên (Ohler et al., 2000) [53], Cát Tiên
(Nguyễn Văn Sáng và Hồ Thu Cúc, 2002) [32], U Minh Thượng (Nguyễn
Văn Sáng và cộng sự, 2002) [31], Bà Nà (Lê Vũ Khôi và cộng sự, 2002) [13],
Tây Côn Lĩnh (Bain & Nguyen, 2004) [38], Cúc Phương (Nguyễn Văn Sáng,
2003) [30], Ngọc Sơn - Ngổ Luông (Lê Trọng Đạt và cộng sự, 2008) [49],
Phong Nha - Kẻ Bàng (Hendrix et al., 2008) [45], Xuân Sơn (Nguyễn Văn
Sáng và Nguyễn Quảng Trường, 2009) [35], Xuân Liên, Pù Luông, Bến En
(Nguyễn Kim Tiến, 2009) [25], Côpia (Lê Nguyên Ngật và Nguyễn Văn
Sáng, 2009) [18].
Từ năm 1992 đến năm 1997, Lê Nguyên Ngật và cộng sư (1997) đã xác
định danh sách các loài ếch nhái tại: Khu BTTN Hồng Liên Sơn có 25 lồi
ếch nhái thuộc 5 họ, 1 bộ; VQG Cúc Phương có 17 lồi thuộc 5 họ, 1 bộ; Tây
Nam Nghệ An có 17 loài thuộc 5 họ, 1 bộ; Ngọc Linh (Kon Tum) có 19 lồi
thuộc 5 họ, 2 bộ [16].

Hồng Xn Quang (1993) đã cơng bố cơng trình nghiên cứu khu hệ bò
sát - ếch nhái tại khu vực Bắc Trung Bộ và xác định được 34 loài ếch nhái
thuộc 7 họ, 2 bộ [20].
Nguyễn Văn Sáng và Hồ Thu Cúc (1996) đã thống kê thành phần loài,
phân bố, giá trị và tình trạng của 82 lồi ếch nhái Việt Nam thuộc 9 họ, 3 bộ [29].


9

Inger et al., (1999) đã công bố danh lục 100 lồi của khu hệ ếch nhái Việt
Nam, trong đó 12 loài lần đầu tiên được ghi nhận ở Việt Nam và 6 loài mới cho
khoa học so với nghiên cứu trước đây của Nguyễn Văn Sáng (1996) [47].
Số lượng loài ếch nhái của Việt Nam được cập nhật bởi Nguyễn Văn
Sáng và cộng sự (2005) lên đến 162 loài, tăng 62 loài so với những nghiên
cứu của Inger et al., (1999) [33].
Gần đây nhất năm 2009, danh lục ếch nhái - bị sát Việt Nam đã được
cơng bố lên đến 174 loài ếch nhái, thuộc 11 họ và 3 bộ (Nguyen Van Sang et
al., 2009) [56].
Cùng với công tác điều tra về thành phần loài khu hệ ếch nhái, nghiên
cứu về sinh thái học ếch nhái cũng đã được tiến hành. Cơng trình đầu tiên đề
cập đến sinh thái học của ếch nhái đó là “Dẫn liệu bước đầu về sinh thái học
ếch đồng” của Đào Văn Tiến và Lê Vũ Khơi (1966) [22]. Tiếp theo đó là
cơng trình của Nguyễn Kim Tiến (1999), nghiên cứu một số đặc điểm sinh
thái học ếch đồng (Rana rugulosa Wiegmann, 1825) trong điều kiện ni
[24], tìm hiểu sinh thái học giống ếch cây (Rhacophorus) của Việt Nam (Hồ
Thu Cúc và Orlov, 2000) [7]. Lê Nguyên Ngật (2000), nghiên cứu một số đặc
điểm sinh học, sinh thái học của Cá cóc Tam Đảo (Paramesotriton deloustali)
trong điều kiện bể nuôi nhằm bổ sung những dẫn liệu khoa học, xây dựng quy
trình nhân ni góp phần bảo tồn loài ếch nhái quý hiếm này và một số tập
tính của Cá cóc Tam Đảo ni trong bể kính” [17]. Nghiên cứu sự lột xác của

Cóc nhà (Bufo melanosticus Schneider, 1799) ở thời kỳ trước trú đông và trú
đơng trong điều kiện ni (Trần Kiên và Đồn Văn Kiên, 2002) [15]. Từ năm
1998 đến 1999, Nguyễn Văn Đức và cộng sự (2002) đã nghiên cứu giun sán
ký sinh ở một số loài ếch nhái phổ biến ở vùng đồng bằng sông Hồng [10].


10

Nhận xét chung: Những cơng trình nghiên cứu trên đã bổ sung thêm
gần 100 loài mới cho danh lục ếch nhái của Việt Nam so với danh lục trước
đó của Đào Văn Tiến (1977). Các phương pháp được các tác giả sử dụng chủ
yếu là điều tra theo tuyến, điểm như: (Nguyễn Văn Sáng, 2001, 2002, 2009);
Lê Nguyên Ngật (1997, 2009). Những kết quả nghiên cứu trên cũng chỉ ra
các mối đe dọa chính đối với khu hệ ếch nhái Việt Nam bao gồm: Khai thác
quá mức cho thương mại và mất sinh cảnh do chuyển đổi đất rừng sang mục
đích sử dụng khác. Bên cạnh đó, cũng có một vài chương trình bảo tồn cụ thể
cho các lồi ếch nhái bị đe dọa như hoạt động bảo tồn loài Cá cóc Tam Đảo
(Paramesotriton deloustali) là lồi đặc hữu của Việt Nam trong Dự án bảo tồn
ở Vườn Quốc gia Tam Đảo và vùng đệm (Nguyễn Quảng Trường và Hồ Thu
Cúc, 2004) [27].
Tuy nhiên, những nghiên cứu về ếch nhái ở Việt Nam trong thời gian
qua mới chỉ tập trung vào phát hiện tính đa dạng của khu hệ ếch nhái ở những
khu vực núi cao. Một số địa điểm quan trọng đã được tập trung nghiên cứu
gồm: Các đỉnh núi cao và dãy Hoàng Liên (Phan-xi-păng) ở khu vực Tây Bắc,
dãy Bắc Sơn và Yên Tử ở khu vực Đông Bắc, dải Trường Sơn và khu vực
Tây Nguyên ở miền Trung và vùng lưu vực sông Cửu Long ở miền Nam [51].
Các khu vực này hiện còn tồn tại một diện tích khá lớn các khoảnh rừng tự
nhiên và cần tiếp tục được nghiên cứu [6].
1.3. Nghiên cứu khu hệ ếch nhái BTTN Thượng Tiến
Khu BTTN Thượng Tiến với địa hình núi đất và núi đá, đỉnh cao nhất

là đỉnh Cốt Ca cao 1.073m. Tại khu vực đã có một số nghiên cứu ban đầu về
tài nguyên sinh vật, trong đó có ếch nhái. Kết quả tổng hợp của các nghiên
cứu trên được cơng bố chung cho tồn tỉnh Hịa Bình với thành phần các


11

nhóm động vật có xương sống, trong đó ếch nhái có 30 lồi thuộc 13 họ, 1 bộ,
danh lục này bao gồm cả kết quả điều tra ở Khu BTTN Thượng Tiến [12].
Khu BTTN Thượng Tiến được thành lập năm 1995, trong “Luận chứng
Kinh tế - Kỹ thuật” 28 loài ếch nhái thuộc 5 họ, 1 bộ đã được ghi nhận [37].
Từ sau khi được thành lập đến nay, chưa có đợt điều tra chính thức về đặc
điểm khu hệ động vật nói chung và ếch nhái nói riêng ở đây. Vì vậy, những
nghiên cứu đầy đủ hơn về khu hệ ếch nhái của khu vực là hết sức cần thiết.
Căn cứ vào điều kiện địa hình khu vực và tổng kết các phương pháp nghiên
cứu của các tác giả trong và ngồi nước, trong nghiên cứu này chúng tơi sử
dụng 2 phương pháp điều tra theo tuyến và ô tiêu chuẩn, với giả thuyết
phương pháp điều tra theo ô tiêu chuẩn là hiệu quả hơn so với phương pháp
điều tra theo tuyến.


12

Chương 2
ĐẶC ĐIỂM ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ XÃ HỘI
KHU VỰC NGHIÊN CỨU
2.1. Đặc điểm tự nhiên
2.1.1. Vị trí địa lý
Khu bảo tồn thiên nhiên Thượng Tiến nằm ở vị trí trung tâm của tỉnh
Hịa Bình, thuộc phạm vi hành chính của 3 xã: Thượng Tiến, Kim Tiến huyện

Kim Bơi và xã Q Hịa huyện Lạc Sơn. [37],[4].
Toạ độ địa lý: Từ 20030’ đến 20040’ vĩ độ Bắc.
Từ 105020’ đến 105030’ kinh độ Đơng.
- Phía Bắc giáp xã: Tú Sơn, Vĩnh Tiến, Đông Bắc, Hợp Đồng, huyện Kim Bơi.
- Phía Đơng giáp xã: Kim Bình, Kim Bơi, Kim Truy, Cuối Hạ huyện Kim Bơi.
- Phía Nam giáp xã: Miền Đồi, Tuân Đạo, Mỹ Thành huyện Lạc Sơn.
- Phía Tây giáp xã: Xuân Phong, Yên Thượng, Yên Lập huyện Cao Phong.
Tổng diện tích tự nhiên của Khu bảo tồn là 7.308ha, chia ra làm 4
nhóm chính:
- Diện tích đất có rừng là 4.894ha, chiếm 66,97% diện tích đất tự nhiên (với
4.657ha rừng tự nhiên và 237ha rừng trồng).
- Diện tích đất chưa có rừng 1.254ha, chiếm 17,16% diện tích đất tự nhiên.
- Đất nông nghiệp là 1.076ha, chiếm 14,72% diện tích đất tự nhiên.
- Các loại đất khác là 84ha, chiếm 1,15% diện tích đất tự nhiên.
2.1.2. Địa hình, địa thế
Hịa Bình thuộc miền Tây Bắc, phát triển trên một miền hoạt động tân
kiến tạo nên địa hình bị chia cắt mạnh mẽ, tạo nên nhiều bình địa và thung
lũng. Về mặt địa hình, Khu bảo tồn có địa hình vùng núi cao trung bình Tây


13

Bắc: Bao gồm một dải núi chính (dải Cốt Ca) và các dải phụ của dải Cốt Ca.
Có độ cao từ 700 – 800m. Đỉnh cao nhất là đỉnh Cốt Ca cao 1.073m. Độ dốc
bình quân 250 – 300, chiều dài sườn dốc từ 1000 – 2000m.
Do địa hình chia cắt mạnh nên sông suối thường ngắn, dốc. Mùa hè
mưa nhiều, mực nước sông suối lên cao, chảy xiết gây ra lụt lội, sạt lở đất.
Mùa đông mực nước giảm đi rõ rệt, có nhiều suối nhỏ bị khơ hạn làm cho một
số vùng bị thiếu nước.
2.1.3. Địa chất và thổ nhưỡng

a. Địa chất: Khu bảo tồn thuộc vùng núi cao của huyện Kim Bôi và Lạc Sơn,
phần lớn là núi đất lẫn đá. Trong khu vực có hai loại đá mẹ chủ yếu là:
+ Sa thạch thuộc nhóm đá cát, có thành phần khống vật Penspats thạch
anh, Limơnít, sản phẩm phong hóa cho thành phần cơ giới hạt thơ.
+ Đá Bazích thuộc nhóm đá kiềm, có thành phần khống vật chủ yếu là
birơsin, ơlêphin, sản phẩm phong hóa cho thành phần cơ giới trung bình.
b. Thổ nhưỡng: Kết quả điều tra lập địa đã phát hiện có 2 nhóm đất chính và 3
nhóm đất phụ:
- Nhóm đất núi (có độ cao trên 300m) diện tích 6.257ha
+ Nhóm đất Feralit phát triển trên đá bazich màu nâu. Diện tích 5.020ha,
tập trung trong 2 xã Thượng Tiến và Kim Tiến. Trong đó, phân khu bảo vệ
nghiêm ngặt có 1.234ha và phân khu phục hồi sinh thái I và II có 3.786ha.
Nhóm đất này có màu nâu, sản phẩm của khống Bioxin, Olepin thành
phần cơ giới trung bình, hàm lượng mùn khá cao từ 6 đến 7%. Khả năng thấm
nước giữ và nước tốt, độ dốc 20 - 250. Vùng này rất thuận lợi cho sự phát
triển của cây lâm nghiệp.
+ Nhóm đất Feralit phát triển trên Sa thạch, diện tích 1.237ha, tập trung
trong xã Q Hồ, thuộc phân khu phục hồi sinh thái II.
Nhóm đất này có màu sắc đặc trưng là xám trắng, sản phẩm của khoáng
vật Thạch anh, Penspat, Limôlit, thành phần cơ giới thịt nhẹ và thịt pha cát,


14

kết cấu rời rạc nên dễ bị rửa trôi và xói mịn mặt nếu khơng có thực bì che
phủ. Tỷ lệ đá lẫn 10 - 20%, tỷ lệ mùn 1 - 1,5% (nơi cịn rừng), đất trống chỉ
thích hợp với với một số lồi cây trồng lâm nghiệp: Thơng, keo…
- Nhóm đất đồi (có độ cao dưới 300m) màu nâu nhạt phát triển trên đá Bazíc,
tầng đất sâu 50 - 100cm, sản phẩm của các khống vật Bioxin, Ơlêpin có
thành phần cơ giới thịt trung bình, thấm nước, giữ nước tốt, thích hợp với

nhiều loại cây trồng lâm nghiệp, nơng nghiệp, trừ một số diện tích đất trống
cỏ tranh mọc lâu đời, đất thường xuyên khô cứng, tầng đất mỏng dưới 50cm, cây
lâm nghiệp khơng có khả năng phục hồi tự nhiên. Nguyên nhân, do chặt cây, đốt rừng
làm nương rẫy... làm đất trở nên mất nước, mức độ bốc hơi cao, đất sinh ra kết von và
đá ong hóa.
2.1.4. Khí hậu, thủy văn
Khu BTTN Thượng Tiến ở trung tâm tỉnh Hịa Bình, nên cũng nằm trong
vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa và hàng năm chia 2 mùa rõ rệt (Hình 1-1). Cụ
thể như sau:
+ Mùa hè: Bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 9, lượng mưa trong tháng trên
100mm, lượng mưa toàn mùa chiếm 92,8 % tổng lượng mưa cả năm.
+ Mùa đông: Bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau, lượng mưa
trong tháng trung bình từ 20-30mm. Lượng mưa toàn mùa chiếm 7,2% lượng
mưa cả năm. Do đó, đất đai thiếu nước trong mùa đơng, nhiều suối nhỏ bị khơ
hạn. Trong mùa đơng thường có gió mùa đơng bắc gây ra mưa phùn.
+ Số ngày mưa trong năm 100 – 120 ngày.
+ Độ ẩm bình quân 85%, cao nhất 89%, thấp nhất 80%.
+ Nhiệt độ bình quân 23oC, cao nhất 32,3oC và thấp nhất 10,4oC vào
tháng 1.
- Gió: Mùa hè có gió Đơng Nam là chủ yếu, mùa đơng có gió Bắc và Đơng
Bắc thổi từng đợt 3 –5 ngày, cản trở đi lại, giao lưu kinh tế, văn hoá của nhân


15

dân. Do điều kiện địa hình (3 phía Bắc, Nam và Tây được bao bọc bằng các
dải dông núi) nên khí hậu trong vùng ln ẩm ướt, do vậy q trình phong
hố đất diễn ra mạnh, thực vật sinh trưởng phát triển nhanh, loài cây phong
phú và đa dạng.


Độ ẩm-Lượng mưa

Biểu đồ 1. Biểu đồ sinh khí hậu Hịa Bình

Nhiệt độ

320

160.0

280

140.0

240

120.0

200

100.0

160

80.0

120

60.0


80

40.0

40

20.0

0

0.0
1

2

3

4

5

Độ ẩm

6

7

8

Lượng mưa


9

10

11

12

Nhiệt độ

Hình 1-1. Biểu đồ sinh khí hậu tỉnh Hồ Bình
(Số liệu Trạm khí tượng thủy văn Hồ Bình 1996 - 2000)

Hịa Bình có bốn hệ thống sơng khác nhau gồm: sông Đà, sông Bôi,
sông Bưởi và sông Mã. Trong đó, sơng Bơi bắt nguồn từ các suối của xã Đú
Sáng, Tú Sơn….Phần lớn các suối phía nam huyện Kim Bôi, Lạc Thủy đều đổ
vào sông Bôi. Sông dài khoảng 60km chảy qua nhiều dãy núi đá vôi nên nhìn
chung lịng sơng khơng rộng lắm, lưu lượng nước rất lớn, thấp nhất là
20m3/giây. Căn cứ vào hệ thống đường phân thủy thì Khu bảo tồn là lưu vực
của suối Thượng Tiến là một suối lớn trong nhánh thượng lưu đổ vào sông Bôi.


16

2.1.5. Tài nguyên rừng
a. Hệ thực vật
Theo Luận chứng Kinh tế - Kỹ thuật Khu BTTN Thượng Tiến năm
1995 và báo cáo chuyên đề hệ thực vật rừng Khu BTTN Thượng Tiến năm
1995 của Đoàn Điều tra qui hoạch rừng Tỉnh Hồ Bình, tổng số lồi thực vật

bậc cao có mạch là 311 loài, thuộc 255 chi, 88 họ của 3 ngành thực vật. Thảm
thực vật Khu BTTN Thượng Tiến thuộc kiểu rừng cây lá rộng, thường xanh
mưa ẩm nhiệt đới và có thể chia thành các kiểu phụ [9]:
- Kiểu phụ rừng cây lá rộng, thường xanh mưa mùa nhiệt đới trên núi cao:
Diện tích 2.960ha, tập trung chủ yếu trong xã Q Hồ và phân bố tập trung
hai bên sườn dông của dải Cốt Ca, độ cao 700 - 1.000m. Thực vật sinh trưởng
phát triển tốt, trữ lượng cao. Rừng kết cấu 2 đến 3 tầng, tầng trên gồm các cây
gỗ lớn như chò chỉ, trám, trâm, sến, các loài cây thuộc họ sồi giẻ
(Fagaceae)…
- Kiểu phụ rừng cây lá rộng, thường xanh mưa mùa nhiệt đới trên núi thấp:
Diện tích 1.266ha, tập trung trong xã Thượng Tiến và Kim Tiến phân bố ở độ
cao dưới 700m. Chủ yếu là núi đất, tầng dày, thực vật sinh trưởng phát triển
tốt. Rừng đã bị tác động ở nhiều mức độ khác nhau. Rừng ở độ cao dưới
400m bị tác động mạnh, kết cấu rừng nhiều nơi bị phá vỡ chỉ cịn lại trạng
thái rừng nghèo kiệt, với các lồi cây gỗ kém chất lượng. Tầng trên còn lại
các loại cây cong keo sâu bệnh, tầng dưới tán chủ yếu là ngát, ràng ràng,
kháo, bứa và một số cây gỗ nhỏ ưa sáng mọc nhanh, kém giá trị kinh tế nhưng
khả năng phục hồi tốt. Một số nơi, ở độ cao 500 - 600m, do địa hình bị chia
cắt, đi lại khó khăn, xa khu dân cư nên rừng ít bị tác động và hiện trữ lượng
và giá trị còn tương đối cao (chủ yếu là rừng trung bình), tầng trên có một số
loại như chị chỉ, giổi, de… Tầng dưới gồm những lồi cây chịu bóng như
trâm, vàng anh,… sinh trưởng và phát triển tốt.


17

- Kiểu phụ rừng trên núi đá vơi: Diện tích 31ha, rừng ít bị tác động. Rừng
gồm hai tầng, tầng trên chủ yếu là các loài sến, nghiến, tầng dưới là các lồi
ơrơ, mạy tèo, hoắc quang, thành ngạnh…
- Kiểu phụ thứ sinh gỗ pha tre nứa: Kiểu rừng này thường xuất hiện sau khai

thác hoặc bị lửa rừng ở các sườn thấp, đất khô, tầng mỏng và dễ bị xói mịn,
song đã có thời gian phục hồi. Rừng có một tầng chủ yếu là nứa xen kẽ với
những loài cây ưa sáng mọc nhanh như giẻ, thừng mực, mần tang, ba soi, thơi
ba… Một số lồi cây có giá trị kinh tế như giổi, lim tái sinh chồi mạnh nhưng
luôn bị khai thác.
- Rừng trồng: Chủ yếu là Bương (Sinocalamus flagellifera), Luồng
(Dedrocanamus) trồng xen với Lát hoa (Chukrasia tabularis), Sấu
(Dracontomelon duperreanum), Trám trắng (Canarium album) được trồng từ
năm 1996 theo chương trình 327 và dự án 661.
b. Hệ động vật
Khu BTTN Thượng Tiến 280 lồi động vật có xương sống, thuộc 86 họ
và 25 bộ. Trong đó, lớp ếch nhái có 28 lồi, thuộc 5 họ, 1 bộ 8].
Do đặc điểm vị trí Khu BTTN Thượng Tiến nằm ở trung tâm của tỉnh
Hịa Bình, hai bên sườn của dải Cốt Ca, địa hình ít hiểm trở, xung quanh khu
bảo tồn là khu dân cư, nên một số người dân trong các bản lân cận vẫn thường
xuyên lén lút vào rừng săn bắt động vật và khai thác gỗ củi. Vì vậy cần có
biện pháp tích cực bảo vệ tài nguyên rừng Khu BTTN Thượng Tiến.
2.2. Đặc điểm kinh tế xã hội
2.2.1. Tình hình dân cư
- Dân số: Khu BTTN Thượng Tiến nằm trên địa giới hành chính của 3 xã thuộc
2 huyện (Kim Bôi và Lạc Sơn). Dân số của khu vực 2.148 hộ, 10.641 nhân
khẩu, trong đó nhân khẩu nông nghiệp 9.914 người (chiếm 93,2%), nhân khẩu
phi nông nghiệp 727 người (chủ yếu là giáo viên, nhân viên y tế) chiếm 6,8%.


18

- Dân tộc: Trong khu vực có 2 dân tộc sinh sống, trong đó dân tộc Mường
chiếm 97,07%, dân tộc Kinh chiếm 2,93%.
- Lao động: Tổng số 4.535 lao động, chủ yếu là lao động nông nghiệp chiếm

91,07%, lao động các ngành nghề khác chiếm 8,93%.
2.2.2. Tình hình sản xuất và đời sống
- Sản xuất nơng nghiệp:
Ngành sản xuất chính là sản xuất nơng nghiệp và là nguồn thu nhập
chính của người dân, bao gồm: trồng trọt, chăn nuôi gia súc, gia cầm.
+ Trồng trọt: Cây trồng chủ yếu là cây lương thực, cây màu các loại và
một số ít cây ăn quả dài ngày. Tổng diện tích đất ruộng của 3 xã là 537ha,
năng xuất bình quân 52,5tạ/ha, sản lượng lúa hàng năm đạt 3.042tấn/năm,
bình quân 285kg/người/năm, mới chỉ đáp ứng được 90% nhu cầu lương thực
của nhân dân.
+ Chăn ni: Phát triển quy mơ hộ gia đình. Tổng đàn trâu là 215 con,
đàn lợn 1.784 con (xuất chuồng 107tấn/năm), đàn gia cầm 8.000 con. Đàn gia
súc, gia cầm có vai trị quan trọng trong phát triển kinh tế hộ gia đình, chủ yếu
cung cấp sức kéo cho sản xuất nông lâm nghiệp, cung cấp thực phẩm cho thị
trường, tăng cường thu nhập cho nhân dân. Phương thức chăn ni ở đây vẫn
dựa vào tập qn thả rơng, hình thức ni nhốt chuồng chưa phổ biến. Hình
thức chăn ni thả này đã và đang ảnh hưởng lớn đến quá trình tái sinh rừng.
Cũng do điều kiện kinh tế khó khăn nên hình thức chăn ni lợn là nấu cám
trộn rau rừng, gà vịt thả rông nên vật nuôi sinh trưởng chậm. Do đó, thu nhập
từ hoạt động này thấp.
- Sản xuất lâm nghiệp:
Thực hiện theo Dự án 327 và 661, trong 11 năm (1996 – 2006) BQL dự
án đã tổ chức hợp đồng với nhân dân 3 xã thực hiện dự án phát triển sản xuất
lâm nghiêp trong Khu BTTN, cụ thể:


19

+ Bảo vệ rừng: 4.222,34ha; trong đó bảo vệ rừng tự nhiên: 3.853,6ha,
bảo vệ rừng trồng 368,74ha.

+ Khoanh nuôi tái sinh mức độ thấp: 557,2ha
+ Khoang nuôi tái sinh mức độ cao: 182,5ha
+ Trồng rừng mới: 474,18ha
+ Trồng cây vườn thực vật: 15.592ha
- Các ngành nghề phụ kém phát triển, thu nhập khơng đáng kể.
- Thu nhập: GDP bình qn đầu người 1.366.000đ/người/năm, số hộ nghèo
còn 356 hộ, chiếm 17% tổng số hộ trong Khu bảo tồn.
2.2.3. Trình độ dân trí
Vì đời sống cịn khó khăn lại xa trung tâm huyện nên phần lớn học sinh
chỉ học hết phổ thông cơ sở, rất ít học hết phổ thơng trung học. Trong 3 xã chỉ có
406 người (chiếm 3,8% dân số) học hết phổ thông trung học, 28 cán bộ trung
cấp, cao đẳng làm việc tại UBND xã và các hợp tác xã. Giao lưu văn hóa xã hội
trong và ngồi xã kém phát triển nên trình độ dân trí cịn thấp. Tính riêng xã
Thượng Tiến (xã chủ yếu của Khu BTTN) có 1 trạm y tế, 1 bưu điện, 1 trường
dành cho trung học cơ sở và tiểu học. Đặc biệt cịn một số thơn chưa có điện lưới
quốc gia và đời sống cịn rất khó khăn (xóm Khú, xã Thượng Tiến) [37].
Nhìn chung, khu vực có địa hình phức tạp, khó khăn cho việc phát triển
kinh tế của địa phương. Đời sống kinh tế cịn nghèo nàn, trình độ dân trí thấp
là những thách thức cho quản lý, bảo tồn tài ngun thiên nhiên. Vì vậy, cần
có những nghiên cứu đầy đủ hơn về tài nguyên và điều kiện kinh tế - xã hội
của khu vực nhằm tạo dựng cơ sở khoa học cho việc đề xuất các giải pháp bảo
tồn có hiệu quả.


20

Chương 3
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Mục tiêu

- Mục tiêu chung: Góp phần vào bảo tồn đa dạng sinh học nói chung, tài
nguyên ếch nhái Khu BTTN Thượng Tiến nói riêng.
- Mục tiêu cụ thể:
1) Đánh giá được những đặc điểm cơ bản của Khu hệ ếch nhái Khu
BTTN Thượng Tiến về các mặt: Thành phần phân loại học; phân bố các loài
theo sinh cảnh và đai cao; giá trị bảo tồn của tài nguyên ếch nhái khu vực; các
mối đe dọa tới tài nguyên ếch nhái khu vực.
2) Đề xuất được hệ thống các giải pháp khoa học - kỹ thuật và kinh tế xã hội nhằm quản lý, bảo tồn các loài ếch nhái trong khu vực.
3.2. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu là các loài ếch nhái và sinh cảnh sống tại
KBTTN Thượng Tiến.
3.3. Địa điểm nghiên cứu
Phân khu Bảo vệ nghiêm ngặt thuộc xã Thượng Tiến và phân khu Phục
hồi sinh thái thuộc xã Quý Hòa.
3.4. Thời gian nghiên cứu
Tổng thời gian khảo sát khu hệ 148 ngày, chia làm 4 đợt:
- Đợt 1, từ ngày 14 đến 16/9/2007: Khảo sát khu vực nghiên cứu và xác định
tuyến điều tra (3 ngày).
- Đợt 2, từ 22/2 – 14/4/2008: Tại khu vực xã Thượng Tiến - từ xóm Khú theo
nhánh chính sơng Cả và sông Cheo đi lên khu vực thượng nguồn (62 ngày).


21

- Đợt 3, từ 25/2 – 25/3/2009: Tại khu vực xã Thượng Tiến - từ xóm Khú đi
núi Trăm, thác Ba Tầng và suối Hang Hậm (30 ngày).
- Đợt 4, từ 5/3-28/4/2009: Tại khu vực xã Quý Hòa - Điều tra khe suối ở khu
vực xóm Rọi, xóm Sấm và xóm Thung (53 ngày).
3.5. Nội dung


1) Xác định cấu trúc tổ thành loài khu hệ ếch nhái Khu BTTN Thượng Tiến.
2) Đánh giá phân bố và độ phong phú của ếch nhái theo sinh cảnh và đai cao.
3) Đánh giá các mối đe dọa, nguyên nhân và giải pháp bảo tồn.
4) Xác định một số loài ếch nhái ưu tiên bảo tồn và đặc điểm nhận dạng.
3.6. Phương pháp nghiên cứu
3.6.1. Tham khảo tài liệu và công tác chuẩn bị
- Thu thập các tài liệu có liên quan: Các nghiên cứu về hệ thống phân loại ếch
nhái, đặc điểm sinh học và sinh thái lồi, các nghiên cứu điển hình về khu hệ
ếch nhái ở một số Khu bảo tồn ở Việt Nam.
- Tham khảo có chọn lọc, bình luận các kết quả nghiên và đưa ra các định
hướng nghiên cứu của đề tài.
- Dụng cụ phục vụ nghiên cứu: Bản đồ của khu vực nghiên cứu (Bản đồ địa
hình và bản đồ hiện trạng rừng tỷ lệ 1:25.000), cân tiểu ly, đèn pin, thước
palme, GPS, máy ảnh, túi nilon, hộp nhựa đựng mẫu, các bảng biểu, khóa
định loại, dung dịch formol và cồn 900.
3.6.2. Phương pháp phỏng vấn
Phương pháp phỏng vấn được sử dụng nhằm thu thập những thông tin
ban đầu từ cá nhân hay một nhóm người về thành phần lồi, địa điểm, sinh
cảnh phân bố, tình trạng và hoạt động săn bắt. Các thông tin thu được trong
quá trình phỏng vấn giúp định hướng trong quá trình lựa chọn địa điểm, lập
tuyến điều tra và được kiểm tra lại trong khi điều tra thực địa.


22

Đối tượng phỏng vấn là những người có kinh nghiệm đi rừng. Họ là
những người thường xuyên vào rừng săn bắt, lấy gỗ, củi, đốt ong hoặc bắt ếch
nhái dùng làm thực phẩm. Danh sách và địa chỉ của 30 người được phỏng vấn
(Phụ lục 2).
Ảnh mầu và bảng biểu là hai bộ công cụ được sử dụng trong quá trình

phỏng vấn. Do phần lớn ếch nhái có kích cỡ nhỏ, khi bắt được người dân
thường sử dụng làm thực phẩm, khơng có giá trị lưu giữ và trưng bày thẩm
mỹ, nên người được phỏng vấn rất khó nhận biết (trừ những lồi thường
xun sống ở khu dân cư). Vì vậy, sử dụng bộ ảnh màu các loài ếch nhái
trong quá trình phỏng vấn thường đem lại hiệu quả (Phụ lục 3).
3.6.3. Phương pháp điều tra thành phần loài
Đề tài sử dụng 2 phương pháp chính để điều tra về thành phần loài ếch
nhái tại khu vực nghiên cứu: Điều tra theo tuyến và điều tra theo ô tiêu chuẩn.
(1) Phương pháp điều tra theo tuyến
Tuyến lập có dạng đường thẳng, chiều dài từ 2 - 5km, đi qua các dạng
sinh cảnh khác nhau và bám theo hệ thống các khe suối. Việc phân chia các
dạng sinh cảnh dựa trên cơ sở bản đồ địa hình và hiện trạng của khu vực
nghiên cứu. Khu vực nghiên cứu được chia thành 5 dạng sinh cảnh chính như
sau: đồng ruộng [I], nương rẫy [II], khu dân cư [III], sông suối [IV], rừng [V].
- Các tuyến được thiết kế trước trên bản đồ. Ngoài thực địa tuyến được lập
bằng cách: Người thứ nhất cầm máy GPS đã nhập sẵn toạ độ của các điểm
trên tuyến và địa bàn chỉ hướng, người thứ 2 cầm thước dây kéo thẳng theo
hướng chỉ của địa bàn, các điểm mốc trên tuyến được dánh dấu bằng sơn đỏ
trên thân cây.
- Số lượng tuyến lập: 10 tuyến (5 ở khu vực xã Thượng Tiến và 5 ở khu vực
xã Quý Hoà) được lập trong khu vực nghiên cứu, thể hiện ở hình 3-1. Số liệu
cụ thể về vị trí, sinh cảnh và độ dài tuyến được trình bày ở Phụ lục 2.


23

- Thời gian điều tra:
Mùa xuân - mùa hè được chọn để điều tra các lồi ếch nhái vì đây vừa
là mùa hoạt động tích cực sau thời gian trú đơng vừa là mùa sinh sản của
nhiều lồi ếch nhái. Thông thường, sau những trận mưa rào, các cá thể đực và

cái ếch nhái tìm nhau ghép đơi sinh sản và tiếng kêu của chúng có thể giúp
chúng ta phát hiện, nhận biết loài.
Buổi tối là thời gian tiến hành điều tra và thu mẫu dọc theo tuyến đã
xác định. Thông thường, buổi điều tra bắt đầu từ 19 giờ đến 23 giờ, đây là
khoảng thời gian đi kiếm ăn và hoạt động mạnh của nhiều loài ếch nhái. Ban
ngày, phần lớn ếch nhái không hoạt động, chúng thường ẩn mình trong những
hốc đá, hốc rễ cây gần mép ước hay những đám lá ở ven suối. Vì vậy, thời
gian buổi sáng và chiều thường được sử dụng để tìm hiểu và xác định vị trí
thu mẫu cho buổi tối và ghi chép các đặc điểm sinh cảnh ở nơi thu mẫu, xử lý
mẫu của tối ngày hôm trước. Tuy nhiên, chúng tôi cũng đã thu được mẫu của
một số lồi ếch cây, cóc và nhái bầu vào ban ngày.
- Cách điều tra: Hai người di chuyển trên tuyến với tốc độ 1-2km/h. Quan sát
hai bên tuyến và tìm đến nơi sống cụ thể hoặc nơi ẩn nấp của loài cần điều tra;
Lắng nghe tiếng kêu, tiếng động bước nhảy; Quan sát trực tiếp bằng mắt
thường hay ống nhòm để nhận diện hình dạng, màu sắc, cách di chuyển; Ban
đêm dùng đèn pin, ắc quy soi tìm; Có thể khua động hay vạch tìm ếch nhái
trong hang đất, khe đá, lá cây. Kết quả điều tra ếch nhái được ghi vào mẫu
biểu ở phụ lục 3.
(2) Phương pháp điều tra theo ô tiêu chuẩn
Tổng số 150 ô tiêu chuẩn đã được thiết lập đại diện cho 5 sinh cảnh
trong khu vực nghiên cứu. Diện tích của mỗi ơ 64m2 (8m x 8m), lưới cao 1m
được sử dụng để bao quanh 4 cạnh của ô. Trong các ô này, chúng tôi đã tiến
hành tìm kiếm và thu mẫu ếch nhái trong ô.


24

Thời gian điều tra được tiến hành vào ban ngày, bốn người quan sát,
mỗi người bắt đầu tại một góc của ô vuông và di chuyển theo chiều kim đồng
hồ với bán kính giảm dần để tìm kiếm cho đến khi cả bốn người gặp nhau tại

điểm trung tâm của ô. Nhiệm vụ của mỗi người là lật tất cả các cây gỗ nhỏ,
thảm khơ, đá và tìm kiếm một cách cẩn thận để phát hiện tất cả các cá thể ếch
nhái trong ô tiêu chuẩn từ độ cao 2m trở xuống. Trong khi điều tra, những
chất nền không được di chuyển khỏi ô điều tra (Doan, 2003). Kết quả được
ghi vào mẫu biểu ở phụ lục 3.
3.6.4. Phương pháp thu mẫu và xử lý mẫu
(1) Phương pháp thu mẫu
Thu mẫu nhằm xác định các lồi khơng thể định loại được ngoài thực
địa. Tuỳ theo từng loài và dạng địa hình, đề tài sử dụng hai biện pháp thu mẫu
chính: Bắt bằng tay và bằng vợt. Vợt có cán dài 1m, miệng vợt có hình trịn
đường kính 25cm và mắt lưới cỡ 0,5 x 0,5cm. Khi quan sát thấy đối tượng,
người điều tra dùng vợt chụp lại và quay miệng vợt 900 để tránh ếch nhái
thốt ra ngồi. Tuy nhiên, do các vị trí thu mẫu thường khơng bằng phẳng nên
việc bắt mẫu chủ yếu được thực hiện bằng tay.
Mẫu ếch nhái đã thu được đựng trong túi nilon, miệng túi có đường
kính 20cm và độ sâu 40cm. Những mẫu có đặc điểm giống nhau được đựng
chung vào một túi. Khi trở về nơi cắm trại, các mẫu vật được phân loại sơ bộ,
chỉ giữ lại 2-3 mẫu cùng loại, số mẫu còn lại được thả lại tự nhiên.
(2) Xử lý mẫu ngoài thực địa
Mẫu được xử lý theo phương pháp của Phạm Nhật và cộng sự (2003)
[19]. Gồm các bước sau:
Bước 1: Gây mê mẫu vật bằng cách cho mẫu vào hộp nhựa rồi phun
formon 8- 10% lên cơ thể làm con vật mê và mất phản xạ nhảy. Để mẫu trong
tư thế tự nhiên, chụp ảnh.


×