Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

Một số biện pháp nhằm giáo dục toàn diện cho học sinh trường THPT thanh chương 3 thông qua công tác chủ nhiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (13.16 MB, 54 trang )

ĐỀ TÀI:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM GIÁO DỤC TOÀN DIỆN
CHO HỌC SINH TRƯỜNG THPT THANH CHƯƠNG 3
THÔNG QUA CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW năm 2013 đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Sở Giáo dụcĐào tạo Nghệ An đã đặt ra nhiều nhiệm vụ quan trọng, trong đó nhấn mạnh tăng
cường và quản lý giáo dục toàn diện cho học sinh. Đây là một điểm nhấn đòi hỏi
sự vào cuộc của cả hệ thống trong đó có vai trị và trách nhiệm khơng nhỏ của giáo
viên chủ nhiệm. Giáo viên chủ nhiệm là người chịu trách nhiệm chính trong việc
quản lý nề nếp, định hướng xây dựng tập thể lớp, tạo mơi trường tốt để hình thành,
phát triển và hoàn thiện nhân cách toàn diện cho học sinh.
Làm tốt cơng tác chủ nhiệm có ý nghĩa rất lớn trong quá trình giáo dục học
sinh - nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi học sinh có thể tiếp cận thông tin từ
nhiều nguồn khác nhau và việc giáo dục kĩ năng sống, những thói quen tốt, các
năng lực cần có… cho học sinh đang trở thành nhu cầu cấp thiết.
Giáo viên chủ nhiệm (GVCN) lớp là người chịu trách nhiệm thực hiện mọi
quyết định quản lý của hiệu trưởng đối với lớp và các thành viên trong lớp. GVCN
lớp là người vạch kế hoạch, tổ chức cho lớp mình thực hiện các chủ đề theo kế
hoạch và theo dõi, đánh giá việc thực hiện của các học sinh. GVCN lớp phải biết
phối hợp với các giáo viên bộ môn, chỉ huy quản lý học sinh trong lớp học tập, lao
động, công tác. Chủ nhiệm cũng là người phối hợp với các tổ chức, đồn thể trong
trường trong đó quan hệ nhiều ở cấp THPT là đoàn trường, hội Cha mẹ học sinh
(CMHS) để làm tốt công tác dạy- học- giáo dục HS trong lớp phụ trách.
Tuy nhiên trong thực tế hiện nay có những quan niệm sai lầm trong nhận thức
về chức vụ GVCN lớp chưa tương xứng với tầm quan trọng của chức vụ này, chưa
đúng với các văn bản quản lí giáo dục quy định và thậm chí có cả những phương
pháp giáo dục lỗi thời…Ở đâu đó, cịn tồn tại chuyện học sinh đánh thầy cơ giáo
chủ nhiệm của mình; bạo lực học đường; giáo viên chủ nhiệm lớp nóng nảy, thơ


bạo đã mắc phải những sai lầm nghiêm trọng như đuổi hàng chục học sinh ra khỏi
giờ học, rút dép đánh học trò trong lớp, bắt học trò liếm ghế, uống nước giặt giẻ
lau bảng…Ngược lại có những GVCN lớp q dễ dãi, bng lỏng quản lý, thiếu
trách nhiệm với lớp, với chức năng đã được giao, để cho học sinh tự do hư đốn vi
phạm pháp luật, vi phạm nội quy. Thậm chí có chủ nhiệm hùng hồn tuyên bố:
Làm chủ nhiệm lớp chỉ cần quan tâm đến nề nếp học sinh còn các mặt khác không
cần quan tâm...
1


Ngay cả GVCN trong tiết sinh hoạt lớp cũng chưa thật sự đặt nặng vấn đề
giáo dục đạo đức cho học sinh. Qua tìm hiểu một số giờ sinh hoạt lớp ở các lớp
khác tôi nhận thấy rằng một số lớp có những khoảng thời gian chết mà cả thầy và
trị đều khơng biết làm gì, một số lớp khác thì giáo viên chủ nhiệm dành quá nhiều
thời gian cho việc khiển trách, phê bình học sinh. Đơi khi tiết sinh hoạt, GVCN
còn dùng để nhắc đến các khoản thu, hay la mắng HS. Việc làm mang tính hình
thức, hiệu quả tiết sinh hoạt cịn thấp, học sinh ít hứng thú. Đôi lúc nội dung sinh
hoạt chỉ 10-15 phút, thời gian cịn lại là nói chuyện, hát…. Khơng biết làm gì cho
hết thời gian, lúc đó cả thầy và trị ngồi chờ tiếng trống hồi. Vì thế tiết sinh hoạt
lớp nhiều lúc bị coi thường, hiệu quả thấp.
Chính vì những lẽ đó chúng tơi thực hiện đề tài “Một số biện pháp nhằm giáo
dục toàn diện cho học sinh Trường THPT Thanh Chương 3 thông qua công tác
chủ nhiệm”.
2. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu quá trình chủ nhiệm lớp.
3. Phạm vi nghiên cứu.
Công tác chủ nhiệm tại trường THPT Thanh Chương 3
4. Kết quả nghiên cứu, hiệu quả
Việc nghiên cứu trên nếu áp dụng đại trà thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả
giáo dục toàn diện trong trường THPT.

5. Phương pháp nghiên cứu
- Thu thập những thông tin lý luận về vai trị của người GVCN lớp trong cơng
tác giáo dục toàn diện cho HS ở các tài liệu, các bài tham luận.
- Quan sát hoạt động học và sinh hoạt tập thể của HS.
- Trò chuyện, trao đổi với các giáo viên bộ môn, HS, hội CMHS, bạn bè và
hàng xóm của HS.
- Tham khảo những bản báo cáo, tổng kết hàng năm của nhà trường.
- Tham khảo kinh nghiệm của các trường bạn.
- Tham khảo những kinh nghiệm của các giáo viên chủ nhiệm lớp khác trong
trường mình.
6. Phương pháp thử nghiệm
Thử áp dụng một số biện pháp vào công tác giáo dục cho học sinh lớp 10A
năm 2018-2019; lớp 11A năm 2019-2020; lớp 12D1 năm 2020-2021.

2


PHẦN II. NỘI DUNG
I. Cơ sở khoa học
1. Cơ sở lý luận
Hiểu một cách khái quát, Giáo dục toàn diện là hoạt động giáo dục tổng thể,
được tổ chức có kế hoạch, có mục đích nhằm hình thành và phát triển toàn diện
nhân cách con người. Mục tiêu giáo dục theo tinh thần đổi mới là: phát triển toàn
diện năng lực và phẩm chất người học. Toàn diện ở đây được hiểu là chú trọng
phát triển cả phẩm chất và năng lực con người, cả dạy chữ, dạy người, dạy nghề.
Giáo dục và đào tạo phải tạo ra những con người có phẩm chất, năng lực cần thiết
như trung thực, nhân văn, tự do sáng tạo, có hồi bão và lí tưởng phục vụ Tổ
quốc, cộng đồng; đồng thời phải phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo
của mỗi cá nhân, làm chủ bản thân, làm chủ đất nước và làm chủ xã hội; có hiểu
biết và kĩ năng cơ bản để sống tốt và làm việc hiệu quả… như Bác Hồ từng mong

muốn: "một nền giáo dục sẽ đào tạo các em nên những người công dân hữu ích
cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hồn tồn những năng lực
sẵn có của các em".
Trước hết, hãy nhìn vào mặt đối lập của nó là giáo dục phiến diện. Đặc trưng
dễ nhận thấy của giáo dục phiến diện chính là giáo dục vì điểm số, có phân ra mơn
chính và mơn phụ, coi trọng thành tích học tập quan trọng hơn trải nghiệm học tập,
lý thuyết hơn thực hành. Sản phẩm đầu ra của giáo dục phiến diện là những đứa trẻ
khiếm khuyết về thể lực, sự năng động, khả năng cảm thụ nghệ thuật, kỹ năng
sống, sự trải nghiệm vững vàng về tâm lý, cảm xúc, tình cảm xã hội…
Ngày nay đã có nhiều cha mẹ khơng hài lịng với những đứa trẻ như vậy.
Chúng có thể làm việc hiệu quả, nhưng khơng phải là một cá thể sinh động, đầy
màu sắc, trọn vẹn. Và họ bắt đầu đi tìm giáo dục tồn diện cho con.Vì thế giáo dục
tồn diện cho học sinh vừa là đòi hỏi, vừa là nhu cầu cấp thiết trong bối cảnh hiện
nay.
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam từng nói: “Triết lý giáo dục của Việt Nam nằm
trong triết lý xây dựng đất nước. Đó là phát triển con người Việt Nam tồn diện về
đức - trí - thể - mỹ và hướng tới cơng dân tồn cầu”. Tuy nhiên, từ thực tế dạy và
học tại các trường, khái niệm “ Giáo dục tồn diện” có sự nhầm lẫn với “Giáo dục
hoàn hảo”. Định hướng cho học sinh phát triển tồn diện, nhưng thời gian dành
cho các mơn học thuộc lòng nhiều; thời gian dành cho phát triển kỹ năng sống, văn
nghệ, thể thao… lại rất ít. Tìm hiểu nguyên nhân, nhiều chuyên gia cho rằng, bệnh
thành tích và việc đặt nặng mục tiêu phát triển trí lực khiến nhiều trường học xem
nhẹ giáo dục thể chất, năng khiếu và đặc biệt là rèn luyện đạo đức, phẩm chất cá
nhân. Từ đó dẫn đến nghịch lý “học giỏi, thi giỏi, nhưng kỹ năng làm việc kém”.
Những năm gần đây, các trường học ngồi cơng lập có đủ điều kiện để đầu
tư về cơ sở hạ tầng, trang thiết bị dạy học, chương trình học và đội ngũ nhân lực để
giúp học sinh phát triển toàn diện. Thạc sĩ Nguyễn Thu Hà - Hiệu trưởng Trường
3



Tiểu học, THCS và THPT Sky-Line cho rằng: “Việc có bao nhiêu học sinh được
điểm cao, bao nhiêu học sinh đạt giải không phải là điều quan trọng. Sản phẩm
cuối cùng của nhà trường là học sinh có thể phát hiện đam mê, theo đuổi đam mê
của mình và xây dựng cuộc sống hạnh phúc trong tương lai”. Trái ngược giáo dục
truyền thống thiên về lý thuyết, giáo dục toàn diện cho phép học sinh tiếp cận với
kiến thức từ nhiều lĩnh vực khác nhau một cách phổ quát và cơ bản nhất. Khơng
chỉ phát triển trí lực, học sinh còn được chú trọng rèn luyện thể lực, nghệ thuật, kỹ
năng sống, nhân cách. Quan trọng nhất, học sinh được tạo điều kiện phát huy được
năng lực, cá tính của bản thân và xác định cho bản thân định hướng tương lai…
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Hạn chế, yếu kém của nền giáo dục Việt Nam là chưa tạo ra sản phẩm giáo
dục mang tính toàn diện, hội đủ các kỹ năng thiết yếu để trở thành cơng dân tồn
cầu.
Vì sao học sinh phổ thơng thiếu cơ hội phát huy năng lực sở trường, trải
nghiệm sáng tạo… mà chỉ nghiêng về nạp kiến thức? Phát biểu tại hội thảo “Thực
trạng và giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục tồn diện ở trường phổ thơng
trong bối cảnh đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục”, PGS-TS Ngô Minh Oanh,
Viện trưởng Viện Nghiên cứu giáo dục (Trường Đại học Sư phạm TPHCM), chỉ ra
hạn chế: “Chương trình giáo dục vẫn tập trung nhiều vào các môn học trên lớp,
nặng kiến thức về lý thuyết, hàn lâm và chưa gắn với việc giải quyết những vấn đề
mà thực tiễn đặt ra. Nhiều trường học còn nặng về quản lý hành chính, thiếu linh
hoạt, sáng tạo trong việc tổ chức các hoạt động trong và ngoài lớp học đa dạng,
phong phú. Vì thế, phần đơng học sinh thiếu cơ hội trải nghiệm, rèn luyện kỹ năng
hợp tác, làm việc theo nhóm, phát huy tư duy độc lập, tính năng động, sáng tạo…”.
Phát triển con người tồn diện chính là địi hỏi phát triển năng lực người học
ở mọi mặt chứ không nghiêng về một yếu tố nào. Mặc dù chủ trương giáo dục học
sinh toàn diện gồm “đức, trí, thể, mỹ và nghề nghiệp” đã được đề cập từ lâu,
nhưng các cấp quản lý giáo dục, trường học và giáo viên vẫn chưa được hiểu
đúng, làm đúng. “Vì đặt nặng mục tiêu phát triển trí lực nên nền giáo dục chú trọng

đến ứng thí là chính, nhiều trường khơng chú trọng đến khả năng, sở thích năng
khiếu của học sinh. Vì coi trọng thành tích thi cử, nhà trường cũng xem nhẹ việc
giáo dục đạo đức, sức khỏe, thẩm mỹ - những yếu tố rất cần để hình thành nhân
cách học sinh.
2.2. Thực trạng về cơng tác giáo dục tồn diện cho học sinh THPT hiện
nay thơng qua công tác chủ nhiệm
2.2.1. Thuận lợi
Trong những năm gần đây, sự phát triển kinh tế - xã hội đã mang lại khơng ít
những thuận lợi cho cơng tác chủ nhiệm trong nhà trường. Sự quan tâm đầu tư của
Đảng, nhà nước cùng với sự hỗ trợ tích cực từ phía xã hội. Cơ sở vật chất, trang
4


thiết bị giáo dục của nhà trường ngày một khang trang, đầy đủ, đảm bảo cho việc
dạy và học. Với chủ trương đúng đắn về chính sách dân số "Chỉ dừng lại hai con
để nuôi dạy cho tốt", kinh tế ngày càng được cải thiện đã tạo thuận lợi cho trẻ em
được quan tâm và chăm sóc tốt hơn. Bên cạnh đó, sự phát triển như vũ bão của
khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin đã hỗ trợ cho giáo viên và phụ
huynh trong việc liên lạc, trao đổi, nắm bắt nhanh những thông tin cần thiết trong
phối hợp giáo dục; đồng thời hỗ trợ tích cực cho hoạt động dạy của giáo viên trong
những giờ lên lớp, trong những hoạt động tập thể khiến học sinh thấy hứng thú
hơn.
Trường THPT Thanh Chương 3 là ngôi trường có bề dày thành tích, ở đây
nhiều thế hệ thầy cơ khơng những có kinh nghiệm về chun mơn mà cịn cả về
cơng tác chủ nhiệm lớp. Đó là cơ hội lớn cho thế hệ giáo viên học hỏi và trau dồi
kinh nghiệm lẫn nhau trong công tác giảng dạy nói chung và cơng tác chủ nhiệm
nói riêng.
Được sự quan tâm và chỉ đạo sát sao của BGH nhà trường là điều kiện thuận
lợi để GVCN lập kế hoạch và phổ biến những chủ trương, kế hoạch của nhà trường
đến với phụ huynh và học sinh kịp thời.

Sự phối kết hợp giữa các tổ chức đoàn thể trong và ngồi nhà trường ngày
càng trở nên chặt chẽ có hiệu quả.
2.2.2. Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi kể trên, cơng tác chủ nhiệm lớp cịn gặp khơng ít
những khó khăn, thách thức. Trong thời đại khoa học công nghệ và kinh tế thị
trường hiện nay, ngồi những tiện ích to lớn mà nó mang đến cho nhân loại thì kèm
theo đó là hàng loạt các tác động tiêu cực đến đối tượng học sinh: xu hướng đua
đòi chưng diện theo trang phục, mái tóc của các ca sĩ, diễn viên trong phim ảnh
không lành mạnh và đặc biệt là nghiện game online, Facebook.... Chính những vấn
đề này ảnh hưởng khơng ít đến việc học tập, việc hình thành nhân cách, đạo đức
của học sinh và gây ra rất nhiều khó khăn cho GVCN trong công tác giáo dục đạo
đức học sinh.
Trường THPT Thanh Chương 3 đóng trên địa bàn miền núi rộng lớn, tập
trung đông dân cư, nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp thu hút nhiều học sinh ở nhiều
địa phương tham gia, đi lại khó khăn ảnh hưởng rất lớn đến công tác giáo dục của
nhà trường, gia đình và xã hội.
Đối với phụ huynh: Phần lớn gia đình học sinh làm nghề nơng nghiệp điều
kiện kinh tế cịn khó khăn, có những bố mẹ đi làm ăn xa nên phó mặc cho nhà
trường trong cơng tác giáo dục.
Về phía học sinh: Kỹ năng giao tiếp, hoạt động xã hội còn nhiều hạn chế, các
em thường hay ngại ngùng, e dè, thiếu tự tin, chưa mạnh dạn trước tập thể.

5


II. Một số biện pháp nhằm giáo dục toàn diện cho học sinh Trường
THPT Thanh Chương 3 thông qua công tác chủ nhiệm
1. Tìm hiểu, nắm vững đối tượng học sinh của lớp
Học sinh tồn tại với tư cách là đối tượng giáo dục, đồng thời cũng là chủ thể
giáo dục. Để giáo dục học sinh có kết quả tốt, GV phải hiểu học sinh một cách

đúng đắn, đầy đủ và cụ thể, từ đó lựa chọn những tác động sư phạm thích hợp.
Nhà nghiên cứu giáo dục người Nga K.D.Usinski từng nói: “ Muốn giáo dục
con người về mọi mặt cần phải hiểu con người về mọi mặt”. Muốn giáo dục toàn
diện cho học sinh, giáo viên cần phải hiểu và phải hiểu rõ về học sinh. Muốn vậy,
GVCN cần phải tìm hiểu học sinh lớp mình về mọi mặt như hồn cảnh gia đình,
tâm sinh lí, nhu cầu, nguyện vọng, năng lực...thậm chí là cá tính, sở thích của các
em. Cho nên công tác đầu tiên trong giáo dục tồn diện học sinh địi hỏi người
GVCN phải nắm vững đối tượng học sinh của lớp mình. Từ đó GVCN mới có kế
hoạch giáo dục phù hợp và đạt kết quả cao nhất.
Việc tìm hiểu, nắm vững học sinh của lớp mình có nhiều cách và nhiều kênh
khác nhau và tôi đã thực hiện như sau:
1.1. Nghiên cứu hồ sơ học sinh
- Giáo viên chủ nhiệm tìm hiểu học sinh thông qua các hồ sơ liên quan như:
+ Xem lí lịch sẽ giúp GVCN sẽ nắm bắt kịp thời đặc điểm sơ lược của các
em.
+ Xem học bạ, sổ điểm, chú ý lời nhận xét và lời phê của GVCN ở lớp dưới
sẽ giúp GVCN nắm được thông tin quan trọng như học sinh giỏi, khá, yếu, kém;
môn nào có điểm cao, mơn nào có điểm thấp, hạnh kiểm thế nào...Từ đó tìm hiểu
ngun nhân và có biện pháp giúp các em trong học tập, nhằm kịp thời khắc phục
trong thời gian sau.
+ Thông qua sổ đầu bài sẽ giúp GVCN nắm được kịp thời diễn biến của lớp
tích cực hay khơng tích cực, em nào nghỉ học vơ lí do, em nào hay vi phạm trong
các tiết học...
- Tìm hiểu thơng qua GVCN và các giáo viên bộ mơn trước đó. Những
thơng tin thu được mang tính chính xác cao, đáng tin cậy.
1.2. Sử dụng phiếu điều tra
- Yêu cầu học sinh tự viết các thông tin lên Phiếu điều tra và nộp lại cho giáo
viên. Mặc dù đã nắm được thông tin lý lịch học sinh tuy nhiên giáo viên chủ nhiệm
vẫn rất cần thực hiện thêm thao tác yêu cầu học sinh tự giới thiệu những nét cơ bản
về bản thân và gia đình mình, như cha ơng ta từng nói “nét chữ là nết người” trải

qua kinh nghiệm nghề nghiệp dài lâu, tiếp xúc với nhiều nét chữ khác nhau, người
giáo viên có thể dựa vào nét chữ mà nhận định được một phần tính cách, tâm hồn
của học trị mình.
6


1.3. Trao đổi với học sinh
- Thông qua kênh thông tin bạn bè của các em. Bởi chúng ta biết có nhiều
học sinh ngại tiếp xúc, chia sẻ với giáo viên, cha mẹ của mình. Có những điều các
em chỉ nói và chia sẻ được với những bạn bè cùng trang lứa . Chính vì vậy qua bạn
bè của các em giáo viên sẽ thu thập được nhiều thông tin quý giá, bổ ích, thầm kín,
riêng tư về các em.
1.4. Quan sát trực tiếp
- Tìm hiểu thơng qua quan sát trực tiếp. Đây là cách mà giáo viên làm
thường xuyên nhất để hiểu và nắm học sinh của mình. Việc GVCN quan sát học
sinh hàng ngày trong các hoạt động trên lớp, các buổi lao động, hoạt động vui chơi,
trải nhiệm sẽ giúp GVCN nắm bắt, thu thập được những thông tin chân thật, khá
đầy đủ về các em. Cách này rất hiệu quả đối với những GVCN dạy những mơn có
thời lượng nhiều tiết bởi giáo viên sẽ có điều kiện tiếp xúc và quan sát được các
em nhiều hơn. Tất nhiên cách này đòi hỏi kĩ năng, khả năng quan sát của người
giáo viên.
1.5. Trao đổi với cha mẹ học
sinh
Tìm hiểu thơng qua hoạt động
thăm hỏi trực tiếp gia đình của các em.
“Trăm nghe khơng bằng một thấy” với
những buổi thực tế đến thăm hỏi gia
đình của các em, GVCN sẽ thu thập
được nhiều thơng tin chính xác về hồn
cảnh sống, điều kiện kinh tế, gia đình

của các em...

Tìm hiểu hồn cảnh gia đình học sinh

1.6. Tạo tình huống thử nghiệm
Tìm hiểu thơng qua tình huống thử nghiệm. Đây là cách giúp GVCN có thể
thu thập được những thơng tin cần làm sáng tỏ, những thơng tin có tính chủ định từ
giáo viên. Ví dụ như: Thơng qua phiếu in sẵn một số câu hỏi về vấn đề định tìm
hiểu rồi yêu cầu học sinh trả lời nhanh. Hay là những tình huống có vấn đề trong
cuộc sống, giáo viên quan sát thái độ, cách ứng xử, cách xử lí của các em, thơng
qua đó GVCN có thể nắm bắt được những thơng tin cần thiết mà mình muốn tìm
hiểu, làm sáng tỏ một cách khá chính xác.
Đó là những cách mà tôi thường làm để thu thập thông tin của học sinh, để
nắm rõ hơn từng đối tượng học sinh trong lớp. Từ đó sẽ giúp GVCN có kế hoạch
chủ nhiệm, giáo dục phù hợp, linh hoạt đạt hiệu quả trong việc giáo dục toàn diện
cho học sinh, sát với từng đối tượng học sinh.

7


2. Xây dựng đội ngũ ban cán sự lớp
Một thực tế cho thấy vai trò của GVCN là hết sức quan trọng và nặng nề
trong việc góp phần giáo dục toàn diện cho học sinh. Bởi vậy ngoài sự trăn trở tìm
ra giải pháp GVCN cũng cần đến những nhân tố để hỗ trợ mình hồn thành tốt
nhiệm vụ. Và một trong những nhân tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục tồn diện lớp mình chủ nhiệm đó chính là đội ngũ ban cán sự lớp- cánh
tay đắc lực của GVCN; là đội ngũ chịu sự điều hành quản lí trực tiếp của GVCN.
Điều hành, quản lí các hoạt động của lớp và từng thành viên trong lớp chấp hành
đầy đủ và nghiêm chỉnh nội quy của trường của lớp. Đồng thời nắm bắt thông tin
của lớp một cách kịp thời những kiến nghị của các thành viên trong lớp báo cáo

cho GVCN. Có thể nói ban cán sự lớp là lực lượng nòng cốt là điều kiện để xây
dựng một tập thể vững mạnh- môi trường tốt nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện cho học sinh.
Ý thức được điều đó nên trong q trình làm chủ nhiệm lớp tôi đặc biệt quan
tâm đến việc xây dựng đội ngũ ban cán sự lớp và xem đó là một biện pháp quan
trọng giúp GVCN giáo dục toàn diện cho học sinh.
Để xây dựng một đội ngũ ban cán sự tốt, có khả năng hỗ trợ giáo viên chủ
nhiệm làm tốt cơng tác của mình. Bản thân xin trình bày các bước đi cụ thể như
sau:
2.1. Lựa chọn ban cán sự
Lựa chọn ban cán sự lớp là khâu đầu tiên đóng vai trị tiên quyết cho sự
thành công của giáo viên chủ nhiệm. Bởi vậy ở bước thứ nhất này giáo viên phải
dành nhiều thời gian và phối hợp nhiều phương pháp để tìm ra cho mình một đội
ngũ ban cán sự lớp có khả năng hỗ trợ cho bản thân trong việc hoàn thành nhiệm
vụ. Để bước đầu có sự lựa chọn chính xác, bản thân tơi thực hiện theo quy trình
như sau:
- Đề ra tiêu chuẩn chọn lựa:
Trước khi lựa chọn ban cán sự lớp giáo viên phải đặt ra các tiêu chí cụ thể về
tư cách đạo đức; về tinh thần, kết quả học tập; ý thức trách nhiệm cũng như các kỹ
năng cần có của một người cán bộ lớp.
Tuy nhiên trong quá trình lựa chọn, giáo viên phải nắm bắt tình hình lớp
học, tùy vào đối tượng lớp khác nhau để có sự
ưu tiên khác nhau cho mỗi tiêu chí cụ thể.
- Hình thức lựa chọn:
Thứ nhất giáo viên chủ nhiệm tự lựa
chọn một đội ngũ cán bộ lớp trên cơ sở của
việc tìm hiểu và quan sát của mình.
Đại hội Chi đoàn bầu Ban cán sự lớp

8



Thứ hai tập thể lớp tự lựa chọn, bầu ra đội ngũ cán bộ lớp thơng qua hình
thức bỏ phiếu kín tại phiên Đại hội lớp- Chi đồn.
Tốt nhất, GVCN định hướng cho tập thể lựa chọn, biến ý định của mình
thành quyết định dân chủ của tập thể học sinh.
2.2. Bố trí chức danh
Lựa chọn đúng người là bước tiên quyết, tuy nhiên chọn đúng việc để giao
cũng là một khâu hết sức quan trọng đòi hỏi người GVCN phải cân nhắc hết sức
cẩn thận.
Để bố trí chức danh phù hợp với khả năng của từng học sinh, GVCN cần
theo dõi, quan sát khả năng của từng học sinh để phát huy được ưu điểm từng
người và phù hợp với khả năng và cơng việc:
+ Đối với Bí thư Chi đoàn: Phải là người năng nổ trong các hoạt động và
phong trào của chi đoàn, của Đoàn cấp trên tổ chức; có vai trị uy tín trong đồn
viên thanh niên; ưu tiên những học sinh có năng khiếu văn nghệ thể thao.
+ Đối với lớp trưởng: Phải là người có năng lực lãnh đạo, chỉ đạo tập thể,
có thể bao quát công việc của lớp; ưu tiên chọn học sinh có học lực tốt và tín
nhiệm của đa số thành viên trong lớp
+ Đối với lớp phó: Chọn học sinh có năng lực về lĩnh vực mình phụ trách và
dự kiến bố trí.
Lưu ý trong việc bố trí chức danh, GVCN cần tham khảo ý kiến tập thể bởi
vì chính các em học sinh hàng ngày cùng học tập và sinh hoạt cùng nhau sẽ là
những người hiểu về nhau nhiều hơn, do đó việc tham khảo ý kiến tập thể học sinh
cũng là một kênh thông tin giúp GVCN phân cơng nhiệm vụ chức danh hợp lý.
Ngồi ra cũng có thể xin ý kiến tư vấn của tổ chức Đồn trường, giáo viên bộ mơn,
những người hàng ngày trực tiếp quản lý và giảng dạy các em.
2.3. Xây dựng quy chế làm việc
Sau khi đã hoàn thành việc bố trí chức danh, bước tiếp theo GVCN cần xây
dựng một quy chế làm việc cụ thể. Trong bản kế hoạch đại hội lớp, giáo viên chủ

nhiệm giao nhiệm vụ cụ thể cho ban cán sự để các em nắm được trách nhiệm của
mình trong việc thay thế GVCN điều hành hoạt động của lớp.
* Nguyên tắc xây dựng Quy chế làm việc:
- Để làm tốt nội dung quan trọng này, GVCN cần phối hợp chặt chẽ với Ban
cán sự lớp cùng soạn dự thảo Quy chế làm việc của lớp trước khi đưa ra thảo luận
trước lớp.
- Quy chế làm việc của lớp cần phải được tập thể lớp đồng thuận và thơng
qua, có như vậy mọi thành viên trong lớp mới tự giác thực hiện và chịu trách
nhiệm.

9


- Quy chế làm việc là cơ sở để ban cán sự lớp áp dụng chỉ đạo và giám sát
lớp và qua đó GVCN mới có cơ sở để đánh giá chính xác mọi thành viên trong lớp.
Đồng thời, GVCN mới đánh giá được khả năng hoàn thành nhiệm vụ của từng
thành viên ban cán sự lớp.
- Quá trình tổ chức thực hiện, GVCN phải giám sát chặt chẽ để kịp thời uốn
nắn điều chỉnh.
2.4. Huấn luyện và bồi dưỡng
Một đội ngũ ban cán sự tốt không phải ngay từ đầu mà có được, để phát huy
vai trị của lược nịng cốt này giáo viên phải có kế hoạch huấn luyện và bồi dưỡng.
Ngay sau khi bàn giao công việc, GVCN phải khuyến khích động viên và
đặt niềm tin vào các em bởi khi được tin tưởng, các em sẽ tự tin, cố gắng hết mình
trong mọi cơng việc. GVCN phải là người hậu thuẫn cho các em để các em vững
tin, cảm thấy có chỗ dựa khi cần thiết trong quá trình làm việc.
Ban đầu, GVCN tham gia trực tiếp vào việc hướng dẫn ban cán sự xây dựng
kế hoạch hoạt động, hướng dẫn học sinh chuẩn bị hoạt động, điều khiển quá trình
tham gia hoạt động và đánh giá kết quả cuối cùng. Sau khi ban cán sự đã quen dần
với công việc, GVCN giao dần cho đội ngũ cán bộ lớp tự tổ chức và điều khiển các

hoạt động của lớp, giúp đỡ học sinh với tư cách là người cố vấn, điều chỉnh đúng
hướng cho các em.
Tổ chức để học sinh tự đánh giá kết quả hoạt động của tập thể lớp, qua đánh
giá, các em rút ra được bài học kinh nghiệm để cho những hoạt động tiếp theo đạt
hiệu quả cao hơn. Mỗi lần như vậy là dịp để tập thể học sinh trưởng thành.
Hướng dẫn các em cách phân công giao việc cho các thành viên lớp, thực
hiện đồng thời rèn luyện cho các em kỹ năng giao tiếp trước đám đông.
Yêu cầu các em tham gia đầy đủ các buổi bồi dưỡng ban cán sự lớp do Đoàn
trường tổ chức, ngoài ra có thể cho các em trực tiếp đi dự các tiết sinh hoạt lớp tại
những lớp có đội ngũ ban cán sự có năng lực để học hỏi kinh nghiệm.
Với cách đó tơi đã bồi dưỡng được một bí thư chi đồn tích cực gương mẫu,
đó là em Phạm Thị Thu Hằng. Trong các hoạt động của của chi đoàn em luôn chủ
động và sáng tạo. Tiếp thu mọi hướng dẫn của Đoàn trường về triển khai chi tiết
cụ thể , rõ ràng đến từng đoàn viên, triển khai thực hiện hiệu quả. Vì vậy các hoạt
động bề nổi của lớp như văn nghệ, bóng chuyền, làm tập san, thi cắm hoa... lớp
luôn đạt các giải cao. Nhiều năm liền em đạt cán bộ lớp tích cực, gương mẫu,
được huyện đoàn tặng bằng khen ( xem PHỤ LỤC).
2.5. Kiểm tra giám sát
Để nắm bắt và phát huy vai trò của ban cán sự lớp cũng như tình hình lớp
học, GVCN phải thường xuyên kiểm tra giám sát bao gồm giám sát hàng ngày,
giám sát hàng tuần, hàng tháng qua sổ theo dõi của Ban cán sự kết hợp với sổ đầu

10


bài và ý kiến của Đoàn thanh niên, giáo viên bộ mơn. Đồng thời có những buổi
họp riêng với Ban cán sự để nắm bắt tình hình và khích lệ những việc làm của các
em.
Lập một nhóm kín gồm Ban cán sự lớp và GVCN để trao đổi thảo luận và
định hướng khi cần thiết.

2.6. Đánh giá rút kinh nghiệm và điều chỉnh kịp thời
GVCN tiến hành đánh giá tập thể Ban cán sự lớp hàng tuần qua các buổi
giao ban sinh hoạt. Nhận xét những việc làm được và chưa làm được để rút kinh
nghiệm, đồng thời biểu dương những bạn làm tốt cơng việc được giao phó, khéo
léo nhắc nhở những bạn chưa tích cực trong cơng việc thuộc chức trách của mình.
Với việc xây dựng được một đội ngũ ban cán sự lớp tích cực, hoạt động có
hiệu quả sẽ có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc hỗ trợ GVCN quản lí học sinh của
lớp mình, góp phần vào việc nâng cao giáo dục tồn diện cho học sinh.
3. Xây dựng mối quan hệ thầy – trị, bạn bè trong và ngồi lớp
3.1. Xây dựng mối quan hệ thầy – trò
Từ xưa mối quan hệ Thầy- Trị ln được hiểu đó là người dạy chữ và người
học chữ, thậm chí nhiều khi chúng ta đã xem là mối quan hệ một chiều, áp đặt của
người dạy đến người học "nhất tự vi sư, bán tự vi sư". Nên mối qua hệ Thầy- Trị
có những khoảng cách nhất định. Nhưng trong công cuộc đổi mới căn bản giáo dục
hiện nay, khi người học trở thành trung tâm của hoạt động dạy học với yêu cầu
giáo dục mang tính tồn diện, phát huy những năng lực của học sinh chứ không
đơn thuần là việc dạy chữ, truyền thu kiến thức đặt ra một vấn đề mối quan hệ
Thầy- Trị cũng đã có những chuyển biến, thay đổi ít nhiều. Để thực hiện tốt mục
tiêu giáo dục hiện nay đòi hỏi người giáo viên cần xây dựng mối quan hệ ThầyTrị đảm bảo tính nghiêm túc, đạo đức cũng vừa phải gần gũi thân thiện, tốt đẹp,
có như vậy chúng ta mới hoàn thành được mục tiêu giáo dục.
Theo tôi để xây dựng được mối quan hệ Thầy- Trị tốt trước tiên người giáo
viên cần có một cách ứng xử mơ phạm, đạo đức, lịch sự, có văn hóa. Mà trước hết
là văn hóa giao tiếp, xưng hơ với học sinh, có thể xưng hơ bằng nhiều cách nhưng
phải đảm bảo một nguyên tắc là lịch sự và phải có sự tơn trọng đối với học sinh.
Giáo viên cần nhớ tên học sinh, sử dụng tên để gọi học sinh điều này giúp học sinh
nhận thấy rằng thầy cơ đang quan tâm chú ý tới mình, ngồi ra việc làm đó tạo nên
những cảm xúc tích cực của học sinh.
Ví dụ: khi mình gọi tên một học sinh nào đó, có thể làm nó bất ngờ, có
những học sinh đã bật ra những câu hỏi khi mình gọi tên nó “Thầy! Sao Thầy nhớ
tên con” hay “Thầy vẫn biết tên con à?”.

Và tôi nghĩ với cách xưng hô này sẽ góp phần xây dựng mối quan hệ ThầyTrị. Chính vì vậy cho dù nhiều lúc nóng nảy, tức giận hay khi học sinh hỗn láo với
mình địi hỏi người giáo viên vẫn phải xưng hô mô phạm, tránh việc xưng hô mày11


tao hay những lời nói thơ tục, coi thường học sinh. Ngồi văn hóa lời nói cần chú ý
đến những cách ứng xử sao cho mơ phạm, văn hóa để có tính nêu gương. Từ đó sẽ
tạo được những ấn tượng tốt sẽ có được những mối quan hệ tốt.
Thiết lập khơng gian tâm lí gần gũi, xóa bỏ hàng rào, ngăn cách giữa ThầyTrò. Nếu giáo viên tạo khoảng cách q lớn thì học sinh ln mang tâm lí sợ hãi,
ngại tiếp xúc, khó thân thiện, học sinh sẽ khơng cởi mở, bộc lộ bản thân thậm chí
sẽ có những học sinh tìm cách trốn tránh tiếp xúc, chống đối giáo viên. Ngược lại
khi người giáo viên thiết lập được một khơng gian tâm lí gần gũi với học sinh sẽ
giúp rút ngắn khoảng cách, quan hệ Thầy- Trò. Làm cho học sinh cảm thấy thoải
mái, tự tin khi gần giáo viên và từ đó sẽ nảy sinh nhu cầu muốn tâm sự, bộc lộ với
thầy cơ giáo.
Ví dụ như trong giờ học, ngồi việc hình thành kiến thức cho các em, để
hoạt động dạy học đỡ căng thẳng, áp lực nhàm chán, tơi thường nói, kể những câu
chuyện vui đùa, hài hước, kể một mẩu chuyện có ý nghĩa giáo dục liên quan đến
bài học sẽ tạo được một không gian học tập sinh động, thoải mái giúp các em dễ
dàng hơn trong việc tiếp nhận, hình thành kiến thức.
Hay là việc GVCN chủ động tạo ra những buổi nói chuyện mang tính tâm
sự, chia sẻ. Lúc đó giáo viên đóng vai trị người mẹ, người chị, người anh thậm chí
đặt mình vào vị trí của các em để hiểu nắm bắt những tâm tư, nguyện vọng, biết
các em có những gì? khó khăn ra sao? có vấn đề gì bức xúc cần tư vấn giải quyết.
Lúc đó GVCN là “thủ lĩnh” là “điểm dựa tinh thần” cho các em. Nếu học sinh cảm
nhận được điều đó thì chúng sẽ có nhu cầu bộc lộ tâm sự, nói lên tiếng nói của
mình. Và khoảng cách Thầy- Trị sẽ được rút ngắn, mối quan hệ sẽ thân thiết và
gần gũi hơn. Trong trường hợp các em khơng tiện nói ra trực tiếp GVCN có thể
động viên các em viết vào giấy nhắn tin có tính chất riêng tư.
Và tơi đã gặp một tình huống như thế này: Vào một buổi chiều thứ 7, tôi dạy
bồi dưỡng học sinh giỏi, đang chữa một đề văn Nghị luận xã hội mà nội dung liên

quan đến sự thấu hiểu, đồng cảm trong cuộc sống. Tơi có kể một câu chuyện gia
đình tơi: Hôm 20/11 con trai tôi đi chúc tết Thầy cô về, khác với mọi hơm, nhìn
mặt tơi thấy con trai khơng vui, mặt có vẻ “sượng” đi,tơi liền nói: “Hơm nay Anh
hai Sài Gịn đi chơi về có chuyện gì phải, mẹ thấy không vui? ( Tôi thường gọi con
trai như thế) con trai tơi liền khóc và kể cho mẹ nghe về câu chuyện mà nó gặp
phải. Nghe đến đó một học sinh trong đội tuyển là Nguyễn Trần Anh P (xin được
khơng ghi tên cụ thể) đã nói: Em M nhà cô thật hạnh phúc” và tôi thấy em lấy tay
lau vội giọt nước trên khoé mắt em. Nhưng nhận thấy em cố dấu cảm xúc nên bài
giảng của tôi lại tiếp tục. Sáng hôm sau khoảng 11 giờ trưa, tơi đang nấu ăn thì
thấy cuộc gọi từ bố của em Nguyễn Trần Anh P với một giọng hốt hoảng: “ Cô ơi!
Anh P từ sáng đến giờ đóng cửa và nằm khóc trong phịng, khơng chịu gặp ai
trong gia đình. Tơi lo q! Chẳng biết vì lí do gì. Đứng ngồi gõ cửa bảo mở cửa
cháu khơng mở, nói vọng ra con khơng nói chuyện với bố me, chỉ muốn nói chuyện
với cơ N thơi. Biết là làm phiền cơ nhưng khơng có cách nào khác, nên muốn nhờ
12


cơ gọi điện nói chuyện với cháu giúp tơi. Thế là tôi gọi điện cho Anh P, chuông đổ,
rồi em bốc máy, em ịa khóc nức nở và cứ gọi Cơ ơi! Cơ ơi! Tơi nói “ Cơ ơm Anh P
một cái! Nếu em muốn khóc cơ cứ cầm máy để nghe em khóc.” (Bởi có nhiều lần
trong cuộc sống như bước vào kì thi hay xử lí việc gì đó hồi hộp nó thường bảo:
“cho em ơm cơ cái để lấy tinh thần”). Có chuyện gì cứ bình tĩnh nói với cơ. Anh P
bản lĩnh của cơ đâu rồi!, học trị cơ N mà mềm yếu thế!...Và cứ như thế em đã nói
chuyện với tơi hơn một tiếng đồng hồ. Vấn đề mà em gặp phải là trong thời gian
gần đây do gặp phải những khó khăn trong làm ăn nên bố mẹ thường xuyên cãi vã,
to tiếng với nhau, giận nhau, khơng có thời gian quan tâm đến việc học học của
nó. Nó buồn vui, muốn cái gì bố mẹ cũng không biết.
Biết lắng nghe học sinh: giáo viên phải biết lắng nghe những ý kiến của các
em, sẵn sàng trả lời thấu đáo những câu hỏi của các em, cho các em biết các em có
thể điện thoại cho thầy cơ để nói chuyện hay hỏi bài, hay những vấn đề khó khăn

trong cuộc sống... như vậy các em sẽ có nhu cầu bộc lộ, chia sẻ những ý kiến mong
muốn của mình.
3.2. Xây dựng mối quan hệ bạn bè trong và ngoài lớp
Ngoài xây dựng mối quan hệ Thầy - Trị thì GVCN cần xây dựng được mối
quan hệ bạn bè cho học sinh hòa đồng, thân thiện, đồn kết. Để làm được điều đó
cơng việc của giáo viên là phải làm cho lớp học đoàn kết yêu thương nhau. Giáo
viên cần phải tạo điều kiện cho học sinh thể hiện sự quan tâm của mỗi thành viên
trong lớp như thăm hỏi khi các bạn bị ốm đau, có những lời chúc mừng trong ngày
sinh nhật, giúp đỡ khi bạn gặp rủi ro... Từ đó sẽ hình thành sự quan tâm, tình yêu
thương, sự sẻ chia ở các em. Ngồi ra GVCN cần có sự đối xử công bằng, công
tâm đối với tất cả học sinh trong lớp. Điều này giúp học sinh cảm nhận được mình
được bình đẳng, được quan tâm, được yêu thương như những bạn khác. Tránh tình
trạng thiên vị, quan tâm đặc biệt của GVCN đối với một số học sinh. Chính sự
cơng bằng sẽ tạo nên sự đồn kết hịa đồng, đồng thuận, đồng lịng trong học sinh
và khi đó chúng ta đã xây dựng được một mối quan hệ bạn bè tốt đẹp thân thiện
đoàn kết cho học sinh. Là mơi trường tốt để học sinh có điều kiện học tập, tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức, giúp các em hình thành những phẩm chất tốt đẹp như
tinh thần đoàn kết, u thương chia sẻ, sự hợp tác...góp phần hồn thiện nhân cách,
đạo đức cho học sinh.
4. Kết hợp chặt chẽ với giáo viên bộ môn
Nếu việc quản lý giáo dục chỉ dựa vào GVCN thì khó đạt được kết quả cao
bởi khơng phải lúc nào GVCN cũng có mặt bên cạnh để quản lý, giáo dục. Vì vậy
quản lý giáo dục toàn diện cần đến sự phối hợp GVCN và giáo viên bộ môn.
- Trước tiên để giáo dục các em, GVCN cần tạo điều kiện hình thành mối
quan hệ tốt đẹp giữa giáo viên bộ môn và học sinh, GVCN sẽ là chiếc cầu nối, là
sợi dây gắn kết giúp giáo viên bộ môn và học sinh hiểu nhau hơn.

13



Ở phương diện thứ nhất , GVCN cần giúp học sinh của lớp hiểu giáo viên bộ
mơn của lớp mình. Thực ra giáo viên bộ môn là đồng nghiệp của mình vì thế ít
nhiều GVCN sẽ nắm được đặc điểm, tính cách, năng lực của từng giáo viên để từ
đó giúp các em hiểu, có cách ứng xử phù hợp với từng giáo viên. Đồng thời GVCN
phải thường xuyên nhắc nhở, u cầu học sinh của lớp mình tơn trọng thầy cô, kiên
quyết xử lý những học sinh vô lễ thiếu tôn trọng thầy cô.
Ở phương diện thứ hai, ngược lại GVCN cần tạo điều kiện để giáo viên bộ
môn có thể hiểu tình hình của lớp, đặc điểm của từng học sinh. Phản ánh trao đổi
kịp thời những mong muốn, nguyện vọng của học sinh đến giáo viên bộ môn để
dẫn đến việc giáo viên bộ môn hiểu, cảm thông, yêu thương, đối xử công bằng với
học sinh. Sau đây tơi xin nêu một tình huống cụ thể mà tôi đã thực hiện:
Vào đầu năm học mới được mấy tuần, học sinh nói: “Cơ ơi! Năm nay chắc
chết vì thầy Nguyễn Anh T dạy Sử lớp ta, Thầy T “hắc xì dầu” lắm, chúng em nghe
sợ và lo!” Tơi biết, hiểu sự lo lắng của các em là có cơ sở và cũng muốn nói
chuyện với thầy T để chia sẻ với thầy về những tâm sự của các em nhưng chưa có
dịp và nên bằng cách nào. Cho đến một hôm, tôi tranh thủ giờ ra chơi vào dặn dị
lớp một số việc, trống vào học tơi khơng để ý và thấy thầy T bước vào lớp, học
sinh nhắc đến giờ sử thầy T rồi cô ạ! Tôi nghĩ đây là cơ hội để tơi giúp Thầy trị
hiểu nhau nên tôi đã xin phép thầy cho tôi 5 phút, thầy đồng ý. Tôi hỏi : “Các em
thấy thầy T đẹp trai khơng? Học sinh đáp: “Có ạ!”( Vì tôi biết thầy đẹp trai và
chắc chắn học sinh trả lời có). Tơi lại tiếp: Các em có sợ Thầy khơng? Cả lớp im
lặng rồi có đứa lí nhí nhưng cũng đủ để Thầy nghe “sợ chết đi được”. Thầy T nói:
“tại sao sợ Thầy? Thầy đã làm gì mà các em sợ? Mới khen Thầy đẹp trai đó mà!”
cả lớp nhao nhao “Đúng là đẹp trai thật nhưng vẫn cứ sợ!” Tơi liền nói: Bây giờ
có cơ và thầy ở đây các em hãy chia sẻ cho cô và thầy biết vì sao? Tơi khuyến
khích và cũng cảm nhận được sự tự tin của các em vì có cơ chủ nhiệm của mìnhchỗ dựa tinh thần vững chắc nên các em đã mạnh dạn chia sẻ vô vàn những lí do
mà chúng sợ như nhiều khi em thấy thầy nhanh nổi nóng, kiểm tra bài cũ thì u
cầu cao mà cho điểm thì thấp, chả khi nào thấy thầy cười... khi câu chuyện đang ở
cao trào tôi xin phép rút lui, nhường khơng gian cho thầy trị. Sau một thời gian
tơi nghe học trị tâm sự: thầy T dạo ni khác lắm cơ à, thống lắm, thân thiện lắm...

cịn Thầy thì cứ gặp tơi ln nói: Lớp cơ rành tình cảm, ngoan, mơn tơi khơng thi
đại học mà học rất chăm...
Qua câu chuyện trên, tôi nghĩ rằng GVCN phải là chiếc cầu nối giúp giáo
viên bộ môn và học sinh lớp mình hiểu nhau hơn.
- Phối hợp để giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh. Đối với công tác giáo
dục đạo đức cho học sinh, GVCN mong muốn nhận được sự cộng tác của giáo viên
bộ môn bằng cách mỗi giờ học nhờ giáo viên bộ môn kiểm tra sĩ số, vệ sinh phòng
học, việc thực hiện các nội quy như trang phục, đầu tóc...GVCN nhờ giáo viên bộ
môn kịp thời phản ánh những lỗi vi phạm của học sinh để phối hợp giáo dục. Và
khi nhận được thông báo học sinh vi phạm, GVCN cần lắng nghe thông tin từ hai
14


phía (giáo viên và học sinh) để có hướng giáo dục tốt. GVCN cần có sự thống nhất
hình thức và biện pháp tác động đối với học sinh vi phạm như bỏ tiết, nghỉ phụ
đạo... Nếu có sự phối hợp chặt chẽ giữa GVCN và giáo viên bộ mơn thì hiệu quả
giáo dục sẽ tốt hơn rất nhiều.
- Phối hợp để hoạt động dạy học đạt hiệu quả: Thông qua giáo viên bộ môn,
GVCN nắm bắt được năng lực học tập của học sinh một cách toàn diện, đầy đủ.
GVCN sẽ biết được các em học tốt môn nào? Môn nào cịn hạn chế? Năng lực cụ
thể của từng mơn đến đâu? Có thể nói GVCN phải thường xuyên theo dõi kết quả
học tập của các em qua giáo viên bộ môn để nắm bắt kịp thời năng lực của từng
học sinh. Qua việc theo dõi ấy chúng ta có thể lựa chọn những học sinh khá, giỏi
để bồi dưỡng nâng cao kiến thức, đối với học sinh yếu kém cần quan tâm hơn, phối
hợp phụ đạo kịp thời giúp đỡ các em trong học tập. Từ đó sẽ giúp nâng cao chất
lượng mũi nhọn và đại trà, thực hiện tốt mục tiêu dạy học, qua đó có thể tư vấn
định hướng nghề nghiệp chính xác cho các em trong tương lai.
- Nếu chỉ giao việc quản lý nề nếp học sinh cho đồn trường và GVCN thì sẽ
khó đạt hiệu quả cao. Do vậy việc quản lý nề nếp học sinh cần có sự phối kết hợp
của giáo viên bộ môn. Giáo viên bộ môn nên lồng ghép trong các kiến thức mơn

dạy của mình để tun truyền ý thức, trách nhiệm, thực hiện các nghĩa vụ của học
sinh. Tơi tin tưởng rằng nếu đồn trường – giáo viên chủ nhiệm – giáo viên bộ môn
phối hợp tốt cùng tham gia quản lý thì nề nếp học sinh sẽ nhanh chóng đi vào quy
củ.
5. Phối hợp tốt với các tổ chức giáo dục trong nhà trường
5.1. Phối hợp chặt chẽ với Ban Giám hiệu
GVCN là người thừa lệnh hiệu trưởng, được hiệu trưởng giao quyền thay
mặt nhà trường để tổ chức, quản lí, giáo dục học sinh một lớp học, là cầu nối giữa
Ban Giám hiệu với tập thể học sinh lớp chủ nhiệm. Nói một cách khác, GVCN là
người đại diện hai phía, một mặt đại diện cho các lực lượng giáo dục của nhà
trường, mặt khác đại diện cho tập thể học sinh. GVCN phải thường xuyên báo cáo
tình hình lớp, kết quả giáo dục, nguyện vọng của học sinh lớp mình với Ban Giám
hiệu; kiến nghị, đề xuất, xin ý kiến về biện pháp giáo dục và đề nghị BGH cùng
phối hợp.
Công tác phối kết hợp với Ban Giám hiệu là một trong những biện pháp hữu
hiệu có khi tăng tính răn đe nâng cao hiệu quả giáo dục học sinh. Có những cơng
việc, nội dung hay tình huống mà một mình GVCN khơng thể giải quyết được thì
cần phải nhờ sự hỗ trợ của Ban Giám hiệu (BGH) nhà trường hoặc Đoàn trường và
các giáo viên bộ mơn nếu có thể. Vì vậy, khi làm công tác chủ nhiệm, tôi luôn nhờ
sự tư vấn, chỉ đạo từ phía BGH nhà trường cho phép tơi mới thực hiện, gặp trường
hợp nào cần đến sự hỗ trợ xử lý của BGH là tôi lập tức báo cáo, cùng với BGH để
có biện pháp tốt và hay nhất.

15


Ví dụ có một lần, em Nguyễn Đình D gặp tơi và nói: Cơ cho em đánh bạn
Nguyễn Tư H, bởi em khơng thể chịu nổi nữa. Tơi hỏi: vì sao địi đánh H, em làm
sao đánh được vì H to lớn hơn em nhiều, em có biết nếu đánh, em sẽ vi phạm nội
quy, điều lệ trường học không? Em trả lời không đánh được em sẽ thuê người

đánh, cô không cản được em đâu. Biết sự việc đã vượt khỏi tầm kiểm sốt, một
mình tơi khơng thể giải quyết, tôi lập tức báo cáo với BGH, Ban nề nếp nhà
trường. BGH đã tổ chức buổi gặp gỡ giữa GVCN, hai học sinh cùng với phụ
huynh của hai em để tìm hiểu nguyên nhân, hướng giải quyết ngăn chặn được
nguy cơ bạo lực học đường.
Quan hệ công việc cụ thể giữa GVCN và Ban Giám hiệu thường thể hiện
như sau:
- Tiếp nhận chủ trương, kế hoạch và những định hướng hoạt động cụ thể của
Ban Giám hiệu.
- Xây dựng kế hoạch và chỉ đạo triển khai thực hiện cho phù hợp với tình
hình của lớp.
- Báo cáo kết quả hoạt động của lớp theo định kì hoặc đột xuất.
- Đề nghị BGH khen thưởng hay kỉ luật học sinh
- Đề đạt những nguyện vọng chính đáng của học sinh lớp chủ nhiệm với Ban
Giám hiệu.
- Phản ánh nguyện vọng của gia đình học sinh về sự đồng thuận hay không
đồng thuận với những chủ trương quy định của nhà trường.
5.2. Phối hợp chặt chẽ với Đồn trường
Đi đơi với chất lượng giảng dạy kiến thức trên lớp thì cơng tác Đồn thanh
niên chiếm một vị trí quan trọng trong các trường THPT trong giai đoạn hiện nay.
Tất cả các hoạt động của Đoàn trong trường học đều hướng tới sự rèn luyện kỹ
năng sống cũng như định hướng về tư duy, lối sống, suy nghĩ tích cực cho các em
học sinh giúp các em có cái nhìn đúng đắn, lối sống lành mạnh hơn, phát triển học
sinh một cách toàn diện. Đặc biệt giáo dục đạo đức, lối sống lành mạnh, ý thức
trách nhiệm cho học sinh là một trong những yêu cầu cơ bản, thiết yếu của giáo
dục nói chung và giáo dục nhà trường nói riêng. Đối với thanh niên, trong giai
đoạn hiện nay, yêu cầu đó lại càng trở nên cấp thiết. Để nâng cao chất lượng giáo
dục tồn diện cho học sinh, GVCN cần có sự phối hợp chặt chẽ Đoàn trường.
- Thường xuyên nhắc nhở, động viên, đôn đốc học sinh tham gia tốt và đầy
đủ các hoạt động đoàn thể, phong trào thi đua do Đồn phát động cũng là một biện

pháp tích cực thúc đẩy phong trào đi lên của tập thể lớp. Giúp cán bộ đoàn phát
hiện những thanh niên ưu tú để giới thiệu kết nạp Đoàn, các đoàn viên ưu tú để kết
nạp Đảng. Phối hợp với đoàn trường xử lý HS vi phạm nội qui nhà trường.Theo
dõi phần kiểm tra của Đồn, xử lí kịp thời những HS sai phạm bằng các biện pháp
tích cực.
16


- Để phối kết hợp tốt với đoàn trường, GVCN phải đưa ra được những quy
định, tiêu chí thi đua cụ thể, sát với quy định của nhà trường. Những tiêu chí thi
đua đó phải thiết thực, đánh giá được tương đối chính xác và tồn diện học sinh,
góp phần khuyến khích và nhắc nhở các em trong học tập và sinh hoạt. Với hình
thức thi đua trên thì mọi hoạt động của học sinh đều được giám sát và chấm điểm
thi đua, từ những vi phạm đến những việc làm tốt đều được đánh giá và ghi nhận
chính xác, kịp thời.
- GVCN thường xuyên bám sát lớp, nắm chắc các diễn biến xảy ra trong lớp,
các hoạt động phong trào mà đồn trường, nhà trường phát động để có biện pháp
giáo dục kịp thời và hiệu quả, cũng như khích lệ các em tham gia. Phải có mặt
trong giờ chào cờ đầu tuần, các buổi sinh hoạt tập thể và thường xuyên quản lý
kiểm tra ý thức học sinh của mình trong suốt buổi đó, có mặt vào đầu giờ học. Trực
tiếp quản lý các buổi hoạt động
ngoài giờ lên lớp của học sinh.
Tổ chức cho học sinh tham gia
đầy đủ các hoạt động của nhà
trường và đoàn thanh niên.
Thường xun trao đổi thơng tin
với đồn trường về tình hình học
sinh của lớp mình.
- GVCN phối hợp với
Đồn trường trong việc tổ chức

các hoạt động ngoài giờ lên lớp
gắn với chủ đề sinh hoạt hàng
tháng. Trong đó Đồn trường tư
vấn định hướng, lập kế hoạch,
các lớp thực hiện.

Thầy Nguyễn Nhật Đức- Bí thư Đồn trường
Phát biểu trong chương trình "Khi tơi 18"

6. Phối hợp tốt với gia đình học sinh và Ban đại diện cha mẹ học sinh
lớp
6.1. Phối hợp tốt với gia đình học sinh
Gia đình là nơi diễn ra những mối quan hệ xã hội đầu tiên của con người.
Những mối quan hệ trực tiếp giữa đứa trẻ và cha mẹ là những tác động qua lại đầu
tiên trong đời sống xã hội của đứa trẻ. Trong gia đình, các em nhận được những
kinh nghiệm và kỹ năng sống đầu tiên. Các hình thức giáo dục con cái trong gia
đình có ảnh hưởng trực tiếp đến định hướng giá trị nhân cách của học sinh THPT.
Sự thiếu quan tâm chăm sóc của bố mẹ, gia đình và người thân. Một số bậc
phụ huynh cũng vì lo toan cuộc sống mưu sinh mà quên bẵng đi việc giáo dục con
cái, do đời sống gia đình khó khăn, quanh năm làm ăn lam lũ hoặc phải đi làm ăn
xa, hoặc các em thuộc gia đình có bố mẹ ly dị, thiếu sự chăm sóc của bố hoặc mẹ,
đơi khi thiếu cả hai, phải sống với ông bà cho nên khơng đủ điều kiện chăm sóc,

17


quản lý con cái, việc giáo dục con cái phó mặc cho Nhà trường. Nhiều em bị ảnh
hưởng nặng nề từ bạo lực gia đình, sinh ra tính cục cằn, cáu bẳn, bạo lực còn bị
ảnh hưởng nhiều từ cuộc sống gia đình khơng êm ấm. Nhiều học sinh quậy phá có
ngun nhân từ tâm lý khơng ổn định, ở nhà khơng được quan tâm nhiều. Gia đình

có ảnh hưởng rất lớn đến sự lựa chọn các giá trị của các em, trước hết là nhân cách
của bố mẹ, anh chị em, cách thức giáo dục và chăm sóc của bố mẹ, lối sống của gia
đình. Do vậy, việc xây dựng một lối sống, sự quan tâm đúng mực của gia đình và
sự gương mẫu của bố mẹ là điều kiện cần thiết để hình thành định hướng giá trị
nhân cách đúng đắn của các em. Chúng ta cần tôn trọng những quan điểm, nhu cầu
và mong muốn chính đáng của các em, sẽ là sai lầm nếu chúng ta chỉ nhìn các em
như là những đứa trẻ cịn non nớt. Các hình thức giáo dục con cái trong gia đình
cần được bố mẹ và các thành viên trong gia đình chú ý, tránh sử dụng các hình
thức giáo dục thiếu tích cực và đặc biệt là các hình thức giáo dục roi vọt, xâm
phạm thể chất và tinh thần của con em mình.
Gia đình cần kết hợp với nhà trường, xã hội trong việc giáo dục giá trị cho
các em, khơng nên phó mặc trách nhiệm giáo dục giá trị con em mình cho nhà
trường và xã hội.
Để làm được công tác chủ nhiệm tốt, tôi không thể không nói tới sự phối
hợp chặt chẽ giữa GVCN và cha mẹ học sinh. Đây là mối quan hệ không thể thiếu
được. Chính vì thế ngay từ khi nhận lớp tơi đã lập danh sách số điện thoại liên lạc
của gia đình, đây là điều kiện thuận lợi giúp GVCN trao đổi với cha mẹ học sinh
khi cần thiết. Ngoài ra GVCN cần phải tiếp xúc riêng để trao đổi thông tin với cha
mẹ những học sinh cá biệt. Thông qua cơng việc này giúp giáo viên biết được các
thói quen, sở thích thái độ của học sinh thường biểu hiện ở gia đình. Qua đó giúp
cha mẹ học sinh biết được tình hình học tập, những dấu hiệu sa sút của các em
đồng thời giúp cha mẹ học sinh thấy được sự quan tâm của nhà trường đối với gia
đình từ đó tạo được niềm tin đối với phụ huynh trong việc giáo dục con cái họ.
Mối quan hệ có tác động hai chiều này nhằm hạn chế bớt mặc cảm, tự ti ở các em
giảm bớt tâm lí lo sợ khi tiếp xúc với GVCN. Về cách thức phối hợp, tôi thường
làm như sau:
- Tổ chức và thực hiện tốt các kỳ họp CMHS do nhà trường đề ra. Họp định
kì CMHS 3 lần/năm học vào đầu năm học và cuối mỗi học kỳ. GVCN phối hợp
với CMHS để trao đổi và có biện pháp
tích cực, thích hợp kịp thời giáo dục

học sinh sai phạm. GVCN phải có
chương trình họp cụ thể, dựa trên kế
hoạch và nhiệm vụ năm học của nhà
trường, vận dụng vào lớp đang chủ
nhiệm.
- Thăm và trao đổi trực tiếp với
gia đình học sinh khi cần thiết. Để tiếp

Mời CMHS đến trường để phối hợp
giáo dục HS vi phạm

18


xúc được với CMHS thì nên chuẩn bị tốt nội dung cần trao đổi, chính xác, rõ ràng,
cụ thể. Có như thế, CMHS thấy được GVCN đã quan tâm sâu sắc đến con mình từ
đó n tâm, tin tưởng GVCN, tin tưởng nhà trường.
- Mời CMHS đến trường để trao đổi về việc giáo dục học sinh khi có những
hiện tượng bất thường và khẩn cấp.
- GVCN và CMHS cùng có trách nhiệm đảm bảo "thơng tin hai chiều".
Những biến đổi tích cực hay tiêu cực của học sinh, đối tượng giáo dục, cần được
GVCN và phụ huynh thông báo cho nhau kịp thời để điều chỉnh hay thay đổi
phương pháp, biện pháp giáo dục...
- Sử dụng có hiệu quả tác dụng của Sổ liên lạc điện tử. Trên cơ sở
đó, GVCN thơng báo tới các bậc CMHS về tình hình học tập, rèn luyện, ý thức
từng em đồng thời cũng nắm bắt được các thơng tin về hồn cảnh, cá tính, năng
khiếu… của học sinh từ phía CMHS cung cấp. Qua đó GVCN tìm những biện
pháp giáo dục phù hợp với từng học sinh. GVCN cung cấp số điện thoại của mình
cho CMHS để tiện liên hệ.
6.2. Phối hợp tốt với Ban đại diện cha mẹ học sinh lớp

- Liên hệ thường xuyên với Ban đại diện CMHS lớp để tích cực hố các hoạt
động của hội CMHS trong công tác giáo dục. Thông qua Ban đại diện CMHS lớp
phổ biến các chủ trương, đường lối giáo dục chung. Vận động CMHS tạo điều
kiện, phương tiện, thời gian để các em học tập, rèn luyện tốt.
- Phối hợp với ban Đại diện CMHS lớp thăm hỏi những gia đình học sinh có
hồn cảnh éo le, trao đổi về tình hình của lớp để tìm ra phương cách tốt nhất giúp
lớp tiến bộ trên tất cả các mặt học tập và hoạt động phong trào như: văn nghệ, thể
dục, thể thao, HĐNGLL, hoạt động trải nghiệm …từ việc nhỏ đến việc lớn của lớp.
- Ban đại diện cha mẹ học sinh lớp chuẩn bị các tham luận trong cuộc họp về
kinh nghiệm học tập, hỗ trợ học tập và hợp tác cùng GVCN, là cầu nối trung gian
giữa GVCN và CMHS trong lớp.
7. Giáo dục đạo đức học sinh thông qua tiết sinh hoạt chủ nhiệm
Tổ chức tiết sinh hoạt lớp cuối tuần không phải là một điều mới mẻ đối với
giáo viên, nhất là GVCN. Theo cách truyền thống, tiết sinh hoạt chủ nhiệm gồm ba
hoạt động cơ bản: Tổng kết đánh giá hoạt động trong tuần; Xây dựng kế hoạch
tuần tiếp theo; GVCN nhận xét đánh giá. Tuy nhiên, để khắc phục một số tồn tại
trong tiết sinh hoạt, làm cho tiết sinh hoạt lớp có ý nghĩa và tác dụng thiết thực,
sinh động và phong phú hơn, đặc biệt là đáp ứng mục tiêu giáo dục toàn diện học
sinh, chúng ta cần đổi mới nội dung và cách thức tiết sinh hoạt chủ nhiệm. Cụ thể,
tôi đã tiến hành như sau:
7.1. Yêu cầu về tổ chức
- Đối tượng tham gia: HS cả lớp, GVCN và đại diện CMHS (nếu có)

19


- Bám sát mục tiêu giáo dục của chương trình đưa ra: lựa chọn những mục
tiêu cần củng cố, cần hình thành ở học sinh.
- Các hoạt động phát huy tối đa tính tích cực của học sinh và phù hợp với
đặc điểm lứa tuổi, phù hợp với yêu cầu sư phạm. Học sinh là chủ thể thi công, giáo

viên là người hướng dẫn và chỉ đạo từ khâu chuẩn bị đến khâu thực hiện.
- Khuyến khích sự tham gia của CMHS.
- Thời gian: 1 tiết/ tuần
- Địa điểm: Tại lớp học.
7.2. Chuẩn bị
- Báo cáo tuần về tình hình của lớp, tổ về hoạt động học tập rèn luyện nề nếp
và hoạt động khác (Tập trung vào điểm tiến bộ nhiều hơn).
- Phần thưởng cho cá nhân và tập thể
- Các nội dung hoạt động cho sinh hoạt chủ đề: xây dựng kịch bản, chuẩn bị
phương tiện và trang thiết bị, triển khai cho các nhóm chuẩn bị nội dung.
Phân cơng nhiệm vụ rõ ràng cho cá nhân, nhóm.
7.3. Cấu trúc buổi sinh hoạt lớp
Phần 1: Hành chính lớp học
- Sơ kết, tổng kết công tác trong tuần (nhận xét, đánh giá, bình chọn, kiểm
điểm...)
- Phổ biến cơng tác (của trường, lớp, đoàn thể) thảo luận bàn bạc về kế
hoạch và biện pháp thực hiện.
Phần 2: Sinh hoạt lớp theo chủ đề
Các chủ đề cho sinh hoạt lớp
được xây dựng dựa trên yêu cầu cần
đạt của chương trình và đã được nhà
trường đưa vào kế hoạch của nhà
trường. Bên cạnh đó các chủ đề liên
quan đến địa phương, chủ đề có tính
thời sự của lớp, của xã hội...hồn tồn
có thể linh hoạt bổ sung.
- Tổ chức triển khai các hoạt
động đã được chuẩn bị trước (chủ yếu
HS thực hiện).


Lớp trưởng điều hành sinh hoạt chủ đề
Covid-19 theo hình thức trị chơi ơ chữ

- GV nhận xét.
* Các phương pháp thường được sử dụng trong giờ sinh hoạt lớp
- Phương pháp hoạt động nhóm: kĩ năng hợp tác, chia sẻ, đồng cảm...
20


- Phương pháp đóng vai, sân khấu hóa: kĩ năng biểu cảm cảm xúc, kĩ năng
giao tiếp...
- Phương pháp tình huống: kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng ra quyết định,
kĩ năng giao tiếp, vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
- Phương pháp trò chơi: kĩ năng tổ chức hoạt động, kĩ năng giám sát, kĩ năng
phản ứng linh hoạt, kĩ năng tuân thủ...
8. Tổ chức các hoạt động trải nghiệm; hoạt động lao động và hướng
nghiệp cho học sinh của lớp
8.1. Tổ chức các hoạt động trải nghiệm
Hoạt động trải nghiệm cho học sinh ở trường luôn được BGH nhà trường
quan tâm đặc biệt và đây cũng là việc làm thường xuyên trong kế hoạch phối hợp
hoạt động giữa GVCN và Đoàn trường.
Sau khi xây dựng kế hoạch và được BGH nhà trường phê duyệt kế hoạch
hoạt động trải nghiệm, GVCN và Đoàn trường tổ chức thực hiện ngồi giờ học
chính khóa, với lịch trình và nội dung hoạt động cụ thể. Nhờ vậy, mỗi chuyến trải
nghiệm đều diễn ra hiệu quả, nhanh gọn. Trước đây, để tổ chức trải nghiệm cho
học sinh là một việc làm rất khó khăn đối với các nhà trường vì liên quan đến
nhiều yếu tố như kinh phí, thời gian, lực lượng.
Những năm gần đây, nhờ sự linh hoạt và mục đích trải nghiệm nên đã tổ
chức khá hiệu quả. GVCN kết hợp với CMHS, Đoàn trường tổ chức các chuyến
trải nghiệm gắn với thực tiễn, chủ đề chủ điểm, đưa học sinh về với những giá trị

thực tiễn ngay trên mảnh đất mà các em sống. Nhờ đó, mỗi chuyến trải nghiệm đã
mang lại kết quả thiết thực, bổ ích.
Trong năm học 2018 - 2019, tổ chức ba chuyến trải nghiệm cho học sinh về
các di tích lịch sử, các danh lam thắng cảnh trên địa bàn ba tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh,
Quảng Bình.
Thơng qua việc tổ chức tham quan, học tập một số địa chỉ đỏ như Ngã ba
Đồng Lộc, Làng Sen, Truông Bồn… đã gắn việc dạy học trên lớp với thực tế, thực
địa, dạy học gắn với di sản nhằm:
+ Nắm rõ những di tích lịch sử và ý nghĩa của từng di tích, biết ơn các thế hệ
cha anh đi trước đã hi sinh máu xương của mình cho nền độc lập tự do của Tổ
quốc;
+ Giáo dục địa phương: Văn hóa, lịch sử, địa lý địa phương;
+ Rèn các kỹ năng, hình thành và phát triển các năng lực, bồi đắp các phẩm
chất cho học sinh;
+ Tích hợp, liên mơn giáo dục đạo đức, lối sống, lí tưởng sống, kỹ năng
sống, giáo dục truyền thống, bản sắc văn hóa của dân tộc thơng qua các hoạt động
học tập và rèn luyện;
21


Bên cạnh đó, trên địa phương có nhiều di tích lịch sử, GVCN cho học sinh
trải nghiệm ngay tại những di tích đó, qua đó góp phần giáo dục lịch sử địa phương
và nhân lên niềm tự hào dân tộc cho học sinh.
8.2. Tổ chức các hoạt động giáo dục lao động và hướng nghiệp
Căn cứ vào kế hoạch chung của nhà trường và dựa vào tình hình cụ thể của
lớp, GVCN cần xây dựng kế hoạch lao động cụ thể để giáo dục học sinh. Cần quan
tâm thường xuyên và tồn diện đến tất cả loại hình lao động như: lao động vệ sinh,
làm sạch đẹp trường lớp, lao động sản xuất, lao động cơng ích. Điều quan trọng là
phải tổ chức hoạt động này một cách có hệ thống, vừa sức với học sinh, đảm bảo
vừa có hiệu quả kinh tế vừa có hiệu quả giáo dục cao.

Nền kinh tế thị trường, đặc biệt là công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước hiện nay đã và đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và
nguồn nhân lực. Việc giáo dục hướng nghiệp cho học sinh phổ thơng, vì thế càng
trở nên cấp thiết, đòi hỏi phải thực hiện các yêu cầu sau:
- Giúp học sinh hiểu rõ nhu cầu nghề nghiệp của xã hội nói chung, của địa
phương nói riêng.
- Tổ chức cho học sinh thể nghiệm thực tiễn lao động sản xuất của các nghề
nghiệp. Đây chính là một trong những cơ sở quan trọng giúp học sinh lựa chọn
nghề nghiệp tương lai một cách tự giác, phù hợp với sở thích, chí hướng và kĩ năng
của các em.
- Tạo điều kiện cho học sinh nắm vững cơ sở khoa học và kĩ năng lao động
của các nghề. Nhờ vậy, học vấn phổ thông và học vấn kĩ thuật tổng hợp sẽ kết hợp
nhuần nhuyễn với nhau và trở thành cơ sở cho học vấn nghề nghiệp, giúp học sinh
có khả năng thích ứng được với những địi hỏi của hoạt động lao động sản xuất,
hoạt động nghề nghiệp trong tương lai.
- Giúp học sinh xác định rõ các tiêu chí lựa chọn nghề nghiệp tương lai:
chọn nghề phù hợp với sở thích, chí hướng, khả năng bản thân và đáp ứng yêu cầu
của xã hội.
Trong hoạt động giáo dục lao động và hướng nghiệp ấn tượng nhất là cơng
trình “Vườn hoa thanh niên”:
Thực ra, trồng và chăm sóc bồn hoa cây cảnh thì tất cả các trường từ mầm
non đến THPT đều thực hiện nhằm tạo khuôn viên xanh sạch đẹp và đều thực hiện
từ trước đến nay, với trường THPT Thanh Chương 3, cũng không ngoại lệ. Dấu ấn
đầu tiên là năm học 2015 - 2016, kỉ niệm 40 năm thành lập trường, Ban Lao động
chỉ đạo các lớp trồng 5.000 giỏ hoa trang trí tồn bộ khn viên cho nhà trường
phục vụ lễ hội, tiết kiệm cho ngân sách nhà trường khoảng 50 triệu đồng.
Năm 2019 Sở khoa học và Công nghệ ban hành thể lệ và tổ chức cuộc thi
“Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tỉnh Nghệ An năm 2019”. Các lớp dưới sự chỉ đạo
của GVCN đã thay đổi cách thức và quy mô của hoạt động trồng hoa, từ chỗ trồng
22



hoa chỉ phục vụ trang trí khn viên nhà trường, các lễ hội của trường và nhân lực
trước đây chủ yếu là giáo dục học sinh vi phạm. Từ năm học 2018 - 2019 và đặc
biệt năm học 2019 - 2020 nhà trường lồng ghép hoạt động Giáo dục hướng nghiệp,
Hoạt động trải nghiệm với bộ môn
GDCD, Công nghệ Sinh học có nội
dung trồng chăm sóc vườn hoa với
sự tham gia học sinh tồn trường.
Nhà trường đã nhân rộng mơ hình
này và trở thành điểm sáng, điển
hình của các trường THPT trong
toàn huyện.
Cách đây năm năm, bất cứ ai
bước vào trường Thanh Chương 3 ắt
hẳn đều nhận ra một bãi đất trống
sau dãy phòng học của nhà trường.
Bãi đất này là nơi ngổn ngang gạch
đá vụn, um tùm cỏ dại. Các lớp
dưới sự chỉ đạo của Đoàn trường và
GVCN đã nhiều lần huy động học
sinh cuốc dọn vệ sinh, lao động.
Tuy nhiên, đây cũng chỉ là giải pháp
tạm thời, vì là đất hoang, đất trống
nên chỉ dăm bữa nửa tháng, tất cả
HS trường THPT Thanh Chương 3 trồng hoa gây quỹ
đều trở về trạng thái ban đầu. Bãi
đất này là nơi hao tổn nhiều tâm sức
và thời gian của thầy trò nhà trường. Với quan điểm chỉ đạo "Muốn diệt được hết
cỏ dại tốt nhất phải trồng cây vào đất hoang" đó là bài học của một vị thiền sư ở

Nhật Bản truyền dạy cho mơn đồ của mình. Cũng từ ý tưởng này mà các lớp có ý
định cải tạo bãi đất để trồng một vườn hoa. Tuy nhiên " vạn sự khởi đầu nan", khu
đất này vốn bỏ hoang từ rất lâu. Đất đa phần bị xói mịn, bạc màu, cỏ dại bén rễ
sâu, trong đất còn hỗn tạp gạch đá vụn, rác thải của học sinh, cần dày công cải tạo.
Nhưng một lần nữa sức sáng tạo của thầy trị đã phát huy tính hiệu quả. Bằng các
hoạt động trải nghiệm ngoài giờ, học sinh các lớp cải tạo bãi đất hoang. Những
buổi phát dọn cỏ dại, thu dọn gạch đá vụn, rác thải đồng thời cuốc xới, bón phân
hữu cơ dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Lao động, khu đất hoang gần 700m2 trở
thành vườn hoa đẹp. Vườn hoa làm bừng lên sức sống trong khuôn viên của nhà
trường, là nơi cho học sinh thêm u cái đẹp, có ý thức giữ gìn cảnh quan nhà
trường và hơn hết vườn hoa phục vụ rất nhiều cho mỗi dịp lễ hội, trồng hoa số
lượng lớn đã góp một phần khơng nhỏ vào việc tiết kiệm hàng chục triệu đồng tiền
mua hoa cho nhà trường. Không dừng lại ở đó, mơ hình trên khơng chỉ là tiết kiệm,
trong lễ Rằm tháng giêng vừa rồi, nhân dân ở chợ Chùa, chợ Giăng, chợ Cồn…
trên địa bàn lân cận ắt hẳn rất bất ngờ với hình ảnh học sinh Thanh Chương 3 với
23


những giỏ đầy ắp hoa tươi. Theo phân công của Đồn trường và GVCN, người cắt
hoa, người gói, người vận chuyển, người bán, phục vụ trong các ngày lễ tết trên địa
bàn Cát Ngạn.
Bên cạnh việc thu hoạch và bán hoa tươi thành phẩm, Nhà trường còn ươm
và nhân giống, vừa bán để lấy kinh phí mua hạt giống và phân bón vừa phục vụ
các trường cấp I, II và THPT trên địa bàn huyện Thanh Chương.
Vườn hoa của nhà trường không chỉ mang ý nghĩa của cái đẹp, của sự cố
gắng hay mang ý nghĩa kinh tế. Nhìn ngắm những bông hoa, ta nhận thức được bài
học về ý thức biết trân trọng sức lao động, trân quý những đồng tiền do bản thân
làm ra cũng như bố mẹ giành cho chúng ta. Đó cũng là cách GVCN phối hợp với
Đoàn trường Thanh Chương 3 đã và đang giáo dục học sinh của mình hướng thiện
từ những điều nhỏ bé nhất.

Học kì I, năm học 2019 – 2020, sau khi thống nhất với CMHS và được BGH nhà
trường cho phép đã tổ chức chuyến trải nghiệm cho học sinh tham quan trải
nghiệm tại Tập đoàn TH Nghĩa Đàn cùng giáo viên nhóm Hóa – Sinh. Các thầy cơ
giáo và học sinh đã đi tham quan nhà máy, quan sát thực tế hoạt động chăn ni,
sản xuất, tìm hiểu về cách thức vận hành, quy trình sản xuất sữa… trong khn
khổ thời gian 120 phút, các nhóm học sinh tập trung quan sát ở các trại bò, khu vực

Học sinh Trường THPT Thanh Chương 3 trải nghiệm tại đồi hoa hướng dương và tham quan trại bò
sữa TH Nghĩa Đàn tại Nghĩa Đàn

24


xử lý sữa, đồi hoa và còn được thưởng thức sữa tươi.

Để hoạt động trải nghiệm có ý nghĩa giáo dục học sinh không đơn thuần
được hiểu chỉ là buổi đi "vui chơi, giải trí" GVCN nói rõ mục đích của chuyến đi
và yêu cầu học sinh viết bài thu hoạch sau trải nghiệm. Dựa trên các yêu cầu này
các em tham quan nhà máy, quan sát các hoạt động theo định hướng vận dụng lý
thuyết môn học vào thực tiễn, đồng thời cũng giúp các thầy cô đánh giá các năng
lực của học sinh qua hoạt động trải nghiệm.
Từ thực tiễn của cơng ty, các học sinh có thể nhận thấy mối liên hệ chặt chẽ
giữa sản xuất và kinh doanh - mối quan hệ liên quan đến sự tồn tại và phát triển
của một doanh nghiệp.
Điểm đáng chú ý là, học sinh sẽ thu hoạch được rất nhiều kỹ năng “mềm”
khi tham gia các hoạt động trải nghiệm, như: kỹ năng khai thác, tìm hiểu thơng tin,
kỹ năng làm việc nhóm, xử lý vấn đề, quan sát… để từ đó hình thành năng lực tự
học, tự giải quyết vấn đề, giao tiếp, hợp tác, sử dụng CNTT và truyền thơng.
Thơng qua hoạt động nhằm giúp các em tìm hiểu về việc vận dụng kiến thức
đã học trong nhà trường vào thực tiễn sản xuất, kinh doanh; đồng thời bồi dưỡng

một số năng lực thực tiễn, phẩm chất, nhân cách, bước đầu phát huy tiềm năng
sáng tạo của học sinh nhấn mạnh vai trò quan trọng của việc “học đi đôi với hành”
luôn hướng tới làm sao để học sinh khơng những học được ở trên lớp mà cịn học ở
ngoài đời, học ở ngoài xã hội, học ở cơ quan, xí nghiệp và học chính trong gia đình

25


×