Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Khai thác giá trị nghệ thuật diễn xướng dân gian vào phát triển du lịch ở thành phố hội an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.78 MB, 92 trang )

1

ƢỜ

Ƣ
*****

t i
XƢỚ

Á


Á



V


UẬ D Ễ
Á
Ể DU
Ố Ộ

SVTH: Nguyễn Anh Linh
Lớp 10CVNH, Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng
GVHD: ThS. Nguyễn Duy Phương
Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng
Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng
- à ẵng, 5/2014 -




2

LỜI CẢ

Ơ

Lời đầu tiên em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến cô
Nguyễn Duy Phương – giáo viên hướng dẫn, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ
và động viên để em có thể hồn thành được khóa luận tốt nghiệp này.
Em cũng xin được gửi lời cảm ơn đến thầy cô giáo trong khoa Lịch Sử đã tận
tình chỉ bảo và truyền đạt kiến thức cho chúng em trong suốt 4 năm học qua. Dưới
sự chỉ bảo tận tình của q thầy cơ đã giúp chúng em có được một nền tảng kiến
thức và có được hành trang để vững bước trên con đường tương lai.
Đồng thời, em cũng xin gửi lời cảm ơn đến phịng Văn hóa Thơng tin, phịng
Thương mại Du lịch, trung tâm Quản lý bảo tồn di tích Hội An, Nhà biểu diễn nghệ
thuật cổ truyền Hội An đã tạo điều kiện thuận lợi cho em tìm kiếm, thu thập tài liệu
phục vụ cho quá trình nghiên cứu.
Được sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của thầy cơ và sự động viên hỏi tham của
gia đình, bạn bè cùng với những nỗ lực của bản thân, em đã hoàn thành khóa luận
tốt nghiệp với đề tài “Khai thác giá trị nghệ thuật diễn xướng dân gian vào phát
triển du lịch ở thành phố Hội An”. Tuy đã rất cố gắng nhưng do còn là một sinh
viên, khả năng nghiên cứu cịn hạn hẹp nên đề tài khơng thể tránh khỏi những sai
sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của q thầy cơ để khóa luận được hồn thiện
hơn. Em xin chân thành cảm ơn !
Đà Nẵng, ngày 19 tháng 5 năm 2014
Sinh viên

Nguyễn Anh Linh



3
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ẦU .................................................................................................... 6
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 6
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................... 7
3. Mục đích nghiên cứu ........................................................................................... 9
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 9
4.1. Đối tượng nghiên cứu ....................................................................................... 9
4.2. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................ 10
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ........................................................ 10
5.1. Nguồn tư liệu .................................................................................................. 10
5.2. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 10
6. Đóng góp của đề tài ........................................................................................... 11
7. Bố cục của đề tài ............................................................................................... 11
PHẦN NỘI DUNG .............................................................................................. 12
ƢƠ

1: Ơ Ở LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN............................................ 12

1.1. Nghệ thuật diễn xướng dân gian Việt Nam ..................................................... 12
1.1.1. Quan niệm về diễn xướng ............................................................................ 12
1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển ................................................................ 14
1.1.3. Phân loại nghệ thuật diễn xướng dân gian Việt Nam .................................... 16
1.2. Nghệ thuật diễn xướng dân gian ở Hội An ...................................................... 16
1.2.1. Các thể loại diễn xướng dân gian gắn với tín ngưỡng, lễ hội truyền thống ... 17
1.2.2. Các thể loại diễn xướng dân gian gắn với hoạt động vui chơi giải trí ........... 24
1.3. Việc khai thác nghệ thuật diễn xướng dân gian vào phục vụ du lịch trên thế giới

và Việt Nam .......................................................................................................... 32
1.3.1. Một số nước trên thế giới ............................................................................. 32
1.3.2. Một số địa phương trong nước ..................................................................... 36
ƢƠ

2:

ỰC TR NG KHAI THÁC NGHỆ THUẬT DIỄ XƢỚNG

DÂN GIAN VÀO PHÁT TRIỂN DU L CH Ở THÀNH PHỐ HỘI AN ........... 42
2.1. Vài nét về du lịch Hội An ............................................................................... 42
2.2. Cơ sở để khai thác nghệ thuật diễn xướng dân gian vào phát triển du lịch ở Hội
An ......................................................................................................................... 44


4
2.2.1. Dựa vào sự đa dạng, đặc sắc của các loại hình nghệ thuật diễn xướng dân gian
.............................................................................................................................. 44
2.2.2. Dựa vào nhu cầu tìm hiểu, cảm thụ giá trị của các loại hình nghệ thuật truyền
thống ở du khách ................................................................................................... 47
2.2.3. Dựa vào chủ trương bảo tồn các giá trị văn hóa phi vật thể của Quốc gia và
địa phương ............................................................................................................ 47
2.3. Thực trạng hoạt động khai thác nghệ thuật diễn xướng dân gian trong phát triển
du lịch ở Hội An .................................................................................................... 49
2.3.1. Các loại hình nghệ thuật diễn xướng dân gian được khai thác trong hoạt động
du lịch ................................................................................................................... 49
2.3.2. Số lượng, thành phần khách ......................................................................... 51
2.3.3. Thời gian và nguồn nhân lực phục vụ .......................................................... 53
2.3.4. Một số chương trình tiêu biểu ...................................................................... 55
2.3.5. Địa điểm diễn ra hoạt động biểu diễn nghệ thuật diễn xướng dân gian ở Hội

An ......................................................................................................................... 58
2.3.5.1. Nhà biểu diễn nghệ thuật cổ truyền Hội An............................................... 58
2.3.5.2. Xưởng thủ công mỹ nghệ Hội An ............................................................. 59
2.3.6. Các hoạt động văn hóa, lễ hội truyền thống.................................................. 60
2.3.7. Hoạt động quảng cáo, tuyên truyền .............................................................. 62
2.3.8. Đánh giá thực trạng hoạt động khai thác nghệ thuật diễn xướng dân gian vào
phát triển du lịch ở Hội An .................................................................................... 64
2.4. Ý nghĩa của việc đưa nghệ thuật diễn xướng dân gian vào phát triển du lịch ở
Hội An .................................................................................................................. 66
2.4.1. Tạo thêm sản phẩm du lịch đặc thù của địa phương ..................................... 66
2.4.2. Tạo sân chơi lành mạnh và bổ ích khơng chỉ cho người dân địa phương mà
cho cả du khách ..................................................................................................... 67
2.4.3. Thúc đẩy cho các hoạt động bảo tồn và phát triển nghệ thuật diễn xướng dân
gian ....................................................................................................................... 68
2.4.4. Tăng thu nhập cho người dân địa phương, các đoàn ca múa nhạc dân gian .. 69
ƢƠ

3:

ỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM KHAI THÁC HIỆU QUẢ NGHỆ

THUẬT DIỄ XƢỚNG DÂN GIAN VÀO PHÁT TRIỂN DU L CH Ở HỘI
AN ........................................................................................................................ 71


5
3.1. Cơ sở đề xuất giải pháp................................................................................... 71
3.2. Giải pháp về tăng cường các hoạt động nghiên cứu, bảo tồn và phát triển các
loại hình nghệ thuật diễn xướng dân gian gắn với du lịch ...................................... 73
3.3. Giải pháp về thu hút vốn đầu tư, xây mới và nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật

phục vụ biểu diễn .................................................................................................. 75
3.4. Giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực .............................................................. 76
3.5. Giải pháp về kết hợp với các doanh nghiệp du lịch nhằm đưa nghệ thuật diễn
xướng dân gian vào các tour tuyến du lịch ............................................................. 78
3.6. Giải pháp về tuyên truyền, quảng bá ............................................................... 80
PHẦN KẾT LUẬN .............................................................................................. 82
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 84
PHỤ LỤC ............................................................................................................ 89


6

PHẦN MỞ ẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ở bất cứ một làng q Việt Nam nào cũng có đơi ba làn điệu dân ca, điệu lý,
lời ru, hò, vè... mang dáng dấp và phong cách của nghệ thuật diễn xướng dân gian.
Những thể loại nghệ thuật diễn xướng này là một nhu cầu không thể thiếu đối với
những người lao động. Bởi vậy, trong quá trình phát triển cư dân Việt đã sáng tạo
nên rất nhiều loại nhạc khí và thể loại ca nhạc để bộc lộ tâm tư tình cảm, để có thêm
sự phấn chấn và sức mạnh trong lao động, trong chiến đấu, để giáo dục con cháu
truyền thống của ông cha, đạo lý làm người, để giao tiếp với thế giới thần linh trong
tâm tưởng và để bay lên với những ước mơ về cuộc sống tươi đẹp, hạnh phúc trong
hiện tại và tương lai…
Nghệ thuật diễn xướng dân gian chính là khúc hát tâm tình của người dân quê
Việt Nam được lưu truyền qua bao năm tháng. Nó bồi đắp tâm hồn ta từ những
ngày thơ bé qua lời ru êm đềm của bà của mẹ. Nó rực rỡ, thơm ngát như bơng sen
trong đầm, gần gũi, quen thuộc như luỹ tre bao bọc xóm làng, như cánh cò bay lả
trên ruộng đồng. Các loại nghệ thuật diễn xướng dân gian đó đã đi vào tâm thức
mỗi người dân Việt từ thuở ấu thơ qua lời ru của bà của mẹ, giúp ta cảm nhận sâu
sắc về vẻ đẹp bình n nơi thơn q, nỗi nhọc nhằn cũng như vẻ đẹp khoẻ khoắn

của người lao động, tình cảm gia đình thắm thiết, nghĩa vợ chồng tao khang của
những con người quê chân chất, mộc mạc, những nét sinh hoạt cộng đồng gần gũi
và thân thương.
Ngày nay, tại Việt Nam còn lưu giữ một kho tàng nghệ thuật diễn xướng dân
gian độc đáo và vô cùng đặc sắc với rất nhiều làn điệu dân ca. Mỗi địa phương,
vùng miền lại có những hình thức diễn xướng dân gian khác nhau, làm phong phú
thêm cho kho tàng âm nhạc, dân ca cổ truyền của đất nước.
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, Hội An - dải lụa đào xinh đẹp của mảnh
đất Quảng Nam địa linh nhân kiệt, với sự bảo tồn gần như nguyên vẹn những
đường lối kiến trúc và nếp sống đô thị cổ xưa không chỉ tái hiện, mà đã trở thành
một biểu tượng của quá khứ vẫn đang song hành cùng hiện tại. Khơng chỉ vậy, Hội
An cịn là nơi lưu giữ được nhiều loại hình nghệ thuật diễn xướng dân gian độc đáo
như: các điệu hò khoan, hát bả trạo, biểu diễn du hồ, múa Thiên cẩu, nghệ thuật
tuồng, nghệ thuật bài chịi,… góp phần khơng nhỏ cho việc bảo tồn các loại hình


7
nghệ thuật diễn xướng dân gian Việt Nam nói chung và Quảng Nam nói riêng.
Cũng chính bản thân của các loại hình nghệ thuật diễn xướng dân gian đó đã trở
thành một tài nguyên du lịch hấp dẫn cho đô thị cổ Hội An, được nhiều du khách
trong và ngoài nước ghé thăm, thưởng thức.
Mặc dù mang trong mình nhiều loại hình nghệ thuật diễn xướng dân gian đặc
sắc nhưng Hội An vẫn chưa khai thác hết tiềm năng mà nó mang lại, các hoạt động
diễn xướng phục vụ cho du lịch chỉ mới dừng lại ở một số cơ sở, câu lạc bộ, tổ chức
chỉ mới mang tính tự phát. Với mong muốn tìm ra một hướng đi mới cho cơng cuộc
bảo tồn và phát triển các loại hình nghệ thuật diễn xướng dân gian gắn với du lịch
tại Hội An, tôi quyết định lựa chọn đề tài “Khai thác giá trị nghệ thuật diễn xướng
dân gian vào phát triển du lịch ở thành phố Hội An” làm khóa luận tốt nghiệp của
mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Nghệ thuật diễn xướng dân gian là một loại hình của văn hóa phi vật thể, giá
trị văn hóa của nó được bảo tồn và lưu truyền trong các hoạt động biểu diễn mang
tính tập thể, vì vậy nó mang tính dân gian đặc thù. Nghệ thuật diễn xướng dân gian
có thể được xem là một bộ phận của âm nhạc truyền thống và có thể được gọi với
nhiều tên khác nhau như: nghệ thuật trình diễn dân gian, nghệ thuật truyền thống,
âm nhạc cổ truyền, văn nghệ dân gian,… nhưng cho đến nay chưa có nhà nghiên
cứu nào đưa ra được sự phân biệt rõ ràng giữa các tên gọi này. Tùy từng tác giả, nhà
nghiên cứu mà có cách gọi, cách phân loại nghệ thuật diễn xướng dân gian khác
nhau. Nghệ thuật diễn xướng dân gian Việt Nam đã được các tác giả nghiên cứu từ
khá sớm trong các sách, báo, tạp chí, các cơng trình, hội thảo khoa học,...
Dưới đây, xin nêu ra một số cơng trình nghiên cứu về nghệ thuật diễn xướng
dân gian nói chung và nghệ thuật diễn xướng dân gian ở Hội An nói riêng đã được
thực hiện:
GS.TS Trần Văn Khê – chuyên gia hàng đầu về âm nhạc truyền thống Việt
Nam với tác phẩm “Du ngoạn trong âm nhạc truyền thống Việt Nam”, Nxb Trẻ
2005, đã trình bày rất thuyết phục về lịch sử hình thành, sức sống mãnh liệt và các
giá trị đặc sắc của âm nhạc truyền thống Việt Nam. Cũng tập trung đi sâu nghiên
cứu, tìm hiểu về các giá trị của nghệ thuật truyền thống, tác giả Tuấn Giang với tác
phẩm “Giá trị nghệ thuật của diễn xướng dân gian Việt Nam”, Nxb VHTT 2006,


8
cũng đã phác họa được những nét riêng, nét độc đáo và giá trị nghệ thuật của các
loại hình nghệ thuật diễn xướng dân gian Việt Nam.
Tác giả Tô Ngọc Thanh trong tác phẩm “Trình diễn sân khấu dân gian Việt
Nam” (2007), Nxb Khoa học Xã hội, đặt vấn đề sử dụng thuật ngữ trình diễn thay
cho thuật ngữ diễn xướng bởi theo ông Thuật ngữ diễn xướng dễ dẫn đến liên tưởng
về các loại hình nghệ thuật như âm nhạc, múa, sân khấu, trong đó bao gồm các yếu
tố diễn xuất và ca xướng, tức là các nghệ thuật biểu diễn. Để có một hàm nghĩa rộng
hơn, thuật ngữ trình diễn tỏ ra thích hợp, theo đó, diễn xướng là một dạng của trình

diễn.
TS Trần Hồng Tiến trong bài viết “Diễn xướng dân ca – phương thức trao
truyền dân gian trong bối cảnh hiện nay” đăng trên website trường Đại học Sư
phạm Nghệ thuật Trung Ương, bài viết xác định rõ mục đích, ý nghĩa, vai trị của
diễn xướng trong sinh hoạt hát dân gian, nhằm giữ gìn, phát huy vẻ đẹp đầy mỹ cảm
do cha ông sáng tạo nên. Đồng thời đặt vấn đề diễn xướng như một phương pháp
dạy dân ca trong trường tiểu học, trung học cơ sở.
Tác giả Khánh Ly trong bài viết “Nghệ thuật truyền thống loay hoay “làm”du
lịch” đăng trên báo Gia đình ngày 16/9/2013 đã bày tỏ những trăn trở về thực trạng
đáng buồn của các loại hình nghệ thuật truyền thống hiện nay. Tác giả cũng đã đưa
ra những giải pháp nhằm khai thác có hiệu quả các giá trị của nghệ thuật truyền
thống vào phát triển du lịch ở nước ta.
Nghệ thuật diễn xướng dân gian Quảng Nam đã được nhiều tác giả nghiên cứu
với nhiều cơng trình tiêu biểu như nhóm tác giả Võ Văn Hịe, Hồng Hương Việt,
Bùi Văn Tiếng với tác phẩm “Tổng tập văn hóa, văn nghệ dân gian đất Quảng”
(2001), Nxb Đà Nẵng; tác phẩm“Văn nghệ dân gian Quảng Nam – Đà Nẵng”
(2008) của tác giả Võ Văn Hòe, Nxb Đà Nẵng đã khảo tả chi tiết về quá trình hình
thành, phát triển, thể loại và đặc điểm của các loại hình nghệ thuật diễn xướng của
đất Quảng. Tác phẩm “Tìm hiểu con người xứ Quảng” (2004) do Nguyên Ngọc chủ
biên, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Nam xuất bản, đã phản ảnh những nét cơ bản
về con người Quảng Nam trong hoạt động kinh tế, chính trị, văn hố, văn nghệ qua
nhiều thế hệ.
Phố cổ Hội An, cái tên dường như đã quá quen thuộc đối với khơng chỉ du
khách trong và ngồi nước mà còn là một đối tượng nghiên cứu hấp dẫn đối với các


9
học giả, các nhà khoa học, đặc biệt là mảng đề tài về văn hóa – văn nghệ dân gian
Hội An, với các cơng trình nghiên cứu tiêu biểu như “Di sản văn hóa văn nghệ dân
gian Hội An” (2005) của tác giả Trần Văn An; tác phẩm “Văn hóa phi vật thể ở Hội

An” (2005) do Bùi Quang Thắng chủ biên, Nxb Thế giới; tác phẩm “Di sản văn
hóa Hội An – nhìn lại một chặng đường” (2009) do Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di
tích Hội An phát hành.
Mặc dù tiềm năng là rất lớn nhưng đối với vấn đề đưa nghệ thuật diễn xướng
dân gian vào phát triển du lịch ở Hội An hầu như chưa có một cơng trình nào
nghiên cứu một cách cụ thể, bài bản. Mới chỉ xuất hiện một vài bài báo giới thiệu
đôi nét về việc khai thác nghệ thuật diễn xướng dân gian vào phát triển du lịch như
tác giả Lê Hiền với bài báo “Hội An - Bảo tồn nghệ thuật cổ truyền gắn kết với du
lịch”, đăng trên Bản tin Diễn đàn Nhân dân Quảng Nam – số 28 (2013). Tuy vậy,
những tài liệu trên đây chính là cơ sở, là nền tảng để tôi học tập, tham khảo hồn
thành tốt cơng trình nghiên cứu của mình.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu về thực trạng chung của ngành du lịch Hội An hiện nay, thơng qua
đó đánh giá được khả năng khai thác các giá trị của nghệ thuật diễn xướng dân gian
vào phát triển du lịch. Để làm được điều này, trước hết cần tìm hiểu về quá trình
hình thành, sự đa dạng, phong phú và các giá trị của nghệ thuật diễn xướng dân gian
ở Hội An.
Khái quát thực trạng của việc khai thác nghệ thuật diễn xướng dân gian vào
phát triển du lịch ở Hội An hiện nay. Từ đó, thấy được những thuận lợi, khó khăn
để có những giải pháp phù hợp, vừa bảo tồn, vừa khai thác tốt các các giá trị của
nghệ thuật diễn xướng dân gian.
4.
4.1.

ối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
ối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là nghệ thuật diễn xướng dân gian ở

Hội An, thông qua một số loại hình tiêu biểu như: nghệ thuật tuồng, nghệ thuật bài
chòi, hát sắc bùa, múa Thiên cẩu, hát bả trạo, biểu diễn du hồ,… và loại hình nào có

thể khai thác vào phát triển du lịch. Đồng thời, đề xuất các giải pháp bảo tồn và phát
huy các giá trị của nghệ thuật diễn xướng dân gian gắn với phát triển du lịch ở Hội
An.


10
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi thời gian
Giới hạn về mặt thời gian của đề tài là từ khi nghệ thuật diễn xướng dân gian ở
Hội An hình thành và phát triển cho đến ngày nay (vào khoảng cuối thế kỷ XVIII
đầu thế kỷ XIX đến ngày nay).
- Phạm vi không gian
Phạm vi không gian của đề tài là tìm hiểu các giá trị của nghệ thuật diễn
xướng dân gian trên địa bàn thành phố Hội An.
5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tư liệu
Để thực hiện đề tài này, tôi đã sử dụng các nguồn tư liệu sau:
- Tư liệu thành văn: Đây là nguồn tư liệu cung cấp những kiến thức nền tảng, cơ
sở lý thuyết thơng qua sách, báo, tạp lý, cơng trình nghiên cứu, khóa luận tốt
nghiệp, các báo cáo khoa học, các Website điện tử…
- Tư liệu điền dã: Thông qua những tư liệu điền dã giúp tơi có cái nhìn chính
xác và chân thực hơn, kiểm chứng được cơ sở lý thuyết có đúng với thực tế hay
khơng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập, tổng hợp, phân tích
Phương pháp này được sử dụng nhằm tổng hợp, phân tích các tư liệu, thông
tin liên quan đến đề tài giúp chủ thể khái qt hóa, mơ hình hóa các vấn đề nghiên
cứu đạt được mục tiêu đề ra. Nguồn tư liệu sau khi được thu thập sẽ tiến hành phân
tích, thống kê, đánh giá để tìm ra tính tồn vẹn, phát hiện ra các mối liên hệ giữa
các vấn đề liên quan.

- Phương pháp thực địa
Sử dụng phương pháp này để lấy được các số liệu, thông tin phục vụ cho việc
trình bày luận cứ, đồng thời kiểm nghiệm độ chính xác để kết quả nghiên cứu có
tính thuyết phục. Từ đó, chọn lọc những thơng tin chính xác, đầy đủ phục vụ cho
việc nghiên cứu đề tài. Phương pháp này đóng vai trị quan trọng, ảnh hưởng đến độ
chính xác của đề tài.


11
- Phương pháp điều tra, phỏng vấn
Quá trình nghiên cứu đề tài rất cần những ý kiến đóng góp của người dân địa
phương, khách du lịch, cơ quan quản lý,… chính vì vậy tơi chọn phương pháp điều
tra nhằm mục đích tổng hợp ý kiến của mọi tầng lớp một cách khách quan nhất để
đề tài hồn thiện hơn. Hình thức: phỏng vấn trực tiếp hay thông qua phiếu điều tra.
6.

óng góp của đề tài
- Về mặt khoa học: Giúp người dân hiểu rõ hơn về ý nghĩa của nghệ thuật diễn

xướng dân gian trong cuộc sống cũng như đối với vấn đề phát triển du lịch địa
phương để từ đó có cái nhìn và hành động đúng đối với loại hình này.
Đề tài hồn thành sẽ là cơ sở để chính quyền địa phương, các nhà quản lý, các
cơng ty lữ hành, du lịch đưa ra những chiến lược và giải pháp phát triển du lịch gắn
với loại hình nghệ thuật này cho phù hợp.
- Về thực tiễn
Thông qua đề tài sẽ đề xuất một số giải pháp nhằm bảo tồn, phát huy nghệ
thuật diễn xướng dân gian cũng như gắn nghệ thuật diễn xướng dân gian với việc
phát triển du lịch ở Hội An, góp phần quảng bá hình ảnh thành phố Hội An đến với
bạn bè quốc tế. Đồng thời, đề tài góp thêm tư liệu tham khảo cho những ai quan
tâm, muốn tìm hiểu đến vấn đề này.

7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, đề tài gồm có 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn
Chương 2: Thực trạng khai thác nghệ thuật diễn xướng dân gian vào phát triển
du lịch ở Hội An
Chương 3: Một số giải pháp nhằm khai thác hiệu quả nghệ thuật diễn xướng
dân gian vào phát triển du lịch ở Hội An


12

PHẦN NỘI DUNG
ƢƠ

1: Ơ Ở LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. Nghệ thuật diễn xƣớng dân gian Việt Nam
1.1.1. Quan niệm v diễn xướng
Diễn xướng là thuật ngữ được dùng khá quen thuộc trong nghiên cứu văn học
nghệ thuật và đặc biệt là trong nghiên cứu văn học, văn hoá dân gian. Song, trong
quá trình nhận diện, nhiều vấn đề liên quan đến thuật ngữ này còn chưa thật sự
thống nhất.
Tác giả Lê Trung Vũ trong bài viết Từ diễn xướng truyền thống đến nghệ
thuật sân khấu đã xác định: “Diễn xướng vừa là hình thức sinh hoạt văn hóa xã hội
định kỳ (như Hội Gióng, Hội Xoan, Hội chùa Keo, Lễ mở đường cày đầu năm…)
quy mô làng xã; lại vừa là hình thái sinh hoạt văn hóa xã hội không định kỳ, nhưng
định lệ (lễ làm nhà mới, đám cưới, đám tang, lễ thành niên, lễ thượng thọ…) quy
mô một gia đình hoặc việc của một người; lại cũng vừa là lối trình diễn rất tự nhiên
khơng định kỳ cũng không định lệ mà do nhu cầu sinh hoạt, lao động (Ru con, hát

trong lúc lao động, vì lao động hoặc để giải trí)…”[54, tr.35-36]. Tác giả Lê Trung
Vũ cịn lưu ý rằng đã gọi là diễn xướng thì thường phải có diễn (múa, động tác, âm
nhạc) và xướng (nói, ngâm ngợi, ca hát).
Hội nghị khoa học chuyên đề Mối quan hệ giữa diễn xướng dân gian với nghệ
thuật sân khấu cũng đưa ra khái niệm: “Diễn xướng dân gian là hình thức sinh hoạt
văn nghệ của nhân dân gắn bó chặt chẽ với cuộc sống vật chất và tinh thần của
nhân dân trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Diễn xướng dân gian là cái nôi
sinh thành của nền văn nghệ dân tộc, có quan hệ mật thiết với hầu hết các bộ môn
nghệ thuật dân tộc trước cũng như sau khi chúng trở thành những bộ môn riêng
biệt”[37, tr.120].
Bàn về khái niệm này, nhà nghiên cứu Hồng Tiến Tựu cho rằng: “Nói diễn
xướng dân gian là hình thức sinh hoạt văn nghệ của nhân dân…, là cái nôi sinh
thành của nền văn nghệ dân tộc” là đúng nhưng chưa đủ và nhất là chưa rõ. Bởi
nhân dân đã làm ra nhiều hình thức văn nghệ khác nhau. Vậy thì diễn xướng dân
gian là hình thức văn nghệ nào của nhân dân? Nghệ thuật sân khấu dân gian có
thuộc phạm trù diễn xướng dân gian khơng hay thuộc về nghệ thuật sân khấu? Các
hình thức sáng tác dân gian khác ít mang tính chất diễn xướng hơn như tục ngữ, câu


13
đố, ca dao, truyện kể… có phải là thành phần của diễn xướng không hay diễn xướng
dân gian chỉ bao gồm những hình thức văn nghệ đậm tính diễn xướng như các thể
loại ca vũ và trò diễn dân gian?. Theo ơng, thuật ngữ diễn xướng dân gian có thể và
cần được hiểu với hai nghĩa rộng và hẹp khác nhau. Với nghĩa rộng, diễn xướng dân
gian là tất cả mọi hình thức biểu diễn (hay diễn xướng) và ít hoặc nhiều đều mang
tính chất tổng hợp tự nhiên, (hay tính chất nguyên hợp) mà lâu nay ta quen gọi là
văn học dân gian; cịn nghĩa hẹp nó chỉ bao gồm các thể loại diễn (như trò diễn, trò
tế lễ dân gian...)[48, tr.64-67].
Theo Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) đã định nghĩa diễn xướng một
cách ngắn gọn là “Trình bày các sáng tác dân gian bằng lời lẽ, âm thanh, nhịp

điệu”[38, tr.85].
Nhà nghiên cứu Richard Bauman trong công trình Nghệ thuật ngơn từ truyền
miệng như một hình thức diễn xướng đã khẳng định: “Về cơ bản, sự diễn xướng với
tư cách một phương thức thông tin bằng miệng bao gồm cả giả thiết về trách nhiệm
trước thính giả về một sự thể hiện năng lực truyền đạt. Năng lực này nằm ở chỗ
kiến thức và khả năng nói theo những cách thích hợp về mặt xã hội (...) Như vậy sự
diễn xướng thu hút sự chú ý đặc biệt và nhận thức được nâng cao về hành động
biểu đạt và cấp phép cho thính giả xem hành động biểu đạt và người thực hiện với
một cường độ đặc biệt”. Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của khái niệm diễn xướng
và cho rằng: “... Có vẻ đã đến lúc thích hợp cho những nỗ lực nhằm mở rộng nội
hàm khái niệm của sự diễn xướng mang tính Folklore như một hiện tượng thông tin,
vượt ra cái ứng dụng phổ biến đã đưa chúng ta đạt đến điểm này”[32, tr.744-745;
771; 783].
Mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau nhưng nhìn chung các nhà nghiên cứu đã
đưa đến một sự thống nhất cơ bản về nội hàm khái niệm diễn xướng như sau: “Diễn
xướng là sự liên kết, gắn bó tất cả mọi người tham gia, hình thành nên cộng đồng
bền vững với ý thức cùng chung sống”. Như vậy, diễn xướng mang tính ngun hợp
khơng phân tách, gồm hai thành tố cơ bản đặc hữu cùng tham gia:
- Diễn: Hành động xảy ra.
- Xướng: Hát lên, ca lên.


14
1.1.2. Q trình hình thành và phát triển
Âm nhạc nói chung, nghệ thuật diễn xướng Việt Nam nói riêng đã được hình
thành và phát triển từ rất xa xưa với nhiều thể loại đặc sắc và có giá trị như chính
tác giả Tơ Vũ đã khẳng định: “Việt Nam ta có một nền văn hóa âm nhạc có bản sắc
độc đáo và có lịch sử lâu đời. Đó khơng phải là một nhận xét mới lạ và cũng chẳng
phải là điều chúng ta tự phong”[53, tr.14].
Theo những tài liệu thành văn và khảo cổ, nền âm nhạc cổ truyền Việt Nam đã

được định hình từ thời đại Hùng Vương gắn với nền văn minh Văn Lang – Âu lạc.
Cư dân nước Văn Lang và sau này là Âu Lạc được biết đến như những người “yêu
nghệ thuật” và có “tài sáng tạo nghệ thuật” [21, tr.252-262]. Nhiều hiện vật được
khai quật thời kỳ này đã chứng minh người Việt cổ đã biết chế tạo và sử dụng nhạc
cụ từ khá sớm. Điểm thể hiện rõ nhất điều đó chính là chiếc trống đồng. Trên trống
đồng Đơng Sơn ở Thanh Hóa, những người múa thường được phục trang bằng
những bộ quần áo như: mũ lông chim cao hoặc mặt nạ, tay đơi khi cầm vũ khí. Mỗi
tốp người múa thường có từ 3, 4 hoặc 6 đến 7 người. Trong tốp này có người thổi
khèn cịn những người cịn lại biểu hiện theo một động tác thống nhất, chuyển động
từ trái sang phải, người sau nối tiếp người trước một quãng đều đặn, tất cả điều
hành vịng quanh ngơi sao (mặt trời). Các hình ảnh miêu tả vũ hội hóa trang trên
trống đồng Đông Sơn đã cho thấy thời điểm ra đời của diễn xướng dân gian nơi đây
trên hai ngàn năm.
Nhà bác học Lê Quý Đôn trong “Kiến văn tiểu lục” đã khái quát các loại hình
diễn xướng dân gian vào thời Lý Trần – thời kỳ cực thịnh của văn hóa dân tộc – đây
là thời kỳ diễn xướng dân gian có điều kiện phát triển mạnh, tác phẩm cho biết:
triều đình nhà Trần đã cho kể tên các trị diễn xướng dân gian (trị Ngơ, mẹ Đĩ, đánh
vật, đá cầu,…) vào “Lễ Bộ chương” và trong thế kỷ XII – XIII diễn xướng văn hóa
dân gian rất phong phú. Tác phẩm còn cho biết thời Tiền Lê, diễn xướng được triều
đình sử dụng trong các nghi thức ngoại giao.
Trong “Sứ giao tập”, Trần Đình Cương ghi rằng: vua Lê Hoàn đã cùng nhảy
múa với các nghệ nhân trong buổi tiếp sứ nhà Tống. Thời Lê, có hai khúc vũ nhạc
ghi trong lịch sử văn học nghệ thuật Việt Nam là “Bình Ngơ phá trận” và “Chư hầu
lai triều” được xem là có nghệ thuật diễn xướng độc đáo.


15
Thời kỳ Lý – Trần – Lê có thể được xem là thời kỳ phát triển huy hoàng của
âm nhạc truyền thống Việt Nam, trong đó có nghệ thuật diễn xướng dân gian. Đây
cũng là thời kỳ âm nhạc truyền thống nước ta chịu ảnh hưởng khá lớn của nền âm

nhạc Chămpa. Năm 1060, vua Lý Thánh Tông đã cho dịch các khúc nhạc Chămpa
cho nhạc công hát: “Đại Việt sử ký có chép rằng ở triều Lý vua khiến nhạc công đặt
nhạc khúc gọi là điệu Chiêm Thành, tiếng trong trẻo mà ai ốn thảm thương, ngâm
nghe phải khóc” [2, tr.314].
Sau này, đến thời nhà Nguyễn, khi chúa Tiên Nguyễn Hồng vào Nam (1558),
sự giao lưu, hịa quyện giữa âm nhạc Việt – Chăm ngày càng rõ nét: “Âm nhạc ở
Bắc truyền vào đã chịu ngay ảnh hưởng của âm nhạc Chiêm Thành mà thành
những khúc nhạc cung nam mà người ta hay đem đối với các cung bắc” [2, tr.317].
Âm nhạc xứ Đàng Trong phát triển khá mạnh, được nhiều nhà quý tộc, điền chủ ở
Nam Bộ ưa thích.
Thế kỷ XIX – thời kỳ đầy biến động của xã hội Việt Nam dưới triều Nguyễn,
các cuộc khởi nghĩa nông dân diễn ra ở khắp nơi cùng với cuộc xâm chiếm thuộc
địa của thực dân Pháp vào cuối thế kỷ, âm nhạc truyền thống Việt Nam cũng vì vậy
mà đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Tuy vậy, âm nhạc truyền thống nước ta
cũng đạt được những thành tựu to lớn trong thời kỳ này với sự hình thành loại hình
âm nhạc cung đình Huế và nghệ thuật cải lương trên cơ sở kế thừa đờn ca tài tử, ca
ra bộ cùng với sự tiếp thu một số yếu tố âm nhạc Quảng Đông (Trung Quốc).
Đầu thế kỷ XX, chiến dịch bình định về tinh thần của thực dân Pháp được tiến
hành với hy vọng đẩy lùi những ảnh hưởng của nho giáo và đẩy mạnh việc tuyên
truyền văn hóa Pháp. Từ đây, văn hóa phương Tây, đặc biệt là văn hóa Pháp bắt đầu
xâm nhập vào nước ta mạnh mẽ dẫn tới sự ra đời của một loại hình ca nhạc mới, đó
là âm nhạc cải cách – tân nhạc nền tảng của âm nhạc Việt Nam đương đại.
Trước sự thay đổi lớn lao và sâu sắc trong tồn bộ xã hội Việt Nam thì nền âm
nhạc cổ truyền nhất là sân khấu Chèo, ả đào,… đã chịu sự biến đổi đáng kể. Trong
xã hội cũng hình thành thêm một số loại ca kịch dân tộc mới dựa trên vốn nghệ
thuật âm nhạc có sẵn của dân tộc kết hợp với phần nào những yếu tố mới của
phương Tây.
Tuy đứng trước những thay đổi to lớn về tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội và những ảnh hưởng của các nền văn hóa ngoại lai, nhưng bản lĩnh của âm



16
nhạc cổ truyền vẫn tiếp tục được phát huy như chính Giáo sư, nhạc sĩ Tơ Vũ đã
khẳng định: “Cứ mỗi lần đọ sức với âm nhạc ngoại lai, âm nhạc truyền thống Việt
Nam lại tìm thấy sức mạnh tiềm tàng để tự bảo vệ, tự cải tạo và nâng cao trình độ
của mình lên một bước” [53, tr.24].
Trải qua bao biến thiên cũng với những thăng trầm của lịch sử, âm nhạc truyền
thống Việt Nam nói chung và nghệ thuật diễn xướng dân gian nói riêng vẫn chứng
minh được sức sống tiềm tàng, mãnh liệt mặc cho chiến tranh loạn lạc cùng những
chính sách đồng hóa của kẻ thù. Ngày nay, đứng trước xu thế tồn cầu hóa, mở cửa
hội nhập, Đảng và Nhà nước ta đã có những đường lối đúng đắn nhằm khôi phục,
phát huy và bảo tồn các giá trị của âm nhạc truyền thống trước những ảnh hưởng
của các nền văn hóa khác.
1.1.3. Phân loại nghệ thuật diễn xướng dân gian Việt Nam
Nghệ thuật diễn xướng Việt Nam khơng chỉ đa dạng về loại hình mà cịn ở các
lối diễn xướng, mỗi loại hình đều có những lối diễn xướng khác nhau. Chính vì vậy,
trong quá trình nhận diện, phân loại nghệ thuật diễn xướng cịn chưa đạt được sự
thống nhất.
Theo Lê Trung Vũ, có thể phân loại diễn xướng dựa vào chủ đề và quy cách.
Dựa vào chủ đề, diễn xướng được chia thành hai loại theo hai nội dung lớn của xã
hội là dựng nước và giữ nước. Diễn xướng theo chủ đề dựng nước lại có thể chia
thành hai loại nhỏ là sản xuất và sinh hoạt. Dựa vào quy cách tiến hành diễn
xướng, có thể chia diễn xướng thành diễn xướng tự nhiên, tự do (Thường là hát
không động tác hoặc động tác đơn giản, không kèm tập tục, nghi lễ) và diễn xướng
định kỳ, định lệ (phức tạp về thành phần cấu tạo, đa dạng về nội dung, theo quy
cách nhất định)[54, tr.35-36].
Hoàng Tiến Tựu lại chia diễn xướng dân gian thành 4 loại: nói, kể, hát, diễn
tương ứng với 4 phương thức phản ánh chủ yếu của văn học dân gian là suy lý, tự
sự, trữ tình, kịch [48, tr.64-67].
1.2. Nghệ thuật diễn xƣớng dân gian ở Hội An

Người Hội An vốn giàu truyền thống văn hoá lại sớm giao lưu với thế giới bên
ngồi, khơng biết tự bao giờ đã hình thành một bản sắc văn hố độc đáo riêng và
được giữ gìn, bảo tồn qua bao thế hệ cho đến hôm nay. Cuộc sống của con người
nơi đây thiên về nội tâm, phảng phất nét trầm lắng. Với họ đô thị Hội An như một


17
mái nhà lớn cổ kính mà trong đó đang chung sống một đại gia đình đơng đúc con
cháu với những người thị dân hiền hoà gần gũi và hiếu khách; những chủ gia đình
ân cần, thân thiện; những phụ nữ dịu dàng, khéo tay, nhân hậu; những trẻ em lễ độ,
ngoan ngỗn... tạo nên một cộng đồng cư dân hồ thuận, sống bình dị, êm đềm bên
nhau qua bao thế hệ và cứ như vậy tiếp nối.
Cuộc sống đã bao đổi thay qua năm tháng nhưng người Hội An không bị mất
đi những điệu hị quen thuộc, những hình thức diễn xướng, đó là kết tinh từ q
trình lao động của cư dân địa phương, ngày nay vẫn được gìn giữ và là một phần
quan trọng trong đời sống tinh thần nơi đây. Nghệ thuật diễn xướng dân gian ở Hội
An rất đa dạng, phong phú với nhiều thể loại, nhưng nhìn chung có hai nhóm chính
là các thể loại diễn xướng dân gian gắn với tín ngưỡng, lễ hội truyền thống và các
thể loại diễn xướng dân gian gắn với hoạt động vui chơi giải trí.
1.2.1. Các thể loại diễn xướng dân gian gắn với tín ngưỡng, lễ hội truy n thống
Nằm ở trung tâm duyên hải Miền Trung, với điều kiện tự nhiên và xã hội
thuận lợi, từ giữa cuối thế kỷ XV, đất Quảng Nam đã là nơi tụ hội, sinh cư lập
nghiệp của người Việt với những làng quê trù phú, có bản sắc văn hóa riêng của
vùng đất và con người xứ Quảng, trong đó nét đặc sắc được tập trung ở các giá trị
văn hóa tín ngưỡng, lễ hội. Đến với lễ hội Quảng Nam, cộng đồng vừa muốn gửi
gắm, bộc lộ những ý nguyện cá nhân, giải tỏa về tinh thần, tâm linh, tín ngưỡng và
để giao tiếp xã hội, thể hiện thái độ của trần thế với thần linh mà con người tin
tưởng, phụng thờ nhân tố bảo trợ cuộc sống an bình của cá nhân và cộng đồng.
Trong các lễ hội, sinh hoạt đó, có một số loại hình nghệ thuật diễn xướng dân
gian không thể thiếu, trở thành một phần quan trọng. Hát bả trạo, hò đưa linh, hát

sắc bùa và múa Thiên Cẩu là một trong số đó.
- Hát bả trạo
Hát (hay Hị, Hát Múa…) Bả Trạo là hình thức diễn xướng dân gian được ngư
dân làm nghề biển nước ta truyền bá, duy trì trong tâm thức, trong đời sống văn hoá
tinh thần của họ cho đến ngày nay. Hát Bả trạo ở Hội An cũng được hình thành từ
bao đời và được gìn giữ cho đến nay còn khá nguyên vẹn.
Theo cách lý giải của những ngư dân cao tuổi thì bả có nghĩa là bạn, cịn trạo
có nghĩa là chèo, bả trạo có nghĩa là bạn chèo. Cũng có cách lý giải khác, bả tức là
cầm chắc, cịn trạo có nghĩa là mái chèo, bả trạo có nghĩa là cầm chắc mái chèo.


18
Về xuất xứ của hát bả trạo, nhiều ý kiến thống nhất cho rằng hát bả trạo có liên
quan về nguồn gốc với hát chèo ở miền Bắc, khi theo chân các đoàn người Việt về
phương Nam đã tiếp nhận nhiều ảnh hưởng, biến đổi để trở thành hát bả trạo.
Con thuyền chèo hát Bả Trạo được bố trí như con thuyền thật dưới nước, một
đội chèo gồm 3 Tổng chính: Tổng Tiền (Người ở phía trước mũi thuyền, đóng vai
trò một trưởng ban điều khiển con thuyền “Tổng Mũi”), Tổng Thương (Người ở
dưới khoang thuyền lo bề củi, nước,…“Tổng Khoang”), Tổng Lái (Người ở phía
sau đi để lái con thuyền, và là người có vai trị nhắc nhở các Tổng trong suốt
cuộc hành trình đi biển), và một Tổng phụ cịn gọi là Tổng Khậu (Người đóng vai
trị đi chợ, cúng mẹ ). Đội chèo thuyền gồm có từ 12 đến 16 Con trạo đứng hai bên
mạng thuyền. Ở Phước Hải (Cẩm An - Hội An) nhiều con trạo là nữ vị thành niên,
theo tục lệ của người xưa để lại; nam, nữ trạo phải là những người chưa nếm mùi
tục luỵ, chưa lập gia đình, nghĩa là bảo đảm sự “vô nhiễm” trước đấng thần linh.
Mở đầu là màn hát múa rước linh Ông, trong giai điệu Tán rất nghiêm trang.
“Lò hương ngui(nghi) ngút/ cảnh vật thảnh thơi
Biển Đông minh giúp đỡ nơi nơi
Thần Nam Hải oai phong lẫm lẫm
Cơng tế độ đáng thêu bìa gấm

Cõi vơ thường cịn động lịng vàng
Cảnh án diên có vạn có làng
Xin chúng đẳng chỉnh tề bái yết…”
Đội Bả Trạo làm nghi thức bái lạy, sau đó cuộc hát Bả Trạo được tiến hành.
Các “Tổng” xướng, hát,… thông qua các làn điệu, các lối Nói - Hát, cịn những con
trạo thì hị theo và đồng thời thể hiện động tác chèo thuyền theo nhịp hết sức rập
ràng.
“Chúng con một dạ kính thành
Hát hò cho rập theo đường chèo bơi
Hò là hò hỡi lơ…”
Nội dung màn múa hát Bả Trạo mang đậm màu sắc tín ngưỡng Phật giáo, ca
ngợi thần, Phật đã có công “cứu khổ cứu nạn”, ca ngợi công đức thần Nam Hải
Ngọc Lân, cầu cho sự “cứu hộ độ sinh” của Ngư Ơng và cùng hị đưa âm linh của


19
những linh hồn oan nghiệp, những người bạn cũ (Lái xưa) không may mắn bỏ mạng
trên biển được về miền cực lạc.
“Giúp người thật đã có cơng
Da đen/ lịng đỏ/ đức rồng/ tánh (tính) lân…”
Ngồi ra, lời ca cịn thể hiện q trình đấu tranh của con người trước sóng gió,
tinh thần dũng cảm, lạc quan, tinh thần đồn kết trong lao động của ngư dân làm
nghề biển. Màu sắc của màn diễn xướng tuy mang đậm yếu tố cúng bái, cầu khẩn
tâm linh, nhưng lại chất chứa tinh thần nhân đạo cao cả, sâu rộng.
“Thập loại chúng sinh
…những người nghĩa khí tài ba
gặp cơn nước loạn đến ra liều mình
những người truyền bá linh đinh
gặp cơn sóng lớn hải lành rước thay…”
Một kịch bản hát Bả Trạo cũng có các phần như nghệ thuật sân khấu Tuồng

chính thống, cũng có giáo đầu, có phát triển, và giải quyết kịch tính rồi về kết. Yếu
tố kịch tính ở đây đơn giản hơn trong nghệ thuật sân khấu Tuồng, chỉ có một mâu
thuẫn đó là giữa sự chống chọi giữa Con người với Bão tố. Tái hiện cảnh thuyền
gặp bão tố, ngư dân phải ra sức chống chọi để vượt qua gian nguy, đây là giai đoạn
cao trào duy nhất trong màn diễn xướng. Trong những lúc thuyền gặp nạn, khó khăn
như vậy, tổng Thương là người đóng vai trị thường xuyên tạo nên kịch tính. Để tạo
sự phong phú về hành động kịch, để khơng khí biểu diễn bớt nặng nề, căng thẳng,
tổng Thương thường chen vào những câu nói hài hước, những hành động gây cười
“khi đi câu, khi tát nước, khi ngủ quên, khi đi chợ,…”, ở đâu, vai trị nào, tổng
Thương cũng thể hiện tính lạc quan, nghịch ngợm, linh hoạt và vui nhộn. Đây cũng
là yếu tố mang sắc thái văn hoá riêng, thể hiện tinh thần lạc quan của ngư dân làm
nghề biển, mặc dầu nghề biển là cái nghề mà người ta hay gọi là “hồn treo cột
buồm”, nghề mà may ít rủi nhiều cho sinh mạng con người.
- Hò đưa linh
Một trong những nét văn hóa mang tính truyền thống của nhân dân ta là những
tập tục dành cho người chết. Sự chia cắt vĩnh viễn giữa người sống với một người
thân trong gia đình mất đi đã gây nên nỗi đau đớn khơng gì lấp được. Thay bằng
quan niệm xa cách vĩnh viễn, người ta tiễn đưa người chết về nơi “cực lạc”.


20
“Sinh kí tử quy”, với người dân xứ Quảng, việc tang là việc quan trọng. Khi
trong tộc, trong làng có người mất, mọi người cùng chung tay giúp đỡ. Kẻ che rạp,
người đi chợ, người sửa soạn trong nhà. Việc buồn của một gia đình đã trở thành
việc chung của cả làng xóm. Tính cộng đồng tương trợ và sự đoàn kết yêu thương
nhau đã được biểu hiện trong việc tang của người Quảng Nam Đà Nẵng.
Trong lễ tang truyền thống ở Quảng Nam – Đà Nẵng, một điều không thể
thiếu chính là đội âm cơng trình diện với nhiệm vụ khiêng cỗ áo quan và linh xa đến
địa điểm chôn cất để làm lễ hạ rộng. Đội âm công gồm trai tráng trong làng được
nhóm họp khi có người chết. Hiệu lệnh nhóm họp là tiếng thanh la, chỉ huy đội là

Tổng Sinh (ơng Tổng) có 3 vị đầu roi giúp đỡ. Trang phục của ông Tổng thường
nhiều màu sắc như trang phục hát bội, trang điểm khuôn mặt rất kỹ; trang phục của
đội âm cơng thì tùy từng địa phương, thường thì đầu roi mặc áo vàng, những người
cịn lại mặc áo xanh. Trong lễ trình diện, Tổng sinh biểu diễn điệu hò đưa linh nhằm
tiễn đưa linh hồn người chết về cõi vĩnh hằng.
Là xứ sở của đạo Phật nên giáo lý nhà Phật ít nhiều cũng có ảnh hưởng đến
đời sống nhân dân ta. Giáo lý Phật giáo cho rằng khi chết đi, con người phải đi qua
chuyến đò Bát Nhã để đi đến Bến Giác, vào cõi Niết Bàn. Tập tục phạn hàm cho
người chết cũng có xuất xứ từ điểm này khi cho tiền, vàng vào miệng người chết
trước khi liệm để có tiền đi đường và qua đị. Từ ý nghĩa đó, tục hò đưa linh ra đời
để đáp ứng nguyện vọng mong cầu cho người chết sớm vào cõi Niết Bàn, đưa vong
linh người chết qua chuyến đò cuối cùng của cuộc đời. Đó cũng chính là lý do ra
đời của loại hình nghệ thuật âm nhạc cổ truyền độc đáo này.
Những câu hị trong hị đưa linh có nội dung kể lại cơng cha nghĩa mẹ sinh
thành, thể hiện lịng biết ơn của con cháu đối với ông bà, cha mẹ, kể nỗi lòng sầu bi
của con cháu khi phải chia tay cha mẹ, ơng bà. Những câu hị nhằm tiễn đưa người
đã mất về nơi an nghỉ cuối cùng một cách sn sẻ. Trong bài hị có một đoạn nói về
nỗi lòng của con cháu với người đã khuất:
“Chia tay kẻ ở người đi
Lòng nào mà chẳng sầu bi não nề
Nay sinh từ giã thân kỳ
Đưa linh một khúc mà về
tây phương...”


21
Hò đưa linh là một lối hò rất độc đáo thể hiện tầm cao sinh hoạt văn hóa dân
gian ở Quảng Nam, chứa đựng linh hồn của cuộc sống cư dân ven biển. Tính độc
đáo ấy tốt ra từ sự tinh tế trong vận dụng một loại hình sinh hoạt văn hóa có tính lễ
hội vào trong đám tang.

- Hát sắc bùa
Mỗi khi Tết đến, xuân về, cũng như nhiều địa phương khác, người xứ Quảng
lại tưng bừng đón năm mới. Bên cạnh việc sắm sửa bánh, trái, thịt... họ lại háo hức
tham gia nhiều hoạt động văn hóa văn nghệ, vui chơi truyền thống như đánh bài
chòi, xem hát bội, hát sắc bùa… Thế nên, ở nhiều làng quê xứ Quảng, hình ảnh đội
sắc bùa ngày Tết với khăn đóng áo dài, đem theo trống cơm, sinh tiền, phách tre,
phía trước có một người xách chiếc lồng đèn bằng giấy, hình tam giác, thắp bằng
dầu phụng, dưới có bốn tua đủ màu sắc, đi chúc Tết khắp làng trên xóm dưới trở
thành quen thuộc với người dân ở mảnh đất nổi tiếng “chưa mưa đã thấm” này.
“Sắc bùa là sắc bùa âu,
Mong cho năm mới ăn xôi với chè
Sắc bùa là sắc bùa hòe,
Mong cho năm mới ăn chè với xơi!”
Giải thích tên gọi “Sắc bùa”, nhạc sĩ Trần Hồng trong tác phẩm “Hát sắc
bùa”, đã lý giải “sắc” là lệnh của nhà vua ban ra, như ban phước cho quân thần,
“bùa” là lá bùa để trừ ma quỷ, chúc mừng năm mới an khang thịnh vượng, “Sắc
bùa” nghĩa là một sắc lệnh ban ra bằng lá bùa viết, vẽ trên giấy nhằm trừ ma yểm
quỷ, độ trì, hộ mạng cho con cháu, cầu chúc cho gia đình ln mạnh khỏe, thịnh
vượng.
Qua các tài liệu từ gia phả của các dịng họ có truyền thống lâu đời về loại
hình sinh hoạt văn hóa văn nghệ dân gian ở Quảng Nam, có thể khẳng định hát sắc
bùa xứ Quảng có nguồn gốc từ Bắc Trung Bộ, cụ thể từ vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh
và Thừa Thiên Huế.
Một gánh hát sắc bùa thường cha truyền con nối. Hát sắc bùa gồm rất nhiều
bài chúc phù hợp với mỗi gia đình, từ nghề biển, nghề mộc, nghề nuôi tằm dệt vải
đến nghề rèn, thầy thuốc, nghề nơng,… làm vừa lịng tất cả gia chủ. Đội hát sắc bùa
thường được gia chủ thưởng tiền, bánh trái, đầu heo để chúc mừng.


22

Quy trình hát sắc bùa thường gồm các bước Đến ngõ, Mở cửa, Mở ngõ, Chúc
tết, Chúc mừng gia chủ, Mừng tuổi ông bà, Trừ tà, Trấn bùa, Cầu an chủ nhà, Giã
từ và Đi ra. Không gian hát sắc bùa đầy màu sắc và âm thanh. Những câu hát sắc
bùa ngồi ý nghĩa trừ tà, chúc tụng cịn có tính khuyên răn, giáo dục rất ngắn gọn,
dễ nhớ, dễ thuộc.
Một đội hát sắc bùa thường có 8 nam, 8 nữ, 1 ông cái, 4 nhạc công (trống, kèn,
nhị, sáo), tổng cộng 21 người, có khi ít hơn. Trang phục hát sắc bùa thường rất sặc
sỡ gồm nhiều màu sắc tươi vui. Trong hát sắc bùa thường sử dụng các làn điệu, bài
bản như vè, đồng dao, lơ tơ, hị, lý, nói lối, kể, xướng, bài tạ.
Nội dung các lá bùa chúc tụng trong hát sắc bùa tùy theo mỗi gia đình, nghề
nghiệp mà có sự khác nhau, thường được viết bằng chữ Hán như Thần Nông Hộ
Vận, Thần Ngư Phù Trợ, Phước Lộc Thọ, Kính Chúc Tân Xuân, Kính Chúc Gia
Chủ Nông Tang Đắc Lợi, Trường Sinh Vạn Tuế,…
Ngày nay, sau bao vật đổi sao dời, cũng như hát bài chòi, hát bội… hát sắc bùa
xứ Quảng cũng đứng trước nguy cơ mai một. Tuy nhiên, ở một vài nơi như Duy
Xuyên, Hội An sắc bùa vẫn còn là loại hình sinh hoạt văn hóa văn nghệ dân gian
hấp dẫn với cư dân địa phương. Nhờ vậy, mỗi lần Tết đến, xuân về, các đội sắc bùa
lại háo hức luyện tập. Để rồi, trong ba ngày Tết Nguyên đán, khi màn đêm bắt đầu
buông xuống, trên các ngả đường quê, người ta lại thấy đội sắc bùa trong trang phục
khăn đóng, áo dài vỗ trống, nổi nhịp sinh tiền… Từ xa, khơng khí bỗng trở nên sơi
nổi, rộn ràng khi đội sắc bùa cất cao giọng hát.
- Múa Thiên Cẩu
Múa Thiên cẩu là thể loại múa lân đặc thù của nhân dân Hội An, xuất hiện lần
đầu tiên vào dịp Tết Trung thu khoảng năm 1940 của thế kỷ trước. Đội thiên cẩu lúc
bấy giờ được một võ sư người Hoa (người làng Minh Hương, Hội An thường gọi là
Thầy Xú) thành lập và trực tiếp dạy kỹ thuật múa và kỹ thuật đánh trống. Lúc bấy
giờ hình dáng con thiên cẩu cịn thơ sơ, lối múa cịn dung dị (với các thao tác của
thiên cẩu gồm có: Đi, chạy, nhảy, lạy Tổ, ngủ, ăn lá cây, ăn giải thưởng) nhưng các
thế tấn, dáng đi, kiểu nhảy vững chãi của con thiên cẩu được chọn lựa, khai thác từ
võ cổ truyền, đưa vào lối múa đã làm cho nghệ thuật múa thiên cẩu Hội An rất

mạnh mẽ, hấp dẫn.


23
Về tên gọi, Thiên Cẩu có nghĩa là chó nhà trời, nhưng cũng như nhiều hiện
tượng văn hóa dân gian khác, con vật này được tô điểm thành linh vật mang tính
huyền thoại với những đặc điểm khác thường về hình dáng: đầu có sừng cong về
phía trán, mắt lồi, hai bên mép có mang, miệng há đầy vẻ đe dọa. Mình Thiên Cẩu
là một dải vải màu đỏ hoặc vàng, 2 bên có tua kiểu vi rồng, đằng sau buộc một túm
lá cây làm đuôi. Thần thái của Thiên Cẩu được tập trung ở phần đầu với các màu
sắc tượng trung cho ngũ hành và cách tô điểm theo quy định riêng nhằm gắn cho
con vật này những chức năng linh thiêng như trừ ma quỷ, xua đuổi tà khí, chữa
bệnh, cầu phúc. Mặt Thiên Cẩu chỉ có hàm trên đầy răng, hàm dưới là một miếng
bìa gắn thêm vào để tạo râu, thoạt trông giống mặt các Kala của người Chăm.
Múa Thiên Cẩu ở Hội An được thực hiện theo những bài bản riêng khác với
lối múa lân hoặc sư tử mới được du nhập sau này. Cách đánh trống, xập xỏa cũng
như vậy. Một bài múa Thiên Cẩu gồm nhiều động tác, nhiều màn gồm đi, đứng,
nhảy, ngủ, thức giấc, đớp trẻ trừ phong, liếm cổng trừ tà, vái lạy cầu phúc, ăn lá cây,
uống nước, ăn giải thưởng, đăng thiên phun lửa, tranh tài với Hồng Hà Nhi… Cùng
múa với Thiên Cẩu có ơng Địa, được hóa trang với vẻ mặt hớn hở, phổng phao,
bụng to, tay cầm quạt, lưng dắt cờ lệnh.
Qua một số tư liệu dân gian sưu tầm được ở địa phương về việc mong cho rằm
Trung Thu có mưa, tục đua trẻ nhỏ vào miệng cho Thiên Cầu liếm để trẻ mau lớn,
không bị ghẻ sài, tục nuốt và nhả ra quả cam để chủ nhà ăn cầu phúc cùng những
nghi thức linh thiêng khác liên quan đến việc chế tạo, biểu diễn Thiên Cẩu có thể
thấy rằng đây là loại múa dân gian có nguồn gốc lâu đời, liên quan đến ước mơ
trăng trịn, ước mơ mưa thuận gió hịa, mùa màng bội thu của cư dân nông nghiệp.
Không phải ngẫu nhiên mà múa Thiên Cẩu lại đi liền với tết Trung Thu, một thời
điểm quan trọng trong lịch mùa vụ nông nghiệp, đặc biệt là mùa vụ nông nghiệp lúa
nước. Cũng không phải ngẫu nhiên mà cư dân địa phương gọi con vật múa đón

Trung Thu là Thiên Cẩu – con vật có mặt trong huyền tích của nhiều nước phương
Đông cũng như phương Tây liên quan đến nhật thực, nguyệt thực, đến hiện tượng
nuốt và nhả ra mặt trăng mang ý nghĩa báo hiệu sự tốt đẹp của mùa màng, của cuộc
sống con người.
Do phát triển ở một địa phương có hoạt động bn bán phát triển mạnh nên
trước đây, ngoài ý nghĩa cầu trăng, cầu mùa, múa Thiên Cẩu còn gắn thêm một số


24
nghi thức, ý nghĩa về cầu phúc, cầu tài lộc, trừ tà tống ôn, ngăn ngừa hỏa hoạn…
Càng về sau màu sắc tín ngưỡng mờ dần, thay vào đó, tính thi thố biểu diễn, vui
chơi hội hè ngày càng lấn át và trở thành chủ đạo, nhất là những năm gần đây.
1.2.2. Các thể loại diễn xướng dân gian gắn với hoạt động vui chơi giải trí
Người dân Hội An thật thà, chất phát, mang đậm tính cách hịa nhã, thân thiện,
cần cù, chịu khó của những người con xứ Quảng. Mặc dù cuộc sống có nhiều đổi
thay, ln phải đối mặt với nhiều vấn đề, thế nhưng họ vẫn luôn lạc quan, tin tưởng
vào cuộc sống. Và sự xuất hiện, lưu truyền các loại hình nghệ thuật diễn xướng dân
gian mang tính chất vui chơi, giải trí đã giúp họ quên đi những phiền muộn, lo toan
của cuộc sống thường nhật, cộng đồng gắn kết với nhau hơn. Có thể kể đến một số
loại hình nghệ thuật diễn xướng gắn với hoạt động vui chơi giải trí như bài chòi,
biểu diễn du hồ, hát bội, hát hò khoan, đồng dao.
- Nghệ thuật bài chịi
Quảng Nam vốn là đất nơng thôn dân dã, dân gian, người dân đã tạo cho mình
thú chơi riêng nhưng hết sức độc đáo mang phong vị làng q, đậm chất văn hóa
nơng nghiệp – chơi bài chòi. Thú chơi bài chòi tương tự như chơi tổ tơm điếm ở
miền Bắc. Bộ bài chịi cịn gọi là bộ bài tới, thoạt đầu dùng để chơi với 6 người
trong nhà rồi dần dần mới lan ra và chuyển sang lối chơi nơi cơng cộng, nơi đình
làng, sân bãi.
Ở các làng quê miền Trung nói chung và Quảng Nam nói riêng, trong dịp lễ
hội, trị chơi dân gian thường có các trị bắt vịt, bắt chạch, đập trum, leo cây chuối

hoặc các trò diễn như sắc bùa, súc sắc xúc xẻ nhưng hấp dẫn nhất vẫn là bài chịi.
Vào dịp hội hè, trong làng rộn ràng khơng khí vui tươi, người làng dựng chịi kê ván
hoặc nếu khơng có chịi thì ngồi ghế để chơi. Theo một số nhà nghiên cứu, nếu
đúng thể thức thì chơi bài chịi người ta dựng 11 chiếc chòi cao từ 2 đến 3 thước,
bên trái có 5 chịi và bên phải có 5 chòi, gọi là chòi con và một chòi ở chính giữa là
chịi trung tâm hay cịn gọi là chịi cái. Thơng thường, dân gian chơi bài chịi cốt để
giải trí, để nghe anh hiệu gõ mõ, hơ bài chịi diễn xướng mang đậm tính chất nghệ
thuật dân gian. Ở đây, âm nhạc là nhịp gõ, nhịp trống, kết hợp nhuần nhuyễn với lời
hô hát. Lời hô mang nghĩa văn chương bình dân mộc mạc, hình mỗi con bài thì
mang dáng vẻ họa tiết cách điệu theo phong cách dân gian.


25
Chơi bài chòi thực hiện theo mỗi chòi con (10 chịi) được phát 3 con bài, trên
thân bài có tên con bài, tất cả là 30 con bài. Ở chòi trung tâm có một ống tre lớn
dùng để đựng bài cái. Khi trống thúc liên hồi báo hiệu hội bài chòi bắt đầu, những
người đánh bài chòi vào chòi con, tay cầm 3 con bài do họ tự chọn lựa ngẫu nhiên.
Anh hiệu (người hô) bước ra ống thẻ cái, xóc đi xóc lại rồi chậm rãi rút ra từng con
bài. Mỗi lần rút bài anh hiệu hô tên con bài. Chịi nào có đúng qn bài đó thì người
chơi cầm mõ gõ lên 3 tiếng cắc- cắc- cắc hoặc xướng to lên “ăn rồi” thì anh hiệu sẽ
nói lính phụ việc đến trao cho 1 cây cờ đuôi nheo nhỏ. Đến lúc chòi con nào ăn đủ
ba con (được ba cờ) thì hơ “tới” và gõ một hồi mõ kéo dài, lúc này trống tum, trống
cán ở chòi trung tâm đánh vang lên. Thông thường cuộc chơi từ tám đến mười hiệp
là hết một ván bài chòi, lưu lại một hiệp/ván cho ban tổ chức dùng để chi phí và sau
đó tiếp tục kẻ bước xuống người bước lên chòi chơi ván khác.
Bộ bài tới thường được in bán ở các chợ làng miền quê vào dịp trước tết. Bài
được in bằng bản khắc gỗ trên giấy dó. Giấy bản lá bài phủ qua một lớp điệp rồi
được bồi thêm một lớp giấy cứng, mặt sau lá bài được sơn phết màu đỏ huyết dụ,
màu xanh lá chuối hay xanh xám. Xưa kia bộ bài tới kia được in tại làng Sình, cịn
có tên chữ là làng Lại Ân (huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế). Về sau, do số

lượng ít khơng đủ cung cấp nên một số nhà bn Hào kiều thấy bán chạy và có lời
nên họ làm số lượng nhiều (in mộc bản) ở vùng Thanh Hà – Gia Hội ( Huế ) và Hội
An (Quảng Nam). Bộ bài tới có thể có nguồn gốc manh nha từ vùng Thanh - Nghệ
Tĩnh, về sau khi cư dân Việt mở cõi tiến về Nam, kết hợp với yếu tố văn hóa
Chămpa bản địa để tạo nên sản phẩm trị chơi giải trí này. Dần dần dân gian đặt
thêm câu hô và chuyển sang lối chơi tập thể của cộng đồng làng xã.
Tên con bài là những tên gọi nơm na, tinh nghịch, tiếng Nơm có, tiếng Hán
có… Tên gọi đã mang tính hài hước cịn về hình vẽ con bài thì ẩn dụ nhiều ý nghĩa.
Người ta chơi bài chịi khơng chỉ tìm thú vui giải trí trong 3 ngày Tết mà còn muốn
nghe đến “nghiền” lối hơ bài chịi độc đáo, là phần cốt lõi, thu hút người chơi và
hấp dẫn nhất. Anh hiệu hô bài chịi phải là người thuộc hết các bài hơ truyền khẩu
trong dân gian, cộng với tài ứng tác, đôi lúc để tăng thêm sinh động thì phải biết
“chế thêm” cho hay nhưng phải đúng bài, đúng bản, cốt nội dung lời hô lúc nào
cũng đầy bất ngời, hợp với mạch cộng cảm của cuộc chơi. Từ chỗ lẽ ra chỉ hô tên
con bài, anh hiệu biến cách, phá thể bằng hơ một hay nhiều câu lục bát ứng tác có


×