Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

Một số giải pháp nâng cao kỹ năng kiểm soát cảm xúc đối với cán bộ quản lý và giáo viên phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (808.69 KB, 48 trang )

PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Tính cấp thiết lựa chọn đề tài
Giáo dục và đào tạo luôn được coi là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của
Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc
tế đã nêu rõ: “Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo
dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và
nhu cầu học tập của nhân dân”. Công cuộc đổi mới này đặt ra nhiều yêu cầu hơn
đối với ngành giáo dục, đặc biệt là cần phải nâng cao hơn nữa chất lượng giáo
dục để đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho thời đại mới. Để làm được
điều đó, bên cạnh nâng cao chất lượng trong công tác chuyên môn, ngành giáo
dục cũng cần phải chú trọng xây dựng môi trường giáo dục, bởi đây là yếu tố
quan trọng và là tiền đề để có thể tiến hành các hoạt động giáo dục trong nhà
trường.
Thực tế học đường gần đây cho thấy có rất nhiều hiện tượng tiêu cực
xảy ra với học sinh như tình trạng bạo lực, bắt nạt học đường và thực trạng vi
phạm đạo đức nhà giáo như giáo viên sử dụng bạo lực để trừng phạt học sinh
cả về thể chất và tinh thần khiến phụ huynh, nhà trường và cả xã hội lo lắng,
hoang mang. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này trong đó có
nguyên nhân xuất phát từ sự hạn chế trong cách ứng xử và kỹ năng kiểm soát
cảm xúc của cán bộ quản lý, giáo viên và học sinh.
Trong bối cảnh đổi mới giáo dục phổ thơng hiện nay, địi hỏi cán bộ
quản lý, giáo viên và học sinh trong nhà trường cần có sự thay đổi từ cách tư
duy, phương pháp dạy học đến sự tương tác, ứng xử với nhau và điều này yêu
cầu mỗi chủ thể của q trình giáo dục cần biết cách kiểm sốt cảm xúc của
bản thân mình một cách phù hợp. Khi nói đến việc đổi mới toàn diện giáo
dục, người ta thường chú ý nhiều hơn tới các yếu tố như: kiến thức, kỹ năng
và năng lực của cán bộ quản lý, giáo viên, học sinh. Tuy nhiên, có một yếu tố
quan trọng thường bị bỏ qua hoặc bị đánh giá thấp đó chính là cảm xúc và kỹ
năng kiểm sốt cảm xúc.


Tại các cơ sở giáo dục cịn tồn tại tình trạng chú trọng công tác chuyên
môn dạy và học hơn việc xây dựng môi trường, tổ chức các hoạt động giáo
dục, trong đó việc trau dồi kỹ năng kiểm sốt cảm xúc, văn hóa ứng xử cho
cán bộ quản lý, giáo viên, học sinh, dẫn đến xảy ra không ít những vụ việc
liên quan đến chuẩn mực đạo đức nhà giáo, bạo lực học đường và nghiêm
trọng hơn là vi phạm pháp luật trong môi trường giáo dục. Những sự việc này
1


đã làm ảnh hưởng đến uy tín của ngành giáo dục trong xã hội, ảnh hưởng
không nhỏ đến chất lượng giáo dục của tồn ngành.
Chính vì vậy, chúng tơi mạnh dạn đưa ra “Một số giải pháp nâng cao
kỹ năng kiểm soát cảm xúc đối với cán bộ quản lý và giáo viên phổ thông”
nhằm nâng cao năng lực ứng xử, kiểm sốt cảm xúc trong cơng tác quản lý,
dạy học và giáo dục cho cán bộ quản lý, giáo viên phổ thơng, góp phần đổi
mới tồn diện giáo dục trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
II. Tính mới và đóng góp của đề tài
Thứ nhất, đây là đề tài lần đầu tiên tập trung khái quát những điểm cốt
lõi về cảm xúc, kỹ năng kiểm soát cảm xúc trong nhà trường đến nhận diện,
hiểu biết và vận dụng được kỹ năng kiểm sốt cảm xúc trong các tình huống
sư phạm cho cán bộ quản lý, giáo viên; phân tích các tình huống có vấn đề
trong giáo dục và cách thức xử lý có văn hóa; lựa chọn và vận dụng được các
hình thức, kỹ thuật kiểm sốt cảm xúc trong các tình huống dạy học, giáo dục
cụ thể nhằm xác định nguyên nhân, cách giải quyết và đề ra các giải pháp
thực hiện để triển khai thực hiện trong trường phổ thông.
Thứ hai, đề tài giúp ích cho cán bộ quản lý và giáo viên trong hoạt động
dạy học và giáo dục có thêm kiến thức và kỹ năng kiểm sốt cảm xúc, góp
phần nâng cao năng lực xử lý tình huống sư phạm cũng như trong việc giáo
dục đạo đức, lối sống cho học sinh. Từ đó, tạo nền tảng vững chắc để xây
dựng mơi trường an tồn, lành mạnh, thân thiện, phịng chống bạo học đường,

góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
PHẦN II. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận
1. Các khái niệm
1.1. Khái niệm cảm xúc
Con người không phân biệt tuổi tác, nguồn gốc xuất thân, văn hóa và sắc
tộc đều trải nghiệm nhiều dạng cảm xúc khác nhau và thể hiện những cảm xúc
đó theo cách riêng như có thể bộc lộ ra bên ngồi hoặc kìm nén vào bên trong.
Điều gì sẽ xảy ra nếu con người sống mà khơng có cảm xúc? Các nhà nghiên
cứu về cảm xúc khẳng định “khơng có cảm xúc, cuộc sống của con người sẽ
thiếu đi ý nghĩa, sự phong phú, niềm vui và sự kết nối với những người xung
quanh” (Leahy, Tirch & Napolitano, 2011, trang 11). Rõ ràng, cảm xúc có ý
nghĩa quan trọng làm giàu thêm đời sống tinh thần, làm tăng thêm hiệu quả
trong giao tiếp cũng như sự bền chặt trong mối quan hệ của con người. Ngoài ra,
việc hiểu cảm xúc của cá nhân sẽ giúp hiểu được phản ứng hành vi sau đó của
2


mỗi người trong những tình huống, hồn cảnh cụ thể hay nói ngắn gọn hơn
“muốn hiểu hành vi, trước hết cần hiểu cảm xúc”.
Trong tâm lí học, các hoạt động tâm lí của cá nhân được chia thành 3
nhóm: Nhóm hoạt động nhận thức, nhóm cảm xúc và nhóm hành động (hành
vi). Mỗi nhóm có chức năng riêng. Nhóm hoạt động nhận thức là cá nhân tương
tác với đối tượng, nhằm tìm hiểu bản chất và quy luật vận động của sự vật, hiện
tượng của thế giới xung quanh (thế giới tự nhiên, xã hội) và hiểu bản thân mình
(tự nhận thức). Kết quả của hoạt động nhận thức, giúp cá nhân có tri thức, hiểu
biết về sự vật, hiện tượng và bản thân. Hoạt động cảm xúc là hoạt động kết hợp
với hoạt động nhận thức. Trong quá trình tương tác với đối tượng, với hoàn cảnh
xung quanh, một mặt diễn ra sự tác động của hoàn cảnh, của sự vật, hiện tượng
đến cá nhân, hoặc cá nhân đến đối tượng, dẫn đến sự hiểu biết đối tượng; mặt

khác, tạo ra ở cá nhân những rung động nhất định. Những rung động này được
gọi là cảm xúc. Như vậy, cảm xúc của cá nhân được hiểu là những phản ứng
của cá nhân dưới dạng các rung động tâm lí khi cá nhân tương tác với đối
tượng hoặc hoàn cảnh nhất định”. Hay như tác giả Nguyễn Quang Uẩn (1995)
định nghĩa “cảm xúc là sự rung động của con người với các sự vật hiện tượng có
liên quan tới nhu cầu và động cơ của họ”. Từ các quan điểm trên có thể thấy một
số đặc điểm liên quan đến cảm xúc như:
Thứ nhất, phản ứng cảm xúc là các rung động của cá nhân thể hiện ở biểu
hiện sinh lý và tâm lý. Cảm xúc của con người không tự nhiên nảy sinh mà chỉ
được biểu hiện khi có sự thỏa mãn hay không thỏa mãn nhu cầu và động cơ của
người đó. Sự biểu hiện cảm xúc được thể hiện ở cả hai cấp độ: bên trong (như sự
thay đổi nội tiết tố, nhịp tim, nhịp thở, dẫn truyền máu...) và cấp độ bên ngồi
(thơng qua nét mặt, điệu bộ, cử chỉ, ngôn ngữ và hành vi).
Thứ hai, tùy vào cường độ và tính chất của cảm xúc mà có thể được gọi
với các tên khác nhau như cảm xúc (trực tiếp và diễn ra trong thời gian ngắn) và
tâm trạng (cảm xúc kéo dài), và tình cảm (mang tính ổn định) song dù là cảm
xúc hay tâm trạng và tình cảm thì đều có điểm chung là sự rung động mang tính
chủ quan của con người trước những sự vật, hiện tượng và con người xung
quanh có liên quan đến nhu cầu của cá nhân đó.
Thứ ba, không phải mọi sự tác động đều gây ra cảm xúc cho con người
mà chỉ có những sự kiện, hiện tượng, con người được đánh giá là có ý nghĩa với
đời sống tâm lý cá nhân hay liên quan đến nhu cầu, động cơ, giá trị thì mới nảy
sinh cảm xúc.
Thứ tư, cảm xúc là trải nghiệm mang tính chủ quan. Trước một tác nhân
kích thích nhưng mỗi cá nhân lại có phản ứng cảm xúc khác nhau tùy thuộc vào
3


đánh giá của cá nhân trong mối liên quan đến nhu cầu, sở thích và mong muốn
của họ. Ví dụ, cùng là cơ giáo dạy Tốn nhưng em A lại thấy cơ giáo dạy hay

cịn em B, em C lại khơng thích vì cơ dạy khơng hay. Như vậy, xúc cảm của con
người nảy sinh trong quá trình nhận thức hiện thực. Trong đó, nhận thức được
xem là “cái lý” của tình cảm, nó làm cho tình cảm có tính đối tượng xác định.
Thứ năm, cảm xúc là một hiện tượng tâm lý nên nó mang bản chất xã hội
và tính lịch sử chứ không phải những phản ứng sinh lý đơn thuần, nghĩa là cảm
xúc được nảy sinh trong mối quan hệ giữa con người với con người, phản ánh
mối quan hệ trong xã hội và có sự thể hiện khác nhau ở tùy từng thời điểm. Vì
thế, trong bối cảnh trường học những cảm xúc khác nhau (cả tích cực và tiêu
cực, dương tính và âm tính) được nảy sinh trong mối quan hệ giữa học sinh với
giáo viên và các lực lượng giáo dục khác.
Theo tác giả Nguyễn Đức Sơn (2018), cảm xúc có một số đặc trưng sau:
- Cảm xúc là một loại phản ứng của cá nhân xảy ra trong tình huống cụ
thể (tại đây và bây giờ). Tình huống đó có thể là sự tác động qua lại giữa cá
nhân với người khác; cũng có thể là khi cá nhân ở trong tình huống (hoàn cảnh)
khác thường. Trong cả hai trường hợp như vậy, ở mỗi cá nhân đều xuất hiện
những rung động nào đó tương ứng với nó. Nếu khơng có sự tương tác giữa cá
nhân với người khác, hoặc cá nhân không ở trong tình huống khác thường thì
khơng nảy sinh cảm xúc (đó chỉ là hành động hay hồn cảnh theo thói quen).
- Cảm xúc nảy sinh tại thời điểm nhất định, gắn với sự xuất hiện và tác
động của các kích thích từ đối tượng tác động hay từ hoàn cảnh. Khi kích thích
hay hồn cảnh khơng cịn hiện diện nữa thì cảm xúc cũng giảm dần và mất. Vì
vậy, để duy trì cảm xúc, cần thường xuyên tạo ra các kích thích cùng loại. Việc
duy trì các kích thích như vậy, sẽ tạo cơ sở để ổn định cảm xúc, hình thành trạng
thái và tình cảm, là thuộc tính tâm lí của cá nhân.
- Cảm xúc khác với nhận thức. Nhận thức có thể được hình thành từ sự
khái quát hoá các sự kiện tri giác và qua việc phân tích thơng tin, tư liệu khác
nhau, từ đó đưa ra các kết luận, các nhận định về đối tượng. Cảm xúc hình thành
qua con đường trải nghiệm của cá nhân trong những tình huống cụ thể của cuộc
sống. Nếu khơng qua trải nghiệm, cá nhân sẽ khơng có cảm xúc tương ứng.
Những trải nghiệm đầu đời của trẻ em liên quan tới việc thoả mãn hay không

khoả mãn những nhu cầu cơ bản của cá thể là cơ sở nền tảng để hình thành các
cảm xúc nền tảng của cá nhân sau này.
- Cảm xúc cá nhân không chỉ phụ thuộc vào cường độ và tần suất của kích
thích hay hồn cảnh khách quan mà cịn phụ thuộc nhiều vào yếu tố chủ quan
của cá nhân. Trong đó, kinh nghiệm sống, sự trải nghiệm hoạt động hay nghề
4


nghiệp, tâm trạng cá nhân trong hoàn cảnh, khí chất và năng lực trí tuệ cảm xúc
của cá nhân những yếu tố tác động mạnh đến cảm xúc của cá nhân. Cùng một
tác nhân kích thích có cường độ như nhau, nhưng mỗi người có cường độ cảm
xúc mạnh hay yếu khác nhau.
Thông thường “Phản ứng cảm xúc với các kích thích có ba thành phần
chính: tinh thần, thể chất và động cơ. Cảm xúc có thành phần tinh thần vì nó liên
quan đến những cảm xúc như hạnh phúc, tức giận hoặc sợ hãi. Nó có thành phần
thể chất vì nó bao gồm một phức hợp của những thay đổi bên trong cơ thể bao
gồm các hoạt động cơ bắp, hóa học, tuyến và thần kinh. Nó có thành phần động
cơ vì nó liên quan đến việc bổ sung liên tục sự thích ứng với các vấn đề nảy sinh
trong một môi trường luôn thay đổi. Động cơ thường là trung tâm hoặc cốt lõi
của trạng thái cảm xúc của con người. Hay nói ngắn gọn hơn, cảm xúc là tiếng
nói bên trong giúp cho con người biết về nhu cầu, sự khó chịu, cảm xúc thúc đẩy
con người thay đổi (như sự xấu hổ, buồn bã, tức giận) hay giúp chúng ta thốt
khỏi tình huống khó khăn (sợ hãi, tức giận) hay sự thỏa mãn của con người
(hạnh phúc, vui vẻ).
1.2. Khái niệm kỹ năng kiểm soát cảm xúc
Kỹ năng kiểm soát cảm xúc là khả năng vận dụng kiến thức, kinh nghiệm,
hiểu biết của bản thân để nhận diện, xử lý và điều chỉnh cảm xúc của bản thân
một cách phù hợp với đối tượng và hoàn cảnh giao tiếp.
Như vậy, kiểm soát cảm xúc là một q trình vì thế để có kỹ năng kiểm
sốt cảm xúc đòi hỏi cần thời gian rèn luyện và cần những kỹ thuật/cách thức để

đạt được mục đích mà con người mong muốn.
2. Phân loại cảm xúc
Theo tác giả Stringaris (2015) con người có 5 dạng cảm xúc cơ bản như
hạnh phúc, lo sợ, thích thú, đau khổ và tức giận. Tuy nhiên có nhiều cách phân
loại cảm xúc khác nhau tùy thuộc vào căn cứ mà các tác giả lựa chọn, có thể
điểm qua một số cách phân loại sau:
2.1. Căn cứ vào nguồn gốc tâm lí của chủ thể đối với giá trị của các kích
thích từ phía đối tượng như nhu cầu, thái độ của cá nhân, người ta chia cảm
xúc thành 2 cấp độ: cảm xúc nền tảng và các cảm xúc phức hợp.
- Các cảm xúc nền tảng: có 6 cảm xúc nền tảng: vui vẻ, đau khổ, sợ hãi,
tức giận, ngạc nhiên, khinh bỉ với cách hiểu như sau:
Vui sướng: cảm xúc khi kích thích xuất hiện đáp ứng được nhu cầu cơ bản
và thái độ của cá nhân.
Sợ hãi: xúc cảm sợ hãi xuất hiện khi nhu cầu cơ thể và nhu cầu an toàn bị
đe doạ khi cá nhân tiếp nhận một kích thích hoặc trong tình huống nào đó.
5


Đau khổ: xúc cảm đau khổ liên quan tới các kích thích từ đối tượng hay
tình huống dẫn đến tổn thất, phương hại nhu cầu của cá nhân. Sự tổn thất càng
lớn, xúc cảm đau khổ càng lớn.
Tức giận: cảm xúc tức giận liên quan tới phản ứng tự vệ của cá nhân
chống lại các kích thích của đối tượng mà cá nhân ý thức được nguy cơ của kích
thích đó tác động tiêu cực đến các nhu cầu, các khoái cảm, sở thích của cá nhân.
Ngạc nhiên: cảm xúc này liên quan tới các kích thích từ đối tượng hay
hoàn cảnh đáp ứng nhu cầu cái đẹp, cái mới lạ, đáp ứng khoái cảm của cá nhân.
Khinh bỉ: cảm xúc khinh bỉ liên quan tới các kích thích từ đối tượng hay
hồn cảnh đáp ứng hay khơng các nhu cầu đạo đức - văn hoá của cộng đồng, xã
hội. Cảm xúc khinh bỉ xuất hiện khi đối tượng có các ứng xử không phù hợp với
các chuẩn mực đạo đức, giá trị văn hố; khơng phù hợp với lương tâm được xã

hội chấp nhận và tơn trọng.
Ngồi 6 cảm xúc nền tảng trên, ngày nay, người ta cũng đề cao các cảm
xúc khác như:
Ghê tởm: thường biểu hiện cùng căm giận, thường kích thích hành vi phá
hoại để thoát khỏi một người nào đó hay một cái gì đó;
Xấu hổ: biểu hiện nhu cầu về mối liên hệ xã hội của con người nảy sinh
do chủ thể tự cảm nhận thấy bản thân thấp hơn điều kiện mà đáng lẽ mình phải
đạt tới, mình khơng xứng đáng. Tuy nhiên cảm xúc này thường tạo khả năng bảo
toàn sự tự trọng;
Tội lỗi: xuất hiện khi có những vi phạm có tính chất đạo đức, thẩm mỹ,
tôn giáo và hơn nữa trong những tình huống mà trong đó chủ thể cảm nhận được
trách nhiệm của riêng mình.
Trong thực tiễn, các cảm xúc nền tảng nêu trên không bộc lộ một cách cực
đoan, tách biệt nhau, mà thường có sự pha trộn nhau, trong đó có một hoặc một
vài cảm xúc chiếm ưu thế, với cường độ và trường độ mạnh hơn so với các cảm
xúc khác. Vì vậy, việc nhận dạng được cảm xúc chủ đạo để điều chỉnh là yếu tố
quan trọng trong việc quản lí cảm xúc bản thân.
- Các cảm xúc phức hợp
Trên cơ sở những cảm xúc nền tảng, ở cá nhân thường xuất hiện những
cảm xúc phức hợp. Cảm xúc phức hợp là những cảm xúc được hình thành trên
cơ sở tổ hợp các cảm nền tảng và diễn ra trong khoảng thời gian dài, có tác động
tương đối mạnh đến hoạt động và đời sống của cá nhân. Bản chất của cảm xúc
phức hợp là sự huy động của cá nhân đối với các kích thích của đối tượng diễn
ra khơng điển hình.
Có thể kể đến một số xúc cảm phức hợp điển hình sau:
6


Lo âu: là phức hợp của các cảm xúc nền tảng, bao gồm sự khiếp sợ, đau
khổ, căm giận, xấu hổ, tội lỗi và đơi khi có cả hứng thú và hưng phấn.

Sự trầm uất: các cảm xúc nền tảng tham gia và trầm uất là đau khổ, căm
giận, ghê tởm, khinh bỉ có liên quan tới bản thân và với người khác.
Tình yêu: dạng phức hợp cảm xúc đặc biệt trong mỗi con người, như tình
yêu cha mẹ và con cái, tình bạn bè, tình u nam nữ, lịng yêu nước. Cái chung
của các kiểu cảm xúc tình yêu là sự gắn kết con người với nhau, nó có ý nghĩa
tiến hóa sinh học, văn hóa xã hội và cá nhân. Tình u có ảnh hưởng tới tất cả các
ngưỡng cảm xúc khác nhau và mọi quá trình nhận thức của con người.
Lòng thù địch: sự tác động lẫn nhau của cảm xúc nền tảng như căm giận,
ghê tởm, khinh bỉ. Nó là cơ sở của hành vi bạo lực của cá nhân.
2.2. Căn cứ vào chức năng, có thể chia cảm xúc thành hai dạng: cảm xúc
âm tính và dương tính
- Cảm xúc âm tính:
Là những phản ứng nhằm đối phó với sự đe dọa hoặc các vấn đề ngay lập
tức vì thế cảm xúc này thường gắn với các xu hướng hành vi nhất định: đương
đầu/thỏa mãn hay chạy trốn/thốt khỏi tình huống gây cảm xúc âm tính. Cảm
xúc âm tính vì thế thường thu hẹp sự chú ý và nhận thức, chỉ hướng tới sự an
toàn hay sự sống còn ngay lập tức, hoặc giải tỏa sự khó chịu tức thì của con
người. Ví dụ, trong tình huống chúng ta gặp kẻ xấu tấn cơng, sự sợ hãi lúc đó sẽ
là cảm xúc âm tính vì khi đó chúng ta chỉ tập trung vào việc thốt làm thế nào để
thoát khỏi mối đe dọa hoặc chạy trốn khỏi hiện trường (thường được gọi là phản
ứng chiến đấu hoặc bỏ chạy). Đó là một phản ứng tiến hóa mang tính thích nghi.
Hãy tưởng tượng một con gấu đến gần bạn khi đi bộ đường dài trong rừng: cơ
thể bạn cần phải quyết định theo hai hướng rõ rệt, một là tôi sẽ chiến đấu với
con vật này hoặc thứ hai là tôi sẽ chạy trốn.
- Cảm xúc dương tính:
Cảm xúc dương tính đối ngược với cảm xúc âm tính nó khơng xuất hiện
trong những tình huống mà cá nhân bị đe dọa. Đó là những cảm xúc thể hiện sự
thích nghi mang tính phát triển với chức năng xây dựng nguồn lực lâu dài.
Cảm xúc dương tính sản sinh ra những ý tưởng mới và tương đối rộng,
làm nền tảng để phát triển, mang tính hỗ trợ, bồi đắp lâu dài cho chủ thể. Ví dụ:

cảm xúc dương tính tại trường học là vui vẻ, hạnh phúc, thích thú, hứng thú, tự
hào, yêu thương... Còn cảm xúc âm tính là tức giận, buồn, sợ, lo âu, chán nản,
khơng có hứng thú...

7


2.3. Căn cứ vào mức độ thoả mãn hay không thoả mãn các nhu cầu, khoái
cảm, thái độ hay giá trị của cá nhân người ta chia ra làm hai dạng: Cảm xúc
tích cực và cảm xúc tiêu cực
- Cảm xúc tích cực:
Cảm xúc tích cực là những rung động xuất hiện liên quan tới các kích
thích từ đối tượng hay hồn cảnh, đáp ứng nhu cầu, khối cảm, thái độ hay giá
trị của cá nhân, mang lại cho cá nhân hưng phấn thần kinh, tính tích cực tâm lí
trong hoạt động và giao tiếp.
Cảm xúc tích cực có những đặc điểm điển hình:
+ Là những rung động của cá nhân liên quan trực tiếp đến các kích thích
thoả mãn nhu cầu, khoái cảm, thái độ hay giá trị của cá nhân;
+ Tạo ra sự hưng phấn về thần kinh và tính tích cực tâm lí của cá nhân,
nhờ đó mang lại hiệu quả cao trong hoạt động và giao tiếp của cá nhân;
+ Duy trì trạng thái lành mạnh của thể chất và tâm lí cá nhân;
+ Là cơ sở để hình thành và phát triển các phẩm chất tâm lí tích cực như
tình yêu, thái độ, niềm tin, thế giới quan tích cực của cá nhân.
Ví dụ các cảm xúc tích cực trong trường học có thể bao gồm sự vui
sướng, hạnh phúc, tự hào, ngạc nhiên, tình yêu, thanh thản….
- Cảm xúc tiêu cực:
Cảm xúc tiêu cực là những rung động xuất hiện liên quan tới các kích
thích từ đối tượng hay hồn cảnh, khơng đáp ứng nhu cầu, khoái cảm, thái độ
hay giá trị của cá nhân, gây ra trong tâm lí cá nhân nguy cơ mất an toàn hay tổn
thất nhất định.

Cảm xúc tiêu cực có những đặc điểm điển hình:
+ Là những rung động của cá nhân liên quan trực tiếp đến các kích thích
khơng thoả mãn nhu cầu, khối cảm, thái độ hay giá trị của cá nhân mà ngược
lại gây ra trong ý thức và vô thức của cá nhân nguy cơ có lợi đến bản thân như
cảm giác khơng an tồn, bị tổn thương thể xác, tâm lí, nhân cách;
+ Nhu cầu có tính phịng vệ của cá nhân thường rất lớn. Vì vậy, phản ứng
thể hiện của cảm xúc tiêu cực mạnh và bột phát với cường độ mạnh;
+ Cảm xúc tiêu cực ở mức độ phức hợp, kéo dài thường đi kèm với sự
huy động của cá nhân để ứng phó với nguy cơ. Nếu sự huy động vượt hạn sẽ
dẫn đến sự suy sụp của cá nhân và đó chính nguyên nhân của các bệnh liên quan
đến rối nhiễu tâm lí như stress, trầm cảm… Vì vậy, việc giúp cán bộ quản lý,
giáo viên và học sinh biết cách kiểm soát, điều chỉnh và giải toả cảm xúc tiêu cực
là điều cần thiết.

8


Như vậy, tuỳ theo tính chất quan hệ của sự tác động của đối tượng hay của
hoàn cảnh với sự thoả mãn nhu cầu, hứng thú của cá nhân mà có cảm xúc tích
cực hay tiêu cực. Nếu đáp ứng nhu cầu hay phù hợp với sở thích của cá nhân, thì
ở cá nhân xuất hiện xúc cảm tích cực, cịn nếu khơng thoả mãn nhu cầu cá nhân
hoặc gây ức chế thì ở cá nhân sẽ xuất hiện cảm xúc tiêu cực. Tính chất đáp ứng
và cường độ của kích thích từ phía đối tượng hay từ phía hoàn cảnh quy định
tính chất và cường độ của cảm xúc. Kích thích càng đáp ứng nhu cầu, cường độ
kích thích càng lớn thì cường độ tích cực của cảm xúc càng cao và ngược lại.
3. Nguyên nhân nảy sinh cảm xúc
Câu hỏi vì sao con người lại có phản ứng cảm xúc như tức giận, đau khổ,
hạnh phúc, sợ hãi, lo lắng được nhiều người quan tâm. Tuy nhiên, có rất nhiều
giả thuyết, lý do được đưa ra để trả lời câu hỏi đó. Nhìn chung, có thể khái qt
các nguyên nhân dẫn đến những cảm xúc ở con người có thể là do:

- Sự thay đổi các sự kiện trong cuộc sống (mất mát người thân, chuyển
nơi ở, thi cử…);
- Do khả năng khơng dự đốn được các tình huống có thể xảy ra, bị động
trước tình huống (vì thiếu kinh nghiệm hay kỹ năng);
- Do mất kiểm soát của cá nhân đối với các kích thích hay tình huống (tức
là khả năng làm chủ bản thân kém);
- Do xung đột nội tâm và mẫu thuẫn về các vai trị khác nhau (mâu thuẫn
giữa việc phải hồn thành cơng việc nhà trường và cơng việc của gia đình….).
- Do mục tiêu bị cản trở.
Ngoài ra với mỗi dạng cảm xúc khác nhau, nhất là các cảm xúc tiêu cực,
nguyên nhân nảy sinh cảm xúc đó cũng có những yếu tố riêng, đặc thù. Ví dụ, sự
tức giận có thể nảy sinh khi mọi người cảm thấy bị đe dọa và khi thất vọng hoặc
mục tiêu của họ bị ngáng trở, thậm chí bất kỳ tác động tiêu cực nào cũng có xu
hướng tạo ra sự tức giận.
4. Cơ chế nảy sinh cảm xúc
Cảm xúc được nảy sinh có thể được giải mã dưới góc độ tâm lý là do sự
nhận thức, cách lý giải, niềm tin của cá nhân về các kích thích (như sự kiện, tình
huống, con người) khác nhau từ đó dẫn đến các cảm xúc, hành vi khác nhau.
Ví dụ: Hà là học sinh lớp 8, em đã ký bản cam kết với giáo viên chủ
nhiệm là khơng có hành vi vi phạm gì trong tuần này. Tuy nhiên, trong giờ học
tốn Hà đã khơng làm bài tập, nói chuyện riêng trong lớp và giáo viên đã xử lý
bằng cách là không cho em tham gia buổi dã ngoại với lớp. Điều này làm cho
Hà rất tức giận, em nghĩ “Thật là không công bằng. Tại sao các bạn khác cũng

9


nói chuyện trong giờ tốn mà khơng bị phạt?”, Hà thấy cơ thể nóng bừng, mặt
đỏ tía tai, em khóc to và chạy ra khỏi lớp.
Như vậy, có thể thấy lý do khiến Hà tức giận (cảm xúc) là do sự thất vọng

vì mục tiêu bị ngáng trở (khơng được đi chơi dã ngoại với cả lớp - sự kiện).
Chính vì thế, Hà cũng có thể khơng trở nên tức giận nếu như em có suy nghĩ
khác về sự kiện trên như “Mình khơng thích qui tắc mà thầy đưa ra nhưng mình
đã ký cam kết với thầy rồi! Nhưng dù sao ai cũng có quyền được mắc lỗi mà!”
(nhận thức).
Thực tế cho thấy tình huống/sự kiện/con người khơng thể thay đổi nhưng
suy nghĩ và niềm tin của mỗi người về tình huống, sự kiện hay con người đó có
thể thay đổi để từ đó dẫn đến những cảm xúc khác nhau. Có thể thấy cảm xúc
nảy sinh do sự lý giải riêng của cá nhân về tình huống/sự kiện/con người gắn
liền với những mẫu phản ứng sinh lý (ví dụ người tức giận thường có biểu hiện
cơ thể nóng, mặt đỏ, người lo sợ thường cảm thấy bồn chồn, tim đập nhanh, hồi
hộp, tốt mồ hơi, lạnh người ...) và hành vi tương ứng. Điều này cho thấy cảm
xúc của con người có thể kiểm sốt và điều chỉnh thông qua việc thay đổi yếu tố
bên trong cá nhân như thay đổi suy nghĩ, niềm tin và thay đổi yếu tố bên ngồi
như khơng gian, thời gian...
5. Ngun tắc hình thành kỹ năng kiểm sốt cảm xúc
Để hình thành kỹ năng kiểm soát cảm xúc, mỗi chúng ta cần ý thức các
nguyên tắc cơ bản sau:
- Xác định rằng chính mình là người điều khiển và chịu trách nhiệm về
cảm xúc của bản thân chứ không phải cảm xúc điều khiển mình;
- Các cảm xúc nảy sinh đều có lý do của nó vì thế cần phải ý thức/hiểu về
ngun nhân, lý do này;
- Tơi có quyền được thể hiện tất cả các dạng cảm xúc cả tích cực và tiêu
cực, cả âm tính và dương tính nhưng những cảm xúc tiêu cực/âm tính đều có
những hệ lụy nếu như khơng kiểm sốt được;
- Cảm xúc tiêu cực/âm tính khơng thể triệt tiêu hay kìm hãm mà cần có
cách kiểm sốt hiệu quả;
- Tơi ln mong muốn ni dưỡng cảm xúc tích cực/dương tính;
- Tôi vị tha và rộng lượng với mọi người
6. Các giai đoạn của quá trình kiểm sốt cảm xúc

- Có thể phân biệt 3 giai đoạn khác nhau của q trình kiểm sốt cảm xúc
như sau:

10


+ Chuẩn bị: mục đích chính là giúp mỗi người xác định các phản ứng khi
một cảm xúc nảy sinh, bao gồm các yếu tố kích thích, suy nghĩ, cảm xúc và
hành vi
+ Tiếp thu kỹ năng: thông qua việc hiểu và thực hiện nhiều kỹ thuật khác
nhau như kỹ thuật thư giãn, kỹ thuật tự hướng dẫn.... với mục đích giúp kiểm
soát cảm xúc khi bị kích thích.
+ Đánh giá và điều chỉnh: Mục đích của giai đoạn này là giúp mỗi người
tự rút kinh nghiệm với những cách mà mình áp dụng trong tình huống làm nảy
sinh cảm xúc cụ thể, từ đó áp dụng cho những lần khác trong tương lai một cách
hiệu quả hơn.
- Cũng có những cách tiếp cận khác đưa ra 4 giai đoạn của q trình kiểm
sốt cảm xúc gồm:
+ Giai đoạn 1: chuẩn bị cho sự kích thích (ví dụ: nhận biết tình huống;
giảm kỳ vọng quá mức của người khác);
+ Giai đoạn 2: đối phó với kích thích về thể chất như tim đập nhanh, hơi
thở nhanh, nóng mặt, chân tay run... (ví dụ, thơng qua thư giãn hoặc kiểm sốt
hơi thở);
+ Giai đoạn 3: đối phó với sự kích thích về nhận thức (sử dụng cách điều
chỉnh nhận thức bằng các câu nói với bản thân như “tức giận/lo lắng/sợ hãi sẽ
khơng giúp ích được gì cho tơi”);
+ Giai đoạn 4: đánh giá kết quả và tìm cách ứng phó hiệu quả cho những
lần tiếp theo.
Ví dụ: với việc kiểm soát cảm xúc tức giận được hiểu là một quy trình thể
hiện các kỹ năng để nhận ra các dấu hiệu cho thấy bạn đang trở nên tức giận (về

mặt cơ thể như hơi thở, cơ, da, nhịp tim...) và hành động để ứng phó với tình
huống gây ra cảm xúc tức giận theo hướng tích cực. Kiểm soát cảm xúc tức giận
khơng có nghĩa là kiềm chế cơn tức giận hoặc cố gắng không cảm thấy tức giận.
Ngược lại, kiểm sốt cảm xúc tức giận địi hỏi chúng ta phải nhận ra những tác
nhân gây ra cơn giận và chuyển hướng tác động của nó để tránh dẫn đến hành vi
gây hấn và rắc rối. Theo cách hiểu này, hai đặc điểm chính của kiểm soát cảm
xúc tức giận bao gồm:
- Các kỹ năng cần thiết để nhận ra các dấu hiệu tức giận trong cơ thể
- Lựa chọn các phản ứng tích cực, hợp lý để tránh nảy sinh hành vi gây
hấn và rắc rối. Một điểm đáng chú ý khác của quan điểm trên đó là kiểm sốt
cơn tức giận là một q trình hình thành các kỹ năng hữu ích và thực hành để áp
dụng vào thực tế.
7. Vai trị của kỹ năng kiểm sốt cảm xúc trong hoạt động sư phạm
11


Trong hoạt động sư phạm (dạy học và giáo dục) sẽ xuất hiện rất nhiều các
tình huống liên quan đến mối quan hệ giữa giáo viên - học sinh - yêu cầu giáo
dục dễ nảy sinh các cảm xúc khác nhau, nhất là cảm xúc âm tính/tiêu cực như:
tức giận, lo lắng, bất an, thất vọng, buồn bã, đau khổ... vì thế việc rèn luyện kỹ
năng kiểm sốt cảm xúc có vai trị và ý nghĩa thiết thực đối với giáo viên nhằm
xây dựng và duy trì mối quan hệ thân thiện giữa giáo viên và học sinh, đảm bảo
các nguyên tắc đạo đức trong hoạt động sư phạm, góp phần thực hiện tốt các
nhiệm vụ dạy học và giáo dục học sinh.
Đối với giáo viên và các nhà quản lý giáo dục: đứng trước những tình
huống mâu thuẫn, gây căng thẳng, việc làm chủ và điều chỉnh hợp lý cảm xúc
của bản thân sẽ giúp cho giáo viên/cán bộ quản lý giáo dục:
- Tránh hoặc hạn chế những hành vi khơng mong muốn, có thể gây tổn
thương cho đồng nghiệp hay học sinh để góp phần xây dựng hình ảnh đẹp trong
con mắt của học trò. Bởi lẽ khi có những cảm xúc tiêu cực như buồn, tức giận

hay lo sợ giáo viên sẽ dễ nảy sinh hành vi lạm dụng thân thể và tinh thần học
sinh như quát mắng, đe dọa, trừng phạt học sinh.
- Ngoài ra, việc kiểm sốt cảm xúc tốt sẽ cịn giúp giáo viên “hóa giải”
những mâu thuẫn trong quan hệ với học sinh và đồng nghiệp và giúp “cảm hóa”
những học sinh mắc lỗi.
- Kỹ năng kiểm sốt cảm xúc cịn giúp cho giáo viên chuyển hóa những
cảm xúc tiêu cực/âm tính để có đời sống tinh thần khỏe mạnh góp phần xây
dựng ra những bài giảng hiệu quả, hấp dẫn học sinh.
- Hơn hết, chính cách ứng xử nhân văn, hợp lý của giáo viên cũng sẽ là
tấm gương để học sinh noi theo để các em có sự nhân ái, bao dung với bạn bè và
người thân góp phần xây dựng một môi trường học tập thân thiện và hạnh phúc.
Đối với học sinh: Việc đáp ứng yêu cầu học tập, quan hệ và do sự thay
đổi, phát triển về tâm sinh lý từng lứa tuổi cũng có thể khiến các em nảy sinh
những cảm xúc tiêu cực/âm tính có ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất, tinh thần
và quan hệ của các em với thầy cơ và bạn bè. Vì thế, chính học sinh cũng cần
được hướng dẫn và hình thành kỹ năng kiểm sốt cảm xúc để có thể:
- Hạn chế những hành vi không mong muốn, hành vi vi phạm nội qui nhà
trường như bắt nạt, tình trạng bạo lực học đường…;
- Nâng cao khả năng giải quyết vấn đề, ứng phó với những tình huống có
thể nảy sinh cảm xúc tiêu cực/âm tính hay những cảm xúc khơng mong muốn;
- Giúp các em có đời sống tinh thần khỏe mạnh, vui vẻ khi đến trường và
có kết quả học tập tốt.

12


Tóm lại, việc hiểu, nhận diện cảm xúc của bản thân sẽ giúp cán bộ quản
lý, giáo viên và học sinh có khả năng hiểu và nhận diện cảm xúc của nhau, góp
phần nâng cao năng lực cảm xúc xã hội trong mơi trường học đường. Ngồi ra,
kỹ năng kiểm soát cảm xúc là một trong năm thành phần của trí tuệ cảm xúc

(gồm tự nhận thức về bản thân, tự quản lý cảm xúc, động cơ, kỹ năng xã hội và
sự thấu cảm). Vì thế việc hình thành và phát triển kỹ năng kiểm soát cảm xúc sẽ
giúp cho giáo viên và học sinh có cơ hội phát triển trí tuệ cảm xúc, có năng lực
tự chủ cảm xúc và lòng nhân ái, bao dung với những người xung quanh - đây
chính là mục tiêu của chương trình giáo dục phổ thông mới 2018.
8. Sự cần thiết phải kiểm soát cảm xúc đối với cán bộ quản lý và đội
ngũ giáo viên trong trường học
- Cảm xúc của cán bộ quản lý, giáo viên nói chung khơng chỉ xảy ra trong
các hoạt động tâm lý của cá nhân mà còn liên quan đến cảm xúc qua sự tương
tác với cá nhân khác và ảnh hưởng bởi môi trường xã hội. Trường học và lớp
học là mơi trường có những cảm cảm xúc phức tạp mà cán bộ quản lý, giáo viên
thường xuyên trải nghiệm với đa dạng đối tượng: các em học sinh, phụ huynh,
đồng nghiệp và lãnh đạo.
- Mơ hình cảm xúc của cán bộ quản lý, giáo viên bao gồm 05 chiều: niềm
vui, tình yêu, nỗi buồn, tức giận, và sợ hãi. Tình yêu - đề cập đến hạnh phúc của
giáo viên vì lịng nhiệt huyết với công việc giảng dạy – một ngành nghề nhận
được sự tôn trọng của cả xã hội, sự ổn định trong công việc và niềm hạnh phúc
chứng kiến từng giai đoạn phát triển nhận thức của học sinh. Nỗi buồn - mơ tả
giáo viên cảm thấy khơng vui vì những nỗ lực của mình có thể lãnh đạo khơng
cơng nhận hay khen thưởng, thái độ không thân thiện và hợp tác của học sinh.
Tức giận - đề cập đến giáo viên đang bực mình vì áp lực từ trường học và giáo
dục, một số tiêu cực và sự yếu kém của học sinh. Sợ hãi - bao gồm bảy các vấn
đề liên quan đến vấn đề của học sinh, sự cạnh tranh trong số các đồng nghiệp, kỳ
vọng quá cao của nhà trường hay phụ huynh học sinh, sự mất cân bằng của cuộc
sống và công việc. (Theo J.Chen/Teaching and Teacher Education, 2016).
- Để ứng xử linh hoạt trong môi trường đó, cán bộ quản lý, giáo viên buộc
phải học cách quản lý cảm xúc để hồn thành tốt vai trị của một người hướng
dẫn học sinh và tạo mối quan hệ tốt đối với những người xung quanh. Tuy
nhiên, đối với những nhà trường còn tồn tại những cảm xúc tiêu cực trong cán
bộ quản lý, giáo viên thì chưa thể gọi là “trường học hạnh phúc”.

+ Chương trình học cùng với việc thi cử đã tạo ra áp lực và căng thẳng
không chỉ học sinh mà cả giáo viên. Các thầy, cơ giáo nhiều lúc cũng đang phải
“gồng mình” để truyền tải bài học sao cho đúng tiến độ chương trình mà vẫn
13


phải đảm bảo được chất lượng bài giảng. Chính áp lực đó đã vơ hình khiến
khơng ít giáo viên căng thẳng, lo lắng. Và sự bất an luôn thường trực trong họ,
hàng loạt những câu hỏi nghi vấn “liệu các em có hiểu bài giảng khơng? Có làm
bài tập về nhà đầy đủ khơng? Có làm theo sự hướng dẫn của mình khơng?”...
quanh quẩn/xuất hiện/ám ảnh trong đầu họ, từ đó họ hình thành thói quen kiểm
sốt giáo viên, kiểm sốt bài vở học sinh, có đơi lúc họ ở trong một tình trạng
“khó xử” để hiểu và quản lý cảm xúc của chính mình trong nhiều tình huống
khác nhau.
+ Giáo viên căng thẳng, áp lực, liệu học sinh có được thoải mái, vui vẻ?
Hay cảm xúc tiêu cực đó sẽ “lan truyền” tới chính học sinh của mình? Và, lớp
học liệu có “hạnh phúc” hay khơng khi cả giáo viên và học sinh đểu trong tâm
thái lo lắng, căng thẳng như vậy? Có nhiều cách để phân loại cảm xúc, nhưng
cảm xúc tích cực và tiêu cực là 2 loại cảm xúc được nhiều tài liệu nhắc đến
nhiều nhất. Loại cảm xúc tiêu cực của giáo viên bị ảnh hưởng bởi những áp lực
trong môi trường mà giáo viên đang phải đối mặt. Loại cảm xúc này ảnh hưởng
và tác động đến chính những đối tượng trong môi trường đó: học sinh, đồng
nghiệp…Vì vậy, cảm xúc của giáo viên không tồn tại một cách cá nhân trong
môi trường độc lập, thay vào đó, chúng liên quan đến các “giao dịch cảm xúc”
với các cá nhân và cộng đồng trong môi trường sư phạm.
+ Một điều kiện tiên quyết, cần thiết đối với thực tiễn của người giáo viên
đó là hiểu được cảm xúc của chính mình, thấy được vai trị của cảm xúc trong
giảng dạy và tạo ra khơng khí trong lớp học. Làm thế nào để tích hợp yếu tố cảm
xúc với việc áp dụng kiến thức chuyên mơn của mình trong giảng dạy cũng là
một câu hỏi cần sự giải đáp của mỗi giáo viên.

Như vậy, cảm xúc của cán bộ quản lý, giáo viên có quan hệ mật thiết với
mọi khía cạnh của quá trình giảng dạy và học tập, đòi hỏi mỗi cán bộ quản lý
cũng như mỗi giáo viên trong q trình cơng tác, giảng dạy, giáo dục cần phải
biết kiểm soát cảm xúc của mình. Tuy nhiên, trong những hồn cảnh nhất định,
rất ít người có thể làm chủ và kiểm sốt được cảm xúc của mình để lời nói và
việc làm, cách hành xử của mình ln mẫu mực, làm gương cho các em học sinh
noi theo, làm theo. Vì vậy, cán bộ quản lý, giáo viên cần phải được trang bị các
kỹ năng cần thiết để kiểm soát cảm xúc và xử lý khéo léo trong mọi tình huống
sư phạm.
II. THỰC TRẠNG VỀ KỸ NĂNG KIỀM CHẾ CẢM XÚC CỦA
CÁN BỘ, GIÁO VIÊN TRONG NHÀ TRƯỜNG
Trong những năm gần đây, trên các phương tiện thông tin đại chúng đã
đưa lên rất nhiều vụ việc liên quan đến học sinh, giáo viên làm ảnh hưởng đến
14


chất lượng giáo dục trong trường học, gây bức xúc trong dư luận xã hội. Tìm
kiếm trên Google, chỉ trong 0,33 giây có tới 27,9 triệu kết quả cho riêng cụm từ
“bạo lực học đường” và nhiều video được chia sẻ, nhiều hình ảnh được lan
truyền trên các trang mạng xã hội. Nạn nhân của những vụ bạo lực học đường
không chỉ các em bị đánh đập, những học sinh gây bạo lực cũng là nạn nhân bởi
lỗi khơng hồn tồn thuộc về các em mà cịn nằm ở những người chịu trách
nhiệm quản lý, chăm sóc, ni dưỡng và giáo dục. Vẫn cịn tình trạng học sinh
vơ lễ với thầy, cô giáo, gian lận trong học tập, thi cử; phá hoại tài sản nhà
trường; nói tục, chửi bậy; ăn mặc khơng phù hợp… điều này ảnh hưởng đến
hình ảnh của nhà trường và là yếu tố trực tiếp gây ra những biểu hiện cảm xúc
tiêu cực đối với cán bộ quản lý, giáo viên nhà trường trước áp lực của dư luận.
Các vụ việc xảy ra đã làm ảnh hưởng đến môi trường giáo dục và gây lo
lắng cho các em học sinh, phụ huynh và toàn xã hội. Điều này, xuất phát từ
nhiều nguyên nhân khác nhau:

- Về phía các em học sinh: các em học sinh, nhất là lứa tuổi học sinh
THCS, THPT dễ bốc đồng và khó tự chủ, tâm lý nhạy cảm, thích thể hiện. Sự
bốc đồng khơng có định hướng dễ khiến các em khơng kiểm sốt được lời nói và
hành động của mình. Đáng lo ngại hơn, với sự phát triển của mạng internet,
công nghệ 4.0, các em tiếp thu nhanh những ảnh hưởng trên mạng xã hội, dễ bị
bạn bè kích động, thị hiếu, tò mò và chỉ cần xích mích nhỏ cũng có thể dẫn đến
mâu thuẫn, bắt nạt gián tiếp, trực tiếp. Bản thân các nạn nhân, những em bị bắt
nạt, bị hành hung, cũng thường giấu kín vụ việc ngay cả với cha mẹ, thầy cơ
mình. Ở một khía cạnh khác, các em còn hạn chế hiểu biết về pháp luật, kỹ năng
kiểm sốt cảm xúc nên khơng thể lường hết hậu quả từ những hành động bột
phát do mình gây ra.
- Về phía gia đình: nhiều học sinh thiếu sự quan tâm chăm sóc của gia
đình. Việc giáo dục con cái trong một số gia đình chưa thực sự lành mạnh, phần
lớn các em học sinh liên quan đến các vụ bạo lực học đường thường bịảnh
hưởng bởi yếu tố gia đình như: khó khăn về kinh tế, bố mẹ ly thân, ly hôn, mồ
côi, đi làm ăn xa... Phương pháp giáo dục con không đúng, quá nuông chiều
hoặc ngược đãi đã ảnh hưởng, tác động tiêu cực đến quá trình hình thành nhân
cách của các em, làm cho các em có những suy nghĩ, hành vi tiêu cực, lệch
chuẩn dễ vi phạm pháp luật. Tình trạng bạo hành vẫn cịn diễn ra trong một số
gia đình. Mặt khác, nhiều bậc cha mẹ cịn phó thác việc quản lý, giáo dục con
em mình cho nhà trường, thiếu sự phối hợp trong việc quan tâm, theo dõi, chăm
sóc và giáo dục. Bên cạnh đó, một số gia đình ít quan tâm đến các mối quan hệ
bạn bè của con em mình. Các em rất dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bên ngoài
15


đặc biệt là sự lôi kéo của bạn bè nên rất khó quản lý.
- Về phía nhà trường: một số đơn vị chưa thường xuyên chỉ đạo thực hiện
các quy định về bảo đảm mơi trường giáo dục an tồn, lành mạnh, thân thiện.
Cơng tác chỉ đạo triển khai cịn chậm, chưa theo kịp với nhu cầu thực tế. Nhiều

đơn vị, nhà trường chỉ chú trọng đến chất lượng dạy và học văn hóa, chưa thật
sự quan tâm đến chất lượng và hiệu quả từ các môn đạo đức, giáo dục cơng dân.
Hoạt động của Đồn, Đội trong trường học chưa đổi mới, chưa thu hút đông đảo
học sinh tham gia. Việc thực hiện dân chủ cơ sở trong một số trường học còn
hạn chế, người đứng đầu chưa phát huy dân chủ, năng lực quản lý; dặc biệt còn
bộ phận cán bộ quản lý, giáo viên thiếu gương mẫu trong ứng xử, hành động và
hạn chế kỹ năng nghiệp vụ, lúng túng trong xử lý tình huống sư phạm, kỹ năng
kiềm chế cảm xúc chưa được rèn luyện. Công tác giáo dục lý tưởng cách mạng,
đạo đức, lối sống cho học sinh hiệu quả chưa cao, chưa tổ chức tuyên truyền, tập
huấn được nhiều kiến thức về kỹ năng kiểm soát cảm xúc.

Khả năng
T kiểm soát
TT
một số loại
cảm xúc

Mức độ (%)
Không
bao
giờ

Hầu
như
không

Đôi
khi

Thường

xuyên

Rất
thường
xuyên

1

Xấu hổ

8.18

8.93

40.92

22.29

19.66

2

Sợ hãi

9.97

10.63

44.96


21

14.11

3

Giận dữ

8.93

9.12

64.25

16.08

6.3

4

Vui mừng

5.55

8.74

58.79

19.75


8

(Biểu khảo sát khả năng kiểm soát cảm xúc của giáo viên Trường THPT Cửa Lò.
Nguồn từ bài thi GV chủ nhiệm lớp giỏi tỉnh của cô giáo Mai Thị Hà)

- Sự phối hợp giáo dục học sinh giữa nhà trường, gia đình, xã hội: Công
tác này chưa được quan tâm thường xuyên, đồng bộ trong việc quản lý, nhất là
đối với các học sinh cá biệt, học sinh có hồn cảnh khó khăn, có vướng mắc mâu
thuẫn chưa được hỗ trợ, xử lý kịp thời. Mặt khác, cơng tác phối hợp giữa các các
phịng, ban liên quan tại một số địa phương còn thiếu chặt chẽ. Tại nhiều địa
phương, đơn vị vẫn cịn tình trạng "trên nóng, dưới lạnh" như cấp trên đã khẩn
trương chỉ đạo triển khai xử lý những vấn đề nóng, bức xúc của dư luận xã hội.
Tuy nhiên, ở cơ sở vẫn cịn tình trạng thờ ơ, ít quan tâm và chậm triển khai thực
hiện. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát đôn đốc chưa được thường xuyên,
16


kịp thời, các hoạt động giáo dục kỹ năng kiểm soát cảm xúc chưa được quan tâm
triển khai thực hiện.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO KỸ NĂNG KIỂM SOÁT
CẢM XÚC CHO CÁN BỘ QUẢN LÝ, GIÁO VIÊN PHỔ THÔNG
1. Tuyên truyền nâng cao nhận thức cho cán bộ quản lý và đội ngũ
giáo viên, đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm lớp về vai trò, tầm quan trọng của
cảm xúc, kỹ năng kiểm soát cảm xúc
1.1. Nội dung tuyên truyền
Các nhà trường cần thường xuyên đẩy mạnh và triển khai có hiệu quả
cơng tác tun truyền, trong đó tập trung một số nội dung:
Thứ nhất, tuyên truyền sâu rộng các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước về giáo dục đạo đức, lối sống, văn hóa ứng
xử trong trường học cho đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục, nhân viên,

học sinh, sinh viên, gia đình và cộng đồng.
Thứ hai, tuyên truyền về xây dựng và thực hiện bộ quy tắc ứng xử, văn
hóa học đường, ứng xử văn hóa dành cho cán bộ quản lý, nhà giáo, nhân viên,
người học trong các cơ sở giáo dục.
Thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh phong trào học tập và làm theo tư tưởng, tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh; tuyên truyền giáo dục lòng yêu nước, yêu thương
con người và truyền thống văn hóa ứng xử của dân tộc Việt Nam, của quê hương
Nghệ An; nêu gương cán bộ quản lý, nhà giáo, nhân viên và người đứng đầu
nhà trường trong xây dựng văn hóa ứng xử, các cá nhân điển hình, mơ hình nhà
trường thực hiện tốt cơng tác xây dựng văn hóa ứng xử.
Thứ tư, tuyên truyền về tầm quan trọng và những hiệu quả tích cực đối với
giáo viên nếu thực hiện tốt việc kiểm soát tốt cảm xúc như giúp phát triển các kỹ
năng cho giáo viên, đem lại chất lượng buổi học tốt, nhận được sự yêu thích của
học sinh, phụ huynh…
Thứ năm, cung cấp đầy đủ tài liệu giáo dục tuyên truyền về kiểm soát cảm
xúc trong trường học cho các cơ sở giáo dục để tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ,
sâu trộng trong nhận thực và thực hiện quản lý và kiểm soát tốt cảm xúc trong
trường học.
1.2. Phương pháp tuyên tuyền
- Mở các chuyên trang, chuyên mục định kỳ trên hệ thống website hoặc
Fanpage của nhà trường để truyên truyền; đăng tải những thông tin, những tấm
gương cán bộ quản lý, nhà giáo, nhân viên điển hình trong cơng tác xây dựng
văn hóa nhà trường, mơ hình nhà trường thực hiện tốt cơng tác xây dựng văn
hóa ứng xử.
17


- Tuyên truyền thông qua tổ chức các cuộc thi, hội nghị, hội thảo, tọa đàm,
diễn đàn, các hoạt động ngoại khóa về ứng xử văn hóa trong trường học cho nhà
giáo, người học; tăng cường ứng dụng công nghệ thơng tin, internet và mạng xã

hội, qua các nhón facebook, zalo, viber... trong hoạt động tuyên truyền. Tuyên
truyền thông qua các buổi sinh hoạt giáo dục ngoại khóa, kỹ năng sống, các buổi
chào cờ, trên bảng tin, loa truyền thanh, pano, áp phích trong nhà trường.
2. Tập huấn, bồi dưỡng nâng cao kiến thức về cảm xúc, kỹ năng kiểm
soát cảm xúc cho cán bộ quản lý và đội ngũ giáo viên
Để tăng cường kỹ năng kiểm soát cảm xúc cho cán bộ quản lý và đội ngũ
giáo viên, ngành giáo dục cần phải xây dựng tài liệu tập huấn (đảm bảo thiết
thực, dễ hiểu, hiệu quả) và tổ chức tốt việc tập huấn, bồi dưỡng từ trung ương
đến địa phương, trong đó tập trung vào một số nội dung sau:
2.1. Xác định nguyên nhân gây ra việc kiểm soát cảm xúc khơng hiệu quả
- Ngun nhân do chính giáo viên:
Cảm xúc là do chính giáo viên làm chủ, chỉ có giáo viên mới biết được
bản thân làm gì để phục vụ trong cơng việc giảng dạy của mình. Khi giáo viên
khơng tự tin vào kiến thức bản thân thì cảm xúc sợ hãi xuất hiện, sợ hãi khi
không biết đứng trước lớp giảng dạy thì học sinh có hiểu kiến thức mình truyền
đạt khơng, sợ dạy học sinh khơng kỹ dẫn đến kiến thức hỏng. Mọi tâm lý cảm
xúc đều do bản thân suy nghĩ ra, những suy nghĩ tiêu cực là dễ dàng thấy. Chính
cách cư xử, thái độ là nguyên nhân khiến giáo viên hình thành sự khó tính, khó
chịu, hay cáu bẩn với mọi người xung quanh, không kiềm chế được cảm xúc hay
quản lý cảm xúc không đem lại hiệu quả. Khi chính bản thân giáo viên khơng tin
vào khả năng bản thân mình thì học sinh, phụ huynh đâu thể tin tưởng giáo viên
trong việc giảng dạy được, cơ hội sẽ không đến và thành cơng khó đạt được
trong cơng việc dạy học.
- Ngun nhân từ phía học sinh:
Nguyên nhân khiến cho quản lý cảm xúc của giáo viên khơng có hiệu quả
một phần do ý thức của học sinh. Đối tượng chính mà giáo viên tiếp xúc là
những bạn học sinh, độ tuổi với tâm lý thay đổi theo thời gian, sự ương bướng,
tính cách khó bảo ln là sự lo lắng của giáo viên, ảnh hưởng tâm lý trong việc
giảng dạy những cơ cậu học trị như thế khiến giáo viên ln căng thẳng, khơng
thể làm chủ cảm xúc của mình cũng như không thể làm chủ trong suy nghĩ,

trong cách quản lý cảm xúc của chính giáo viên. Việc dạy trẻ phải theo những
quy tắc của nhà giáo nên dù các bạn trẻ cư xử không đúng cũng chỉ được phép
nhẹ nhàng nói nhưng đối với một số học sinh cứng đầu, khơng sợ gì thì đó càng
là điều khiến các bạn nghịch phá hơn vì nghĩ khơng ai làm gì được mình. Cần có
18


những biện pháp khắt khe hơn trong trường học để giáo viên và học sinh nghiêm
túc hơn trong học tập, những quy định luôn được học sinh thực hiện và quản lý
cảm xúc tốt sẽ dần xuất hiện trong kỹ năng giáo viên
- Nguyên nhân từ phía phụ huynh, đồng nghiệp, lãnh đạo trường:
Giáo viên dù hoàn hảo thế nào cũng không tránh khỏi những căng thẳng
từ phía phụ huynh, đồng nghiệp, lãnh đạo trường, Khi nhu cầu phụ huynh đòi
hỏi cao từ giáo viên về chất lượng học tập của các bạn học sinh, khi phụ huynh
không biết được năng lực thực sự của con em mình như thế nào, những lời lẽ
khó nghe của phụ huynh khi thấy con điểm kém luôn là điều giáo viên thấy tủi
thân và xấu hổ, những lời nói nặng nề đơi khi khiến giáo viên không thể làm chủ
được cảm xúc mà nói những câu nói thật gây mất lịng phụ huynh học sinh. Hay
sự ghen tị năng lực giữa các đồng nghiệp trong môi trường giáo dục, những quy
định trên ban lãnh đạo đề xuống khiến cho giáo viên thấy lo lắng, không biết
cân bằng cảm xúc bản thân như thế nào, không biết cân đối giữa các công việc
tạo tâm lý không thoải mái và việc quản lý cảm xúc khơng thể phát huy được.
2.2. Cách thức kiểm sốt cảm xúc trong các tình huống sư phạm
Để nâng cao kỹ năng kiểm soát cảm xúc cho giáo viên, nhất là những cảm
xúc tiêu cực trong hoạt động sư phạm thì giáo viên cần phải được tập huấn cách
thức kiểm soát cảm xúc trong các tình huống sư phạm cụ thể:
Tình huống sư phạm là tình huống chứa đựng mâu thuẫn nảy sinh trong
hoạt động sư phạm của người giáo viên. Đó là mâu thuẫn giữa yêu cầu giáo dục
đối với trình độ phát triển hiện có của học sinh; giữa yêu cầu phát triển của học
sinh với điều kiện sống và giáo dục; giữa yêu cầu phát triển của học sinh với khả

năng sư phạm của nhà giáo dục; giữa yêu cầu phát triển của học sinh với khả
năng, trình độ đạt được của chính học sinh. Như vậy, đứng trước những tình
huống có chứa đựng mâu thuẫn thì sẽ dễ dẫn đến sự căng thẳng trong quan hệ và
nảy sinh những cảm xúc không mong muốn. Lúc này rất cần đến sự tự chủ, điều
chỉnh của giáo viên để lựa chọn cách ứng xử phù hợp và hiệu quả nhất.
Các nhà nghiên cứu về cảm xúc đều thừa nhận rằng cảm xúc không phải
là một hiện tượng đơn giản. Cảm xúc bao gồm sự nhận thức, phản ứng cơ
thể/thể chất, phản ứng hành vi, mục đích/có chủ tâm, biểu hiện mối quan hệ liên
cá nhân và các quá trình khác. Cảm xúc nảy sinh trong mọi hoàn cảnh và vì thế
điều quan trọng cần biết cách thức kiểm sốt cảm xúc, nhất là những cảm xúc
âm tính/tiêu cực một cách hiệu quả với cả giáo viên và học sinh trong dạy học
và giáo dục.
Một số cách thức kiểm soát cảm xúc, cụ thể như sau:
- Điều chỉnh hành động của cơ thể: hít thở sâu, thả lỏng cơ thể - mỉm cười
19


- thay đổi tư thế đứng, ngồi sao cho thoải mái nhất.
Giáo viên khi đứng trước tình huống hay một vấn đề khó, khơng kiểm
sốt được cảm xúc thì hãy bình tĩnh thả lịng người, hít thở sâu sẽ khiến tâm
trạng dịu nhẹ đi và có hướng giải quyết tốt nhất. Hãy nhớ rằng các hành động,
động tác của giáo viên có tác dụng rất lớn trong việc quản lý cảm xúc của chính
giáo viên, đừng tạo tâm thế tạo áp lực cho bản thân, tâm lý sợ hãi khiến giáo
viên không thể xử lý vấn đề tốt được.
- Rèn luyện tư duy: ln nhìn mọi người, mọi vật bằng thái độ tích cực
Người ta thường nói “con người cần có trí tuệ cảm xúc” có nghĩa là biết
cách điều chỉnh cảm xúc của bản thân bằng trí tuệ. Trí tuệ cảm xúc ở đây là suy
nghĩ chín chắc, kỹ càng trước một tình huống để quản lý cảm xúc hiệu quả. Giáo
viên hãy tập cho mình thói quen nhìn người khác bằng thái độ tích cực và nhân
ái sẽ giúp giáo viên tránh được những cảm xúc tiêu cực trong tâm hồn, hãy lắng

nghe học sinh nhiều hơn, hiểu hơn về học trị của mình để khởi gợi mối quan hệ
thầy cô và học sinh trở nên thân thiết và sự căng thẳng sẽ hạn chế dần. Hãy bình
tĩnh suy nghĩ bản thân giáo viên đã có ứng xử tốt chưa, thực sự lỗi sai về phía ai,
bản thân giáo viên cịn thiếu gì cần bổ sung gì, giáo viên học cách chấp nhận,
tiếp thu những ý kiến đúng từ phía phụ huynh, ban lãnh đạo trường để trau dồi
kiến thức bản thân tốt hơn và rèn luyện được việc quản lý cảm xúc khi có sự
nhìn nhận vấn đề tốt hơn.
- Sử dụng ngôn từ: phù hợp, khéo léo, không biện hộ, đỗ lỗi do học sinh
chưa ngoan, không dùng những từ mang đến sự tiêu cực, thay vào đó là động
viên, khích lệ dành cho đối phương.
Khi giáo viên than vãn với đồng nghiệp hay lãnh đạo về hoàn cảnh sống
hay về vấn đề học sinh đang chính tạo cho bản thân giáo viên những cảm xúc
tiêu cực. Giáo viên hãy biết sử dụng ngôn từ để điều khiển cảm xúc của bản thân
mình và cảm xúc của những người đối diện, hãy thẳng thắn đưa ra ý kiến với
thái độ cử chỉ lễ phép với phụ huynh, ban lãnh đạo sẽ giúp giáo viên giải quyết
vấn đề hiệu quả hơn. Ngơn ngữ khơng khó nói nhưng phải biết cách nói như nào
thì đem lại hiệu quả cao, giáo viên cần rèn luyện kỹ năng giao tiếp, sử dụng
ngơn từ ngay từ những tình huống giao tiếp không chỉ trong môi trường giảng
dạy mà ngay trong cuộc sống hàng ngày. Quản lý cảm xúc sẽ hiệu quả đối với
giáo viên khi giáo viên nên suy nghĩ trước khi nói, biết được đối tượng mình
tiếp xúc là giáo viên khác, là học sinh hay phụ huynh để có giọng điệu phù hợp
nhất. Áp dụng vào mỗi đối tượng sẽ có cách giao tiếp khác nhau nên cần rèn
luyện lời ăn tiếng nói như một thói quen tốt trong cuộc sống đối với giáo viên.
- Tự tin: cán bộ quản lý, giáo viên cần phải rèn luyện những kỹ năng sau:
20


+ Can đảm nhìn vào mắt người đối diện khi giao tiếp, không lảng tránh.
+ Vượt qua sợ hãi và cố gắng làm mọi việc.
+ Can đảm thử sức các trường hợp, lĩnh vực, tự tin khám phá.

Cách kiểm soát cảm xúc tiêu cực:
- Không đổ lỗi cho người khác
- Can đảm nhân sại lầm và tìm cách giải quyết
- Khơng tính tốn thiệt hơn
- Vứt bỏ những lời phàn nàn, chỉ trích và thay thế bằng những lời khen
ngợi, động viên, khuyến khích.
- Suy nghĩ về mọi thứ một cách tích cực.
2.3. Các bước để kiểm soát cảm xúc
Bước 1: dự báo (nhận thức, chuẩn bị):
Thông qua những thay đổi trong cơ thể, nhất là biểu hiện sinh lý cả bên
trong và bên ngoài cơ thể để cá nhân có những dự báo ban đầu về những cảm
xúc có thể mình sẽ trải nghiệm trong tình huống nhất định. Bởi lẽ, cảm xúc của
con người luôn gắn liền với một tình huống cụ thể, trong hồn cảnh xác định vì
thế cảm xúc khơng tự nhiên sinh ra và khơng phải chỉ là phản ứng sinh lý đơn
thuần. Khi cá nhân nảy sinh cảm xúc nào đó thì trước hết cần có sự tương tác
với một sự kiện, hiện tượng, con người cụ thể và các tác nhân này phải được cá
nhân đánh giá có liên quan và có ý nghĩa với đời sống tâm lý của con người hay
không. Nếu con người đánh giá sự kiện có thể thỏa mãn được các nhu cầu của
họ thì cảm xúc dương tính xuất hiện, cịn nếu khơng thỏa mãn thì nảy sinh cảm
xúc âm tính. Hơn nữa, bất kỳ cảm xúc nào được nảy sinh đều thể hiện ở hai bình
diện gồm bình diện sinh lý và tâm lý, bên ngồi (nét mặt, cử chỉ, điệu bộ) và bên
trong (nhịp tim, nhịp cơ, nhịp thở, tốc độ dẫn truyền máu...). Những biểu hiện
này sẽ là một chỉ báo để giúp cá nhân có thể dự báo phản ứng cảm xúc tiếp theo
của mình như thế nào. Đây chính là sự liên hệ chặt chẽ giữa thể chất và tinh thần
Ví dụ: khi học sinh A không làm bài tập đến lớp và cô giáo gọi học sinh
lên bảng trả lời (sự kiện), học sinh A bắt đầu cảm thấy tim đập nhanh hơn (biểu
hiện bên trong), tay run, môi khô, đổ mồi hơi tay...(biểu hiện bên ngồi) và đây
là những tín hiệu cho thấy học sinh A đang có cảm xúc lo lắng và sợ hãi nếu bị
gọi lên bảng.
Vì thế khi cơ thể có những phản ứng sinh lý thể hiện ra ngoài qua nét mặt,

cử chỉ, điệu bộ, sắc thái ngôn ngữ... sẽ dự báo cho cá nhân những cảm xúc sẽ
trải nghiệm và có thể là những phản ứng hành vi tiếp theo. Cá nhân nhận thức
được những tín hiệu chỉ báo của cơ thể và có sự chuẩn bị phản ứng trong những
trường hợp cần thiết. Thực ra việc nhận biết dấu diệu thay đổi của cơ thể có thể
21


là dễ dàng với mọi người, tuy nhiên việc chuẩn bị những phản ứng hành vi có
thể có hoặc khơng xảy ra với từng hoàn cảnh cụ thể.
Bước 2: nhận diện (hiểu lý do nảy sinh cảm xúc và gọi tên cảm xúc)
Khi có những dấu hiệu ban đầu về mặt cơ thể báo hiệu những cảm xúc có
thể nảy sinh thì điều quan trọng thứ hai là chúng ta cần nhận ra được lý do (tình
huống, sự kiện, kích thích) làm nảy sinh cảm xúc đó và gọi tên được cảm xúc
của mình đang trải nghiệm.
Ví dụ: giáo viên có cảm xúc hạnh phúc (hệ quả) vì học sinh đạt được
thành tích cao trong kỳ thi tốt nghiệp (sự kiện/tình huống) hay vì học sinh trong
lớp nói chuyện riêng nhiều (sự kiện/tình huống) khiến giáo viên buồn (hệ quả).
Nhận diện cảm xúc là nhận ra được các dạng cảm xúc hiện thời của bản
thân. Các nhà tâm lý học đã chỉ ra rằng, các cảm xúc của cá nhân được biểu lộ
trên khuôn mặt và trong các điệu bộ, cử chỉ và các trạng thái khác của cơ thể
(run, tốt mồ hơi, mặt đỏ, trương lực cơ căng.....). Nhận dạng cảm xúc trước hết
thông qua các biểu hiện trên khuôn mặt, điệu bộ và sắc thái biểu cảm của cơ thể,
có thể phán đốn được các trạng thái cơ bản của cảm xúc của mình hay của
mình hay của người khác; cũng như phát hiện ra mức độ, cường độ của các cảm
xúc đó (là bình thường, yếu hay rất mạnh mẽ, dữ dội).
Gọi tên cảm xúc là chỉ ra chính xác cảm xúc mà cá nhân đang trải
nghiệm là gì, bởi nếu khơng thể gọi tên chúng ta cũng khơng thể thay đổi được
nó. Việc nhận diện được tình huống gây ra cảm xúc hiện tại của mình thể hiện
chủ thể nhận thức được tình huống gây ra cảm xúc của mình và việc gọi tên
được cảm xúc mà mình đang có cho thấy chủ thể ý thức được cảm xúc mà mình

đang trải nghiệm. Khi chủ thể gọi tên/xác định cảm xúc mà mình đang trải
nghiệm cũng là lúc chủ thể biết được cảm xúc đó là tích cực hay tiêu cực, là cảm
xúc mong muốn hay khơng mong muốn để đối diện với nó chứ khơng sợ hãi hay
chối bỏ.
Bước này có thể chỉ là ý nghĩ thống qua những cũng giúp cho mỗi cá
nhân có được khoảng thời gian quí giá để bình tĩnh hơn hoặc là “bừng tỉnh” để
lựa chọn một cách ứng phó với cảm xúc không mong muốn một cách thông
minh và hiệu quả nhất. Ví dụ: học sinh mắc lỗi mà khơng gọi tên được cảm xúc
của mình là “xấu hổ” hay “tội lỗi” thì sẽ khơng biết cách làm thế nào để ứng phó
với cảm xúc đó được, mà sẽ tìm cách chối bỏ, chạy trốn, đỗ lỗi khiến cho vấn đề
trở nên nghiêm trọng hơn.
Ngoài ra, việc phân tích và nhận diện tình huống cũng giúp cho cá nhân
thêm một lần nữa hiểu hơn về cơ chế nảy sinh hay các yếu tố ảnh hưởng đến
cảm xúc hiện tại của bản thân, từ đó có thể điều chỉnh theo hướng tích cực hơn.
22


Bởi dưới góc độ trị liệu tâm lý, việc hiểu về nguyên nhân gây ra cảm xúc hiện
tại, gọi tên được cảm xúc, phân biệt được cảm xúc đó với những cảm xúc khác
cũng là sự thừa nhận cảm xúc đó đang hiện hữu chứ khơng cố gắng “gạt” cảm
xúc đó ra hay giả vờ như chúng khơng hề tồn tại. Đây là bước quan trọng của
việc thấu hiểu cảm xúc, chỉ khi thấu hiểu thì chúng ta mới có thể thốt ly và thay
đổi cảm xúc đó được.
Bước 3: thực hiện cách thức kiểm sốt cảm xúc
Có thể thấy bất kỳ cảm xúc nào được nảy sinh cũng do yếu tố nhận thức
khác nhau về cùng một sự kiện/tình huống/con người. Vì thế, chúng ta có thể
quản lý được cảm xúc của bản thân thông qua việc thay đổi các tác nhân bên
trong (nhận thức) hay các yếu tố địa lý (không gian, thời gian, hoạt động... )
bằng các cách thức, kỹ thuật sau:
- Điều chỉnh nhận thức:

Dưới góc độ tâm lý học, đời sống tâm lý cá nhân gồm ba mặt hoạt động
lớn gồm nhận thưc, thái độ (cảm xúc) và hành vi, cả ba mặt này có mối quan hệ
gắn bó và ảnh hưởng qua lại với nhau. Nhận thức sẽ là giai đoạn đầu tiên giúp cá
nhân có được hiểu biết, tri thức về sự vật - hiện tượng, từ đó cá nhân có Thể có
những thái độ rung động khác nhau và dẫn đến phản ứng hành vi riêng
- Cách thức về hoạt động: thay đổi hoạt động
Cũng với mối quan hệ ảnh hưởng qua lại của 3 mặt cơ bản trong đời sống
tâm lý con người: nhận thức - thái độ - hành vi, sự thay đổi hành vi/hoạt động
cũng có thể dẫn đến sự thay đổi về cảm xúc.
Ví dụ: khi đang trải nghiệm cảm xúc buồn, lo lắng thì việc tìm đến những
hoạt động mang tính “động” như đi chơi cùng bạn bè, nói chuyện với người
thân, chơi thể thao sẽ khiến thay đổi sự chú ý và tạo hứng thú từ đó giúp cho
cảm xúc buồn, lo lắng giảm bớt đi.
Viết nhật ký hay chỉ là việc viết ra những điều khiến chúng ta cảm thấy
khó chịu, bực mình, chán nản, đau khổ cũng là cách để giải tỏa cảm xúc đang
trải nghiệm, nhưng đồng thời việc viết ra cũng là cơng cụ giúp chúng ta một lần
nữa nhìn lại những suy nghĩ, cảm xúc, hành vi của mình và thấy cần phải thay
đổi gì khơng.
- Các kỹ thuật và biện pháp khác:
+ Thư giãn (hít thở sâu): một trong những cách kiểm sốt cảm xúc của
chính mình là học cách hít thở đúng cách và hiệu quả. Khi những cảm xúc tiêu
cực và âm tính nảy sinh để có thể khiến cảm xúc đó “hạ nhiệt” ngay lập tức thì
kỹ thuật thư giãn (hít thở sâu) sẽ giúp ích tại thời điểm đó. Kỹ thuật hít thở bằng
cơ hồnh đều sẽ giúp chúng ta bình tĩnh hơn khi đối diện với cảm xúc tức giận
23


hay sự lo lắng, sợ hãi bởi cách hít thở này sẽ cung cấp thêm một lượng oxy
đáng kể cho cơ thể, giúp nhịp tim bình ổn lại và gửi tín hiệu đến não bộ rằng
“bình tĩnh, mọi việc sẽ có cách giải quyết”. Phản ứng thay đổi sinh lý khi cơ thể

trải nghiệm cảm xúc nào đó là bình thường như căng thẳng, tức giận, lo lắng
khiến nhịp tim đập nhanh, khó thở hơn song cũng là dấu hiệu cho thấy cơ thể
cần thêm nhiều oxy vì thế chúng ta nên hít thở thật sâu để đưa nhiều oxy vào
phổi nhất có thể giúp tăng tuần hồn máu và giúp chúng ta bình tĩnh hơn.
+ Đếm số: sử dụng kỹ thuật đếm từ 1 đến 10, 20, 30 cũng rất hiệu quả khi
phải đối diện với những cảm xúc tiêu cực, âm tính và đặc biệt khi cá nhân cảm
thấy khó có thể tự chủ với những cảm xúc này.
+ Sử dụng thời gian tạm lắng/thay đổi vị trí địa lý: đây là kỹ thuật nên
được sử dụng khi cá nhân đang trải nghiệm cảm xúc tiêu cực như sự căng thẳng,
lo lắng, sợ hãi, tức giận và cảm thấy sắp khơng thể kiểm sốt được những cảm
xúc đó thì cần dùng kỹ thuật sử dụng thời gian tạm lắng tức là cho phép mình
thốt khỏi cảm xúc hiện tại, khỏi bối cảnh gây cho mình cảm xúc hiện tại như đi
ra khỏi căn phòng, đến một vị trí khiến cho bạn cảm thấy dễ chịu và thoải mái
hơn để có thể lắng lại và tự kiểm sốt mình tốt hơn.
+ Kỹ thuật self - talk (tự nói với bản thân mình): kỹ thuật này được thực
hiện như một cách để cá nhân điều chỉnh những cảm xúc mà mình đang trải
nghiệm. Thơng thường khi cảm xúc nảy sinh sẽ có “tiếng nói và lý lẽ riêng của
nó” vì thế đôi khi cảm xúc bột phát khiến cá nhân sẽ khó kiểm sốt hành vi và
phản ứng sau đó của mình. Do vậy, khi cảm xúc chuẩn bị lên đến cao trào, cá
nhân thấy mình chuẩn bị khơng thể tự chủ được thì nên sử dụng kỹ thuật “tự nói
với bản thân mình” tức là tự nói thầm với bản thân những câu nói như “liệu có
đáng (nổi giận, lo lắng, sợ hãi) thế không?” hay “tức giận/lo lắng/sợ hãi ...có
cần thiết lúc này?” hay “có cách nào thỏa đáng hơn không?” hay “sự việc đã
xảy ra rồi liệu có thay đổi được khơng?”. Việc tự nói với bản thân cũng là một
trong những kỹ thuật để giúp chúng ta đối diện với cảm xúc hiện tại, ý thức về
nó, hiểu về cảm xúc đó để khơng bị cảm xúc đó dẫn lối và điều khiển phản ứng
hành vi tiếp theo một cách bản năng. Ngược lại, khi đối diện một cách có ý thức
với cảm xúc đang trải nghiệm, cá nhân sẽ định hướng và chủ động lựa chọn cách
phản ứng phù hợp nhất.
+ Sử dụng sự hài hước: trong quá trình dạy học và giáo dục những tình

huống có thể nảy sinh bất ngờ giáo viên khó có thể kiểm sốt cảm xúc nảy sinh
của mình. Nhưng mục đích chính của giáo dục là làm thay đổi nhận thức, thái
độ, hành vi của học sinh theo hướng tích cực hơn, nhất là trong xu thế đổi mới
giáo dục phổ thông, các biện pháp giáo dục kỷ luật tích cực được đề cao thay vì
24


trách phạt cần dùng biện pháp động viên, khuyến khích trẻ nhiều hơn. Những
tình huống nảy sinh trong dạy học và giáo dục có thể khiến giáo viên và học
sinh có những cảm xúc khơng mong muốn, tuy nhiên cả giáo viên và học sinh có
thể tìm ra yếu tố hài hước trong tình huống để hóa giải hoặc giảm bớt những
cảm xúc tiêu cực ở cả hai bên.
Ví dụ: khi học sinh trêu thầy giáo dạy tốn có tên Huy và bị cận bằng cách
dán giấy vào sau lưng thầy giáo có chữ viết “Huy Cận”. Khi biết học sinh trêu
mình, thay vì tức giận và trừng phạt học sinh, thầy giáo cười với cả lớp và nói
“Cảm ơn các em đã cho thầy có tên giống nhà thơ Huy Cận nổi tiếng! Giá mà
thầy có biệt tài văn thơ giống Huy Cận thì tốt biết mấy nhỉ. Nghe thế, cả lớp
cười lớn, hơm đó lớp có tiết học rất vui vẻ”.
+ Thay đổi chú ý: cũng giúp chúng ta kiểm soát cảm xúc hiệu quả hơn,
nhất là với những cảm xúc có cường độ mạnh như: tức giận, lo âu. Thay đổi sự
chú ý là sự chuyển mục tiêu tri giác một cách có chủ ý sang đối tượng khác để
tạo khoảng thời gian cho cảm xúc “lắng” xuống cũng như tránh các phản ứng
hành vi tiêu cực.
Ví dụ: tưởng tượng đến một nơi, khung cảnh yên bình hay về kỷ niệm mà
đã mang lại cho bạn những cảm xúc tích cực/dương tính trong quá khứ cũng có
tác dụng làm dịu những cảm xúc hiện tại mà bạn đang trải nghiệm (đặc biệt là
những cảm xúc có cường độ mạnh như tức giận, lo âu).
+ Ngừng suy nghĩ: kỹ thuật này có thể áp dụng để “cắt” ngang dịng suy
nghĩ tiêu cực dẫn đến cảm xúc gây khó chịu với cá nhân. Khi đang đắm chìm
vào suy nghĩ lý giải về sự kiện, chúng ta có xu hướng làm cho cường độ cảm

xúc tiêu cực tăng lên hay thậm chí khiến nảy sinh những cảm xúc tiêu cực khác,
ngừng suy nghĩ về câu chuyện đang khiến mình trải nghiệm cảm xúc hiện tại để
chủ động hướng tới một câu chuyện khác. Kỹ thuật này là “Ngừng suy nghĩ”
chứ khơng phải là “Khơng suy nghĩ” bởi dù thứ gì đeo bám bạn thì cũng ln có
những suy nghĩ thay thế.
Ví dụ: khi giáo viên đau khổ và buồn bã vì bị đồng nghiệp xa lánh và nói
xấu mà u cầu giáo viên không nghĩ về việc bị xa lánh và khơng nên có những
cảm xúc trên thì khả năng giáo viên thực hiện được là rất khó, thậm chí giáo
viên đó càng nghĩ nhiều và đau khổ hơn. Trong trường hợp này, “ngừng suy
nghĩ” có thể hướng dẫn giáo viên nghĩ về hướng khác như có cách nào để mình
có thể xây dựng mối quan hệ với đồng nghiệp hay khơng? Có thể nhờ đến sự trợ
giúp của ai? hoặc nghĩ về những lý do khiến mình bị xa lánh và tìm ra những
giải pháp thay thế cho những lý do đó để giải quyết được vấn đề và giải tỏa cảm
xúc hiện tại.
25


×