Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Ngôn ngữ và giọng điệu nghệ thuật trong văn xuôi tạ duy anh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (712.36 KB, 74 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN

----------------

HOÀNG THỊ THÁI

NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU NGHỆ THUẬT
TRONG VĂN XUÔI TẠ DUY ANH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH SƯ PHẠM NGỮ VĂN

Đà Nẵng, tháng 5/ 2014


ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN

----------------

NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU NGHỆ THUẬT
TRONG VĂN XUÔI TẠ DUY ANH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH SƯ PHẠM NGỮ VĂN

Người hướng dẫn:
PGS.TS. Nguyễn Phong Nam



Người thực hiện:
HỒNG THỊ THÁI
(Khóa 2010 – 2014)

Đà Nẵng, tháng 5/ 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Phong Nam. Tôi xin chịu trách nhiệm về nội
dung khoa học của cơng trình này.

Đà Nẵng, Ngày 30 tháng 5 năm 2014
Sinh viên thực hiện

Hoàng Thị Thái


TRANG GHI ƠN

Tơi xin trân trọng bày tỏ lịng cảm ơn chân thành
đến thầy giáo PGS.TS Nguyễn Phong Nam – người đã
nhiệt tình, chu đáo hướng dẫn tơi hồn thành khóa luận
này. Tơi xin cảm ơn các thầy cơ giáo trong khoa Ngữ
văn, trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng đã giúp đỡ tơi
trong q trình thực hiện đề tài.
Mặc dù có nhiều cố gắng song do trình độ cịn hạn
chế nên khơng tránh khỏi những thiếu sót, tơi rất mong

nhận được sự đóng góp chân thành của thầy cơ, bạn bè để
đề tài được hoàn thiện hơn.

Đà Nẵng, Ngày 30 tháng 5 năm 2014
Sinh viên thực hiện
Hoàng Thị Thái


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ............................................................................ 2
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................................... 4
4. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 5
5. Bố cục của khóa luận .................................................................................... 5
CHƯƠNG 1. HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT CỦA TẠ DUY ANH.. 6
1.1. Tạ Duy Anh - cây bút sung sức của văn xuôi Việt Nam đương đại .......... 6
1.1.1. Tạ Duy Anh - chân dung một nhà văn đa tài .......................................... 6
1.1.2. Quan niệm nghệ thuật của Tạ Duy Anh.................................................. 8
1.2. Tạ Duy Anh với hành trình đổi mới văn xuôi Việt Nam sau 1975 ......... 11
1.2.1. Văn xuôi Tạ Duy Anh trong dịng chảy văn xi Việt Nam đương đại ... 11
1.2.2. Tạ Duy Anh và những cách tân nghệ thuật trong văn xi .................. 15
CHƯƠNG 2. NGƠN NGỮ NGHỆ THUẬT - NÉT ĐỘC ĐÁO TRONG VĂN
XUÔI TẠ DUY ANH ..................................................................................... 23
2.1. Đặc điểm ngôn ngữ nghệ thuật trong văn xuôi Tạ Duy Anh ................... 23
2.1.1. Ngôn ngữ đậm chất hiện thực – đời thường ......................................... 24
2.1.2. Ngôn ngữ dồn nén thông tin, tăng cường tốc độ................................... 28
2.1.3. Nét đặc sắc trong ngôn ngữ đối thoại ................................................... 31
2.2. Tư tưởng nghệ thuật thể hiện qua nhan đề và lời chú giải....................... 34
2.2.1. Nhan đề truyện ...................................................................................... 34

2.2.2. Chú giải – lời biện hộ của nhân vật....................................................... 37
CHƯƠNG 3. GIỌNG ĐIỆU NGHỆ THUẬT TRONG VĂN XUÔI TẠ DUY
ANH ................................................................................................................ 41
3.1. Các sắc thái giọng điệu trong văn xuôi Tạ Duy Anh ............................... 41


3.1.1. Giọng suy ngẫm - triết lí ....................................................................... 42
3.1.2. Giọng hoài nghi - chất vấn .................................................................... 45
3.1.3. Giọng trào phúng - giễu nhại ................................................................ 48
3.1.4. Giọng vô âm sắc .................................................................................... 51
3.2. Nhịp điệu trần thuật – một yếu tố quan trọng trong văn xuôi Tạ Duy Anh . 54
3.2.1. Tốc độ trần thuật trong văn xuôi Tạ Duy Anh ...................................... 55
3.2.2. Nhịp điệu trần thuật và kết cấu vòng tròn khép kín trong Lão Khổ ..... 56
3.2.3. Nhịp điệu trần thuật và kết cấu mở trong Đi tìm nhân vật ................... 58
3.2.4. Nhịp điệu trần thuật và kết cấu vòng xoáy ốc trong Thiên thần sám hối.. 60
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 63
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................... 65


1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Tạ Duy Anh xuất hiện khi trên văn đàn đã có nhiều tác giả khẳng định
được tên tuổi như: Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Hồ Anh Thái… Tuy
vậy, với tài năng và ý thức sáng tạo nghệ thuật của mình, Tạ Duy Anh đã
nhanh chóng hịa nhập với nền văn học dân tộc và được đánh giá là một “mẫu
nhà văn của thời đại mới: nghiêm túc và tỉnh táo” trong sáng tác văn chương.
Lão Khổ (1992), Đi tìm nhân vật (2002), Thiên thần sám hối (2004) và

Tập truyện ngắn chọn lọc (2008) là những sáng tác tiêu biểu cho phong cách
nghệ thuật Tạ Duy Anh. Nếu như nội dung đưa độc giả đến với hiện thực xã
hội và số phận con người, thì phương diện nghệ thuật giúp chúng ta nhận thấy
bút pháp sáng tạo văn chương độc đáo của tác giả. Những thành cơng đó đã
xây dựng nên một thế giới nghệ thuật đặc sắc và khẳng định tên tuổi của ông
trên văn đàn dân tộc.
Như vậy, phương diện nghệ thuật là yếu tố quyết định đến sự thành
công trong những sáng tác văn chương nghệ thuật. Khi đi sâu vào tìm hiểu đề
tài “Ngơn ngữ và giọng điệu nghệ thuật trong văn xuôi Tạ Duy Anh”, chúng
tôi muốn khẳng định thêm giá trị những sáng tác của Tạ Duy Anh trong dịng
chảy văn học Việt Nam đương đại.
Chúng tơi chọn đề tài này vì khi đi sâu vào nghiên cứu, chúng tơi sẽ có
cơ hội tìm hiểu sâu hơn những đặc sắc về ngôn ngữ và giọng điệu trong văn
xuôi Tạ Duy Anh để xác định bút pháp và phong cách nghệ thuật của ơng.
Bên cạnh đó, nếu việc tìm hiểu đề tài này thành công, chúng tôi hi vọng sẽ
đóng góp những phát hiện mới hơn về đặc sắc nghệ thuật Tạ Duy Anh vào
lĩnh vực nghiên cứu văn học.
Trên đây là những lí do đã thơi thúc chúng tơi đi sâu tìm hiểu đề tài


2
“Ngôn ngữ và giọng điệu nghệ thuật trong văn xuôi Tạ Duy Anh”.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Tạ Duy Anh là một nhà văn hiện đại có nhiều đóng góp quan trọng vào
sự phát triển và đổi mới trong giai đoạn hiện nay của nền văn học dân tộc.
Chính sự thành công về cả nội dung lẫn nghệ thuật trong ba tập tiểu thuyết
Lão Khổ, Đi tìm nhân vật, Thiên thần sám hối và Tập truyện ngắn chọn lọc
mà có rất nhiều cơng trình nghiên cứu của giới phê bình văn học đã khơi sâu
những “địa tầng” mới của văn xi Tạ Duy Anh.
Đầu tiên, có thể kể đến chia sẻ với những phát hiện đầy mới mẻ và

thuyết phục của nhà nghiên cứu Vũ Lê Lan Hương trong bài viết “Thế giới
nhân vật trong sáng tác của Tạ Duy Anh”: “Với ba cuốn tiểu thuyết Lão Khổ,
Đi tìm nhân vật, Thiên thần sám hối, Tạ Duy Anh đang được coi là cây bút
sung sức, mặc dù có người xem đây chỉ là những thể nghiệm của nhà văn,
nhưng không thể phủ nhận tác phẩm của ông đã tạo ra một “từ trường” có sức
hấp dẫn riêng nhờ chiều sâu tư tưởng và nhiều phương thức biểu đạt liên
thông và hết sức ấn tượng” [13, tr.144]. Với chia sẻ này, chúng ta thấy được
những thành công trên nhiều phương diện trong những sáng tác của Tạ Duy
Anh.
Khi Đoàn Thanh Liêm nghiên cứu về “Dấu ấn hậu hiện đại” trong tiểu
thuyết Tạ Duy Anh cũng đã có nhận định làm sáng rõ vai trò của Tạ Duy Anh
trong sự cách tân nghệ thuật: “Đối với lĩnh vực tiểu thuyết, từ Lão Khổ đến
Giã biệt bóng tối là một q trình làm mới khơng ngừng nghỉ… Có được
những thành tựu độc đáo ấy, Tạ Duy Anh đã không ngừng đổi mới, tự nhận
thức để biến nghệ thuật thành một hiện thực thứ hai mang tính quan niệm
riêng, phù hợp với cảm thức, tâm thức con người hiện đại” [20, tr.169-170].
Như vậy, để sáng tạo nên những sản phẩm nghệ thuật chân chính và mang
hiệu quả cao, thu hút sự đón nhận của độc giả, đòi hỏi người nghệ sĩ phải trải


3
qua một q trình lao động nghệ thuật khơng ngừng nghỉ và hết sức nghiêm
túc.
Những đổi mới mang tính nghệ thuật cao của tiểu thuyết Tạ Duy Anh
đã được đề cập trong bài viết “Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 – nhìn từ góc
độ thể loại” như sau: “Ba cuốn tiểu thuyết của Tạ Duy Anh trong vòng hơn
mười năm: Lão Khổ, Đi tìm nhân vật và Thiên thần sám hối, đều xoay quanh
một “lão Khổ” – dù tuổi tác, địa vị xã hội khác nhau, đều là con người trần
thế mà nỗi sợ giống như cái gai đâm vào da thịt ta” [16, tr.189]. Đó là những
trăn trở về số phận con người trước những ngổn ngang, bộn bề của hiện thực

cuộc sống của Tạ Duy Anh.
Vương Quốc Hùng lại tìm thấy những thành cơng đầy sự sáng tạo về
phương diện nghệ thuật qua ngòi bút tiểu thuyết của Tạ Duy Anh: “Qua hơn
20 năm cầm bút, Tạ Duy Anh vẫn ln ln trăn trở tìm cách đổi mới tư duy,
quan niệm nghệ thuật, làm mới tác phẩm từ nội dung tới hình thức, từ ngơn
ngữ tới cấu trúc. Chính những điều đó khiến các tác phẩm của ơng lúc ra đời,
đi vào cuộc sống chưa bao giờ chấm dứt tranh cãi” [35]. Với nhận định trên,
chúng ta càng thấy rõ sự nghiêm túc trong quá trình sáng tạo nghệ thuật của
Tạ Duy Anh. Ơng khơng cho phép mình có sự hời hợt trong ngịi bút, mà ln
tự ý thức những giá trị mà mình phải đạt được khi sáng tác nghệ thuật.
Khi nghiên cứu về “Nhân vật tiểu thuyết Tạ Duy Anh”, tác giả Võ Thị
Thanh Hà đã nhận ra sự đổi mới táo bạo trong quá trình sáng tạo của Tạ Duy
Anh: “Tạ Duy Anh là nhà văn có nhiều tác phẩm gây “sốt” đối với độc giả và
giới phê bình. Ln có ý thức cách tân văn học, thậm chí khiêu khích với
thẩm mỹ truyền thống, Tạ Duy Anh nhận được khơng ít sự ủng hộ cũng như
bài báo của độc giả” [32].
Tác giả Đoàn Ánh Dương cũng đã có bài viết khá sắc sảo về quá trình
đổi mới tư duy nghệ thuật của Tạ Duy Anh trong hành trình sáng tạo: “Tạ


4
Duy Anh đã “bước qua” tiểu thuyết trong tham vọng đào sâu vào hiện thực
rộng lớn của những “lời nguyền”. Sự tăm tối của đời sống tâm hồn con người
trở thành chủ âm trong sáng tác của Tạ Duy Anh. Vấn đề nhân tính, thân phận
đã được soi chiếu từ chiều sâu bản thể, hiện sinh, phi lí chứ khơng thuần chất
romantic như ở những tác phẩm đầu tay” [11, tr.97]. Như vậy, tiểu thuyết là
thể loại đã thể hiện rõ nhất tài năng văn chương của Tạ Duy Anh, nó giúp ơng
bộc lộ những quan điểm, nhận định của mình về cuộc sống và con người một
cách sâu sắc và chân thực nhất.
Qua khảo sát những cơng trình nghiên cứu trên, chúng tôi nhận thấy

các tác giả hầu như đã nêu bật được những thành công trong tiểu thuyết của
Tạ Duy Anh, đặc biệt là những nét đặc sắc về phương diện nội dung và nghệ
thuật. Tuy nhiên, chúng tơi chưa tìm thấy cơng trình nào nghiên cứu một cách
tổng thể và sâu sắc về ngôn ngữ và giọng điệu nghệ thuật trong ba tiểu thuyết
xuất sắc của ông là Lão Khổ, Đi tìm nhân vật và Thiên thần sám hối và Tập
truyện ngắn chọn lọc. Chính vì lẽ đó, chúng tơi quyết định đi sâu vào nghiên
cứu đề tài “Ngôn ngữ và giọng điệu nghệ thuật trong văn xuôi Tạ Duy Anh”
với hi vọng, nếu đề tài thành cơng sẽ giúp độc giả có một cái nhìn khái quát
hơn về một số đặc sắc nghệ thuật văn xuôi của ông.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Với mong muốn khám phá những nét đặc sắc về nghệ thuật trong các
sáng tác của Tạ Duy Anh, nên chúng tôi tập trung vào việc nghiên cứu đối
tượng: “Ngôn ngữ và giọng điệu nghệ thuật trong văn xuôi Tạ Duy Anh”.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Với đề tài: “Ngôn ngữ và giọng điệu nghệ thuật trong văn xuôi Tạ Duy
Anh”, chúng tôi tập trung nghiên cứu ba tiểu thuyết của Tạ Duy Anh: Lão
Khổ, Đi tìm nhân vật, Thiên thần sám hối và Tập truyện ngắn chọn lọc.


5
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp hệ thống - cấu trúc
Để đáp ứng yêu cầu của đề tài, chúng tôi sử dụng phương pháp hệ
thống – cấu trúc nhằm tìm hiểu tất cả những đặc điểm và nội dung và nghệ
thuật trong ba bộ tiểu thuyết Lão Khổ, Đi tìm nhân vật, Thiên thầm sám hốivà
Tập truyện ngắn chọn lọc rồi rút ra những nét nổi bật trong ngôn ngữ và
giọng điệu nghệ thuật của Tạ Duy Anh.
4.2. Phương pháp phân tích – tổng hợp
Chúng tơi chia tách các yếu tố của ngôn ngữ và giọng điệu trong văn

xuôi Tạ Duy Anh thành nhiều khía cạnh, bộ phận khác nhau, rồi đi sâu vào
phân tích, tìm hiểu nhằm phát hiện và lí giải những giá trị của nó. Từ đó đi
đến khẳng định những đặc sắc trong văn xi Tạ Duy Anh.
4.3. Phương pháp so sánh – đối chiếu
Trong đề tài này, chúng tôi sử dụng phương pháp so sánh – đối chiếu
để tìm ra những điểm chung trong những tác phẩm văn xuôi, đồng thời phát
hiện ra những nét mới trong quá trình sáng tạo của Tạ Duy Anh.
4.4. Phương pháp diễn dịch
Sau khi tìm ra những đặc điểm của ngôn ngữ và giọng điệu trong văn
xuôi Tạ Duy Anh, chúng tôi sử dụng phương pháp diễn dịch, tức là phân tích
chúng theo một trình tự khách quan nhằm giúp độc giả có cái nhìn hồn thiện
về vấn đề này.
Ngồi ra, để phục vụ cho q trình nghiên cứu, chúng tơi có sử dụng các
phương pháp hỗ trợ khác như: phương pháp lịch sử, phương pháp thống kê…
5. Bố cục của khóa luận
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo thì đề tài cịn có
phần Nội dung gồm 3 chương:
Chương 1: Hành trình sáng tạo nghệ thuật của Tạ Duy Anh
Chương 2: Ngôn ngữ nghệ thuật – nét độc đáo trong văn xuôi Tạ Duy Anh
Chương 3: Giọng điệu nghệ thuật trong văn xuôi Tạ Duy Anh


6
CHƯƠNG 1
HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT CỦA TẠ DUY ANH

1.1. Tạ Duy Anh – cây bút sung sức của văn xuôi Việt Nam đương đại
1.1.1. Tạ Duy Anh – chân dung một nhà văn đa tài
Nói đến văn xi Việt Nam đương đại, chúng ta không thể không nhắc
đến Tạ Duy Anh – người đã góp phần làm cho đời sống văn học dân tộc thời

kì đổi mới trở nên sôi nổi và khởi sắc hơn bao giờ hết. Văn chương của ông
mở ra những nội dung lẫn bút pháp nghệ thuật đầy tính cách tân và sáng tạo
độc đáo.
Như một quy luật, cuộc đời của mỗi nhà văn, nhà thơ dù ít hay nhiều
đều để lại những “lưu ảnh” không hề phai mờ trong sáng tác của họ. Và Tạ
Duy Anh tất nhiên không phải là ngoại lệ khi ông cho rằng: “Nhà văn nào
cũng tận dụng triệt để tiểu sử của mình khi sáng tác những cuốn máu thịt.
Thậm chí tơi cịn khơng tin rằng mỗi nhà văn thực ra chỉ viết cuốn sách về
chính anh ta” [40]. Thực tế đúng như vậy, về ký ức tuổi thơ đầy mặc cảm, về
vùng quê đầy rẫy thù hận, về người cha khắc khổ, độc đoán và cay nghiệt đã
thấm đẫm vào tâm trí nhà văn để rồi đi vào từng trang viết của ông một cách
chân thực mà tinh tế nhất.
Tạ Duy Anh là một cái tên quen thuộc đối với bạn đọc yêu văn chương,
gồm các bút danh: Chu Quý, Lão Tạ, Quý Anh,…Ông tên thật là Tạ Viết
Đãng, sinh năm 1959, tại làng Đồng Trưa (tên chữ là Cổ Hiền, sau đổi thành
An Hiền), xã Hoàng Diệu, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây cũ (nay là huyện
Chương Mỹ, thành phố Hà Nội).
Sau khi tốt nghiệp trường Trung cấp thí nghiệm đất đá, ơng về làm cán
bộ giám sát bê-tơng các cơng trình ngầm tại nhà máy thuỷ điện Hồ Bình. Tại
đây, ơng bắt đầu sự nghiệp văn chương của mình. Năm 1981, truyện ngắn đầu


7
tay của ông được đăng trên báo Lao động cùng với bút danh Tạ Duy Anh.
Không chỉ là nhà văn, ông còn từng tham gia quân đội tại Lào Cai với quân
hàm lúc xuất ngũ là trung sĩ. Hiện nay, Tạ Duy Anh là biên tập viên văn học
của Nhà xuất bản Hội Nhà văn Việt Nam.
Có thể nói, sự kiện bước ngoặt đánh dấu việc ông trở thành nhà văn
chuyên nghiệp là trở thành học viên khoá IV (1989 - 1992) trường Viết văn
Nguyễn Du. Tạ Duy Anh đã hồn thành xuất sắc khố học ở trường với vị trí

đồng thủ khoa (cùng nhà văn Võ Thị Xuân Hà). Sau khi nhận bằng cử nhân,
ông được giữ lại trường cơng tác với vị trí giảng viên bộ mơn Sáng tác tới
năm 2000.
Văn chương đến với Tạ Duy Anh như một mối lương duyên không
định sẵn: “Tôi không được chuẩn bị mảy may để trở thành nhà văn. Tôi sinh
ra ở một vùng q hẻo lánh, thấm đẫm khơng khí thù hận, cơ thể còi cọc, mặt
mũi đen đủi, xấu xí, sống với một người cha “rắn như thép”” [1, tr.410]. Và
cứ thế, Tạ Duy Anh viết văn như một “đứa con ngoài nghề”, nhưng thật bất
ngờ, “đứa con” ấy đã góp phần làm đổi mới cả một nền văn học dân tộc.
Những sáng tác đã xuất bản của Tạ Duy Anh rất phong phú và đa dạng
về thể loại. Tiểu thuyết: Khúc dạo đầu (1991), Lão Khổ (1992), Đi tìm nhân
vật (2002), Thiên thầm sám hối (2004), Giã biệt bóng tối (2008), Tập truyện
ngắn chọn lọc (2008), Tập truyện Lãng Du (2011) và rất nhiều tác phẩm
mang giá trị hiện thực sâu sắc.
Qua những sáng tác của cây bút họ Tạ ta thấy, với những bộn bề của
cuộc sống hiện thực và môi trường sống khắc nghiệt của bản thân, ơng ln
có những cái nhìn kĩ lưỡng và nghiêm túc về cuộc đời: “Sự trôi chảy của thời
gian giúp con người trưởng thành hơn. Trong những chuỗi suy nghĩ triền
miên, con người bỗng nảy ra một điều gì đó. “Sáng” là những ký ức tuổi thơ
êm đềm gắn liền với chiêm nghiệm về thế sự, “trưa” là suy nghĩ, tâm niệm về


8
nghề văn và “tối” như lạc ra khỏi chủ đề, phiếm luận về sự cập nhật của đời
sống hằng ngày. Tôi mang những suy nghĩ vào trang viết và muốn khơi gợi
cho người đọc sự liên tưởng về chính cuộc sống riêng của họ” [33].
Với những đóng góp đó của Tạ Duy Anh, người viết xin mượn lời của
tác giả Đoàn Thanh Liêm để bày tỏ sự ngưỡng vọng của mình đối với tài năng
của nhà văn họ Tạ: “Trong mạch nguồn đổi mới và phát triển của văn học dân
tộc, Tạ Duy Anh như con ong cần mẫn gom sắc hương khắp nơi kết mật ngọt

dâng đời” [20, tr.280-281].
1.1.2. Quan niệm nghệ thuật của Tạ Duy Anh
Trong một bài phỏng vấn Tạ Duy Anh đã thẳng thắn bày tỏ quan điểm
của ông về sáng tạo nghệ thuật: “Với tôi, viết văn đương nhiên là một nghề,
nó địi hỏi chun mơn sáng tác mang tính chun nghiệp cao. Tơi khơng bao
giờ cho phép mình ngồi vào bàn viết mà lại thiếu sự nghiêm túc, tỉnh táo. Khi
viết, dù là bài báo, tôi cũng chú ý từng chữ một. Bất cứ một sự buông thả nào
đều phải trả giá. Ta không nên đánh đồng sự phóng túng trong sáng tác
(phóng túng về tư tưởng, ngơn từ, trí tưởng tượng) với sự cẩu thả” [42]. Qua
đó ta thấy, Tạ Duy Anh là một mẫu nhà văn nghiêm túc với bản thân trong
từng chữ viết. Với ông, là nhà văn, nhà báo hay bất kì một nghề gì thì sự
chăm chút, cẩn thận và quan trọng nhất là lương tâm nghề nghiệp luôn phải
được đặt lên hàng đầu.
Ơng từng nói: “Tơi sẽ khơng bao giờ khoe về một tác phẩm nào đó khi
vẫn cịn một vài dịng phải sửa chữa” [38]. Vì vậy, những sáng tác chỉ mang
tính thị trường, giải trí đơn thuần mà ông viết ra đều bị cất giấu hoặc cho vào
góc tủ chứ khơng được ơng trưng diện trước người đọc. Ơng ln ám ảnh:
“Sự nng chiều của dư luận có thể ngăn cản sự sáng tạo của nhà văn” [33].
Chính vì thế, bản thân Tạ Duy Anh đã đặt ra biết bao quy tắc, luật lệ cho
mình, đứng trước dư luận thì sự nghiêm khắc ấy càng được đẩy lên cao hơn


9
lúc nào hết. Bởi, văn chương là cảm hứng, là ý tưởng và quan điểm chủ quan
của một người nên khi đi vào lịng độc giả, khơng phải lúc nào cũng được
thừa nhận và ngợi ca. Bên cạnh sự đón nhận ấy là những luồng ý kiến trái
chiều, họ chưa bằng lịng chỗ này, chưa đồng tình chỗ kia - đó mới là văn
chương. Và chính điều này đã tạo cho Tạ Duy Anh một thói quen rất tích cực,
là ln ln tự vấn để tìm ra những hướng đi mới, những cách viết mới phù
hợp với thị hiếu của công chúng đương thời.

Nam Cao phát biểu một tuyên ngôn nghệ thuật để đời: “Văn chương
không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho.
Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tịi, khơi những
nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có”. Với sự phát triển của
văn học Việt Nam qua từng giai đoạn, có thể thấy, chân lí sáng tạo nghệ thuật
ấy khơng hề lỗi thời hay mai một theo năm tháng, ngược lại, càng ngày nó
càng được các nhà văn trẻ vận dụng một cách nhuần nhị trong văn phẩm của
mình. Đến với Tạ Duy Anh, ông đã phát huy tư tưởng ấy một cách triệt để
trong những tác phẩm đầy tính sáng tạo nghệ thuật. Là một nhà văn chân
chính, ơng ln ý thức sự tìm tịi, đổi mới và khơng lúc nào không nghĩ về sự
thay đổi, thay đổi để tiếp tục sáng tạo, dù có gặp những sự bài xích đi chăng
nữa, để rồi mỗi cuốn sách lại có một cuộc đời riêng mang phong cách chính
mình.
Minh chứng cho thái độ sáng tác đầy nghiêm túc ấy là hàng loạt tác
phẩm ra đời với những bước tiến quan trọng cả về phương diện nội dung lẫn
nghệ thuật. Nếu như những tác phẩm trong khoảng thời gian ông đang làm
việc tại công trường thủy điện chỉ mang tính ghi chép hiện thực và khơng có
sự trau chuốt của nghệ thuật thì đến với “Bước qua lời nguyền” - tác phẩm
được lấy để đặt tên cho một giai đoạn văn học nước nhà đã đánh dấu một
bước phát triển mới của cây bút đầy tài năng này. Từ đó, hàng loạt tác phẩm


10
ra đời và được sự đón nhận nồng nhiệt của độc giả, sự đánh giá cao của giới
phê bình văn học.
Là một nhà văn mới bước vào nghề, nhưng sự nghiệp sáng tác của cây
bút họ Tạ đã gặt hái được những thành cơng rực rỡ. Để có được thành quả lao
động đáng tự hào ấy, Tạ Duy Anh luôn nhắc mình phải thực sự nghiêm túc và
tỉnh táo trên hành trình sáng tạo nghệ thuật của mình. Ơng cho rằng: “Nghệ
thuật chỉ nên một mình, anh chỉ có giá trị khi anh đi, anh tạo ra con đường của

riêng anh. Tất cả cùng đi trên một con đường thì vơ nghĩa”. Có thể thấy, Tạ
Duy Anh ln đề cao tính sáng tạo của văn chương, bởi vì nó phải là cái gì đó
mang lại cảm giác rất gần gũi, chân thực mà lại rất mới mẻ, có vẻ xa lạ với
bạn đọc. Hiện thực là sợi dây chắp cánh cho những cánh diều văn học bay
bổng trên không trung và bất kì một nhà văn nào cũng đều phải dựa vào hiện
thực ấy để sáng tác. Tuy nhiên, nếu ai cũng viết như nhau về một dịng sơng,
cánh đồng, miền q… thì đâu cịn gì hấp dẫn bạn đọc. Với độc giả, mỗi khi
tiếp nhận một văn phẩm, họ luôn yêu cầu và mong muốn được khám phá một
nội dung mới, khía cạnh mới của cùng một vấn đề. Để đáp ứng yêu cầu này,
văn chương đòi hỏi người sáng tác phải thực sự biến những vốn sống và kinh
nghiệm của mình thành những chân lí nghệ thuật.
Trên hành trình sáng tạo nghệ thuật, nhà văn họ Tạ ln tâm niệm rằng:
một tác phẩm chân chính thì sẽ phải trải qua những thử thách khắc nghiệt của
bạn đọc theo thời gian. Tuy nhiên, ơng cũng bày tỏ ý chí của mình về những
cái được và mất mà dư luận tạo ra cho những đứa con tinh thần ấy: “Tôi
không quan tâm nhiều đến dư luận. Nếu chỉ vì nhiều người khơng hiểu mà từ
bỏ con đường mình đã chọn thì cũng đồng nghĩa người cầm bút tự vứt bỏ sự
sáng tạo. Rất nhiều nhà văn đương thời bị coi là những kẻ dở hơi, nhưng sau
vài trăm năm, khi đã có độ lùi của thời gian, họ lại có tầm vóc lớn trong lịng
nhiều thế hệ độc giả. Khi viết, tơi ln tâm niệm mình đang tạo ra một tác


11
phẩm thật sâu sắc, mọi cái phi lí cuối cùng chỉ để phản ánh hiện thực hữu lí
mà thơi” [33]. Có nghĩa rằng, ơng sẽ sáng tạo theo những xúc cảm và cách
nhìn của bản thân, và tất nhiên đó phải là những sự sáng tạo chân chính và
mang tính nghệ thuật cao. Những sáng tác chưa được chấp nhận ngay từ khi
“sinh ra” khơng đồng nghĩa với việc đó là những sáng tác khơng có giá trị, mà
việc khẳng định ấy cần qua sự thử thách của thời gian và sự đổi mới trong
cách tiếp nhận của độc giả. Bởi, nhà văn đi trước thời đại là nhà văn ln sáng

tạo ra những chân lí có tính dự cảm cao. Lão Khổ, Đi tìm nhân vật, Thiên thần
sám hối và Tập truyện ngắn chọn lọc cùng một số sáng tác khác của ông là
những tác phẩm như vậy. Qua đó, ta thấy, “khát vọng khơi mở một mơ hình
mới, một bút pháp mới là trăn trở với nghề của Tạ Duy Anh” [13, tr.150].
Trên hành trình đi tìm kiếm những điều mới lạ, nhà văn họ Tạ luôn tự
khẳng định mình bằng những tìm tịi nghệ thuật riêng và ông không bao giờ
tự thỏa mãn với những thành công mà mình đã đạt được. Ơng ln nghĩ “thỏa
mãn là tự giết chết sự sáng tạo, là cái chết của nghệ thuật”. Có thể nói ơng là
người ln thích “lao vào bụi rậm”, hăm hở chinh phục những nẻo đường mới
dẫu biết rằng đó là những nẻo đường mà người khơn ngoan tránh đi vào,
nhưng đó mới là thể hiện quan niệm trong sáng tác của mình.
Chính vì vậy, Tạ Duy Anh xứng đáng được vinh danh là một trong
những cây bút trẻ sung sức và có khả năng sáng tạo mạnh mẽ với những thể
nghiệm táo bạo trong nền văn xuôi Việt Nam đương đại.
1.2. Tạ Duy Anh với hành trình đổi mới văn xi Việt Nam sau 1975
1.2.1. Văn xi Tạ Duy Anh trong dịng chảy văn xi Việt Nam đương đại
Văn học là bức tranh phản ánh cuộc sống chân thực nhất theo từng thời
kì. Vì thế, những thay đổi của xã hội đã trở thành nhân tố tác động mạnh mẽ
đến sự hình thành và phát triển của một giai đoạn văn học.
Đại thắng mùa xuân năm 1975 là cột mốc lịch sử quan trọng của dân


12
tộc ta. Nó khơng chỉ có ý nghĩa về chính trị xã hội mà còn ảnh hưởng lớn đến
nền văn học nước nhà. Dân tộc được giải phóng, nhân dân được hưởng tự do,
và văn học cũng được “cởi trói” khỏi những ràng buộc của hệ tư tưởng cũ.
Đúng như tinh thần của Đại hội VI: “Đổi mới tư duy, nhìn thẳng sự thật nói
đúng sự thật” [16, tr.14] đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc đổi mới tư duy
văn học nghệ thuật, đưa nền văn học nước nhà tiến những bước xa hơn, cao
hơn.

Bước ra khỏi những cuộc chiến khốc liệt với sự đau thương, mất mát và
hi sinh, bây giờ con người trở về với muôn mặt của đời thường và phải đối
mặt với bao nhiêu vấn đề trong một giai đoạn có nhiều biến động, đổi thay
trên mọi mặt của xã hội. Chính điều đó tạo điều kiện thuận lợi để các nhà văn
có thể thâm nhập vào mọi ngõ ngách của đời sống tinh thần con người. Họ
chuyển tải những vấn đề của cuộc sống đa chiều kích vào tác phẩm một cách
tự nhiên và chân thật nhất. Để làm được điều này, văn nghệ sĩ phải “tìm tịi,
sáng tạo, khuyến khích và u cầu có những thể nghiệm mạnh bạo và rộng rãi
trong sáng tạo nghệ thuật, phát triển các loại hình và thể loại nghệ thuật, các
hình thức biểu hiện” [9, tr.15]. Có nghĩa rằng, nhà văn phải “lấy yêu cầu hiện
thực làm thước đo của sự tiến bộ nghệ thuật. Bức tranh hiện thực trở thành
mục đích của sự phản ánh nghệ thuật” [9, tr.18]. Đồng thời, người cầm bút
phải xóa dần câu hỏi “Ta vì ai?”, thay vào đó là tìm cách để trả lời câu hỏi
“Ta là ai?” trong quá trình sáng tạo.
Hàng loạt tác phẩm ra đời, tiêu biểu ở thể loại tiểu thuyết: Thời xa vắng
(Lê Lựu), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Bến không chồng (Dương
Hướng), Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng),… Những tác giả truyện
ngắn xuất sắc như: Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng
Anh… đã làm nên một trào lưu văn học có tên là “Đổi mới”. Đổi mới ở đây
được hiểu là phải tạo được những “cú sốc” cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Ở


13
phương diện nội dung phải “nói lên được sự thật trần trụi, đưa ra khỏi bóng
tối, phơi bày ra dưới mắt mọi người tất cả các mặt tiêu cực của xã hội, của đất
nước sau chiến tranh, các mặt trước nay vẫn bị dồn nén lại, che giấu cẩn thận”
(Nguyên Ngọc). Ở phương diện nghệ thuật, đó là sự xuất hiện của những hình
thức mới; sự chuyển dịch điểm nhìn và ngôi kể; ngôn ngữ trang trọng, chuẩn
mực chuyển sang thứ ngơn ngữ đời thường, đậm tính khẩu ngữ; sự chủ đạo
của một gam giọng trở nên mờ nhạt, thay vào đó là sự đan xen của nhiều chất

giọng ngay trong một tác phẩm, một nhân vật; kết cấu tuyến tính truyền thống
bị phá vỡ thành những mảnh vụn rời rạc, nó địi hỏi người đọc phải tự lắp
ghép để tìm ra những triết lí ẩn sau đó.
Đứng trước sự thay đổi toàn diện của nền văn học nước nhà, Tạ Duy
Anh cũng góp sức với những tác phẩm mang tính phá cách, thể hiện một sự
nghiêm túc trong quá trình tìm tịi, đổi mới và thể nghiệm. Nhà văn họ Tạ có
thuận lợi là bước vào văn đàn khi xu thế đổi mới đã hiện diện rõ ràng, được
đông đảo độc giả đón nhận và giới phê bình đánh giá cao.
Năm 1989, Tạ Duy Anh gây chấn động văn đàn bởi truyện ngắn Bước
qua lời nguyền, tác phẩm được Hồng Ngọc Hiến đánh giá như một “tín hiệu
mới của dòng văn học mới, dòng văn học bước qua lời nguyền”. Rồi một
nhận định góp phần khẳng định giá trị của truyện ngắn này: “Bước qua lời
nguyền khơng chỉ có giá trị nhân văn mà còn là một tư tưởng có tầm thời đại:
nhu cầu tự vấn để phát triển của mỗi con người, mỗi dân tộc. Tác phẩm không
chỉ là khởi đầu tốt đẹp đối với mọi cá nhân nhà văn mà cịn đóng góp vào
cơng cuộc đổi mới của nền văn học nước nhà” [13, tr.139-140]. Nhà thơ
Hoàng Minh Châu đánh giá đó là một tác phẩm đã “báo hiệu một tấm lịng
lớn, một tầm nhìn xa và một tài năng trẻ về số phận con người” [13, tr.139].
Cùng với Bước qua lời nguyền, hàng loạt truyện ngắn có giá trị cũng
được xuất bản như Xưa kia chị đẹp nhất làng, Vịng trầm ln trần gian, Hóa


14
kiếp… càng khẳng định tài năng văn chương của Tạ Duy Anh.
Sau những thành công về truyện ngắn, Tạ Duy Anh quay lại với hành
trình sáng tác tiểu thuyết. Năm 1992, Lão Khổ ra đời, đây là “cuốn tiểu thuyết
quan trọng” mở ra một tiềm năng sáng tạo mới và được đánh giá cao về mọi
mặt. Tác phẩm đã “trình bày triết lí về số phận người nơng dân trong sự nhào
nặn của lịch sử” [13, tr.140]. Tuy được đánh giá cao khi mới ra đời, nhưng
một thời gian sau tác phẩm bị rơi vào qn lãng. Chính vì lẽ đó, với một nhà

văn ln đấu tranh “quyết liệt với chính mình” trong sự sáng tạo nghệ thuật,
Tạ Duy Anh khơng bao giờ thỏa mãn với những gì mình có, cũng không chán
nản trước những cái chưa đạt được, bằng chứng là ơng tiếp tục trình làng tiểu
thuyết Đi tìm nhân vật vào năm 2002. Đây là tác phẩm gây xôn xao dư luận
nhất. Qua tác phẩm, ta thấy cuộc sống như “tấm màn bị xé rách”. Tất cả
những mặt trái của hiện thực lâu nay bị cất giấu giờ được phơi bày và phản
ánh một cách rõ nét, chân thực hơn bao giờ hết. Đi tìm nhân vật cho thấy sự
thay đổi rõ rệt trong tư duy và nhận thức của tác giả về con người và thế giới
xung quanh. Tuy nhiên, do sự hạn chế về nhận thức và lối tiếp nhận, cuốn
sách vừa xuất bản đã bị thu hồi. Dường như những tác phẩm của Tạ Duy Anh
có chung một số phận là ln gặp sóng gió trước khi được khẳng định giá trị.
Khơng cho phép mình từ bỏ “cuộc chơi”, cuối năm 2004, tiểu thuyết
Thiên thần sám hối ra đời, ghi nhận những sự nỗ lực khơng mệt mỏi của tác
giả trong việc tìm kiếm những giá trị mới mẻ cho văn chương nước nhà.
Tiếp sau đó, cùng năm 2008, ơng xuất bản hai bộ tiểu thuyết Sinh ra để
chết và Giã biệt bóng tối và được nhiều công chúng yêu văn học tán dương.
Năm 2011, ông tiếp tục xuất bản tập truyện Lãng Du.
Như vậy, với 6 cuốn tiểu thuyết, hàng loạt truyện ngắn xuất sắc, những
tập tản văn… Tạ Duy Anh đang được xem là cây bút sung sức với nhiều thể
nghiệm táo bạo. Có thể nói, hành trình văn học của Tạ Duy Anh không được


15
suôn sẻ như những nhà văn khác nhưng ông luôn bình tĩnh, kiên trì và tìm
cách bước tiếp con đường mình đã chọn: “Tơi viết tất cả những điều tâm
huyết nhất với đất nước, với nhân dân, với con người, với tương lai, với độc
giả… [20, tr.10-11].
1.2.2. Tạ Duy Anh và những cách tân nghệ thuật trong văn xuôi
Kể từ Đại hội VI của Đảng, tất cả những tư tưởng đã được khơi thông và
mở ra một hướng sáng tác mới cho văn chương Việt Nam đương đại.

Cùng thế hệ của Phạm Thị Hoài, Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái… Tạ
Duy Anh cũng là một trong những cây bút có nhiều đóng góp cho sự đổi mới
văn chương nước nhà. Ông luôn tâm niệm: “Sáng tạo là khám phá những điều
chưa bao giờ biết đến về đối tượng của nó và đây là điều kiện tiên quyết. Mỗi
một tác phẩm lớn đều bao hàm trong đó yếu tố cách mạng về thủ pháp nghệ
thuật hoặc quan niệm về hiện thực. Nếu khơng tạo được điều đó thì những gì
tạo ra có ít cơ may sống sót” [1, tr.396].
Đi sâu vào tìm hiểu tác phẩm Tạ Duy Anh, chúng tơi thấy nó đặt ra
những vấn đề nghiêm túc về con người và cuộc sống, chứa đựng những giá trị
thẩm mĩ mới mẻ của cây bút khát khao sáng tạo. Mỗi tác phẩm ra đời là một
sự đổi mới đáng được khẳng định: “Từ quan niệm về hiện thực, về con người
cho đến cách tổ chức cốt truyện, ngôn ngữ, giọng điệu… Tạ Duy Anh đều có
nhiều cách tân mới lạ” [13, tr.133]. Có thể thấy, những ngun lí sáng tạo
truyền thống đã dần được thay bởi nhãn quan nghệ thuật mang tính hiện đại
và phù hợp với thực tế xã hội Việt Nam thời kì đổi mới. Quả thực, “nghệ
thuật chính là phương tiện để đồng cảm, thuyết phục khi mong muốn người
khác tiếp xúc, thấu hiểu những kinh nghiệm đời sống, những thể nghiệm chân
lí, những khát khao được bày tỏ mãnh liệt của người nghệ sĩ” [17, tr.298]. Ý
thức rất rõ hiệu ứng sẽ tạo ra của những đổi mới nghệ thuật nên hành trình
cách tân nghệ thuật của Tạ Duy Anh được thể hiện rõ qua sự ra đời của từng


16
tác phẩm mới.
Cùng với các tác phẩm như: Tướng về hưu, Mảnh đất lắm người nhiều
ma, Thời xa vắng, Nỗi buồn chiến tranh, Bến không chồng… những sáng tác
của nhà văn họ Tạ đã tạo nên một sự nở rộ văn chương trong giai đoạn này.
Tất cả đã mang lại một luồng sinh khí mới cho đời sống văn học dân tộc. Nó
đánh thức những nhà văn cịn đang mải miết bước trên con đường sáng tác
truyền thống đã quá thời và xưa cũ.

Ngòi bút họ Tạ như những con tằm chăm chỉ “nhả” những sợi tơ văn
chương đầy tâm huyết trong việc kiếm tìm, sáng tạo và đổi mới. Ông trăn trở
nhiều hơn đến kĩ thuật viết, cách xây dựng một tác phẩm văn chương mang
dấu ấn của sự đổi mới nghệ thuật một cách rõ nét. Nhà văn quan niệm “sáng
tác đồng nghĩa với việc tìm tịi kĩ thuật viết… kĩ thuật viết xét cho cùng là sự
nỗ lực tạo ra một hình thức và hiệu quả cao nhất cho tác phẩm” [13, tr.149].
Sự cách tân về nghệ thuật trong sáng tác của Tạ Duy Anh được thể hiện rõ
qua những yếu tố cơ bản như kết cấu, thể loại, thế giới nhân vật và các thủ
pháp trần thuật.
Điều đầu tiên chúng ta nhận thấy khi đọc tác phẩm của Tạ Duy Anh, đó
là, ơng rất chú ý đến nghệ thuật kết cấu.
“Kết cấu là phương tiện cơ bản của sáng tạo nghệ thuật” [23, tr.152].
Hay “kết cấu thể hiện quá trình vật lộn của nhà văn với tài liệu sống để biểu
hiện một chân lí khái quát” [18, tr.339]. Kết cấu là yếu tố quan trọng để nhà
văn thể hiện tư tưởng, quan điểm của mình.
Truyện ngắn Dịch quỷ sứ mở đầu bằng lá đơn kiện kì lạ chưa từng thấy,
sau đó là những tiểu phần với các tựa đề như: “Lời khai của nguyên đơn”,
“Lời khai của ông già dạy thú”, “Chúc thư của ông già dạy thú”. Mỗi phần
như một câu chuyện nhỏ mở ra trước mắt người đọc, giúp người đọc hiểu hơn
về phiên tòa xử án của con người và hiện thực cuộc sống đương thời. Tiểu


17
thuyết Lão Khổ tuy còn mang hơi hướng văn chương truyền thống nhưng nó
cũng đã có những thay đổi nhất định. Tác phẩm được chia làm hai phần: phần
đầu là “Chuyện chính yếu hay là thay cho lời mở đầu”. Phần hai được chia
làm hai mươi chương với những tiêu đề cụ thể. Để ý đến tiêu đề từng chương,
độc giả dễ nhận thấy trật tự thời gian bị đảo lộn chứ khơng theo mạch tuyến
tính như lối viết cũ. Đến với Đi tìm nhân vật, kết cấu đã có một bước chuyển
biến mới ở cách kết nối các chương, các mục, các sự kiện. Nếu ở Lão Khổ là

thời gian vật lí, thời gian bên ngồi thì thời gian ở Đi tìm nhân vật là thời gian
bên trong của tâm trạng con người, thời gian vụt hiện của những mảnh hồi ức,
những mảng ý nghĩ chợt đến, chợt đi như khơng hề có sự sắp đặt nào cả và tất
cả diễn ra trên hành trình đi tìm nhân vật. Thiên thần sám hối lại được viết
theo kiểu “dòng ý thức”, là lời kể của một thai nhi về những chuyện nó nghe
được trong ba ngày cuối cùng nằm trong bụng mẹ. Nội dung đều xoay quanh
cái chết của những em bé chưa được làm người, bị chết khi sinh ra, bị giết
ngay từ trong ý nghĩ hay là quả báo vì sự vơ lương tâm của người làm cha
mẹ… Một tiểu thuyết nhỏ gọn, mỗi phần tự nó có thể đứng độc lập như một
truyện ngắn, các truyện về sau mở rộng và tiến tới gần thông điệp mà tác giả
thể hiện.
Về thể loại, Tạ Duy Anh có những sáng tác mang tính cách tân độc đáo.
Đáng chú ý nhất đó là sự lắp ghép pha trộn nhiều thể loại trong một tác phẩm
văn học.
“Thể loại tác phẩm văn học là khái niệm chỉ quy luật loại hình của tác
phẩm, trong đó ứng với một loại nội dung nhất định có một loại hình thức
nhất định, tạo cho tác phẩm một hình thức tồn tại chỉnh thể” [23, tr.220]. Đến
với văn chương hiện đại, hình thức chỉnh thể ấy đã bị phá vỡ, xáo trộn, phân
mảnh. Mỗi tác phẩm khơng chỉ sử dụng một thể loại mà đó là sự dung hợp,
xâm nhập nhiều thể loại khác nhau nhằm tạo sự mơ hồ trong tiếp nhận. Đây


18
chính là yếu tố giúp người đọc đồng sáng tạo với nhà văn và đưa ra những
đánh giá, kết luận cho riêng mình.
Sự lồng ghép và dung hợp nhiều hình thức văn bản là một nét đổi mới
độc đáo trong nền văn xi hiện đại, đó như “một kĩ thuật viết, một nỗ lực
cách tân nhằm nới rộng cấu trúc thể loại, làm mờ nhòe ranh giới thể loại” [20,
tr.329].
Sự dung hợp thể loại luôn gây chú ý trong sáng tác của Tạ Duy Anh một

cách tự nhiên, bất ngờ, buộc người đọc phải suy ngẫm để thấu hiểu những tư
tưởng mà tác giả gửi gắm.
Trong truyện ngắn Xưa kia chị đẹp nhất làng, để tạo dấu ấn cho câu
chuyện về mối tình sâu đậm của chị Túc nổi tiếng xinh đẹp, thùy mị với anh
bộ đội đóng quân tại làng tên là Kiều, tác giả đã lồng ghép những bức thư mà
anh Kiều gửi cho chị và cuốn nhật kí ấp ủ những mất mát, đau thương của
người phụ nữ chờ người yêu trong vô vọng để rồi phải sống trong sự dè bửu
của xóm làng.
Tiểu thuyết Lão Khổ là những câu chuyện nhỏ về cuộc đời đầy thăng
trầm của Tạ Khổ - một người nơng dân ln có những ý tưởng nhằm thay đổi
tư duy và cách sống của người dân quê ông. Tác phẩm được xây dựng bởi
những câu chuyện nhỏ về cuộc đời Lão Khổ, đó cịn là những bức thư của Hai
Duy cho bố mình, là bức thư của “thằng đốn mạt” nào đó gửi cho Lão Khổ
với những lời kết tội đanh thép.
Đi tìm nhân vật là tác phẩm được nhà văn pha trộn nhiều thể loại nhất:
Báo chí với mẫu tin về cái chết của thằng bé đánh giày. Nhật kí thể hiện qua
những dịng nhật kí của viên sĩ quan trẻ lồng trong nhật kí của tiến sĩ N, nhật
kí về một người đàn ơng có tên là Chu Q. Nhà văn còn xen vào câu chuyện
những bức thư của Thảo Miên và Trần Bân gửi Chu Quý. Thể loại tiểu thuyết
được thể hiện qua tiểu thuyết Đi tìm nhân vật của Trần Bân. Truyện cổ tích


19
với bốn câu chuyện dân gian được chép lại ở phần phụ lục.
Trong tiểu thuyết Thiên thần sám hối là những truyện ngắn về cuộc sống
bên ngoài mà bào thai cảm nhận và nghe được qua những cuộc giao tiếp của
bà mẹ với các nhân vật khác.
Giã biệt bóng tối cũng được nhà văn họ Tạ sử dụng nhiều thể loại nhằm
tăng sức lơi cuốn cho tác phẩm. Đó là những biên bản về vụ hủ hóa bắt quả
tang, về việc ngôi miếu hoang của làng bị tụt xuống đất và biến mất, biên bản

thời sự về cái chết bí ẩn của những người ở làng Thổ Ô. Thể loại tự truyện
qua quyển tự truyện của ả cave. Và trong đó cịn đan xen những thể loại khác
như sân khấu, truyện ngắn.
Xem xét qua từng tác phẩm, chúng ta có thể thấy: Tạ Duy Anh đã lồng
ghép, phức hợp đa dạng các thể loại trong sáng tác của mình từ các thể loại
dân gian như chèo, cổ tích đến các thể loại văn học hiện đại như thư, nhật kí,
bản tin, biên bản, tiểu thuyết, truyện ngắn. Đó là sự thể hiện rõ nhất cho tính
chất liên văn bản của văn học hiện đại. Với sự dung hợp thể loại như thế, có
thể nói Tạ Duy Anh đã “cởi trói” cho những sáng tác văn xuôi đương đại,
khẳng định tiềm năng phát triển mới cho nền văn học nước nhà.
Văn học sẽ khơng đi vào lịng người đọc nếu trong đó khơng phản ánh
được một thế giới nhân vật gần gũi với con người. Để khi đọc và suy ngẫm,
mỗi chúng ta thấy bóng dáng của mình trong từng trang văn ấy và đồng cảm
với số phận của từng nhân vật. Chính vì vậy, ngồi những thể nghiệm về
phương diện nghệ thuật như kết cấu, thể loại thì thế giới nhân vật luôn được
cây bút họ Tạ chú ý xây dựng và không ngừng đổi mới.
“Con người luôn giữ vị trí trung tâm của văn học, là phương tiện để khái
quát tính cách, số phận của con người, đồng thời thể hiện quan niệm nghệ
thuật và lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn về con người” [14, tr.203]. Tuy vậy, ở
mỗi giai đoạn văn học, phương thức xây dựng nhân vật sẽ có những điểm


×