Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Làng ca huế quảng xá – xã tân ninh – huyện quảng ninh – tỉnh quảng bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 86 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
----------------

KHÓA ḶN TỚT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀ NH CỬ NHÂN VĂN HĨA HỌC
Đề tài:

LÀNG CA HUẾ QUẢNG XÁ – XÃ TÂN NINH – HUYỆN
QUẢNG NINH – TỈNH QUẢNG BÌNH
Người hướng dẫn:

ThS. Hồng Hoài Thương
Người thực hiện:
Hoàng Thị Thu Dung

Đà Nẵng, tháng 5/2013


1

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan, đây là cơng trình nghiên cứu khoa học do tôi thực hiện
dưới sự hướng dẫn của ThS. Hoàng Hoài Thương. Những tài liệu sử dụng
trong khóa luận là trung thực, khách quan, được trích nguồn rõ ràng.
Nếu không đúng sự thật, tôi xin chịu hồn tồn trách nhiệm.

Tác giả khóa luận

Hồng Thị Thu Dung




LỜI CẢM ƠN
Tơi xin bày tỏ lịng cảm ơn chân thành đến Th.s Hồng Hồi Thương đã
tận tình hướng dẫn tơi trong suốt thời gian thực hiện khóa luận tốt nghiệp này.
Xin trân trọng cảm ơn quý thầy cô giáo trong khoa Ngữ Văn - trường Đại
Học Sư Phạm – Đại Học Đà Nẵng đã cung cấp những kiến thức, tư liệu quý
báu cho chúng tôi trong suốt thời gian học tập và quá trình nghiên cứu này.
Xin cảm ơn bà con cư dân làng Quảng Xá, xã Tân Ninh, huyện Quảng
Ninh, tỉnh Quảng Bình và đặc biệt là thầy giáo Dương Viết Thủ, hội viên Hô ̣i
di sản văn hóa Việt Nam tại Quảng Bình đã nhiệt tình cung cấ p tài liêụ và ta ̣o
điề u kiêṇ giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luâ ̣n này.
Cảm ơn gia đình, bạn bè đã cổ vũ, động viên tôi trong suốt q trình học
tập tại trường.
Tuy đã có những cố gắng nhất định, nhưng do thời gian và trình độ có
hạn nên chắc chắn luận văn này cịn nhiều thiếu sót và hạn chế. Kính mong
nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn.
Đà Nẵng, tháng 5 năm 2013
Sinh viên thực hiện

Hoàng Thị Thu Dung


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................4
5. Bố cục đề tài........................................................................................................5
NỘI DUNG ................................................................................................................6

CHƯƠNG 1: QUẢNG XÁ – VÙNG ĐẤT VÀ CON NGƯỜI...............................6
1.1. Vị trí địa lý và cấu trúc làng Quảng xá.........................................................6
1.1.1. Vị trí địa lý ..................................................................................................6
1.1.2. Địa hình ......................................................................................................7
1.1.3. Khí hậu .......................................................................................................8
1.1.4. Sơng ngịi ....................................................................................................9
1.2. Lịch sử hình thành vùng đất ........................................................................10
1.3. Đời sống kinh tế ............................................................................................14
1.3.1. Sản xuất nông nghiệp ...............................................................................14
1.3.2. Thủ công nghiệp .......................................................................................15
1.3.3. Thương nghiệp..........................................................................................16
1.4. Đời sống xã hội và văn hóa của cư dân làng ..............................................17
1.4.1. Thiết chế xã hội và quan hệ xã hội ...........................................................17
1.4.2. Con người Quảng Xá................................................................................20
1.4.3. Vài nét sơ lược về văn hóa truyền thống Quảng Xá.................................22
CHƯƠNG 2: TRUYỀN THỐNG CA HUẾ Ở LÀNG QUẢNG XÁ ...............27
2.1. Vài nét về ca Huế ..........................................................................................27
2.1.1. Sự hình thành ca Huế ...............................................................................27
2.1.2. Một vài nét về đặc trưng của ca Huế .......................................................30
2.2. Quảng Xá – làng ca Huế ...............................................................................33
2.2.1. Con đường ca Huế đến với Quảng Xá .....................................................33


2.2.2. Những làn điệu ca Huế ở Quảng Xá ........................................................34
2.2.3. Những hình thức diễn xướng trong ca Huế ..............................................48
2.2.4. Những nhạc sĩ và danh ca của làng .........................................................53
2.3. Đối sánh giữa ca Huế làng Quảng Xá và ca Huế ở Cố đô Huế .................58
CHƯƠNG 3: GIÁ TRỊ, BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG
VĂN HÓA VÀ CA HUẾ Ở LÀNG QUẢNG XÁ ..............................................61
3.1. Quảng Xá trên con đường xây dựng làng văn hóa ....................................61

3.2. Giá trị của ca Huế trong đời sống cư dân Quảng Xá ................................62
3.2.1. Trong cuộc sống tinh thần ........................................................................62
3.2.2. Trong đời sống lao động sản xuất ............................................................64
3.3. Thực trạng và phương hướng bảo tồn, phát huy ca Huế làng Quảng Xá
trong cuộc sống đương thời ................................................................................66
3.3.1. Những vẫn đề đặt ra cho ca Huế ở Quảng Xá trong cuộc sống hiện đại .......66
3.3.2. Phương hướng bảo tồn và phát huy ca Huế ở Quảng Xá ........................68
KẾT LUẬN ..............................................................................................................71
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................73
PHỤ LỤC


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Có thể nói văn học dân gian đã sớm đi vào tiềm thức mỗi người con đất Việt
như món ăn tinh thần khơng thể thiếu của những khoảng trời tuổi thơ. Là một thể
loại được sinh ra giữa hai dòng nhạc dân gian và cung đình, ca Huế vừa mang âm
hưởng nhẹ nhàng, khoan thai, bay bổng mượt mà, vừa thoang thoảng cái tôn
nghiêm, trang trọng. Tuy không trực tiếp sản sinh ra ca Huế, nhưng phong trào ca
Huế ở làng Quảng Xá khá phát triển. Người dân làng đã tiếp thu và thổi vào ca Huế
một làn gió mới để từ đây làm nên một cái danh mới của làng là làng ca Huế.
Làng ca Huế Quảng Xá là một vùng quê nhỏ thuộc xã Tân Ninh – huyện
Quảng Ninh – tỉnh Quảng Bình. Tuy khơng nằm trong bát danh hương của Quảng
Bình nhưng Quảng Xá cũng là một trong những làng nổi tiếng về lịch sử cách mạng
cũng như văn hoá truyền thống. Văn hóa làng như suối đầu nguồn tạo nên dịng
chảy văn hóa dân tộc, như con sơng nhỏ chở nặng phù sa bồi đắp cho làng quê ngày
càng trù phú. Văn hóa làng có khi dữ dội, có lúc êm đềm, dịu dàng như lời ca quan
họ, nó khơi dậy tình yêu quê hương, yêu Tổ quốc, tạo nên tình thân ái giữa con

người, xây dựng và hình thành nhân cách, đạo lí làm người tốt đẹp của một dân tộc,
một địa phương, một cộng đồng. Quảng Xá vẫn được gọi bằng những cái tên trìu
mến như làng đọc sách, làng dạy học, làng nhạc sĩ, làng ca Huế, làng ca hát... Đi
lên từ những khó khăn, gian khổ người Quảng Xá hơm nay đang vươn mình đứng
lên cùng những câu ca, những điệu hò, những khúc nhạc nhẹ nhàng, êm ái thấm sâu
vào tâm thức mỗi con người.
Ca Huế về với Quảng Xá từ thế kỷ XVIII và nhanh chóng hịa mình vào
khơng gian văn hóa của làng quê nơi đây. Bên những khung cửi dưới những mái
tranh, cùng với tiếng nhịp thoi đưa làm phách là những làn điệu được cất lên trong
trẻo đầy trữ tình mỗi đêm thâu dệt vải. Khơng chỉ mang tính chất giải trí đơn thuần,
với Quảng Xá ca Huế cịn có một giá trị đặc biệt trong đời sống tinh thần và lao
động sản xuất cũng như trong việc góp phần xây dựng đời sống văn hóa mới của
làng. Cùng với những câu hò, điệu lý, những câu ca dân dã, ca Huế đã đi vào những


2

lời ru ngọt ngào của bà, của mẹ như dòng sữa ni lớn tâm hồn mỗi người con đất
Quảng Xá.
Tìm hiểu và nghiên cứu về Làng ca Huế Quảng Xá, xã Tân Ninh, huyện
Quảng Ninh –tỉnh Quảng Bình, chúng tơi muốn giới thiệu về làng Quảng Xá với
một châu thổ đầy những phù sa văn hóa, và về truyền thống ca Huế đã thấm sâu vào
từng huyết mạch của cư dân bản địa. Từ đó gợi lên tình u q hương xứ sở, yêu
những câu ca, điệu hò dân dã nơi làng quê đất Việt, để thức dậy trong mỗi con
người ý thức bảo tồn và phát huy những giá trị tốt đẹp đó.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Viết về ca Huế, một di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc Việt Nam đã có
rất nhiều tác giả và cơng trình đã đi sâu vào nghiên cứu và tìm hiểu. Có thể kể đến
một số cơng trình và tác giả tiêu biểu như:
Viết về đặc điểm và tính chất của ca Huế có các tác giả với các tác phẩm như

Nguyễn Phú Yên với Tìm hiểu thang âm ngũ cung trong âm nhạc Huế (2010);
Phạm Duy với Đặc khảo âm nhạc Việt Nam (1972), Trần Văn Khê với Tạp chí
Bách khoa số 101, 102 (1961)…
Ca Huế và ca kịch Huế của tác giả Văn Lang (1993), đưa ra một số nhận
định về nguồn gốc ra đời của ca Huế, đặc điểm của ca Huế, giới thiệu một số làn
điệu của ca Huế và mối quan hệ giữa ca Huế và một số loại hình dân gian khác. Bài
viết Tìm hiểu về nguồn gốc và sự hình thành của Tơn Thất Bình đăng trên tạp chí
Văn hóa nghệ thuật số 8 – năm 2011. Trong đó tác giả trình bày về lịch sử hình
thành và các giai đoạn phát triển của ca Huế.
Ngồi ra cịn có các tác giả và tác phẩm như: Ưng Bình Thúc Giạ Thị với
Bán buồn mua vui (1942). Văn Thanh với ca Huế (1989). Đào Duy Anh với Việt
Nam văn hóa sử cương (1951)…
Về làng ca Huế Quảng Xá, có thể nói làng Quảng Xá, xã Tân Ninh, huyện
Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình là một trong những làng văn hóa kiểu mẫu với nhiều
truyền thống đặc sắc vẫn luôn được những người con của làng giữ gìn cho tới ngày


3

nay. Vậy nên đã có nhiều tác giả cũng như tài liệu nghiên cứu và đề cập đến những
nét văn hóa của làng từ truyền thống đến hiện đại trong đó có ca Huế.
Viết về lịch sử làng Quảng Xá không thể không nhắc tới cuốn sử thơ Quảng
Xá hương sử ca của tác giả Nguyễn Văn Tăng (sưu tầm và biên soạn) (2004) được
viết dưới dạng thể thơ song thất lục bát gồm 164 câu. Cuốn sử thơ đã thâu tóm
xun suốt q trình thành lập và phát triển của làng gần 400 năm qua, về vị trí địa
lý, lịch sử hình thành và phát triển cũng như con người và những truyền thống tốt
đẹp của quê hương Quảng Xá. Với mỗi người con dân Quảng Xá bài diễn ca là
niềm tự hào của họ, nó được xem như là tư liệu quý để đời cho con em làng khi tìm
hiểu về lịch sử của quê hương mình.
Trong cuốn Quảng Bình ẩn tích thời gian, (NXB Thuận Hóa, 2008 –2009),

cùng với những nét đẹp cổ truyền trên mảnh đất Quảng Bình thì Quảng Xá cũng
được nhắc đến với những điệu múa bông mềm mại và phong trào ca Huế với cái
danh Làng Ca Huế.
Trong cuốn Văn hóa dân gian huyện Quảng Ninh (tỉnh Quảng Bình), (NXB
Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2010), Đỗ Duy Văn viết về những phong tục tập quán,
những sinh hoạt dân gian, về cấu trúc làng, nếp sống làng xã và những truyền thống
văn hóa đặc sắc của cư dân trong huyện. Quảng Xá cũng được nhắc đến trong cơng
trình này với truyền thống dệt vải cùng thương hiệu vải Quảng, về tục hát bài chịi,
về làng ca Huế, làng văn hóa – văn nghệ dân gian, về lễ hội Đu xuân... Có thể nói
đây là cuốn sách khá đầy đủ và có giá trị cho những ai muốn nghiên cứu cụ thể và
rõ nét về văn hóa huyện Quảng Ninh – tỉnh Quảng Bình.
Viết về làng văn hóa Quảng Xá, cuốn Tân Ninh – một chặng đường lịch sử
đã giới thiệu khá rõ nét về truyền thống cách mạng cũng như văn hóa của làng qua
các bài viết của nhiều tác giả như: Thôn Quảng Xá lược chí của 2 tác giả Nguyễn
Văn Được và Nguyễn Tiến Dũng (2004); Tuần lễ đồng, tuần lễ vàng ngày ấy của
cựu nhà giáo Dương Viết Thủ; Năm nhạc sĩ họ Dương làng Quảng Xá của tác giả
Nguyễn Thế Tường; Làng văn hóa Quảng Xá của tác giả Phan Hịa; Về với làng văn
hóa Quảng Xá của tác giả Đỗ Duy Văn.


4

Tác giả Nguyễn Tú với cơng trình Những nét đẹp văn hóa cổ truyền Quảng
Bình đã giới thiệu sơ lược về làng Quảng Xá với tên gọi, nghề dạy học, nghề trồng
bông dệt vải và truyền thống hát ca Huế gắn với nghề dệt đó.
Bên cạnh đó văn hóa làng Quảng Xá cũng là đề tài nghiên cứu luận án hay
khóa luận tốt nghiệp của khá nhiều học giả, nổi bật có Lê Thị Thu Thủy với đề tài
Lễ hội truyền thống làng Quảng Xá – xã Tân Ninh – huyện Quảng Ninh – tỉnh
Quảng Bình, (2008); Lê Thị Thúy Huyền: Văn hóa truyền thống làng Quảng Xá –
Tân Ninh – Quảng Ninh – Quảng Bình (2009); Nguyễn Thị Như Nguyệt với đề tài

Văn hóa làng Quảng Xá: truyền thống và hiện đại (2011)… Nhìn chung, các tác giả
đã có tìm hiểu nhiều mảng văn hóa của làng.
Trong một số báo và tạp chí đã có nhiều đề cập tới làng ca Huế Quảng Xá,
song vẫn chỉ là những vấn đề sơ lược mà chưa đi sâu vào tìm hiểu cụ thể. Vậy nên,
có thể nói, vấn đề Làng ca Huế Quảng Xá - xã Tân Ninh - huyện Quảng Ninh - tỉnh
Quảng Bình ít nhiều đã được nhiều tác giả đề cập đến nhưng chỉ dừng lại ở mức độ
nhỏ lẻ, hay khái qt, chưa có tính hồn thiện, khoa học. Vì vậy với đề tài này
chúng tơi muốn góp thêm tiếng nói để hồn thiện bức tranh văn hóa tươi đẹp của
làng Quảng Xá - xã Tân Ninh - huyện Quảng Ninh - tỉnh Quảng Bình.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu, với đề tài Làng ca Huế Quảng Xá, xã Tân Ninh,
huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình, chúng tơi tập trung nghiên cứu về hai đối
tượng chính chính đó là những đặc điểm, lịch sử và văn hóa truyền thống của làng
Quảng Xá và ca Huế cũng như truyền thống ca Huế của làng.
Về phạm vi nghiên cứu, với đề tài này, chúng tôi nghiên cứu trong phạm vi
làng Quảng Xá, truyền thống ca Huế của làng và xoay quanh những làn điệu, những
hình thức và khơng gian diễn xướng của loại hình nghệ thuật này ở làng, đồng thời
mở rộng phạm vi nghiên cứu về một số vấn đề của ca Huế ở Cố đơ Huế.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để hồn thành bài làm của mình, chúng tơi đã sử dụng những phương pháp
nghiên cứu chủ yếu sau:


5

- Phương pháp điền dã, thực tế thu thập tài liệu
- Phương pháp sưu tầm, khảo sát
- Phương pháp thống kê, phân loại nguồn tài liệu
- Phương pháp lựa chọn, phân tích nguồn tài liệu
- Phương pháp so sánh và hệ thống

5. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài chúng tơi
được chia làm các chương chính sau:
Chương 1: Quảng Xá – vùng đất và con người
Chương 2: Truyền thống ca Huế ở làng Quảng Xá
Chương 3: Hướng bảo tồn và phát huy truyền thống ca Huế ở làng Quảng X


6

NỘI DUNG
CHÝÕNG 1: QUẢNG XÁ – VÙNG ÐẤT VÀ CON NGÝỜI
1.1. Vị trí địa lý và cấu trúc làng Quảng xá
1.1.1. Vị trí địa lý
“Làng Quảng Xá là làng trù mật
Và phong lưu văn vật ai tày”
(Trích Lịch sử Quảng Xá – nhâm dần 1902)
Nằm ven bờ dòng Kiến Giang quanh năm xanh mướt, Quảng Xá là một vùng
quê bình dị, hiền hịa, trù phú, phong cảnh hữu tình mà văn nhân xưa đã từng ca
ngợi:
Ai tô phong cảnh đẹp dường này
Sơn, Thủy hóa cơng khéo tạc bày
Nước biếc sơng Giang nằm cõi Bắc
Non xanh núi Lãnh đứng phương Tây
Sao Sa hồ rộng tưởng ai bới
Đất nổi cồn bằng giống thợ xây
Hàm Rồng sẵn có, đầu Voi có
Ai tơ phong cảnh đẹp dường này!
Quảng Xá thuộc xã Tân Ninh, huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình. Xã Tân
Ninh nằm ở phía Đông Nam của huyện Quảng Ninh, cách trung tâm huyện lị

khoảng 20km về phía Nam. Xã có năm làng: làng Quảng Xá, làng Bình Thơn, làng
Nguyệt Áng, làng Thế Lộc, làng Hữu Tân.
Ngược dòng lịch sử, Quảng Xá bây giờ chính là kẻ Đờng, hay Đặng Xá ngày
trước. Con người nơi đây đã khéo chọn địa hình để tạo nên một quê hương văn vật:
có hồ Sao Sa nước ngọt mát trong, có dịng Kiến Giang tắm mình gội nắng gối đầu
lên lũy Trường Dục ở phía Bắc, nằm phơi mình bên bờ Hạc Hải ở phía Đơng.
Quảng Xá là một vùng đất địa linh nhân kiệt giáp làng Thế Lộc ở phía Đơng, làng
Hịa Bình ở phía Tây, làng Hiển Vinh ở bờ Bắc sông Kiến Giang giáp quốc lộ 1A,


7

làng Nguyệt Áng ở phía Nam nơi có đường mịn Hồ Chí Minh đi qua. Làng nằm ở
17o đến 17o02’ vĩ độ Bắc; 86o11’ kinh độ Đông.
Từ xa xưa do nhu cầu thủy lợi đã xuất hiện hai con kênh lớn là kênh Thế Lộc
và kênh Hiền Vinh được người xưa dùng để bảo vệ nông nghiệp, nhằm ngăn lũ, dẫn
nước cho đồng làng, mùa màng được tươi tốt. Sau này do sự lên xuống của thủy
triều, dần dần hình thành gò đất bồi nổi lên ổn định, dân cư từ các nơi đã dần dần tụ
tập sinh sống ở đây và làng Quảng Xá đã hình thành từ đó. Ngày nay hai con kênh
này vẫn cịn có ý nghĩa to lớn trong việc dẫn nước làm thủy lợi tưới tiêu cho đồng
ruộng.
Vị trí địa lý của làng được thiết kế cấu trúc vuông vắn với hệ thống đường
ngang, đường dọc đều lát đá như một bàn cờ.
Với địa thế đó nên Quảng Xá có vị trí rất quan trọng trong cuộc kháng chiến
chống thực dân xâm lược, là tiền đồ của vùng Nam huyện Quảng Ninh, nằm sát
sông Kiến Giang, rất thuận lợi cho việc giao thông đi lại và các hoạt động thường
ngày. Thời Trịnh – Nguyễn phân tranh đã hình thành nơi đây lũy Trường Dục do
Đào Duy Từ hiến kế cho chúa Nguyễn xây dựng vào năm 1630. Quảng Xá nằm ở
cuối của lũy này.
Vị trí địa lí thuận lợi giúp cho cư dân làng Quảng Xá từ xưa đến nay có điều

kiện để phát triển kinh tế và tiếp thu các luồng văn hóa từ bên ngoài và là vùng đất
đan xen và giao thoa giữa hai vùng văn hóa Bắc – Nam.
1.1.2. Địa hình
Tuy chỉ là một làng quê nhỏ của huyện Quảng Ninh rộng lớn, song Quảng
Xá lại có sự phân hóa địa hình khá phức tạp. Làng vốn là một vùng chiêm trũng
nhưng khi nhìn kĩ lại thấy thấp dần từ Tây sang Đơng, có núi và gị đồi, phía Đơng
và phía Nam có sơng Kiến Giang bao quanh. Phía Tây và phía Bắc là một dãi đồng
bằng nhơ cao, nơi tập trung đông dân cư của làng.
Giống như những bức tranh quen thuộc của làng quê Việt, Quảng Xá bình
yên trong sự bao bọc của những lũy tre làng. Xung quanh là mặt nước lợ mênh
mông, lũy bần (đước) mọc dọc hai bên con kênh bao quanh làng chống xói lở đất,


8

giữ cho nước lợ không xâm nhập vào làng. Mặt khác, lũy bần cịn chống rét, ngăn
gió, bảo vệ mùa màng, bảo vệ tài sản của người dân. Cây bần đã chống chọi lại với
sự khắc nghiệt của thời tiết, ngăn chặn sự ăn sâu của dòng Kiến Giang vào đất liền.
Cây bần còn là điểm ranh giới của làng Quảng Xá và các làng khác. Ngoài việc
đánh bắt, khai thác các sản vật trên mặt nước, người dân đã biết tận dụng địa thế
này để mở rộng dân cư. Vì thế cây bần có ý nghĩa rất quan trọng với làng Quảng
Xá. Nó như một vị “thần bảo hộ” thay thế rừng ln dang rộng vịng tay che chở
cho sự ấm êm, no đủ của con dân làng [11;7].
Là vùng đồng bằng chiêm trũng, địa hình của Quảng Xá khá hẹp và không
cao hơn mực nước là bao. Tuy nhiên, do sự lên xuống của thủy triều hàng năm nên
lượng phù sa của sông bồi đắp lên đây khá nhiều, đất dần được nâng cao, đất đai
khá phì nhiêu, màu mỡ, thích hợp cho việc trồng lúa nước.
Theo thống kê của phịng Địa chính Ủy ban nhân dân xã Tân Ninh, đất đai
của làng trước năm 1945 là 204 mẫu, tức 102ha. Đến nay số đất đai đã mở rộng
thêm là 300ha, trong đó đất nơng nghiệp là chủ yếu (132,7ha – chiếm 30% tổng số

diện tích đất của cả làng), ngồi ra cịn có các loại đất chun dùng, đất ở của dân
cư, đất nuôi trồng thủy sản, đất chưa sử dụng. Là một làng có diện tích đất tự nhiên
khá rộng trong xã (có 300ha/ 1104000ha diện tích đất xã Tân Ninh) Quảng Xá khá
thuận lợi trong việc phát triển nghề nơng nghiệp lúa nước của mình.
1.1.3. Khí hậu
Quảng Xá nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh hưởng của
gió phơn Tây Nam khơ nóng vào mùa hạ và gió mùa Đơng Bắc lạnh ẩm vào mùa
đơng. Vậy nên khí hậu nơi đây được chia thành hai mùa rõ rệt là mùa khô và mùa
mưa. Mùa khô thường diễn ra từ tháng 3 đến tháng 8, trùng với gió mùa Đơng Nam,
Tây Nam. Nắng gắt nhất là tháng 5, tháng 6, thỉnh thoảng có những trận mưa dơng,
có gió Lào thổi rất mạnh mang theo hơi nóng từ vùng cao nguyên về đây, nên gây
ra rất nhiều khó khăn cho sản xuất và sinh hoạt của người dân. Mùa mưa bắt đầu từ
tháng 9 đến tháng giêng, tháng 2 năm sau, là mùa hoạt động của các đợt gió Đơng


9

Bắc kéo theo khơng khí lạnh và mưa dầm. Mưa nhiều nhất là vào các tháng 9, 10,
11. Ba tháng này có lượng mưa gấp đơi các tháng cịn lại trong năm [6;12].
Về nhiệt độ: Mùa đông nhiệt độ trung bình dao động trong khoảng từ 18oC
đến 21oC. Tháng 11, 12 và tháng 1 năm sau là những tháng lạnh trong năm (tháng 1
là tháng lạnh nhất từ 15oC đến 21oC). Trong những ngày có gió mùa Đơng Bắc tràn
về thường rét đậm, nhiệt độ tụt xuống 7oC đến 10oC. Về mùa hè, nhiệt độ trung bình
dao động trong khoảng 28oC đến 30oC. Tháng 6, 7 là tháng nóng nhất, vào những
ngày có gió Tây Nam nhiệt độ lên đến 38oC đến 40oC. Và đây cũng là tháng có số
giờ nắng cao nhất (trên dưới 200 giờ).
Mưa: Mùa mưa ở đây thường đến chậm, lượng mưa trung bình hàng năm
vào khoảng 2000 đến 2500mm. Những tháng có lượng mưa thấp trong năm là tháng
4, 5, 6. Những tháng có lượng mưa cao trong năm là tháng 10, 11. Tuy vậy những
năm đột biến mưa tiểu mãn tháng 5 cũng kéo theo lũ lụt. Là vùng chiêm trũng nên

mùa mưa ở đây thường kéo theo ngập lụt làm ảnh hưởng đến thu hoạch vụ mười,
trôi nhà cửa, tài sản, gây không ít khó khăn cho cuộc sống.
Gió: Hằng năm có 3 mùa gió, tháng 3 đến tháng 5 âm lịch có gió Đơng Nam
(gọi là gió Nồm); tháng 6 đến tháng 8 âm lịch có gió Tây Nam (gọi là gió Lào hay
gió phơn Tây Nam); tháng 9 đến tháng giêng âm lịch năm sau có gió mùa Đơng Bắc
[29;22].
Đặc biệt ở đây mang đặc điểm của khí hậu giao thoa, tức là khí hậu mùa
đơng chưa hết thì mùa hè đã đến, mang theo những trận mưa rào xối xả, khi mùa hè
chưa hết thì gió mùa Đơng Bắc lại kéo về sớm.
1.1.4. Sơng ngịi
Là q hương của những cánh đồng chiêm trũng, Quảng Xá được bao bọc
bởi dòng nước lợ của sông Kiến Giang bốn mùa xanh mướt. Mặc dù nguồn nước lợ
chiếm phần lớn nhưng thiên nhiên lại ưu đãi cho Quảng Xá một nguồn nước ngọt
của hệ thống hồ chứa nước Cẩm Ly. Hồ này là dấu vết cịn lại của một nhánh chảy
của sơng Bình Giang. Theo Đại Nam nhất thống chí, sơng Bình Giang có hai nhánh:
một nhánh chảy về phía Tây Bắc và một nhánh chảy về phía Bắc qua Võ Xá đến


10

Trúc Ly. Do điều kiện thủy thổ mà nước ở đây đã đổi dịng khi đi qua kẻ Tùng. Nhờ
đó nên làng Quảng Xá có nước ngọt để dùng.
Quảng Xá là một làng quê có nhiều mương, hói, đập, hồ như: hói Chợ, bến
Trùa, mương Trén, đập Tiền mơn, đập Rấy, hồ Sao Sa… tạo điều kiện cho giao
thông đường thủy cũng như việc tưới tiêu cho ruộng đồng và phục vụ cho sinh hoạt
của dân làng.
Làng có một bàu nước nằm ở phía đơng rộng ba đến bốn héc ta có tên gọi là
Thâm Ứ. Thâm Ứ nước đầy quanh năm như màu nước luộc ốc. Là rốn nước của cả
cánh đồng tụ về, bao nhiêu tôm, cá tụt xuống đây nên Thâm Ứ được ví như kho hải
sản tươi chung của cả làng.

Từ Quảng Xá đi về phía Nam khoảng 5km là phá Hạc Hải (có tên là “Thạch
bàn Hải nhí”), dân ta thường gọi trống là phá. Phá ở giữa địa hạt Quảng Ninh và Lệ
Thủy. Trước đây phá là vùng nước mặn nhưng từ khi có đập ngăn mặn Mỹ Trung
nó trở thành nguồn nước tưới vô tận cho những vụ mùa nông nghiệp, cũng là nơi
chứa nguồn hải sản phong phú với các loại sản vật như cá, tôm, cua, tép… và đặc
sản là rạm.
Nguồn nước của Hạc Hải cùng với hồ Cẩm Ly, nay có thêm hồ chứa Rào
Đá… tạo điều kiện thuận lợi cho nơng nghiệp Quảng Xá phát triển. Nhìn một cách
tổng quát, thiên nhiên ở đây rất đa dạng và phong phú. Ngồi thế mạnh về đất nơng
nghiệp cịn có nguồn lợi về ao hồ sông nước. Đặc biệt nơi đây cịn có rừng bần
quanh năm xanh tốt, góp phần điều hịa khí hậu, hạn chế thiên tai do lũ lụt, hạn hán
và gió rét. Đó là những thế mạnh về tự nhiên và từ xưa con người tạo ra mà người
dân nơi đây cần bảo tồn và phát huy mọi giá trị của nó.
1.2. Lịch sử hình thành vùng đất
Theo sử cũ, Quảng Xá nay chính là làng Đặng Xá hay Kẻ Đờng ngày xưa.
Năm 1069, ba châu Địa lý, Bố Chính, Ma Linh (Bắc Quảng Trị) được nhập
vào Đại Việt. Sau sự kiện đó, các triều đại phong kiến Việt Nam bắt đầu tổ chức
những đợt di dân lập ấp, khai phá vùng đất. Năm 1075 vua Lý Nhân Tơng sai Lý
Thường Kiệt đem qn bình định lại, chính thức vẽ bản đồ ba châu và đổi tên các


11

châu: Châu Bố Chính thành Bố Chính, Địa Lý thành Lâm Bình, và Mai Linh thành
Minh Linh [9;32].
Sau khi vạch rõ cương giới lãnh thổ, vua Lý bắt đầu chiêu mộ dân chúng đến
khai hoang lập ấp. Theo cuốn sách “Địa lý – lịch sử Quảng Bình” thì vào khoảng
năm 1075 bắt đầu có những đồn người Việt di thực vào phía nam Quảng Bình
[22]. Khi mộ dân khai hoang, lập ấp ở vùng đất ba châu mới Lý Thường Kiệt đã thi
hành chính sách ngụ binh ư nơng biến người nơng dân mang áo lính trở thành qn

đội khi có chiến sự xảy ra và ngược lại, thời bình thì người lính lại trở thành nơng
dân. Những đơn vị quân đội đóng chốt này vừa làm nhiệm vụ giữ gìn bỡ cõi phía
nam của đất nước vừa khẩn hoang khai phá đất hoang dần hình thành những tổ chức
làng xóm với việc tên làng đặt theo khn mẫu X + Xá như: An Xá, Trần Xá, Phan
Xá, Lê Xá, Võ Xá, Cai Xá, Dương Xá, Đặng Xá, Thạch Xá, Mai Xá, Châu Xá,…
Vào thời Lê, vùng đất Bố Chính vẫn cịn hoang sơ, dân cư thưa thớt nên ơng
đã có chiếu dụ “Bố Chính đất rộng, ít dân cư, liền với Châu Hoan, vậy quân dân ai
đến đó khai hoang sẽ có lợi lớn”. Hưởng ứng chiếu dụ này, nhiều quan lẫn dân tự
do, binh lính đến đây định cư, khai hoang lập làng. Khác với đợt di cư thời Lý theo
lối ngụ binh ư nông, đợt di cư này theo nhóm nghề thủ cơng xen kẽ với nhóm người
nơng nghiệp cho nên các làng xóm lúc ấy lấy tên là Kẻ hay Phường như Kẻ Thá
(làng nghề chiếu) là làng An Xá, huyện Lệ Thủy ngày nay; Kẻ Đờng (làng dệt vải
gắn liền với đờn ca xướng hát) là làng Quảng Xá, huyện Quảng Ninh ngày nay...
[26;550]. Sau này trong Ô châu cận lục của tiến sĩ Dương Văn An soạn năm 1555
(phần tổng luận) đã nói rằng: “Làng xóm vui vầy thì có Đặng Xá” [1].
Quảng Xá hiện nay có nhiều dịng họ, song có ba dịng họ chính đó là họ
Dương, họ Nguyễn và họ Trần là những họ khai canh, khai khẩn ra Quảng Xá ngày
nay.
Theo tư liệu cũ, các vị tiền khai khẩn, khai canh là họ Dương (ở làng Giàng,
nay là thôn Dương Xá, xã Thiệu Dương, Thiệu Hóa, Thanh Hóa) theo chúa Nguyễn
Hoàng (1558) đến nơi đầy lý tưởng “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”. Họ
Dương phò Chúa, đến đời Chúa Nguyễn Sãi Nguyễn Phúc Nguyên lập vị, năm Quý


12

Sửu (1613) họ Dương được Chúa cấp đất lập nghiệp vùng bắc phá Hạc Hải, Phe
ông Trùm. Vừa khai phá đất đai, gieo trồng sinh sống, vừa góp quân lương cho
Chúa Nguyễn. Ban đầu, làng là một nhóm nhỏ khoảng 10 gia đình lập ấp, kinh tế
cịn lạc hậu, người dân lại chống chọi với sự khắc nghiệt của thiên tai, gặp rất nhiều

khó khăn nhưng lại góp cơng phục dịch đào con kênh nối phá Hạc Hải đến nhà Tràn
(thuộc Trần Xá, xã Hàm Ninh ngày nay), tức sông Kiến Giang và đắp đường Kẻ
Vạn (Vạn Xuân) đến Kẻ Trường (Trường Dục) nối tiếp quận khởi đầu lũy Đào Duy
Từ thời ấy.
Năm Canh Thân (1620), các ông tiền khai khẩn họ Nguyễn vào phò Chúa
Nguyễn đánh Chúa Trịnh, đến năm 1635 thì đưa gia đình vào lập nghiệp, nhập Kẻ
Đờng, được cấp đất cày ở Bổn Y (Nương Bòn), lập miếu đền, trồng cây huyền vũ
(cây thông) để làm ăn sinh sống. Dân hai họ Dương và Nguyễn kết nghĩa thơng gia,
đồng tình bỏ cả hai xóm phe ơng Trùm, xóm Mả Cả, nền Thợ Giác về ở cùng nhau,
lấy tên là Đặng Xá. Từ đó tục danh gọi là Kẻ Đờng còn văn tự gọi là Đặng Xá.
Trong thời giao tranh Trịnh Nguyễn, chúa Nguyễn lập đạo Lưu Đồn, xây lũy
Trường Dục từ ngọn Thần Đinh qua làng Đặng Xá đến sát bờ Hạc Hải. Nhờ vậy mà
dân Đặng Xá an cư lạc nghiệp được mùa liên tiếp, đời sống đảm bảo. Thừa cơ thắng
lợi của chúa Nguyễn, khoảng năm 1650, họ Dương về Bắc để đón con cháu, anh em
vào. Từ đó trù phú dần thêm.
Vào năm Kỷ Hợi (1719) làng lại thêm ông khai khẩn họ Trần nhập xã (họ
Trần từ bắc vào Trần Xá rồi di cư qua Đặng Xá), cùng dĩ nông vi nghiệp, rồi tiếp
đời sau lại kết nghĩa thông gia với họ Nguyễn, và họ Dương.
Thời kỳ Tây Sơn (1771 – 1789), Quang Trung Nguyễn Huệ tiến quân ra Bắc
đánh bại quân Thanh trận Tế cờ ngày mồng 5 tháng giêng năm Kỉ Dậu (1789). Dân
làng theo quân Tây Sơn đi lính, đi phu nộp thuế điền nuôi quân Nguyễn Huệ ra Bắc,
họ lại về quê cũ đưa bạn bè, thân quyến vào nam để dễ bề sinh sống. Lúc bấy giờ
người lo việc làng được đổi từ Ông Trùm thành Cai Xạ hoặc Tri Hương. Thuế đồn
điền giảm, diện tích khai phá tăng lên, nghề nông phát đạt lại thêm nghề trồng bông
dệt vải. Sức lao động càng đông, ông bà các họ vốn chuộng kinh sử thi cử, rước


13

thầy từ ngồi vào dạy con em học, có người đỗ đạt, có người biết làm thầy địa lý,

thầy phù thủy… Dân làng mộ đạo Phật, mỗi họ lập mỗi ngôi Chùa Phật vừa làm từ
đường.
Đến năm Nhâm Tuất (1802), vua Gia Long ứng vị lập triều phong sắc thần
cho làng và cả ba họ, đồng thời đổi tên làng là làng Quảng Xá, huyện Phong Lộc,
tỉnh Quảng Bình. Đến đời vua Minh Mạng các làng tu chỉnh lại hộ, dinh điền, dựng
đền thần, miếu vũ; đồng thời thêm một cấp trên huyện dưới cấp tỉnh đó là Phủ
Quảng Ninh. Đến cuối thời Thiệu Trị dựng từ đường từng họ, lập chùa chung cho
cả làng và dựng văn miếu thờ Khổng Tử, tất cả đều được giao cho con cháu dân
làng cống thọ. Làng chia lại hương điền, từ đường để trích hoa lợi mà lo việc thờ
cúng, tế tự. Lúc bấy giờ, văn nhân trong làng đã phát triển, đỗ đạt cao dưới thời Tự
Đức, có người làm quan đến chức Phủ thừa, án sát… Người đứng đầu dòng họ là
người cao tuổi nhất gọi là tộc trưởng; người đứng đầu làng gọi là tiên chỉ; người có
phẩm hàm cao nhất lo cho dân an cư lạc nghiệp gọi là Tri hương hay Cai xạ [27;4748].
Đầu năm Ất Hợi (1875), sau hòa ước Giáp Tuất (1874) khi nước Đại Pháp
đến đô hộ nước ta, được chỉ dụ vua ban những nhà nho sĩ trong làng theo Văn Thân
bất khuất, bất thân thượng lệnh phò vua Hàm Nghi đánh Pháp. Dân làng Quảng Xá
vẫn yên ổn nhưng bộ máy cai trị tỉnh – phủ - huyện thay đổi nhiều, kẻ theo Pháp
làm tân quan, người bỏ quê theo Văn Thân cứu nước. Từ đây địa bạ được tu chỉnh
lại, các sở thuế điền thổ, thuế thân được lập ra. Hương hội gồm năm người (ngũ
hương: Bổn, Bộ, Mục, Dịch, Kiểm) được lập ra đứng đầu là Lý trưởng. Tên Tổng để
quản lý làng cũng có từ đây, làng Quảng Xá thuộc Tổng Trung Quán (trước thuộc
tổng Hoành Phổ).
Theo đinh điền bạ năm Kỉ Mão (1879) làng có 108 dân đinh, với 204 mẫu
trung bộ ruộng, không kể huyền vũ, gia cư, nghĩa địa, từ đường, hương hỏa… Dân
làng vẫn dĩ nơng vi bổn nhưng có thêm nhiều nghề phụ như thợ rèn, thợ mộc, thợ
cối xay, thợ mã, thợ chạm, thơ đan, thợ may, thợ rừng,… Nghề trồng bông dệt vải


14


ngày càng tăng và trở thành nghề phụ chủ yếu của mọi gia đình. Vải Quảng Xá
được tiếng trong vùng gọi là vải làng Quảng.
Từ đời vua Gia Long đến Tự Đức thường bị lũ lụt, hạn hán, mất mùa đói
kém. Dân làng nhiều phen khốn khổ, ăn thiếu mặc rách. Dân chúng bị dịch tạ, đậu
mùa rồi bị cướp bóc, trộm cắp. Quan trên tạo ra thế mua danh bán tước, nhà giàu
cho vay nặng lãi, dân làng phải chịu sưu cao thuế nặng, phu phen tạp dịch tăng
thêm. Người đi lính ngày càng đơng, người bỏ chữ Nho đi học chữ Tây rồi đi làm
công hay đi dạy học càng nhiều. Tuy cuộc sống khó khăn nhưng dân làng ngày càng
đông đúc, việc giao lưu với phủ, tỉnh, kinh kỳ ngày càng được mở rộng, văn hóa
ngày càng phong phú. Việc buôn bán ngày càng phát triển. Năm 1928 lập chợ. Năm
1930 lập trường sơ đẳng.
Trong cách mạng tháng tám, dân làng Quảng Xá với lòng nồng nàn yêu nước
đã nhiệt tình hưởng ứng lời kêu gọi của mặt trận Việt Minh tay dao, tay gậy cùng
nhân dân các làng lên phủ, lên tỉnh tham gia cướp chính quyền rồi về làng lập ủy
ban Cách mạng lâm thời. Liên thôn lập xã gọi là Tân Ninh gồm các thơn: Quảng
Xá, Bình Thơn, Hỏa Lị, Thế Lộc, Nguyệt Áng, Hữu Lộc, Tân Thành. Dưới chính
quyền cách mạng, ruộng đất qn cấp cơng bằng, nam nữ bình đẳng, mọi loại thuế
vô lý được bãi bỏ, nô lệ, áp bức cũng khơng cịn. Dân làng nơ nức xây dựng cuộc
sống mới, hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng Cộng sản Đông Dương và Chính phủ
Việt Nam dân chủ cộng hịa, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân làng đồn kết
một lịng, tích cực tăng gia sản xuất chuẩn bị chiến đấu chống giặc Pháp quay lại.
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, qua bao biến cố và đổi thay của tên gọi
và đơn vị hành chính, Đặng Xá hay Kẻ Đờng ngày xưa và nay là Quảng Xá đang
ngày càng phát triển đi lên và mang trong mình những bản sắc văn hóa đặc sắc hịa
chung vào dịng chảy văn hóa của dân tộc Việt Nam.
1.3. Đời sống kinh tế
1.3.1. Sản xuất nông nghiệp
Cùng với những thuận lợi của vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên, sản xuất
nông nghiệp của làng Quảng Xá khá phát triển, hơn 80% cư dân Quảng Xá làm



15

nông nghiệp. Người dân làng luôn biết khắc phục, vật lộn với những bất ngờ của
thiên tai nên nền nông nghiệp ở đây ln có năng suất cao, sản lượng lớn, đóng vai
trị quan trọng trong việc cung cấp nguồn lương thực cho huyện Quảng Ninh và các
vùng lân cận. Với quan niệm nông vi bản (lấy nghề nông làm gốc) nên người Quảng
Xá rất chú trọng đến công tác thủy lợi như đắp đê ngăn lũ, nạo vét kênh mương để
dẫn nước tưới tiêu cho đồng ruộng, bên cạnh đó áp dụng các tiến bộ của khoa học kĩ
thuật cùng với những kinh niệm của dân gian để cày cấy.
Kết hợp với trồng lúa nước, người dân Quảng Xá cịn tăng gia sản xuất, phát
triển chăn ni các loại gia súc, gia cầm, trồng bông, trồng dâu nuôi tằm, trồng hoa
màu, các loại cây ăn quả, rau củ… để phục vụ cho nhu cầu lương thực thực phẩm
của gia đình và tăng thêm thu nhập.
Như vậy, kinh tế nơng nghiệp làng Quảng Xá là sự thể hiện chặt “chẽ hữu cơ
giữa nghề trồng lúa trên cánh đồng với vườn, ao, chuồng trại trong khn viên gia
đình và khai thác triệt để tất cả các điều kiện tự nhiên cho phép điều tiết nguồn nước
để trồng cấy, mở rộng diện tích chăn thả, khai thác thủy sản và bịn nhặt tất cả các
nguồn lợi có được trong thiên nhiên” [17;108]. Một mơ hình nơng nghiệp khá linh
động và sáng tạo.
1.3.2. Thủ công nghiệp
Bên cạnh phát triển sản xuất nông nghiệp, trong những lúc nông nhàn, cư
dân làng Quảng Xá kết hợp phát triển các nghề thủ công phụ, như dệt vải, thợ xay,
thợ mộc, thợ nề… Có thể nói, Quảng Xá là tổng hịa của kiểu làng nơng nghiệp, thủ
cơng nghiệp, thương nghiệp, làng thầy đồ…
…Gái canh cửu, trai sách đèn
Góp vào bách nghệ, ghi tên bảng vàng…
(Lịch sử làng Quảng Xá)
Được biết, vào khoảng đầu thế kỉ XIX, một vị quan người làng Quảng Xá ở
Phú Xuân mang kĩ thuật dệt vải tốt về truyền lại cho làng. Từ đây nghề dệt nhanh

chóng được lan truyền khắp làng và trở thành một nghề thủ cơng chính của Quảng


16

Xá, góp phần đưa kinh tế làng đi lên khá giả nhất nhì vùng và làm nên một làng
nghề vải có tiếng ở Quảng Ninh, Quảng Bình.
Bên cạnh cây lúa nước, Người Quảng Xá còn trồng phổ biến cây dâu tằm,
cây bơng lấy sợi. Ở đây có cả kỹ nghệ nuôi tằm ươm tơ, sản xuất ra các loại tơ…
Trong làng, gia đình nào cũng có khung cửu dệt vải, chủ yếu cơng việc này được
làm vào ban đêm, có những gia đình tập trung đến mười khung cửu. Vải Quảng khổ
hẹp chỉ 38 – 40cm, dệt bằng bông rất đẹp.
Nghề quay tơ dệt vải là nghề huy động được mọi lứa tuổi, vận dụng được
mọi thời gian, đáp ứng nhu cầu sinh kế. Cũng chính từ trong thực tiễn lao động của
nghề dệt vải này đã sản sinh ra những lời ca tiếng hát tạo nên khơng khí “vui vầy”
mà khơng nơi nào có được như Quảng Xá, và Ca Huế ở làng Quảng Xá cũng từ đây
mà phát triển trở và thành một trong những đặc sắc văn hóa của làng.
Ngày nay, khi cuộc sống hiện đại, khoa học kĩ thuật phát triển, nghề dệt hiện
đại ra đời, làng dệt Quảng Xá dần đi vào dĩ vãng. Dẫu vải Quảng khơng cịn trên thị
trường nhưng trong lịng người dân nơi đây nghề dệt đã từng vang tiếng một thời
mãi sống trong tâm thức của mỗi người con dân làng.
Bên cạnh nghề dệt, các nghề thủ công khác cũng được người dân làng biết
đến và phát triển như:
… Thợ hàn, thợ mộc, thợ may
Thợ đan, thợ chạm, thợ xây, thợ nề…”
(Quảng Xá địa dư ca)
Nghề nào cũng được thông thạo và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác góp phần phát triển nền kinh tế của từng gia đình và cả làng. Đặc biệt trong
đó, thợ mộc có người giỏi đến mức cửu phẩm.
1.3.3. Thương nghiệp

Nằm ở trung tâm xã Tân Ninh, có hệ thống giao thơng đường bộ và đường
thủy thuận lợi nên hoạt động giao lưu buôn bán phát triển khá sớm ở Quảng Xá.
Nơi trao đổi bn bán chính là chợ làng, thường gọi là chợ Bến (được lập năm
1928). Ngày xưa chợ này được đặt ở cuối làng gần với sông để thuận lợi cho việc đi


17

lại, giao lưu buôn bán bằng đường thủy. Ngày nay, do giao thông đường bộ phát
triển nên chợ được đưa về đầu làng, nằm ở cổng làng nên người dân thường gọi là
chợ Cổng, hay là chợ Chạy. Gọi là chợ Chạy vì chợ này được bà con họp từ lúc 4h
sáng và đến khoảng 7h sáng là tan, những người buôn bán ở đây tiếp tục lên chợ xã
để bán. Vì chợ chưa kịp tan thương nhân đã vội dọn hàng để kịp lên chợ xã nên gọi
là chợ Chạy.
Lúc đầu chợ này rất nhỏ, ít hàng hóa nhưng theo thời gian chợ làng ngày
càng được mở rộng, hàng hóa ngày càng đa dạng, người mua bán ra vào tấp nập
nhộn nhịp. Chợ không chỉ là nơi giao lưu bn bán mà cịn là nơi giao tiếp cộng
đồng, nơi hẹn hị gặp gỡ lứa đơi, cũng là nơi phơ diễn tay nghề khéo léo của những
người thợ thủ công và “duy trì kinh tế tiểu nơng” [4;339]. Mấy trăm năm qua chợ
làng đóng vai trị thương nghiệp rất quan trọng, với hệ thống lều quán, cùng với
việc tổ chức họp chợ và các loại hàng hóa trao đổi đã tạo nên nét đẹp văn hóa chợ
làng quê Quảng Xá.
Có thể thấy, là một làng thuần việt nên kết cấu kinh tế của làng Quảng Xá là
kết cấu kết hợp chặt chẽ cả ba phần kinh tế nông, công, thương nghiệp. Nơng
nghiệp, thủ cơng nghiệp và thương nghiệp hịa quyện vào nhau tạo thành một thể
thống nhất đã tạo ra một kiểu kết cấu vừa mềm dẻo vừa bền vững. Với người Quảng
Xá, nông nghiệp luôn đứng hàng đầu trong thể thống nhất đó tạo nên cơ sở vững
chắc mang tính ổn định, bền vững trong sự phát triển của làng.
1.4. Đời sống xã hội và văn hóa của cư dân làng
1.4.1. Thiết chế xã hội và quan hệ xã hội

Dưới thời phong kiến, thiết chế xã hội của làng Quảng Xá là làng có nhiều
ngõ xóm tạo thành. Đây là đểm khác với các cơ cấu tổ chức làng xã phổ biến theo
giáp (lớp tuổi) ở Bắc Bộ.
Đứng đầu làng là Xã trưởng. Đến năm 1828, sau khi cải tổ bộ máy xã thôn
thời Minh Mạng, xã trưởng được thay thế bằng lý trưởng. Cũng như ở các làng xã ở
miền Trung, bộ máy chính quyền Quảng Xá chỉ có một lý trưởng, ngồi ra có thêm


18

một phó lý và hương chức. Bộ máy nhận giúp việc cho lý trưởng gồm những chức
viên sau:
- Hộ lại phụ trách việc hộ tịch, hộ khẩu.
- Chưởng bạ phụ trách giấy tờ về ruộng đất.
- Trương tuần trông coi việc bảo về trật tự trị an.
- Thủ quỹ phủ trách ngân quỹ
Bên cạnh bộ máy chức dịch cịn có Hội đồng kỳ mục. Hội đồng này gồm
những vị có phẩm hàm các quan lại về hưu, các nhà khoa bảng, các tài gia, hào mục
và các chức sắc. Đứng đầu là một tiên chỉ và một thứ chỉ giúp việc. Đây là cơ quan
có chức năng tư vấn giải quyết các công việc trong làng.
Bộ máy chức dịch và Hội đồng kỳ mục là hai thiết chế có mối quan hệ hỗ trợ
cho nhau trong việc tổ chức, quản lý làng xã và nó được vận hành theo cơ chế
chung gọi là lệ làng (hương ước) và phép nước (quy định của nhà nước). Ngày nay
thiết chế chính trị - xã hội của làng đã thay đổi với tên gọi là bộ máy hành chính nhà
nước trong đó gồm hệ thống quan phương, chính thống và hệ thống phi quan
phương, phi chính thống.
Dù có sự thay đổi về tên gọi, h́ nh thức quản lư nhưng thực chất vẫn là các tổ
chức chính trị - xã hội của dân làng. Thơng qua đó các mối quan hệ xã hội được
thiết lập và gắn chặt với nhau tạo thành các mạng lưới xã hội và vốn xã hội không
thể thiếu được của xã hội nông nghiệp, nông thôn Việt Nam [25].

Quảng Xá có rất nhiều tổ chức hành chính nhưng nổi bật là dòng họ, hội
đồng hương, hội các cựu nhà giáo (mang tính phi quan hương, phi chính thống)
đóng vai trò quan trọng trong thiết chế xã hội ở làng ngày nay.
Các dòng họ (Dương, Nguyễn, Trần) ở Quảng Xá đều có gốc gác từ Thanh Nghệ Tĩnh. Quá trình hình thành và phát triển của các dịng họ gắn liền với các cuộc
di cư và lập ấp ở vùng đất Quảng Bình. Trong buổi đầu tạo dựng xóm làng, cộng
đồng có vai trị rất quan trọng trong tình cảm và quan niệm sống. Người ta cố kết lại
với nhau khơng chỉ vì quan hệ huyết thống mà cịn vì nhu cầu của cuộc sống mới


19

như khai sơn lập ấp, sản xuất, chống giặc giã, thú dữ và khắc phục thiên nhiên khắc
nghiệt.
Cùng làm ăn sinh sống với nhau dù ai đi đâu về đâu cũng không thể quên
ngày dẩy mả (tảo mộ) họ ở làng vào ngày 2/9 dương lịch hằng năm. Chính ngày này
đã kết nối thêm tình cảm giữa các thành viên trong gia đình, trong dịng họ với
nhau. Vai trị của dòng họ còn thể hiện trong việc quản lý con người. Bất kỳ một
thành viên nào vi phạm quy ước của làng hoặc pháp luật của nhà nước thì khi xử lý
phải có đại diện của dịng họ đi kèm để nghe phán xét và ký vào biên bản. Nếu
thành viên đó thuộc chi, phái nào thì trưởng phái, trưởng chi phải chịu trách nhiệm
giáo dục thành viên đó. Nếu tái phạm thì đưa ra họ tộc giải quyết. họ tộc là sợi dây
ràng buộc các thành viên cùng huyết thống trong làng thành một tổ chức cộng đồng
xã hội bền vững. Mối quan hệ của mỗi cá nhân không chỉ diễn ra ngay trong mỗi
dịng họ mà cịn có sự kết chéo giữa dòng họ này với dòng họ khác. Thơng qua hơn
nhân giữa nam dịng họ này với nữ dòng họ khác nên ở Quảng Xá dần dần hình
thành một hệ thống bà con với nhau. Điều đó thể hiện sự cố kết vững chắc nhưng
cũng là hệ quả của quan niệm “tre làng nào làng ấy giữ, gái làng nào làng ấy cưới”.
Liên kết trong dòng tộc và tâm thức “một giọt máu đào hơn ao nước lã” không chỉ
tồn tại trong xã hội tiểu nông và làng xã khép kín mà cịn duy trì trong mơi trường
kinh tế thị trường hiện nay.

Những người Quảng Xá xa quê với tư tưởng uống nước nhớ nguồn, họ lập ra
các hội đồng hương ở nhiều tỉnh thành trong cả nước, kết nối tình cảm con em xa
quê với nhau. Hoạt động của hội đồng hương Quảng Xá không chỉ gặp mặt định kỳ
hằng năm mà cịn có những thăm hỏi hiếu hỉ, ốm đau… sự tương trợ lẫn nhau đó đã
hình thành một sợi dây vơ hình về tình cảm và niềm tin trong cộng đồng người xa
quê của Quảng Xá.
Liên quan đến nghề nghiệp, Quảng Xá được mệnh danh là “làng thầy” nên
Hội các cựu nhà giáo được thành lập. Mục đích của hội là được tiếp tục cống hiến,
góp sức xây dựng, phát triển làng văn hóa. Các thành viên trong hội dù đã lớn tuổi
nhưng luôn tiên phong, mẫu mực làm gương cho con cháu trong gia đình, trong


20

làng xóm. Chính những kết nối này đã tạo nên sự vững chắc cho mạng lưới xã hội
này.
Dù mang tính phi quan phương nhưng hương ước là một dạng vốn xã hội cần
thiết để điều chỉnh các mối quan hệ trong làng, bảo vệ trật tự an ninh, đời sống văn
hóa tín ngưỡng, đảm bảo các nghĩa vụ đối với nhà nước, có thưởng, có phạt. Xưa là
hương ước bất thành văn, còn gọi là lệ làng, giữ vai trò quan trọng trong việc cố kết
các tổ chức thành viên trong làng, góp phần vận hành cơ chế hoạt động của làng.
Những quy ước tỉ mỉ và nghiêm ngặt liên quan tới sản xuất nơng nghiệp, an ninh
thơn xóm, bảo vệ môi trường, phong tục tập quán… đã giúp người dân chủ động
trong đời sống, đặc biệt là tạo dựng sức mạnh đồn kết, xây dựng mơi trường, làng
xóm lành mạnh. Chính những quy định đó của lệ làng đã khiến người nông dân
luôn ý thức rõ về trách nhiệm, nghĩa vụ, tơn trọng người khác trong cộng đồng, hình
thành nếp sống có trên có dưới của dân làng, trở thành truyền thống văn hóa của
làng. Ngày nay, lệ làng được văn bản hóa dưới dạng hương ước, tiếp tục duy trì
mục đích xây dựng làng xóm lành mạnh, đồn kết cùng phát triển. Hương ước
Quảng Xá gồm 06 chương, 27 điều. Cùng với pháp luật, hương ước đang trở thành

một cơng cụ quản lý thơn xóm hữu hiệu.
Chính các mạng lưới và vốn xã hội đã làm cho kết cấu xã hội Quảng Xá
được chặt chẽ hơn, an toàn hơn trước những biến động và va đập của xã hội.
1.4.2. Con người Quảng Xá
…Giang sơn đề tạo cũng mầu (nhiệm)
Quảng cư thắng địa nối nhau đời đời…
(Quảng Xá địa dư ca)
Là một vùng đất địa linh nhân kiệt từ buổi bình minh của lịch sử Quảng Xá
đã có sự hiện diện của người Việt cổ [6;9]. Lúc đầu họ sinh sống trong các hang
động, dưới các mái đá cao hay các hang ở gần nguồn nước. Từ các hang động gần
thượng nguồn dần dần họ men theo các triền sơng có đất đai màu mỡ, tấn cơng vào
các đồng bằng ven biển, khai phá đầm lầy và chinh phục thiên nhiên tạo bản, lập
làng. Làng Quảng Xá có vị trí địa lý thuận lợi, có điều kiện tự nhiên phù hợp với


×