Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Đánh giá thực trạng và đề xuất biện pháp nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường làng nghề bún, đậu viên tiêu, xã tân hưng, huyện tiên lữ, tỉnh hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (27.33 MB, 60 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM




NGUYỄN THỊ PHƯƠNG DUNG


ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP
NHẰM GIẢM THIỂU Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
LÀNG NGHỀ BÚN, ĐẬU VIÊN TIÊU, XÃ TÂN HƯNG,
HUYỆN TIÊN LỮ, TỈNH HƯNG YÊN




CHUYÊN NGÀNH : KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG
MÃ SỐ : 60.44.03.01



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN XUÂN THÀNH







HÀ NỘI - 2014
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page i

LỜI CAM ĐOAN

- Tôi xin cam đoan rằng, các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận
văn này là trung thực và chưa sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
- Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn
này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ
rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày tháng năm 2014
Tác giả luận văn


Nguyễn Thị Phương Dung
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page ii

LỜI CẢM ƠN

Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy PGS.TS Nguyễn
Xuân Thành là người đã định hướng đề tài và trực tiếp chỉ bảo tôi trong quá
trình thực tập tốt nghiệp, hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Luận văn này sẽ không thể thực hiện được nếu không có sự giúp đỡ nhiệt
tình của UBND xã Tân Hưng, phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Tiên
Lữ. Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè đã luôn ở bên
tôi, khích lệ để tôi có thể hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2014
Học viên



Nguyễn Thị Phương Dung
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC BẢNG v
DANH MỤC HÌNH vi
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT vii
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 3
1.1 Một số lý luận chung 3
1.1.1 Cơ sở lý luận về ô nhiễm môi trường 3
1.1.2 Cơ sở lý luận về làng nghề 6
1.2 Thực tiễn phát triển làng nghề và công tác bảo vệ môi trường 17
1.2.1 Kinh nghiệm của một số nước về phát triển làng nghề và BVMT 17
1.2.2 Kinh nghiệm của một số tỉnh về phát triển làng nghề và BVMT 23
1.3 Tình hình phát triển làng nghề truyền thống của Hưng Yên và vấn đề
bảo vệ môi trường 31
Chương 2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 34
2.1 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 34
2.2 Nội dung nghiên cứu 34
2.3 Phương pháp nghiên cứu 34
2.3.1 Phương pháp thu thập tài liệu sơ cấp 34
2.3.2 Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp 37
2.3.3 Phương pháp tổng hợp, xử lý số liệu, phân tích hệ thống 37



Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page iv

Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 38
3.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội xã Tân Hưng, huyện Tiên Lữ, tỉnh
Hưng Yên 38
3.1.1 Điều kiện tự nhiên 38
3.1.2 Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội 41
3.1.3 Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội 45
3.2 Thực trạng sản xuất tại làng nghề bún, đậu Viên Tiêu, xã Tân Hưng,
huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên 46
3.2.1 Quá trình hình thành và phát triển của làng nghề bún, đậu Viên
Tiêu, xã Tân Hưng, huyện Tiên Lữ 46
3.2.2 Quy trình sản xuất bún và đậu của làng nghề 48
3.2.3 Tình hình sản xuất bún, đậu và hiệu quả kinh tế của các nhóm hộ
làm nghề sản xuất bún đậu 55
3.3 Hiện trạng môi trường làng nghề sản xuất bún, đậu Viên Tiêu, xã Tân
Hưng, huyện Tiên Lữ. 63
3.3.1 Phế thải rắn làng nghề sản xuất bún, đậu 63
3.3.2 Nước thải làng nghề sản xuất bún, đậu 67
3.4 Đề xuất một số giải pháp bảo vệ môi trường làng nghề sản xuất bún, đậu
tại xã Tân Hưng, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên. 77
3.4.1. Hoàn thiện cơ chế, chính sách về BVMT làng nghề 77
3.4.2. Tăng cường công tác truyền thông, đào tạo và nâng cao năng lực
và ý thức BVMT làng nghề 77
3.4.3. Áp dụng giải pháp sản xuất sạch hơn vào việc sản xuất bún, đậu
của làng nghề ở Viên Tiêu 79
KẾT LUẬN & ĐỀ NGHỊ 82
TÀI LIỆU THAM KHẢO 84
PHỤ LỤC 87


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page v

DANH MỤC BẢNG

STT Tên Bảng Trang

Bảng 1.1: Phân bố các loại hình làng nghề ở các vùng nông thôn Việt Nam
11
Bảng 3.1: Khí tượng, thủy văn trung bình các năm 39
Bảng 3.2: Doanh thu và tốc độ tăng trưởng kinh tế của xã Tân Hưng 42
Bảng 3.3: Phân loại nhóm hộ sản xuất bún, đậu tại làng nghề 55
Bảng 3.4: Hiệu quả kinh tế của sản xuất bún 57
Bảng 3.5: Nguyên liệu đầu vào, khối lượng nước sử dụng và khối lượng
nước thải ra 59
Bảng 3.6: Hiệu quả kinh tế của sản xuất đậu 60
Bảng 3.7: Nguyên liệu đầu vào và khối lượng nước sử dụng làm Đậu 61
Bảng 3.8: Khối lượng phế thải, nước thải trong sản xuất Đậu 62
Bảng 3.9: Khối lượng RTSH phát sinh tại xã Tân Hưng 64
Bảng 3.10: Thành phần chất thải sinh hoạt 65
Bảng 3.11 : Ước tính lượng nước thải từ các công đoạn sản xuất bún 68
Bảng 3.12: Ước tính lượng nước thải từ các công đoạn sản xuất đậu 69
Bảng 3.13: Bảng số liệu quan trắc, phân tích mẫu nước thải làng nghề bún,
đậu Viên Tiêu 71
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page vi

DANH MỤC HÌNH

STT Tên Hình Trang


Hình 3.1: Sơ đồ xã Tân Hưng – Tiên Lữ 38
Hình 3.2: Cơ cấu kinh tế của xã qua các năm (ĐVT: %) 41
Hình 3.3: Quy trình sản xuất bún 50
Hình 3.4: Hình ảnh sản xuất bún thực tế 51
Hình 3.5: Hình ảnh sản xuất đậu thực tế 53
Hình 3.6: Quy trình sản xuất đậu 54
Hình 3.7: Quy mô sản xuất bún, đậu 56
Hình 3.8: Bã đậu 63
Hình 3.9: Biểu đồ so sánh hàm lượng BOD
5
các mẫu với
QCVN 08 – 2008 cột B1 72
Hình 3.10: Biểu đồ so sánh hàm lượng COD các mẫu với
QCVN 08 – 2008 cột B1 72
Hình 3.11: Biểu đồ so sánh hàm lượng NH
4
+
- N các mẫu với
QCVN 08 – 2008 cột B1 74
Hình 3.12: Biểu đồ so sánh hàm lượng PO
4
3-
- P các mẫu với
QCVN 08 – 2008 cột B1 74
Hình 3.13: Biểu đồ so sánh chỉ thị số lượng Coliform các mẫu với
QCVN 08 – 2008 cột B1 75
Hình 3.14: Biểu đồ so sánh hàm lượng tổng chất rắn lơ lửng TSS các
mẫu với QCVN 08 – 2008 cột B1 76
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page vii


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BVMT: Bảo vệ môi trường
CN: Công nghiệp
CNH – HĐH: Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
HĐND: Hội đồng nhân dân
HTX: Hợp tác xã
UBND: Ủy ban nhân dân
TTCN: Tiểu thủ công nghiệp
QCVN: Quy chuẩn Việt Nam
VSV: Vi sinh vật
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 1

ĐẶT VẤN ĐỀ
1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Ở Việt Nam một số làng nghề ra đời từ rất sớm, đến nay Việt Nam có
khoảng hơn 2.000 làng nghề. Sự hình thành và phát triển các làng nghề trong
các năm qua đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội
đất nước. Một số làng nghề tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập cho lao
động nông thôn; giải quyết các vấn đề xã hội phức tạp ở khu vực nông thôn;
góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa; thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước và góp phần bảo
tồn giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc,
Huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên là huyện nông nghiệp nằm trong vùng
đồng bằng sông Hồng, được bồi đắp phù sa bởi 2 con sông lớn là sông Hồng
và sông Luộc nên rất thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp. Huyện có
nhiều làng nghề truyền thống lâu đời như làng nghề bún đậu Viên Tiêu, làng
nghề dệt thảm đay, Theo thời gian những làng nghề thủ công này luôn tồn
tại và phát triển trong môi trường nông nghiệp nông thôn. Nó không chỉ tạo
nên sắc thái văn hóa độc đáo riêng mang tính nghề nghiệp mà còn là nơi bảo

lưu, gìn giữ những tập quán được coi là cổ xưa.
Ngày nay cùng với sự phát triển của nền kinh tế, hoạt động của các làng
nghề truyền thống ngày càng diễn ra mạnh mẽ. Tuy nhiên, do phát triển tự
phát, công nghệ lạc hậu, cùng với nhận thức về môi trường của người dân chưa
cao nên hoạt động của một số làng nghề đã phát sinh các nguy cơ ô nhiễm môi
trường như: nước thải, khí thải, chất thải rắn, Bên cạnh đó, do đặc điểm các
làng nghề thường nằm trong khu dân cư và chất thải hầu như chưa có biện pháp
xử lý nên đã lan truyền và gây ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng. Sự
ô nhiễm môi trường không chỉ ảnh hưởng đến điều kiện sinh hoạt, sức khỏe
của người dân mà còn ảnh hưởng đến các hoạt động sản xuất khác như trồng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 2

trọt, chăn nuôi, Trước tình hình đó đòi hỏi phải có các biện pháp khắc phục
kịp thời nhằm trả lại môi trường trong lành cho cuộc sống.
Nhằm cung cấp thông tin cụ thể về hiện trạng môi trường của khu vực
làng nghề làm bún, đậu tại huyện Tiên Lữ và đề xuất giải pháp nhằm hạn chế ô
nhiễm môi trường phục vụ cho sự phát triển làng nghề. Được sự phân công của
Khoa Môi trường, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá thực trạng và đề
xuất biện pháp nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường làng nghề bún, đậu
Viên Tiêu, xã Tân Hưng, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá thực trạng môi trường làng nghề sản xuất bún, đậu Viên
Tiêu, xã Tân Hưng, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên;
- Đề xuất một số biện pháp bảo vệ môi trường làng nghề bún đậu Viên
Tiêu, xã Tân Hưng, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên.
3. Yêu cầu
- Sử dụng phiếu điều tra phỏng vấn người dân và phân tích các chỉ tiêu
môi trường liên quan đến nghề bún, đậu Viên Tiêu tại địa bàn nghiên cứu.
- Chỉ ra được những thế mạnh và những tồn tại, bức xúc của làng nghề
bún đậu gây áp lực cho môi trường trên cơ sở đó đề xuất biện pháp khả thi

nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường.








Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 3

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
1.1 Một số lý luận chung
1.1.1 Cơ sở lý luận về ô nhiễm môi trường
1.1.1.1 Khái niệm về môi trường, ô nhiễm môi trường
Theo luật Bảo vệ môi trường, 2005:
“ Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên, vật chất nhân tạo bao quanh
con người, có ảnh hưởng đến đời sống sản xuất, sự tồn tại phát triển của con
người và sinh vật”.
Theo định nghĩa của Tổ chức kinh tế văn hóa xã hội Liên hợp quốc
(UNESCO) thì Môi trường của con người bao gồm toàn bộ các hệ thống tự
nhiên và các hệ thống do con người tạo ra, những cái hữu hình (tập quán,
niềm tin, ), trong đó con người sống và lao động, họ khai thác các tài
nguyên thiên nhiên và nhân tạo nhằm thỏa mãn những nhu cầu của mình.
Nói chung, môi trường của một khách thể bao gồm các vật chất, điều
kiện hoàn cảnh, các đối tượng khác hay các điều kiện nào đó mà chúng bao
quanh khách thể này hay các hoạt động của khách thể diễn ra trong chúng.
Như vậy, môi trường là tổng hòa các mối quan hệ giữa tự nhiên và con
người trong đó bao gồm cả yếu tố vật chất nhân tạo, chúng tạo nên một thể

thống nhất tác động trực tiếp tới đời sống của con người, ảnh hưởng đến sự
tồn tại và phát triển của con người và thiên nhiên.
Theo luật Bảo vệ môi trường, 2005:
“ Ô nhiễm môi trường là sự biến đổi của các thành phần môi trường
không phù hợp với tiêu chuẩn môi trường gây ảnh hưởng xấu đến con người
và sinh vật”.
Từ khái niệm về tiêu chuẩn môi trường, ô nhiễm môi trường được định
nghĩa là sự thay đổi tính chất của môi trường, vi phạm tiêu chuẩn môi trường.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 4

Như vậy, ta có thể thấy khái niệm ô nhiễm môi trường phụ thuộc vào hai yếu
tố: tác động vật lý của chất thải và phản ứng của con người đối với tác động
ấy. Tác động vật lý của chất thải có thể mang tính sinh học như làm thay đổi
gen di truyền, giảm đa dạng sinh học, ảnh hưởng đến mùa màng hoặc sức
khỏe con người. Tác động cũng có thể mang tính hóa học như ảnh hưởng của
mưa axit đối với các công trình, nhà cửa
Trên thế giới, ô nhiễm môi trường được hiểu là việc chuyển các chất thải
hoặc năng lượng vào môi trường đến mức có khả năng gây hại đến sức khoẻ
con người, đến sự phát triển sinh vật hoặc làm suy giảm chất lượng môi
trường. Các tác nhân ô nhiễm bao gồm các chất thải ở dạng khí (khí thải),
lỏng (nước thải), rắn (chất thải rắn) chứa hoá chất hoặc tác nhân vật lý, sinh
học và các dạng năng lượng như nhiệt độ, bức xạ.
Tuy nhiên, môi trường chỉ được coi là ô nhiễm nếu trong đó hàm lượng,
nồng độ hoặc cường độ các tác nhân trên đạt đến mức có khả năng tác động
xấu đến con người, sinh vật và vật liệu.
1.1.1.2 Vấn đề ô nhiễm môi trường trong các làng nghề và ảnh hưởng của nó
đến sự phát triển bền vững
Trong thời kì đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta, ngành nghề
tiểu thủ công nghiệp cũng có những đóng góp quan trọng trong tiến trình phát
triển của đất nước. Vai trò của các làng nghề truyền thống trong phát triển

kinh tế xã hội vùng nông thôn ngày càng được khẳng định. Hàng năm các
làng nghề truyền thống đã tạo công ăn việc làm cho hàng vạn lao động với thu
nhập ổn định; làm tăng giá trị tổng sản phẩm hàng hóa cho nền kinh tế; đa
dạng hóa kinh tế nông thôn và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
theo hướng CNH – HĐH; bảo tồn các giá trị văn hóa dân tộc. Bên cạnh những
kết quả đạt được thì tình trạng ô nhiễm môi trường trong các làng nghề truyền
thống ngày càng trở thành những vẫn đề “nóng”, đáng báo động trong môi
trường nông thôn. Tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên trầm
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 5

trọng như một số làng nghề sản xuất sắt thép, đúc đồng, sản xuất giấy, dệt
nhuộm, … Nguyên nhân gây nên tình trạng trên do:
Một là, những làng nghề truyền thống này đã hình thành và phát triển từ
lâu, khu vực sản xuất gắn liền với khu dân cư, không có sự quy hoạch, việc
sản xuất mang tính tự phát, đơn lẻ, cơ sở hạ tầng đã hư hỏng hoặc làm lại mới
nhưng lại là chắp vá. Người dân phải chịu trực tiếp, trọn vẹn những loại ô
nhiễm do quá trình sản xuất thải ra. Tại các làng nghề thường không có biện
pháp xử lý môi trường và quy hoạch môi trường mà thường thải trực tiếp ra
ngoài. Vì vậy, môi trường ngày càng bị ô nhiễm.
Hai là, do đây là các làng nghề truyền thống nên việc sản xuất còn sử
dụng các công cụ thô sơ, công nghệ sản xuất lạc hậu, việc sản xuất không gắn
với việc bảo vệ môi trường.
Ba là, người lao động ở đây vốn là những lao động thủ công, họ được kế
thừa nghề nghiệp từ đời này sang đời khác, việc sản xuất của họ chủ yếu dựa
vào thói quen. Nhận thức của người dân còn hạn chế, họ chỉ chú trọng chạy
theo lợi nhuận mà không mấy quan tâm đến trách nhiệm bảo vệ môi trường,
họ ỷ vào nhà nước và chính quyền địa phương, đôi khi ý thức kém đã hình
thành nên tính ích kỷ, có những người chỉ quan tâm đến vệ sinh môi trường
khu vực mình ở, còn môi trường ngoài nhà họ bàng quan, “cha chung không
ai khóc”.

Bốn là, công tác quản lý môi trường chưa được chú trọng và thực hiện
chưa triệt để, còn mang tính giải pháp tình thế hoặc giải quyết được chỗ này
nhưng lại làm ô nhiễm chỗ khác.[Bạch Thị Lan Anh,2010]
Tình trạng ô nhiễm môi trường này đã ảnh hưởng đến sự phát triển bền
vững của các làng nghề truyền thống, ảnh hưởng đến sức khỏe người dân. Nó
không chỉ ảnh hưởng đến thế hệ hiện tại mà còn ảnh hưởng đến thế hệ mai
sau. Ngày nay, phát triển bền vững là mội xu hướng phát triển tất yếu của loài
người, đảm bảo cho loài người có thể tồn tại và phát triển.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 6

1.1.2 Cơ sở lý luận về làng nghề
1.1.2.1 Khái quát về sự phát triển làng nghề
Trong quá trình phát triển của lịch sử cũng như hiện nay đều cho thấy,
làng xã Việt Nam có vị trí hết sức quan trọng trong sản xuất, cũng như đời
sống dân cư ở nông thôn. Qua thử thách của những biến động thăng trầm,
những lệ làng, phép nước và phong tục tập quán ở nông thôn vẫn được duy
trì, phát triển đến ngày nay.
Từ buổi ban đầu, ngay trong một làng phần lớn người dân đều làm nông
nghiệp, càng về sau có những bộ phận dân cư sống bằng nghề khác, họ liên
kết chặt chẽ với nhau khiến cho nông thôn Việt Nam có thêm một số tổ chức
theo nghề nghiệp, tạo thành các phường hội: phường gốm, phường đúc đồng,
phường dệt vải, từ đó các nghề được lan truyền và phát triển thành làng
nghề. Bên cạnh những người chuyên làm nghề, thì đa phần vừa sản xuất nông
nghiệp vừa làm nghề (nghề phụ). Nhưng do nhu cầu trao đổi hàng hóa, các
nghề mang tính chuyên môn sâu hơn và thường chỉ giới hạn trong quy mô
nhỏ (làng) dần dần tách khỏi nông nghiệp để chuyển hẳn sang nghề thủ công
và sống bằng chính nghề đó ngày một tăng. Làng nghề phát triển mạnh, số hộ,
số lao động làm nghề truyền thống tăng nhanh và sống bằng nghề đó ngày
càng nhiều.
Làng nghề thường xuất hiện theo những con đường chủ yếu sau:

- Có nghệ nhân từ nơi khác đến truyền nghề, nghệ nhân này được suy tôn
là tổ nghề.
- Từ một số cá nhân hay gia đình dòng họ có những kỹ năng và có sự
sáng tạo nhất định.
- Do những người đi nơi khác học sau đó truyền lại nghề.
- Do chủ trương của địa phương khuyến khích phát triển nghề phụ, phục
vụ cho đời sống xã hội và cải thiện đời sống nông dân.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 7

- Một số làng nghề hình thành trên cơ sở sự lan toả dần từ một số làng
nghề khác, tạo ra một cụm làng nghề, xã nghề ở vùng lân cận.
Như vậy, làng xã Việt Nam là nơi sản sinh ra nghề thủ công truyền thống
và các sản phẩm mang dấu ấn tinh hoa của nền văn hóa, văn minh dân tộc.
Quá trình phát triển của làng nghề là quá trình phát triển của tiểu thủ công
nghiệp ở nông thôn. Lúc đầu sự phát triển đó từ một vài gia đình, rồi đến cả
họ sau đó lan ra cả làng. Trải qua một thời gian dài của lịch sử, lúc thịnh, lúc
suy, có những nghề được lưu giữ, có những nghề bị mai một hoặc mất hẳn và
có những nghề mới ra đời. Trong đó, có những nghề đạt tới trình độ công
nghệ tinh xảo với kỹ thuật điêu luyện và phân công lao động khá cao.
Đa số các làng nghề đã trải qua lịch sử phát triển hàng trăm năm, song
song với quá trình phát triển kinh tế xã hội, văn hóa và nông nghiệp của cả
nước. Ví dụ như làng đúc đồng Đại Bái (Bắc Ninh) với hơn 900 năm phát triển,
làng nghề gốm Bát Tràng (Hà Nội) có gần 500 năm, Nếu đi sâu tìm hiểu về
nguồn gốc của các sản phẩm từ làng nghề đó có thể thấy rằng hầu hết các sản
phẩm này ban đầu được sản xuất để phục vụ sinh hoạt hàng ngày hoặc là công
cụ sản xuất nông nghiệp, chủ yếu được làm lúc nông nhàn. Kỹ thuật, công
nghệ, quy trình sản xuất cơ bản để làm ra các sản phẩm này được truyền từ thế
hệ này sang thế hệ khác. [Bạch Thị Lan Anh, 2010]
Sự phát triển của các làng nghề Việt Nam đã trải qua những giai đoạn
khác nhau, gắn với những cung bậc thăng trầm của lịch sử. Đặc biệt, từ giai

đoạn đổi mới nền kinh tế đến nay, dưới tác động to lớn của sự biến đổi nền
kinh tế trong nước cũng như trên toàn thế giới, sự phát triển của các làng nghề
cũng có những thay đổi lớn, có những thành công mới nhưng cũng có không
ít những vấn đề nan giải.
Trước đây, làng nghề không chỉ là trung tâm sản xuất sản phẩm thủ công
mà còn là điểm văn hóa của khu vực, của vùng. Làng nghề là nơi hội tụ của
những thợ thủ công có tay nghề cao mà tên tuổi gắn liền với sản phẩm trong
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 8

làng. Ngoài ra, làng nghề cũng chính là điểm tập kết nguyên vật liệu, là nơi
tập trung những tinh hoa trong kỹ thuật sản xuất sản phẩm của làng. Các mặt
hàng sản xuất ra không chỉ phục vụ sinh hoạt hàng ngày mà còn bao gồm cả
các sản phẩm mỹ nghệ, đồ thờ cúng, dụng cụ sản xuất, nhằm đáp ứng nhu
cầu thực tế của thị trường khu vực lân cận.
Trong vài năm gần đây, làng nghề đang thay đổi nhanh chóng theo nền
kinh tế thị trường, các hoạt động sản xuất tiểu thủ công phục vụ tiêu dùng
trong nước và xuất khẩu được tạo điều kiện phát triển. Quá trình công nghiệp
hóa cùng với việc áp dụng các chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề
nông thôn, thúc đẩy sản xuất tại các làng nghề đã làm tăng mức thu nhập bình
quân của người dân nông thôn, các công nghệ mới đang được áp dụng phổ
biến. Các làng nghề mới và các cụm làng nghề không ngừng được khuyến
khích phát triển nhằm đạt được sự tăng trưởng, tạo công ăn việc làm và thu
nhập ổn định ở khu vực nông thôn.
Xuất hiện từ rất lâu đời (điển hình như các làng nghề ở Hà Tây (cũ), Bắc
Ninh, Hưng Yên, có từ thời nhà Lê, Nhà Lý). Các làng nghề nông thôn đã có
những bước đánh dấu khá rõ nét trong lịch sử kinh tế xã hội Việt Nam. Vượt
lên các nhu cầu về nông nghiệp, các sản phẩm như: đồ sành sứ, đồ gốm, vải
vóc, đồ ăn, đồ thờ cúng, hàng mỹ nghệ, giấy, … đã được chế biến phục vụ
cho nhu cầu đời sống hàng ngày, phục vụ cho đời sống tâm linh, cho việc học
tập, cho đời sống văn hóa và cho cả xuất khẩu.

Làng nghề trước Cách mạng tháng Tám đã khá phong phú, đa dạng, nó
được hình thành từ các nghề cũ và một số nghề mới được phát triển nhằm đáp
ứng thị trường luôn thay đổi phức tạp (nhìn chung không khác lắm so với các
nghề đương thời). Thời gian này, nghề dệt lụa (Hà Đông) đã có những bước
tiến xa hơn, trở thành nghề thủ công xuất khẩu và tạo công ăn việc làm cho số
lượng lao động lớn.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 9

Từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay, có thể chia lịch sử phát triển của
làng nghề thành các giai đoạn sau:
- Giai đoạn 1954 – 1978: Do chính sách Công nghiệp hóa, ưu tiên phát
triển công nghiệp nặng, khuyến khích các thợ thủ công tham gia vào các Hợp
tác xã. Tại một số làng nghề đã xuất hiện những Hợp tác xã tiểu thủ công
nghiệp, chủ yếu sản xuất các mặt hàng xuất khẩu sang các nước Xã hội chủ
nghĩa, với các hàng hóa chính là hàng thủ công mỹ nghệ. Do đó, chủng loại,
số lượng và giá trị hàng hóa được quyết định bởi đường lối, chính sách của
Nhà nước. Cũng chính trong giai đoạn này, nhiều làng nghề đã bị mai một.
- Giai đoạn 1978 – 1985: Kinh tế chính trị thế giới có nhiều biến động,
cùng với sức ép về dân số và sự cấm vận của Mỹ kinh tế Việt Nam đã lâm
vào giai đoạn khủng hoảng, đời sống của nhân dân gặp rất nhiều khó khăn. Sự
suy sụp của hệ thống bao cấp đã khiến các hộ nông dân và tiểu thủ công
nghiệp buộc phải tìm đường cải thiện cuộc sống theo con đường tự phát.
Nhiều làng nghề đã được khôi phục lại nhằm đáp ứng nhu cầu rất thấp của
nhân dân.
- Giai đoạn 1986 – 1992: Đây là giai đoạn quan trọng đối với sự phát
triển của làng nghề, nó được đánh dấu bằng sự chuyển đổi từ cơ chế quản lý
bao cấp sang cơ chế thị trường. Các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách
đổi mới quản lý trong nông nghiệp và phát triển các thành phần kinh tế đã có
tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói chung
và với làng nghề nói riêng. Trong giai đoạn này, nhiều làng nghề truyền thống

đã được khôi phục và phát triển, mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư vốn, kỹ
thuật, hình thành nhiều cơ sở kinh doanh mới, thu hút ngày càng nhiều lao
động, tăng dần sản lượng và kim ngạch xuất khẩu, … Điển hình như làng
gốm Bát Tràng, gốm Đồng Nai, chạm khắc Hà Tây, thêu ren Thái Bình, …
Các sản phẩm truyền thống của làng nghề Việt Nam đã được tiêu thụ khá
ổn định ở các thị trường Đông Âu và Liên Xô, kim ngạch xuất khẩu hàng thủ
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 10

công mỹ nghệ đạt trên 246 triệu rúp [Đặng Kim Chi, 2005]. Tuy nhiên, do biến
động của nền kinh tế thế giới, mà xuất phát từ sự sụp đổ của mô hình Chủ
nghĩa xã hội của Liên Xô và Đông Âu, sản xuất của các làng nghề bị đình trệ
do thị trường tiêu thụ không còn như trước nữa, số lao động trong các làng
nghề giảm nhanh chóng.
- Giai đoạn từ năm 1993 đến nay: Do tìm được hướng đi mới cho các sản
phẩm của làng nghề và cho nền kinh tế Việt Nam nói chung mà nền kinh tế
Việt Nam bước sang một giai đoạn mới. Sự hội nhập nền kinh tế thế giới,
cùng với thời kỳ dỡ bỏ sự cấm vận của Mỹ, sự hợp tác kinh tế và thị trường
của Việt Nam không ngừng được mở rộng. Nhiều làng nghề đã khôi phục
nhanh chóng, trong đó nhiều làng vẫn duy trì được cả nghề nghiệp và mặt
hàng truyền thống (như làng Chạm bạc Đồng Xâm, làng nghề thêu Quất
Động, làng gốm Bát Tràng…). Hơn nữa nhiều làng nghề mới đã được hình
thành (Làng gỗ Đồng Kỵ, gạch ngói Hương Canh, …). [Trần Duy Khánh]
Theo thống kê của Hiệp hội làng nghề Việt Nam, đến năm 2011, nước ta
có 2.790 làng nghề, riêng ở Hà Nội có1.160 làng nghề. Do ảnh hưởng của
nhiều yếu tố khác nhau như vị trí địa lý, đặc điểm tự nhiên và phân bố dân cư,
điều kiện xã hội và truyền thống lịch sử, sự phân bố và phát triển làng nghề
giữa các vùng của nước ta không đồng đều, thông thường tập trung vào những
khu vực nông thôn đông dân cư nhưng ít đất sản xuất nông nghiệp, nhiều lao
động dư thừa lúc nông nhàn. Trên cả nước, làng nghề phân bố tập trung chủ
yếu tại đồng bằng sông Hồng (chiếm khoảng 60%); còn lại là miền Trung

(chiếm khoảng 30%) và miền Nam (khoảng 10%). Các làng nghề thu hút hơn
10 triệu lao động, nâng cao thu nhập cho người dân, cải thiện đáng kể đời
sống cho một bộ phận dân cư khu vực nông thôn. [Bộ Nông nghiệp và phát
triển nông thôn, 2010]
Hiện nay, Nhà nước có nhiều chính sách nhằm khuyến khích làng nghề
phát triển. Tuy nhiên, nhiều làng nghề có nguy cơ lâm vào tình trạng suy thoái
do nhiều nguyên nhân khác nhau (do bế tắc về thị trường, do bị cạnh tranh, do
thiếu vốn để cải tiến sản xuất, gây ô nhiễm môi trường, …). Để giải quyết
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 11

những khó khăn này, cần có cái nhìn tổng quan về làng nghề và gắn với thực
trạng kinh tế xã hội trong nước và thế giới nói chung.
1.1.2.2 Những đóng góp tích cực của làng nghề trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội
Theo thống kê, hiện hàng hóa của các làng nghề nước ta đã có mặt ở hơn
100 nước trên thế giới với kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng. Sự phát triển
của làng nghề đang góp phần đáng kể trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các
địa phương. Tại nhiều làng nghề, tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ đạt
từ 60%- 80% và ngành nông nghiệp chỉ đạt 20% - 40%. Hàng năm giá trị
kinh tế từ sản phẩm xuất khẩu của các làng nghề khoảng 600 triệu USD. Theo
ước tính, trong vòng 10 năm qua, làng nghề nông thôn Việt Nam đã có tốc độ
tăng trưởng nhanh, trung bình khoảng 8%/năm, tính theo giá trị đầu ra [Kỷ
yếu hội thảo bảo tồn và phát triển làng nghề. 2006]. Làng nghề thu hút
khoảng 20 triệu lao động, trong đó 30% số lao động thường xuyên còn lại là
lao động thời vụ. Chỉ trong năm 2011, ước tính đóng góp xuất khẩu từ mặt
hàng thủ công mỹ nghệ đạt gần 2,2 tỉ đồng[TS. Nguyễn Văn Hiến. 2012]. Các
ngành nghề chủ yếu được phát triển ở làng nghề như bảng sau:
Bảng 1.1: Phân bố các loại hình làng nghề
ở các vùng nông thôn Việt Nam
Miền Bắc Miền Trung Miền Nam Tổng cộng


Ươm tơ, dệt nhuộm, đồ da 138 24 11 173
Chế biến nông sản, thực phẩm 134 42 21 197
Tái chế gồm:
- Tái chế giấy 4 0 0 4
- Tái chế kim loại 53 23 5 81
- Tái chế nhựa 4 1 0 5
Thủ công mỹ nghệ 404 121 93 618
Vật liệu xây dựng, gốm sứ 17 9 5 31
Nghề khác 222 77 42 341
Nguồn: Việt Nam môi trường và cuộc sống.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 12

Hiện nay, do điều kiện thương mại phát triển, nhu cầu sử dụng hàng hóa
ngày càng gia tăng cả trong nước và thế giới nên quy mô sản xuất của các
làng nghề ngày càng phát triển và được mở rộng. Từ ngành nghề truyền thống
một số người đã vươn lên mở mang cơ ngơi sản xuất ra địa bàn khác, đầu tư
thêm máy móc, thiết bị, nhà xưởng, thậm chí vươn ra lập đại lý sản xuất, bán
sản phẩm, thu mua nguyên liệu. Nhiều cơ sở sản xuất ở các làng nghề đã
mạnh dạn đầu tư máy móc, cải tiến mẫu mã nhằm tăng tính cạnh tranh của
sản phẩm trên thị trường. Số lượng thiết bị, công suất và mức sử dụng
nguyên, nhiên vật liệu ở nhiều làng nghề tương đương với các khu công
nghiệp.
Theo báo cáo của Hiệp hội làng nghề Việt Nam (5/2009): Giá trị sản
xuất CN-TTCN của làng nghề trong vòng chục năm nay tăng từ 21-25%
/năm. Giá trị xuất khẩu các mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam trong
những năm qua liên tục tăng: từ 235 triệu USD năm 2001, lên 600 triệu USD
năm 2006 và hơn 800 triệu USD năm 2008 và mục tiêu đề ra sẽ đạt 1,5 tỷ
USD năm 2010. Các thị trường chủ yếu mà chúng ta hướng tới hiện nay như
Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Xingapo, Hồng Kông, Trung Quốc, … Thực tế cho

thấy các thị trường lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU là các thị trường có nhiều
tiềm năng cho các mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam.
[ />truong-tai-cac-lang-nghe-truyen-thong-cua-viet-nam.html]
Làng nghề đã góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
theo hướng công nghiệp hoá, đó là việc góp phần làm tăng tỉ trọng của công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, thu hẹp tỉ trọng của nông nghiệp,
chuyển lao động từ sản xuất công nghiệp có thu nhập thấp sang ngành nghề
phi nông nghiệp có thu nhập cao hơn; Đồng thời, làng nghề đã góp phần quan
trọng trong giải quyết việc làm, thu hút vốn nhàn rỗi, tận dụng thời gian và
lực lượng lao động, hạn chế di dân tự do tăng thu nhập cho người lao động
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 13

nông thôn. Trong những năm gần đây, số hộ và cơ sở ngành nghề ở nông thôn
đang tăng lên với tốc độ bình quân từ 8,8% - 9,8%/năm, kim ngạch xuất khẩu
từ các làng nghề cũng không ngừng tăng lên. Trung bình mỗi cơ sở doanh
nghiệp tư nhân chuyên làm nghề tạo việc làm ổn định cho khoảng 27 lao động
thường xuyên và 8 - 10 lao động thời vụ; các hộ cá thể chuyên nghề tạo 4 - 6
lao động thường xuyên và 2-5 lao động thời vụ. Đời sống của người lao động
tại các làng nghề này ổn định, thu nhập từ làng nghề cao hơn từ 4 – 5 lần so
với làm nông nghiệp. [Bộ công thương. 2008]
Bên cạnh đó, những điều kiện tự nhiên và nguyên liệu thô chỉ có giá
trị khi được khai thác sử dụng đúng mục đích, khi chúng thành những sản
phẩm hữu ích phục vụ cho con người. Làng nghề có vai trò lịch sử to lớn
trong vấn đề này, các làng nghề đã biến các nguyên liệu thô trở thành
những sản phẩm hữu ích phục vụ con người. Ngày nay, giá trị này không
đổi, mà ngược lại còn đóng vai trò to lớn trong nền kinh tế quốc dân nói
chung, góp phần làm thay đổi các vùng nông thôn nói riêng;
Như vậy, trong thời gian qua, các làng nghề đã tạo ra một lượng lớn
hàng hóa và đa dạng sản phẩm, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống của
nông dân, góp phần đáng kể vào công cuộc xóa đói giảm nghèo và chuyển

dịch cơ cấu kinh tế khu vực nông thôn. Bên cạnh lợi ích về kinh tế, làng nghề
còn là nơi lưu giữ, bảo tồn các giá trị văn hóa dân tộc đặc trưng. Sản phẩm
của nghề thủ công truyền thống là sự kết tinh của lao động vật chất và lao
động tinh thần, nó được tạo nên bởi bàn tay tài hoa và óc sáng tạo của người
thợ thủ công. Nhiều sản phẩm truyền thống có tính nghệ thuật cao, mỗi sản
phẩm là một tác phẩm nghệ thuật, trong đó chứa đựng những nét đặc sắc của
văn hoá dân tộc, đồng thời thể hiện những sắc thái riêng, đặc tính riêng của
mỗi làng nghề. Với những đặc điểm ấy chúng không chỉ đơn thuần còn là
hàng hoá thông thường mà đã trở thành sản phẩm văn hoá có tính nghệ thuật
cao và được coi là biểu tượng nghề truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 14

1.1.2.3 Một số mô hình xử lý chất thải nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường
tại các làng nghề Việt Nam
Những năm qua, sự phát triển nhanh chóng của các cơ sở sản xuất tiểu
thủ công nghiệp ở các làng nghề đã làm cho tốc độ ô nhiễm môi trường tăng
nhanh. Trong khi đó, hầu hết các cơ sở sản xuất của nhiều làng nghề hiện nay
đều không thể mở rộng diện tích đất phục vụ sản xuất, kinh doanh, vì quỹ đất
của địa phương đã hết.
Tuy nhiều địa phương đã quy hoạch các khu, cụm công nghiệp làng nghề
nhưng không phải doanh nghiệp, cơ sở sản xuất nào cũng vào được vì chi phí
đầu tư rất lớn, nên các cơ sở vẫn sản xuất trong khu dân cư gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng. Do đó, cần phải tăng cường công tác quản lý nhà nước
về môi trường ở các làng nghề, đặc biệt là các chính sách pháp luật về môi
trường làng nghề cần rõ ràng, minh bạch hơn. Tuy nhiên, có một vấn đề đặt ra
là các giải pháp phòng ngừa, giảm thiểu ô nhiễm và xử lý chất thải, cải thiện
môi trường làng nghề cần được thực hiện sao cho phù hợp với điều kiện thực
tiễn. Dưới đây là một số mô hình của Liên minh HTX phục vụ công tác
BVMT tại các làng nghề của nước ta
* Mô hình xử lý nước thải làng nghề Triều Khúc, xã Tân Triều, Hà Nội

Làng nghề Triều Khúc, xã Tân Triều, Hà Nội chuyên thu gom, tái chế
nhựa với 80% hộ trong làng tham gia sản xuất. Nước thải sản xuất và nước
thải sinh hoạt được đổ thẳng xuống cống thải chung của cả làng. Giải pháp
đưa ra phù hợp với điều kiện làng nghề là xử lý theo cụm gồm 6 – 7 hộ sản
xuất. Liên minh HTX Việt Nam đã xây dựng thành công mô hình thí điểm xử
lý nước thải tái chế nhựa có công suất 30m
3
/ ngày đêm. Phương án lựa chọn
để áp dụng cho làng nghề này dựa trên phương pháp vi sinh là chủ yếu, có hỗ
trợ của hóa chất. Đối với nước thải tại làng nghề Triều Khúc, nước thải có
chứa các hóa chất hoạt động bề mặt và hàm lượng kiềm cao do các chất tẩy
rửa mang lại. Vì vậy, để tạo điều kiện cho xử lý vi sinh cần nâng điều chỉnh pH
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 15

đến nồng độ thích hợp và loại bỏ các chất hoạt động bề mặt có trong nước thải.
[TS.Phạm Tố Oanh, 2012]
* Mô hình sản xuất sạch hơn đối với làng nghề làm bún thôn Tiền Trong
và thôn Tiền Ngoài, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh
Mô hình này chú trọng vào các giải pháp công nghệ nhằm giảm thiểu
lượng phát thải bằng các biện pháp cải tiến công nghệ, nhằm sử dụng tiết
kiệm và hợp lý các nguồn nguyên nhiên liệu, tài nguyên; áp dụng các biện
pháp quản lý và xử lý chất thải phù hợp (chú trọng tới biện pháp tái chế, tái sử
dụng) nhằm bảo vệ môi trường hiệu quả. Để thực hiện tốt hướng này, các cơ
quan quản lý về khoa học công nghệ, tài nguyên và môi trường các địa
phương cần có kế hoạch trong việc hợp tác với các cơ quan nghiên cứu khoa
học công nghệ của Trung ương để giải quyết những nhiệm vụ cụ thể ở địa
phương mình, trong đó chú trọng tới cải tiến công nghệ sản xuất và áp dụng
các công nghệ môi trường đơn giản, rẻ tiền, phù hợp với quy mô, trình độ của
các làng nghề và chú trọng tới các biện pháp tuyên truyền và quản lý chặt chẽ,
nhằm khuyến khích các hộ sản xuất tự nguyện sử dụng. Bên cạnh đó Nhà

Nước cần hỗ trợ cho các làng nghề khi áp dụng các công nghề và tạo điều
kiện để người dân tiếp cận với các công nghệ này.
Làng nghề làm bún thôn Tiền Trong và thôn Tiền Ngoài, huyện Tiên Du,
tỉnh Bắc Ninh – đây là làng nghề chế biến thực phẩm nên lượng nước thải sản
xuất và hàm lượng ô nhiễm hữu cơ cao, chất thải rắn của các làng nghề này là
vấn đề cấp thiết đặt ra đối với chính quyền địa phương. Phương pháp sản xuất
sạch hơn được áp dụng cho làng nghề này nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi
trường như: áp dụng máy móc vào trong sản xuất, tận dụng bã thải rắn làm
thức ăn gia súc, chất thải chăn nuôi, chất thải rắn làm chất đốt, xử lý bằng
biện pháp BIOGAS, góp phần tiết kiệm nhiên liệu, thay thế nhiên liệu ít độc
hại, giảm tiếng ồn, nhiệt độ và tái sử dụng nước. [TS.Phạm Tố Oanh, 2012]

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 16

* Mô hình xử lý mức cấp nhiễm Asen
Làng nghề tráng bánh đa xã Nguyên Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam
chuyên sản xuất bánh đa nem, cung cấp cho nhu cầu thị trường trong và ngoài
nước. Theo điều tra năm 2010, nguồn nước phục vụ sản xuất và sinh hoạt của
làng nghề này có hàm lượng Asen vượt tiêu chuẩn cho phép từ 11 – 15 lần.
Trong giai đoạn 2009 – 2011, Liên minh HTX Việt Nam triển khai thí điểm
20 bể xử lý nước cấp nhiễm Asen quy mô hộ gia đình tạo làng nghề này nhằm
đảm bảo nước sau khi xử lý đạt tiêu chuẩn cho phép. Từ đó, nhân rộng mô
hình giúp các hộ sản xuất của làng nghề đảm bảo chất lượng sản phẩm, phục
vụ đời sống sinh hoạt của cộng đồng dân cư. [TS.Phạm Tố Oanh, 2012]
* Mô hình tái sử dụng chất thải chăn nuôi trong BVMT làng nghề và
phát triển kinh tế - xã hội
Làng nghề chăn nuôi bò sữa, bò thịt Phù Đổng, Gia Lâm, Hà Nội có quy
mô chăn nuôi khoảng 3.000 con bò/năm. Trung bình, mỗi con thải khoảng 20-
25 kg phân/ngày. Trong nhiều năm qua, lượng phân thải ra là vấn đề bức xúc
đặt ra với chính quyền địa phương. Liên minh HTX Việt Nam phối hợp với

HTX nông nghiệp Phù Đổng thành lập Tổ hợp tác thu gom xử lý chất thải
chăn nuôi (phân bò) để nuôi giun. Giun thành phẩm được sử dụng trong mô
hình nuôi ba ba, cá quả, lươn, gà, vịt, … và bán cho các địa phương. Phân
giun được sử dụng để trồng cây cảnh, trồng rau sạch trong và ngoài địa bàn.
Hiện nay, mô hình này đang được hoàn thiện và tuyên truyền nhân rộng với
mục tiêu phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm cho các hộ xã viên, đồng thời
giảm thiểu ô nhiễm môi trường làng nghề. [TS.Phạm Tố Oanh, 2012]
* Mô hình xử lý khí thải làng nghề tái chế kim loại màu
Nhằm giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường khu vực làng nghề trên
địa bàn tỉnh Bắc Ninh, năm 2009, với nguồn vốn hỗ trợ không hoàn lại của
Chính phủ Nhật Bản, Dự án "Hỗ trợ 6 mô hình trình diễn về xử lý ô nhiễm
môi trường không khí tại các làng nghề tái chế kim loại màu" đã được triển
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp Page 17

khai tại 6 HTX tái chế kim loại màu ở 3 xã Văn Môn (Yên Phong), Đại Bái
(Gia Bình), Quảng Bố (Lương Tài). Theo đánh giá của các cơ quan chuyên
môn, công nghệ xử lý khí thải được áp dụng trong các mô hình này là công
nghệ xử lý khí bằng phương pháp hấp thụ và khuếch tán tuần hoàn với thiết bị
lọc bụi kiểu ướt. Toàn bộ khí thải trong quá trình sản xuất bao gồm các thành
phần bụi, hơi nước, kim loại nặng và hỗn hợp khí CO
2
, SO
2
được hút theo
tháp dẫn nhờ sự chênh lệch áp suất tự nhiên và trên nóc của hệ thống tháp
được lắp đặt quả cầu hút. Sau khi qua tháp, kim loại nặng, khí độc sẽ lắng
xuống đáy bể có chứa dung dịch tuần hoàn, khí thoát ra môi trường là khí
sạch. Dung dịch hấp phụ được bom vận chuyển tuần hoàn trong tháp, sau chu
kỳ 2 tháng, hoạt động lượng bùn ở đáy bể sẽ được tháo ra ngoài. [TS.Phạm
Tố Oanh, 2012]

1.2 Thực tiễn phát triển làng nghề và công tác bảo vệ môi trường
1.2.1 Kinh nghiệm của một số nước về phát triển làng nghề và BVMT
1.2.2.1 Trung Quốc
Chính phủ Trung Quốc rất quan tâm đến việc phát triển làng nghề
truyền thống, coi đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng của cuộc công
nghiệp hoá nông thôn Trung Quốc.
Với quan điểm phát triển công nghiệp nông thôn là một bộ phận của kinh
tế lãnh thổ Trung Quốc đã thu được những thành công tốt đẹp. Từ những năm
1970, Trung Quốc đã thực hiện phương châm “ ly nông bất ly hương; nhập
xưởng bất nhập thành” và đã có trên 100 triệu lao động nông thôn Trung
quốc được thu hút vào các hoạt động công nghiệp và dịch vụ tại các làng xã.
Nhất là bắt đầu từ năm 1978, mô hình xí nghiệp Hương trấn xuất hiện, tiếp
theo phương thức khoán sản xuất nông nghiệp đến hộ nông dân, mở ra cho
Trung Quốc con đường công nghiệp hoá nông thôn độc đáo, mang nét đặc thù
của Trung Quốc. Xí nghiệp Hương trấn là tên gọi chung của các xí nghiệp
công thương nghiệp, xây dựng và hoạt động ở khu vực nông thôn, trong các

×