Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Một số biện pháp phát huy tính tự lập cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua hoạt động vui chơi tại các góc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.09 MB, 89 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA MẦM NON
----------

NGÔ THỊ HỒNG

Một số biện pháp phát huy tính tự lập cho
trẻ mẫu giáo lớn thông qua hoạt động vui
chơi tại các góc

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

SƯ PHẠM MẦM NON

1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Đất nước ta đang trong thời kì tiến lên xây dựng nền kinh tế mở, hội nhập
kinh tế Quốc tế. Trong điều kiên tồn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, trước bối cảnh
lịch sử mới chúng ta có những thời cơ song cũng phải đối mặt với những thách
thức hết sức khó khăn. Một trong những nhân tố quan trọng nhất giữ vai trò
trung tâm và chi phối sự phát triển của đất nước chính là nhân tố con người. Để
thích ứng với sự phát triển của xã hội hiện đại cần có con người mới – đó là
những con người có những phẩm chất nhân cách như tự tin, tự lập, sáng tạo,
năng động….đáp ứng nhu cầu về nhân lực trong việc pháp triển của đất nước.
Trong đó tính tự lập giữ một vai trị đặc biệt quan trọng. Tính tự lập giúp con
người phát triển nhận thức, phát triển các năng lực cảm xúc và phát huy khả
năng sáng tạo.


Giáo dục mầm non là mắt xích đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân,
chịu trách nhiệm chăm sóc và giáo dục trẻ từ 0 – 6 tuổi. Đây là giai đoạn đặt nền
móng đầu tiên quan trọng của nhân cách con người nói chung và hình thành tính
tự lập nói riêng. Nếu khơng làm tốt việc chăm sóc – giáo dục trẻ trong những
năm này thì việc giáo dục lại sẽ hết sức khó khăn. Một trong những mục tiêu
chăm sóc, giáo dục trẻ cụ thể của giáo dục mầm non là "Cần phát triển một số
giá trị, nét tính cách phẩm chất cần thiết phù hợp với lứa tuổi như: Mạnh dạn,
tự tin, độc lập, sáng tạo, linh hoạt, tự giác. Tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ tham
gia vào cuộc sống, chuẩn bị tốt cho việc học tập ở lớp 1 và các bậc học sau này
có kết quả ."
Trẻ mẫu giáo lớn chuẩn bị bước vào trường phổ thơng, đó là một bước
ngoặt trong đời sống của trẻ, là sự chuyển qua một lối sống mới, với những điều
kiện hoạt động mới, chuyển qua một địa vị mới trong xã hội. Tính tự lập sẽ giúp
cho trẻ có tính chủ động, bền bỉ và sự nỗ lực của ý chí trong q trình hoạt động.
Tính tự lập giúp trẻ có niềm tin vào bản thân để kiên trì theo đuổi các mục đích
học tập và tiếp nhận những tri thức khoa học có hệ thống. Tính tự lập là một
phẩm chất nhân cách, giúp trẻ nhanh chóng gia nhập vào tập thể lớp, trẻ luôn ý
2


thức được cơng việc của mình, giải quyết cơng việc đó một cách chủ động, sáng
tạo. Nếu trẻ khơng có tính tự lập sẽ rất khó khăn cho việc vào lớp một.
Phó GS.TS Nguyễn Ánh Tuyết đã khẳng định: “Chơi là cuộc sống của trẻ,
tổ chức trị chơi chính là tổ chức cuộc sống cho trẻ. Trẻ em cần chơi như người
ta cần ăn cơm, nước uống hằng ngày. Không chơi trẻ không phát triển, không
chơi đứa trẻ chỉ tồn tại chứ không phải là đang sống” [6,tr154]. Hoạt động vui
chơi nói chung và hoạt động vui chơi tại các góc nói riêng là hoạt động chủ đạo
của trẻ lứa tuổi mẫu giáo giữ vai trò quan trọng trong sự hình thành phát triển
các chức năng tâm lý – sinh lý và phát triển nhân cách một cách toàn diện. Hoạt
động vui chơi tại các góc được tổ chức trong một mơi trường đa dạng, phong

phú với nhiều góc chơi khác nhau như góc phân vai, góc xây dựng, góc khoa
học…. tạo điều kiện thuận lợi để trẻ bộc lộ hết mình một cách tích cực và chủ
động. Trong q trình chơi trẻ tự làm tất cả mọi việc từ lựa chọn góc chơi, trị
chơi, đến tìm kiếm bạn chơi, đặc biệt trẻ cố gắng suy nghĩ để khắc phục trở ngại
trong q trình chơi. Có thể nói ít hoạt động nào khi tham gia trẻ lại thể hiện tinh
thần chủ động tự lực như vậy. Để phù hợp với u cầu của trị chơi, trẻ phải ln
điều chỉnh hành vi của mình. Chính tính độc lập và tự điều chỉnh hành vi đó
khơng chỉ tạo ra cho trẻ niềm vui sướng và lịng tin khi chơi mà nó cịn giúp trẻ
phát huy được tính tự lập của mình. Với những đặc trưng của hoạt động vui chơi
của các góc trẻ được tự do chơi tự quyết định toàn bộ quá trình chơi của mình sẽ
tạo điều kiện thuận lợi để hình thành và phát huy tính tự lập cho trẻ trong cuộc
sống sau này.
Tuy nhiên, thực tiễn ở một số trường mầm non hiện nay vấn đề phát huy
tính tự lập cho trẻ thông qua hoạt động vui chơi tại các góc cịn rất hạn chế. Giáo
viên chưa thực sự quan tâm đến việc hình thành và phát huy phẩm chất này
thông qua hoạt động vui chơi tại các góc.
Xuất phát từ những lý do trên chúng tơi lựa chọn nghiên cứu vấn đề: “Một
số biện pháp phát huy tính tự lập cho trẻ mẫu giáo lớn thơng qua hoạt động vui
chơi tại các góc”.

3


2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu một số biện phát huy tính tự lập cho trẻ mẫu giáo lớn thơng qua
hoạt động vui chơi tại các góc.
3. Phạm vi nghiên cứu.
Nghiên cứu một số biện pháp phát huy tính tự lập cho trẻ mẫu giáo lớn
thông qua tổ chức hoạt động vui chơi tại các góc ở mơt số trường mầm non trên
địa bàn Quận Hải Châu thành phố Đà Nẵng: Trường mầm non 19 – 5 và trường

mầm non 20 – 10.
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu.
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp phát huy tính tự lập cho trẻ mẫu giáo lớnthông qua hoạt
động vui chơi tại các góc.
4.2 Khách thể nghiên cứu.
Q trình giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo lớn.
5. Giả thiết khoa học.
Nếu giáo viên sử dụng các biện pháp như: Xây dựng môi trường chơi
phong phú đa dạng hấp dẫn, gần gũi với đời sống thật của trẻ; mỏ rộng vốn hiểu
biết của trẻ về chủ đề mà trẻ được chơi tại các góc; tạo điều kiên cho trẻ được
thường xuyên luyện tập tại các góc; tạo cơ hội cho trẻ tự nhận xét mình và bạn
sau khi chơi thì sẽ góp phần phát huy tính tự lập của trẻ mẫu giáo lớn thông qua
hoạt động vui chơi tại các góc.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1 Nghiên cứu cơ sở lí luận liên quan đến biện pháp phát huy tính tự lập
cho trẻ thông qua hoạt động vui chơi tại các góc.
6.2 Tìm hiểu thực trạng sử dụng các biện pháp pháp huy tính tự lập cho trẻ
mẫu giáo 5- 6 tuổi trong hoạt động vui chơi tại các góc
6.3 Xây dựng và thực nghiệm một số biện pháp huy tính tự lập cho trẻ mẫu
giáo lớn thơng qua hoạt động vui chơi tại các góc.

4


7. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu chúng tơi phối hợp các nhóm phương pháp
nghiên cứu sau:
7.1 Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luân.
Thu thập, nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái qt hóa

những tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu, cụ thể hóa lí thuyết nhằm xây
dựng cơ sở lí luận của đề tài.
7.2 Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
7.2.1 Phương pháp quan sát sư phạm
Dự giờ quan sát cách tổ chức hoạt động vui chơi tại các góc của giáo viên
để sát định thực trạng việc sử dụng các biện pháp nhằm phát huy tính tự lập cho
trẻ thơng qua hoạt động vui chơi tại các góc
7.2.2 Phương pháp khảo sát bằng Anket
Sử dụng phiếu thăm dò ý kiến của giáo viên dạy lớp mẫu giáo lớn ở một số
trường mầm non tại Quận Hải Châu thành phố Đà Nẵng về việc sử dụng một số
biện pháp phát huy tính tự lập của trẻ thơng qua hoạt động vui chơi tại các góc.
7.2.3 Phương pháp đàm thoại.
Trao đổi với giáo viên để tìm hiểu những thuận lợi và khó khăn trong việc
tổ chức hoạt động vui chơi tại các góc.
7.2.4 Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
Trao đổi trực tiếp với chuyên gia ở một số trường mầm non tại thành phố
Đà Nẵng.
7.2.5 Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
Thực nghiệm một số biện pháp nhằm kiểm nghiệm tính hiệu quả của việc
sử dụng các biện pháp phát huy tính tự lập cho trẻ mẫu giáo lớn.
7.3 Nhóm phương pháp thống kê tốn học.
Chúng tơi sử sụng phương pháp này để sử lí số liệu đã thu thập được trong thực
tế khi tiến hành nghiên cứu.

5


8. Những đóng góp mới của đề tài.
8.1 Về lí luận
- Hệ thống hóa lí luận về biện pháp phát huy tính tự lập cho trẻ mẫu giáo

lớn ở trường mầm non thông qua hoạt động vui chơi tại các góc.
8.2 Về thực tiễn
- Làm rõ thực trạng sử dụng các biện pháp phát huy tính tự lập cho trẻ mẫu
giáo lớn thông qua hoạt động vui chơi tại các góc và chỉ ra nguyên nhân thực
trạng.
- Xây dựng một số biện pháp nhằm phát huy tính tự lập cho trẻ mẫu giáo
lớn thông qua hoạt động vui chơi tại các góc và tiến hành thực nghiệm sư phạm
9. Cấu trúc luận văn
Gồm 3 phần
- Phần mở đầu: Lí do chọn đề tài
- Phần nội dung:
+ Chương 1: Cơ sở lí luận
+ Chương 2: Thực trạng sử dụng biện pháp phát huy tính tự lập cho trẻ mẫu
giáo lớn thơng qua hoạt động vui chơi tại các góc trường ở mầm non.
+ Chương 3: Xây dựng một số biện pháp nhằm phát huy tính tự lập cho trẻ
mẫu giáo lớn thơng qua hoạt động vui chơi tại các góc và thực nghiệm sư phạm.
- Phần kết luận và kiến nghị sư phạm.

6


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1 Các cơng trình nghiên ngồi nước
* Các cơng trình nghiên cứu về tính tự lập
Một số nhà tâm lý học coi tính tự lập là một trong những nét đặc trưng của
nhân cách, đại diện là T.I. Ganhenlin, A.A Sinirnop và E.U. Dmitriev... họ cho
rằng: Tính tự lập phải hình thành trên cơ sở người học đã có một số vốn kiến
thức, hiểu biết một số kỹ năng nhất định và biết vận dụng chúng vào những tình

huống khác nhau trong thực tế, đó phải là những tình huống mới mẻ mà trẻ đối
mặt trong cuộc sống. Tính tự lập của trẻ được bộc lộ rõ qua các hành vi và ta sẽ
có thể dễ dàng quan sát thấy được trong khi trẻ đang thực hiện các mối quan hệ
người - người, hay giữa con người - thế giới xung quanh.
S.L.Rubinstein nghiên cứu tính tự lập của trẻ trong sự đi kèm với các nhiệm
vụ mà trẻ được giao. Tính tự lập cũng đi kèm với tính tư duy của trẻ. Ơng cho
rằng: “Cần phải tạo ra cho trẻ những tình huống mới với độ phức tạp khác nhau
để dựa vào đó trẻ có điều kiện được vận dụng, được thực hành các kiến thức, kỹ
năng, hình thành kỹ năng, kỹ xảo và cả thói quen tự lập - một thói quen vơ cùng
tốt và cần thiết cho trẻ và người lớn”.[13]
K.D.Usinski cũng nghiên cứu tính tự lập của trẻ gắn với lao động, nhưng
ông đi sâu cụ thể vào lao động tự phục vụ trong đời sống sinh hoạt hàng ngày
của trẻ. Ông cho rằng: “Tự lập trước hết là phải có sự u thích lao động, do đó
muốn giáo dục tính tự lập trước hết cần phải làm sao cho trẻ có niềm say mê với
lao động, phải khơi gợi cho trẻ ý thức tích cực về lao động và con người lao
động, phải thúc đẩy trẻ tham gia vào lao động, tập lao động trong cuộc sống
sinh hoạt hàng ngày, từ những việc đơn giản, tới các việc phức tạp hơn trong
tính có thể của chúng. Mức độ phát triển tính tự lập của trẻ phụ thuộc nhiều vào
mối quan hệ của trẻ với lao động”.[13]
Nechaeva nghiên cứu giáo dục trẻ mẫu giáo trong lao động. Nechaeva đã
7


khẳng định qua quá trình nghiên cứu lâu dài của mình: “Lao động tự phục vụ
đối với trẻ nhỏ như ăn mặc, vệ sinh cá nhân, giúp người lớn làm những công
việc vừa sức... là biện pháp tốt nhất để hình thành tính tự lập cho trẻ. Khi trẻ đã
biết lao động tự phục vụ thì ít hay nhiều trẻ cũng giảm dần sự phụ thuộc vào
người lớn. Sự phát triển tính tự lập này có thể thấy rõ từ chỗ trẻ thấy rằng mình
có thể tự làm việc này, việc nọ mà trẻ trở nên tự tin, tin tưởng vào tính của mình
hơn, chúng sẽ cố gắng vượt mọi khó khăn trong mức cao nhất có thể hồn thành

một nhiệm vụ hay cơng việc nào đó mà khơng cần sự can thiệp của người lớn.
Như vậy, hình thành kỹ năng kỹ xảo và thói quen tự phục vụ là vơ cùng ý nghĩa
đối với sự phát triển tính tự lập của trẻ nhỏ”.[13]
Vengher nghiên cứu tính tự lập trên cơ sở tác động của nhà giáo dục: “Tính
tự lập khơng phải tự nhiên mà có. Nó chỉ được tạo nên trong những điều kiện
cần thiết cho việc hình thành tính tự lập dưới sự hướng dẫn của mọi người. Tự
lập là sự suy nghĩ, sự tổ chức hành động và hoạt động khơng dựa vào sự giúp đỡ
bên ngồi. Bản thân người lớn cũng thúc đẩy trẻ em hoạt động một cách tự lập,
sau đó là phải học tập suy luận, tập nhận xét một cách nghiêm túc theo ý riêng
của bản thân, có lập trường riêng của chính mình. Sự phát triển tính và sự cần
thiết hoạt động một cách chủ động, tự lập của trẻ mẫu giáo phải ở mức độ nào
là phù hợp trong phạm vi cho phép. Vấn đề mức độ tự lập của trẻ mẫu giáo phải
dừng ở mức độ nào. Vừa phải và đủ như thế nào để chúng đi theo chiều hướ ng
đúng đắn trong khuôn khổ giáo dục. Càng lớn, nhất là đến tuổi chuẩn bị bước
vào trường phổ thơng thì vấn đề này lại càng trở nên quan trọng rất nhiều”.[13]
* Các cơng trình nghiên cứu về hình thành và phát huy tính tự lập
thơng qua hoạt động vui chơi
E. L. Petrova xem xét trong hoạt động vui chơi thì tính tự lập của trẻ phát
triển như thế nào? Bà đã khẳng định: “Chơi chính là một hoạt động thực tiễn
mang tính tự lập của trẻ nhỏ. Tham gia chơi thì trẻ được đứng ở vị trí chủ thể
của hành động chơi, trẻ có thể được tự mình quyết định làm lấy những gì mà
mình thích chứ khơng phải là những gì người khác ép buộc. Vì vậy, trong khi
chơi xuất hiện ở trẻ sự tích cực tự nguyện. Nhà giáo dục có thể dựa vào hoạt
8


động vui chơi mà có kế hoạch giáo dục tính tự lập của trẻ theo định hướng mục
tiêu có chủ đích”.[13]
Như vậy, đằng sau hành vi tự lập của trẻ, ở bất cứ độ tuổi nào bao giờ cũng
cần phải có một vai trị lãnh đạo hướng dẫn và những yêu cầu của người lớn.

Điều cần quan tâm và đặc biệt chú ý ở đâu là trẻ càng lớn lên thì sự tác động của
người lớn càng cần phải ít bộc lộ một cách lộ liễu, trực tiếp hơn. Nếu trẻ thường
xuyên phải buộc mình tuân theo những yêu cầu của người lớn thì dần dần nó bắt
đầu tự định hướng theo những yêu cầu này, coi như đó là những chuẩn mực
hành vi cần phải tuân theo. Càng hiểu rõ luật lệ, giới hạn thì trẻ sẽ càng biết cách
tự lập. Chỉ khi nào dựa trên những cơ sở, những thói quen tương ứng, tức là
những định hình đã được hình thành, đáp ứng yêu cầu của người lớn thì chúng ta
mới có thể giáo dục cho trẻ tự lập một cách đúng đắn nhất, hình thành nên một
trong những nét nhân cách quý báu cho trẻ.
1.1.2 Các công trình nghiên trong nước
Ở Việt Nam, nhất là trong thời kỳ đổi mới tồn diện về nội dung, hình thức,
phương pháp tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ mẫu giáo, vấn đề tính tự lập của
trẻ em lứa tuổi mầm non đã được quan tâm nhiều. Từ năm 1999 đến nay, nhiều
cơng trình nghiên cứu quan tới tính tự lập của trẻ đã ra đời.
Theo Tiến sĩ Bích Hồng: “Tính tự lập của con người được rèn từ lúc sơ
sinh, tùy vào từng lứa tuổi mà có cách rèn khác nhau. Người lớn cần có cách
hướng cho trẻ tự chịu trách nhiệm với kế hoạch mình đặt ra. Và phải cho trẻ
phải biết rằng người khơng có tính tự lập sẽ sống lệ thuộc người khác, dễ sa
ngã”.[14]
Theo chuyên viên tư vấn tâm lý Võ Thị Minh Huệ "Để dạy con tính tự lập,
người lớn nên có những hướng dẫn, gợi mở về những việc cụ thể cho con từ
việc đơn giản. Từng bước nhỏ như thế thì con trẻ mới thật vững vàng tự lập".
[14]
Như vậy đã có những cơng trình nghiên cứu về tính tự lập cũng như tính tự
lập trong trị chơi tuy nhiên chưa có cơng trình nào đi sâu vào nghiên cứu “Phát
huy tính tự lập thông qua hoạt động vui chơi tại các góc”. Trên cơ sở kế thừa
9


những thành tựu của các cơng trình đi trước chúng tơi chọn đề tài“Một số biện

pháp phát huy tính tự lập cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua hoạt động vui chơi tại
các góc”.
1.2 Cơ sở lí luận của đề tài
1.2.1 Tính tự lập của trẻ mẫu giáo lớn
1.2.1.1 Khái niệm tính tự lập của trẻ mẫu giáo
* Khái niệm tính tự lập
Tự lập là từ gốc Hán Việt thường được dùng để chỉ một phần phẩm chất
nhân cách tốt của người trưởng thành. Theo từ Hán Việt thì Tự lập là tự mình,
mình vun trồng lấy mà mình đứng lên được, khơng cậy dựa vào ai.
Ở góc độ tâm lý học, tính tự lập được xem là một phẩm chất quan trọng và
phức tạp của nhân cách, được hình thành trong quá trình hoạt động, thể hiện mối
quan hệ của cá nhân với các sự vật, hiện tượng, với người khác và với bản thân.
Tính tự lập đặc trưng cho thái độ tự giác, tự tin, thể hiện ở khả năng tự đặt mục
đích, nhiệm vụ, kế hoạch hành động, tự điều khiển bản thân và nổ lực cao về trí
tuệ, thể lực trong q trình hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu của bản thân và xã
hội. Tự lập là điều kiện quan trọng để nảy sinh tính sáng tạo. Một nhân cách
sáng tạo luôn biết độc lập trong suy nghĩ và hành động. Vì vậy tính tự lập của cá
nhân cũng liên quan tới sự tích cực của cá nhân đó.
Trong hoạt động, tính tự lập cũng có quan hệ nhất định với nhu cầu, động
cơ sự tự tin, sự nỗ lực ý chí… của chủ thể. Trên cơ sở có nhu cầu tham gia vào
hoạt động một cách chủ động, có kĩ năng và năng lực tự giải quyết những nhiệm
vụ đã đặt một cách sáng tạo tự tin.
Như vậy, tính tự lập là một phẩm chất quan trọng của nhân cách, được đặc
trưng bởi khả năng tự định hướng hoạt động, tự đặt ra kế hoạch và mục đ ích
hoạt động của bản thân, biết sử dụng trí tuệ và sức lực của bản thân với thái độ
tích cực, tự tin để thực hiện nhiệm vụ của mình mà khơng dựa dẫm vào người
khác.

10



Tính tự lập được hình thành thơng qua q trình hoạt động của các nhân, nó
biểu hiện ở cả mặt ý thức và hoạt động của cá nhân trong mối liên hệ của cá
nhân với cá nhân khác, với thế giới xung quanh và với bản thân mình.
* Khái niệm tính tự lập của trẻ mẫu giáo
Tính tự lập của con người được hình thành từ rất sớm và qua mỗi giai
đoạn lứa tuổi tính tự lập của con người có đặc trưng riêng. Từ khái niệm tính tự
lập chúng tơi đi đến xác định khái niệm tính tự lập của trẻ mẫu giáo:
Tính tự lập của trẻ mẫu giáo là một phẩm chất nhân cách cá nhân, được
đặc trưng bởi khả năng trẻ tự định hướng hoạt động, tự đặt ra mục đích, tự đề
ra kế hoạch, tự lựa chọn phương tiện, cách thức hành động, tự đánh giá bản
thân….với thái độ tích cực, tự tin để thực hiện đến cùng nhiệm vụ của mình mà
khơng dựa dẫm vào người khác.
1.2.1.2 Cơ sở hình thành tính tự lập của trẻ mẫu giáo.
Tính tự lập của con người được hình thành từ khi cịn rất nhỏ nó được phát
triển dần qua các lứa tuổi và tùy thuộc vào môi trường giáo dục. Tính tự lập
khơng phải tự nhiên mà có. Nó chỉ được tạo nên trong những điều kiện cần thiết
cho việc hình thành tính tự lập dưới sự hướng dẫn của người lớn.
* Thứ nhất: Sự xuất hiện của tự ý thức và nhu cầu tự khẳng định mình.
Khi bước vào tuổi ấu nhi, trẻ chưa tách rời những tình cảm và ý muốn của
mình ra khỏi những hồn cảnh bên ngồi. Trẻ cịn trong tình trạng chưa xác định
được bản thân mình. Hành động và vận động của trẻ thường xuyên biến đổi, vì
thế giới nội tâm của trẻ còn chưa ổn định. Trẻ chưa hiểu được rằng qua các hoàn
cảnh khác nhau và làm những việc khác nhau thì một người vẫn là người đó. Trẻ
bắt chước thái độ với bản thân mình như là thái độ của người khác đối với trẻ.
Trẻ nói với mình như là nói với người khác. Sự đồng nhất mình với người khác
như vậy thường bộc lộ ra trong lời nói của trẻ, đặc biệt là trong cách xưng hô,
nhiều đứa trẻ tự xưng tên mình như người khác gọi.
Nhưng đến 3 tuổi trẻ mới nhận ra tên của mình là gắn với bản thân mình.
Đến 3 tuổi tự ý thức mới thực sự được hình thành. Đầu tiên trẻ chú ý đến hình

dáng bên ngồi của mình rồi sau đó mới đến những ý nghĩ bên trong. Ý thức về
11


bản thân là nguồn gốc làm nảy sinh những ý muốn và hành động phân biệt mình
với người khác, do ảnh hưởng của những hoạt động ngày càng mang tính độc
lập nhiều hơn của trẻ. Trong thời kì này, hoạt động của trẻ khơng chỉ hướng về
thế giới bên ngồi (thế giới đồ vật và những người xung quanh) mà cịn hướng
tới bản thân mình, bắt đầu tự nhận thức. Điều đó thể hiện chỗ nhiều lúc trẻ muốn
thử sức với các đồ vật, những thay đổi mà nó tạo ra ở đó (chẳng hạn trẻ tắt bật
đèn, bật ti vi…). Chính nhờ các hành động do ý muốn chủ động ấy mà trẻ cảm
thấy mình có thể thay đổi các vật xung quanh. Lúc này trẻ đã có tính tự mình
thực hiện những hành động với đồ vật, khơng cần sự giúp đỡ của người khác, đã
có tính tự phục vụ trong những trường hợp đơn giản. Kết quả là trẻ bắt đầu hiểu
được chính bản thân mình đã làm được việc này việc nọ. Đồng thời mối quan hệ
với những người xung quanh ngày càng mở rộng hơn nhờ có sự giao tiếp bằng
ngơn ngữ. Tất cả những thay đổi ấy khiến trẻ nhận ra sức mạnh của bản thân
mình và nhận ra mình là một chủ thể.
Tự ý thức xuất hiện trẻ nhận ra chính bản thân mình, từ đó nảy sinh hiện
tượng tâm lí mới là tính độc lập. Khi trẻ tách được mình với người khác và có ý
thức về những khả năng của mình thì đồng thời cũng xuất hiện một thái độ mới
đối với mọi người. Trẻ bắt đầu so sánh mình với người lớn và muốn giống như
người lớn làm những công việc như người lớn, muốn độc lập tự chủ. Tính độc
lập xuất hiện ở trẻ nhu cầu mong muốn hành động độc lập là rất lớn, để tự khẳng
định mình. Nhu cầu tự khẳng định phát triển rất mạnh mẽ, thúc đẩy trẻ bước
sang một giai đoạn phát triển mới.
*Thứ hai: Sự hình thành kĩ năng và thói quen.
Kỹ năng là năng lực hay khả năng của chủ thể thực hiện thuần thục một hay
một chuỗi hành động trên cơ sở hiểu biết (kiến thức hoặc kinh nghiệm) nhằm tạo
ra kết quả mong đợi. Kĩ năng được hình thành trong hoạt động.

Các chức năng tâm lý ở trẻ như (tính tri giác, chú ý, ghi nhớ, tư duy…) dần
được phát triển và qua quá trình tiếp xúc, hoạt động với đồ vật, giao tiếp với
người lớn trẻ lĩnh hội được một số vốn kinh nghiêm xã hội loài người. Cùng với
q trình chăm sóc giáo dục, dưới sự hướng dẫn làm mẫu của người lớn trẻ quan
12


sát và ghi nhớ từ đó ở trẻ hiểu được cách làm. Trẻ hiểu mỗi hành động gồm
những thao tác nào. Trình tự diễn ra các thao tác và cách tiếng hành mỗi thao tác
cụ thể. Trẻ biết vận dụng các tri thức, kinh nghiệm đã biết để tiến hành một hành
động cụ thể nào đó. Việc tiến hành hành động ở giai đoạn này đòi hỏi sự tập
trung chú ý, có nỗ lực về ý chí và biết vượt qua khó khăn. Trẻ cần biết biến
những hành động có ý chí thành hành động tự động hóa bằng cách luyện tập
nhiều lần để giảm tới mức tối thiểu sự tham gia của ý thức vào hành động. Từ đó
kĩ năng được hình thành. Trẻ luyện tập nhiều lần, đều đặn, ổn định trong quá
trình thực hiện, người lớn kiểm tra hành động của trẻ và dạy trẻ tự kiểm tra hành
động của chúng. Sự gương mẫu của người lớn có ý nghĩa lớn trong việc hình
thành thói quen cho trẻ, các biện pháp khen thưởng trách phạt được sử dụng
trong quá trình giáo dục phù hợp với đặc điểm nhân thức và tình cảm của trẻ
nhỏ. Dần dần nó trở thành chính thói quen nếp sống của trẻ. “Thói quen thường
để chỉ những hành động của cá nhân được diễn ra trong những điều kiện ổn
định về thời gian, không gian và quan hệ xã hội nhất định ”. Thói quen có nội
dung tâm lý ổn định và thường gắn với nhu cầu cá nhân và khó loại bỏ. Mọi
phẩm chất nhân cách được hình thành và phát triển trong những điều kiện ổn
định, trên nền tảng của thói quen. Tính tự lập cũng vậy, nó được hình thành dựa
trên nền tảng của thói quen. Khi trẻ biết tự định hướng hoạt động, tự đặt ra mục
đích, tự đề ra kế hoạch, cách thức hành động, tự đánh giá bản thân….với thái độ
tích cực, tự tin để thực hiện đến cùng nhiệm vụ của mình mà khơng dựa dẫm
vào người khác qua các nhiều lần thực hiện đều đặn, ổn định như vậy thì ở trẻ
hình thành thói quen tự lập.

Trong những điều kiện nhất định, thói quen có thể và cần phải trở thành
thuộc tính bền vững hoặc phẩm chất của nhân cách.
* Thứ ba: Sự xuất hiện tính chủ định trong hành vi
Trong suốt thời kì mẫu giáo, trẻ em có sự biến đổi căn bản trong hành vi,
chuyển từ hành vi bột phát sang hành vi có tính chủ định, hành vi xã hội hay
hành vi mang tính nhân cách. Do khả năng làm chủ được nhiều hành vi trẻ dần
dần xác định rõ mục đích của hành động. Ở lứa tuổỉ mẫu giáo bé và mẫu giáo
13


nhỡ tính mục đích trong hành vi và động cơ hành vi cịn trùng nhau thì sang tuổi
mẫu giáo lớn trẻ dần tách động cơ ra khỏi mục đích hành vi. Ở tuổi mẫu giáo lớn
việc đặt mục đích cho hành động và lập kế hoạch để thực hiện hành động được
thể hiện rõ nét. Điều đó thúc đẩy hành động định hướng bên trong (tức là các
quá trình tâm lý) phát triển mang tính chủ định rõ ràng. Tính chủ định này được
phát triển cùng với sự biến dạng của hoạt động vui chơi ở tuổi mẫu giáo lớn làm
cho dạng hoàn chỉnh của hoạt động vui chơi, chuyển dần sang trị chơi có luật.
Trước đây khi tham gia vào các trò chơi, động cơ hoạt động của trẻ nằm
trong chính q trình chơi. Trẻ mãi mê chơi mà không mà không biết đến kết
quả của việc chơi. Vào cuối tuổi mẫu giáo bên cạnh trị chơi đóng vai theo chủ
đề cịn xuất hiện khá nhiều trị chơi có luật, hành động của trẻ trở nên có tính
mục đích hơn. Khi tham gia trị chơi có luật động cơ hoạt động của trẻ khơng chỉ
nằm ở q trình chơi mà có ở kết quả chơi nữa, nghĩa là động cơ chơi của trẻ
đang di chuyển từ quá trình chơi đến kết quả chơi.
Ví dụ như ở góc thư viện trẻ chơi trị chơi ghép hình các con vật, trẻ khơng
chỉ thích trị chơi ghép hình mà cịn cố gắng làm sao để ghép đúng và thật nhanh
để giành chiến thắng với bạn chơi theo quy định mà trẻ đã nêu ra. Rõ ràng việc
tham gia vào trị chơi có luật làm cho hoạt động của đứa trẻ trở nên chủ tâm hơn.
Nhờ có hoạt động trị chơi này mà các hoạt động tâm lý bên trong được biến đổi
được biến một cách rõ rệt, từ quá trình tâm lý khơng chủ định chuyển thành q

trình tâm lý có chủ định như tri giác có chủ định, chú ý có chủ định, ghi nhớ có
chủ định…
1.2.1.3 Đặc điểm tính tự lập của trẻ mẫu giáo lớn
Ở lứa tuổi mẫu giáo bé tự ý thức bắt đầu xuất hiện trẻ nhận ra chính mình
từ đó nảy sinh hiện tượng tâm lí mới là tính độc lập. Khi tính độc lập xuất hiện
thì ở trẻ nhu cầu mong muốn hành động độc lập là rất lớn, trẻ muốn tự khẳng
định mình. Nhiều phẩm chất ý chí xuất hiện bơc lộ qua hành vi ứng xử với
người lớn và hành động với đồ vật như tính mục đích và tính độc lập. Tuy nhiên
ở lứa tuổi mẫu giáo bé tính mục đích và động cơ hành vi ý chí thường trùng
nhau. Ở lứa tuổi này tính tự lập của trẻ bắt đầu được hình thành trẻ bắt đầu tự
14


chủ được một số hành vi cơ bản tuy nhiên tuy nhiên nó chưa biểu hiện chưa rõ
ràng.
Ví dụ khi chơi trò chơi phân vai trong vai làm mẹ đứa trẻ ôm một chiếc gối
giả vờ ru em, đôi khi cũng mắng mỏ em bé…nhưng thực ra đứa trẻ lúc này chỉ
nặng về bắt chước bên ngoài chứ chưa biết nhập vai vào người mẹ.Trẻ đã biết
chơi nhưng tính tự lực còn yếu và phụ thuộc nhiều vào người lớn.
Ở lứa tuổi mẫu giáo nhỡ những hành động ý chí của trẻ tăng lên rõ rệt so
với độ tuổi mẫu giáo bé. Những biểu hiện về tính tự lập của trẻ được phát triển
mạnh. Đặc biệt trong khi vui chơi, trẻ mẫu giáo nhỡ thể hiện sự tự lập, tự do rất
rõ nét ít phụ thuộc vào người lớn.
Ở lứa tuổỉ mẫu giáo bé và mẫu giáo nhỡ tính mục đích trong hành vi và
động cơ hành vi cịn trùng nhau thì sang tuổi mẫu giáo lớn trẻ dần tách động cơ
ra khỏi mục đích hành vi. Qua các hoạt động, các phẩm chất tư duy đã bộc lộ về
cấu tạo và chức năng của hoạt động như tính mục đích, tính độc lập sáng tạo,
tính quyết đốn, tính bền bỉ và chủ động, linh hoạt, mềm dẻo, tính khách
quan…Ở tuổi mẫu giáo lớn việc đặt mục đích cho hành động ngày càng ý thức
và cố gắng hồn thành cơng việc, trẻ biết lập kế hoạch để thực hiện hành động

và được thể hiện rõ nét. Hành động ý chí được thể hiện rõ ràng hơn có sự chủ
tâm của trẻ, địi hỏi sự nỗ lực khắc phục khó khăn, trở ngại bên ngoài cũng như
bên trong để đạt mục đích đã đặt ra. Khi kết thúc hành động trẻ biết đối chiếu
kết quả với mục đích đã định. Khi kết quả của hành động phù hợp với mơ hình
về mục đích của hành động thì hành động kết thúc. Ví dụ: Khi trẻ chơi ở góc tạo
hình trẻ vẽ những các phương tiện giao thông nhưng chưa tô màu xong cơ giáo
nói các con hãy cất bài chiều cơ cho vẽ tiếp nhưng cháu vẫn cố gắng hoàn thành
bài của mình. Trẻ mẫu giáo lớn ý thức rõ về những suy nghĩ, tình cảm của mình,
trách nhiệm của hành vi. Những nhận thức, tình cảm, ý chí, nói năng đều tỏ ra
tích cực và chủ động hơn.
Việc đánh giá hành vi của người khác và của bản thân không phải bây giờ
mới xuất hiện nhưng càng về cuối tuổi mẫu giáo thì việc đó mới thường xun
và rõ ràng hơn. Trẻ thường nhìn nhận và hay tự so sánh mình với nhiều người
15


xung quanh, trẻ thường hay so sánh mình với các bạn, so sánh mình trong quá
khứ và hiện tại. Tuy nhiên sự đánh giá của trẻ đơi khi cịn chưa chính xác trẻ hay
dựa vào lời nhận xét của người lớn xung quanh để có một sự đánh giá đúng và
công bằng nhất. Đánh giá và tự đánh giá là một nét nói lên sự trưởng thành của
trẻ ở cuối tuổi mẫu giáo, nó làm hành vi của trẻ mang tính nhân cách.Tính tự lập
của trẻ mẫu giáo lớn phát triển lên một bước mới đó là sự chủ động trong hoạt
động.
Như vậy có thể khẳng định rằng lứa tuổi mẫu giáo lớn là thời kì phát triển
nhất trong các độ tuổi mẫu giáo, tất cả những thành tựu trẻ đạt được đều là cơ sở
cho sự phát triển nhân cách sau này. Những hành vi mang tính tự lập được hình
thành và phát triển ở tuổi này chính là nền tảng cho cả hệ thống hành vi tự lập
của con người khi đã trưởng thành mà vai trò giáo dục của người lớn là khơng
thể thiếu được.
1.2.1.4 Vai trị của tính tự lập đối với sự phát triển tồn diện nhân cách của

trẻ.
Tính tự lập có mơt vai trị đặc biệt quan trọng trong sự phát triển toàn diên
nhân cách của trẻ mầm non.
* Thứ nhất: Tính tự lập giúp trẻ phát triển nhận thức.
Tự lập là trẻ tự định hướng hoạt động, tự đặt ra mục đích, tự đề ra kế hoạch,
tự lựa chọn phương tiện, cách thức hành động, tự đánh giá kiểm tra bản thân
….với thái độ tích cực, tự tin để thực hiện đến cùng nhiệm vụ của mình mà
khơng dựa dẫm vào người khác. Trong quá trình hoạt động trẻ tiếp xúc với
nhiều đồ vật hiện tượng, hiện tượng, con người… trải nghiệm với các đối tượng
khác nhau. Do vậy độ nhạy cảm phân biệt các thuộc tính bên ngồi của của
chúng ngày càng xác định và đầy đủ. Một số quan hệ trong khơng gian, thời
gian được trẻ tri giác nhanh, chính sát hơn. Khả năng quan sát của trẻ cũng phát
triển ở độ tinh nhạy. Trẻ bắt đầu xuất hiện khả năng tra độ chính xác của tri
giác.
Để tự hoạt động một việc nào đó trẻ đã biết sử dụng cơ chế liên tưởng trong
trí nhớ để nhớ lại, nhận lại những tri thức, kinh nghiệm mà trẻ đã lĩnh hội để
16


hoạt động. Khi tự làm một việc nào đó trẻ sẽ ghi nhớ tốt hơn. Đồng thời với với
trí nhớ hình ảnh đồ vật, thì âm thanh ngơn ngữ được hiểu và sử dụng chúng như
một phương tiện giao tiếp với những người xung quanh. Các loại trí nhớ hình
ảnh, ngôn ngữ phát triển dần qua các hoạt động mà trẻ tự lập như lao động, vui
chơi…
Nhờ vào quá trình tự hoạt động sự phát triển tư duy phát triển mạnh mẽ về
kiểu loại, các thao tác và xác lập nhanh chóng các mối quan hệ giữa các sự kiện
thơng tin giữa mới và cũ, gần và xa…Tư duy của trẻ mất dần tính duy kỉ (lấy
mình làm trung tâm) tiến hành đến khách quan hiện, hiện thực hơn. Trẻ bắt đầu
biết suy nghĩ xem xét, nhiệm vụ hoạt động, phương pháp và lựa chọn phương
tiện để giải quyết nhiệm vụ tư duy. Qua quá trình tự hoạt động trẻ tích lũy được

những biểu tượng về các sự vật, hiện tượng và các mối quan hệ của chúng dưới
dạng hình ảnh mà trẻ tiến hành các thao tác tư duy. Từ đó ở trẻ tư duy phát triển
dần từ tư duy trực quan hành động chuyển sang tư duy trực quan hình tượng. Tư
duy trực quan cụ thể vẫn chiếm ưu thế, tuy nhiên tùy vào nhiệm vụ hoạt động
mà trẻ phát triển mạnh loại tư duy trực quan hình tượng, do ngôn ngữ phát triển
giúp trẻ gần với hiên thực khách quan.
Qua q trình tự hoạt động trẻ tích lũy được những biểu tượng về các sự
vật, hiện tượng, phát triển tư duy…Từ đó có thể nhận thấy rằng tính tự lập đóng
một vai trị rất quan trọng trong việc phát triển nhận thức cho trẻ.
*Thứ hai: Tính tự lập giúp trẻ phát triển năng lực cảm xúc.
Khi trẻ tự lập trong các hoạt động như vui chơi, học tập, lao động tự phục
vụ….nó khơng chỉ giúp trẻ phát triển tốt về nhận thức mà song song với sự phát
triển nhận thức là sự phát triển về năng lực cảm xúc. Năng lực xúc cảm là sự tự
ý thức, sự nhạy cảm xã hội, sự đồng cảm, chia sẻ và khả năng hợp tác, giao tiếp
thành công với người khác. Xây dựng và phát triển năng lực xúc cảm cho trẻ là
một trong những thách thức lớn đối với các bậc cha mẹ và các nhà lãnh đạo ở
mọi cấp trong các tổ chức.
Với tính tự lập trẻ sẽ tự giác chủ động tham gia các hoạt động khi tham gia
càng nhiều hoạt động được tiếp xúc với càng nhiều đồ vật hiện tượng, hiện
17


tượng, con người… trải nghiệm với các đối tượng khác nhau thì trẻ càng có
nhiều cơ hội để giao tiếp, hợp tác với bạn bè. Sau mỗi lần tự làm được một việc
nào đó đều kích thích niềm vui, hứng thú, say mê đối với trẻ. Trong các hoạt
động vui chơi, lao động tự phục vụ… khi thành công hay thất bại trẻ đều trải qua
cảm xúc rõ ràng như vui mừng, buồn rầu… và trẻ nhận biết được cảm xúc của
mình. Trẻ có thể nhận biết được chính xác cảm xúc của bản thân lúc này là gì và
có thể biết được cảm xúc của mọi người xung quanh. Trẻ hiểu những nguyên
nhân, hậu quả, tình trạng của cảm xúc trong mình và của những người khác. Ví

dụ: tại sao mình buồn, mình vui, tại sao mình ngoan bố mẹ lại quý…. Khi trẻ
thấu hiểu cảm xúc của mình và người khác, trẻ sẽ có khả năng mơ tả và đáp lại
cảm xúc của mình, của người khác. Chính điều này khiến trẻ thông cảm và biết
chia sẻ tâm tư, suy nghĩ với người khác.
Ví dụ: Khi trẻ cùng cô giáo làm đồ chiếc đồng hồ bằng giấy dùng để dạy
học trẻ nhận thấy cơng việc đó rất khó khăn, thật không dễ để tạo nên một chiếc
đồng hồ như vậy. Hoặc trẻ tự dọn dẹp đồ dùng, đồ chơi giúp cô. Trẻ nhận thấy
sự rất vả của cô từ đó đồng cảm với cơ và trẻ biết trân trọng sản phẩm cơ làm ra.
Khi thấy cơ làm thì trẻ quan tâm hỏi cơ có mệt khơng và lấy nước cho cô uống.
Bằng cách tự giác tham gia vào các hoạt động giúp trẻ học cách cùng làm
việc với bạn phát triển ở trẻ khả năng hợp tác. Khả năng hợp tác sẽ giúp trẻ biết
cảm thông và chia trẻ cùng làm việc với các bạn. Qua đó chúng ta có thể nhận
thấy là năng lực cảm xúc là rất cần thiết cho trẻ ngay bây giờ và cho cả mai sau.
Một đứa trẻ có tính tự lập sẽ có nhiều cơ hội để phát triển năng lực cảm xúc cho
mình.
* Thứ ba: Tính tự lập giúp trẻ phát huy khả năng sáng tạo.
Tự lập là điều kiện quan trọng để nảy sinh tính sáng tạo. Một nhân cách
sáng tạo luôn biết độc lập trong suy nghĩ và hành động. Vì vậy tính tự lập của cá
nhân cũng liên quan tới sự tích cực của cá nhân đó. Trong hoạt động, tính tự lập
cũng có quan hệ nhất định với nhu cầu, động cơ sự tự tin, sự nỗ lực ý chí… của
trẻ. Trên cơ sở có nhu cầu tham gia vào hoạt động một cách chủ động và có kĩ
năng để thực hiện hoạt động trẻ sẽ có năng lực tự giải quyết những nhiệm vụ đã
18


đặt ra một cách tự tin sáng tạo…Trong hoạt động, tính tự lập giúp trẻ phát triển
nhận thức về thế giới xung quanh thêm phong phú và đa dạng tạo điều kiện để
trẻ sáng tạo trong quá trình hoạt động. Đặc biệt tính sáng tạo của trẻ được thể
hiện và phát triển rõ nét trong hoạt động vui chơi. Khi chơi trẻ không sao chép
cuộc sống mà chỉ bắt chước những gì trẻ thấy, phối hợp với những biểu tượng

đã biết của mình vào trị chơi mà tự điều khiển chúng trẻ tự lựa chọn chủ đề,
phân vai chơi, tạo ra tình huống của trị chơi hồn cảnh chơi sử dụng vật thay thế
trong các trò chơi sáng tạo cũng như lựa chọn các phương thức hành động và
phân chia tình huống chơi để giải quyết nhiệm vụ chơi trong các trị chơi có luật.
Trong q trình chơi trẻ biết phát huy những sáng kiến trong khi chơi, biết chủ
động tạo ra những tình huống, vận dụng một cách linh hoạt các công cụ khi
chơi, tưởng tượng ra nhiều nhân vật, phương cách … để trò chơi tăng thêm phần
hấp dẫn.
1.2.2 Tở chức hoạt động vui chơi tại các góc ở trường mầm non.
1.2.2.1 Hoạt động vui chơi tại các góc
* Góc hoạt động là khu vực trong phịng học dành cho các hoạt động cụ
thể trong chương trình giáo dục trẻ, được xác định dựa vào các lĩnh vực phát
triển của chương trình, nơi trẻ có thể tự hoạt động vui chơi, học tập một mình
hoặc trong nhóm nhỏ với những bạn cùng sở thích.
* Hoạt động vui chơi tại các góc: Là một hoạt động tự lập của trẻ, chơi
không nhằm tạo ra sản phẩm (kết quả vật chất) mà chủ yếu thỏa nãn nhu cầu
được chơi của trẻ (kết quả tinh thần). Do giáo viên tổ chức hướng dẫn và qúa
trình chơi của trẻ được diễn ra tại các góc hoạt động trên cơ sở trẻ tự do, tự
nguyện tham gia trị chơi.
Các góc hoạt động giúp trẻ chơi, học ở các góc hoạt động được tổ chức
thường là:
Góc đóng vai
Góc phân vai là một khu vực hoạt động trọng tâm, ở góc này trẻ được chơi
trị chơi phân vai theo chủ đề. Trong trò chơi này trẻ đóng một vai cụ thể để tái

19


tạo lại những ấn tượng, những xúc cảm mà trẻ thu nhận được từ môi trường xã
hội xung quanh nhờ tham gia tích cực của trí tưởng tượng.

Cần bố trí, khơng gian thời gian thích hợp, vừa đủ tạo điều kiện cho trẻ
tham gia vào các vai chơi, khuyến khích trẻ suy nghĩ, tưởng tượng vào các vai
chơi phù hợp với chủ đề: Như phân vai làm cha, mẹ, cô giáo, bác sĩ…Khơng
gian ở khu vực này cần bố trí đủ để chia thành các góc nhỏ như “Cửa hàng”
“Bệnh viện”…Cách bố trí các góc chơi khu vực này cần đảm bảo hợp lí, thuận
tiện cho việc mở rộng nội dung chơi, hoạt động theo nhóm và tạo điều kiện cho
các nhóm chơi dễ dàng đi lại, mở rộng quan hệ giao tiếp của nhóm. Để tổ chức
hoạt động vui chơi tại góc phân vaicần chuẩn bị đồ chơi đồ đùng, vật liệu thiết
bị cần thiết như: Trang phục, bàn, bát đũa, cốc uống nước, búp bê, gấu bông….
Khi chơi trẻ tự nguyện chấp nhận những quy tắc, chuẩn mực của đời sống
xã hội đã được trẻ mô phỏng để cùng nhau thực hiện thành nội dung chơi và duy
trì cuộc chơi. Bằng cách nhập vai vào vai chơi trẻ học được cách ứng xử giao
tiếp với các đối tượng khác nhau trong cuộc sống. Trẻ thấu cảm được tình cảm
của con người với con người, của con người với thiên nhiên, nhận biết cảm xúc
của người khác, biểu lộ cảm xúc của bản thân. Qua quá trình chơi phân vai trẻ
được rèn luyện và phát triển một số kĩ năng như kĩ năng sáng tạo trẻ gán cho
những đồ vật những đặc tính khác như coi hộp giấy là ô tô, coi những mẫu giấy
là tiền. Trẻ nhận biết được quy tắc trong cuộc sống, hiểu được rằng trong xã hội
có nhiều nghề khác nhau. Khi hành động, thao tác với đồ chơi trẻ được phát
triển kĩ năng vận động tinh và vận động thô như: trẻ biết sử dụng các dụng cụ
nấu ăn, chải đầu đi lại, dọn dẹp góc chơi…
Góc xây dựng
Góc chơi xây dựng là góc mà trẻ được chơi trò chơi xây dựng trẻ sử dụng
đồ chơi vật liệu xây dựng để phản ánh thế giới khách quan (đặt biệt là thế giới
đồ vật) trong các cơng trình xây dựng nhờ trí tưởng tượng và sáng tạo của trẻ.
Khi tham gia vào góc chơi này trẻ sẽ tạo ra được những sản phẩm, cơng trình
như nhà, ơ tơ, đồn tàu….trước khi chơi trẻ phải hình dung ra sản phẩm mà
mình sẽ xây dựng trên cơ sở các biểu tượng đã có về sự vật. Từ những tượng đã
20



có ban đầu khi chơi trẻ lựa chọn đồ chơi, vật liệu sử dựng kĩ năng xây dựng lắp
ráp những vật liệu tạo các cơng trình theo ý đồ của mình.
Do vậy muốn tổ chức cho trẻ chơi ở góc xây dựng phải bồi dưỡng biểu
tượng và trí tưởng tượng cho trẻ, một yếu tố rất quan trọng nữa đó chính là đồ
chơi, vật liệu xây dựng. Khơng có đồ chơi và vật liệu xây dựng thì khơng thể
tiến hành chơi được. Vì vậy cần phải chuẩn bị đồ chơi, vật liệu đầy đủ trước khi
trẻ chơi. Các bộ ghép hình, lắp ráp sản xuất đa dạng về hình dáng và kích cỡ.Vật
liệu để xâu như dây dài, sợi len, lõi chỉ, hột hạt có lỗ…bộ đồ chơi lắp ráp xe lửa,
hình người máy, lâu đài, lăng Bác Hồ…. Cách bố trí các đồ chơi và các đồ vật
khác cũng rất quan trọng, giúp trẻ dễ dàng lựa chọn. Nếu các giỏ đồ chơi để trên
giá hoặc xếp chồng lên nhau sẽ khó khăn cho trẻ lựa chọn. Mỗi lần chơi, giáo
viên nên bày một ít các đồ vật, đồ chơi, đặt trên bàn hoặc trên ngăn thấp của giá
trưng bày. Không nên đưa tất cả các thứ ra cho trẻ chơi chùng một lúc.
Hoạt động xây dựng cung cấp nhiều cơ hội phát triển óc tưởng tượng, sáng
tạo, giúp phát triển kĩ năng và sự phối hợp giữa mắt và bàn tay. Giúp trẻ phát
triển khả năng định hướng trong không gian: phân biệt được độ lớn, sự cân đối
hay không cân đối, phân biệt chuẩn định hướng (trên, dưới, trái, phải, trước
sau…). Giúp trẻ có các tri thức kĩ năng xây dựng. Trẻ học cách sử dụng hình
dáng các khối lắp ráp để xây thành các góc thích hợp, khớp nhau về màu sắc,
kích thước. Phân loại vật liệu theo kích thước, hình dáng, màu sắc; học cách
xây nhà sao cho khơng đổ, có biểu tượng về kích thước, hình dáng, chiều cao,
trọng lượng, số lượng… và phát triển vận động tinh khéo của bàn tay như , xâu
hạt bằng sợi dây, lắp ráp các hình, vặn ốc…Đó là những yếu tố cần thiết cho
hoạt động kĩ thuật trong tương lai. Trẻ biết được các đặc điểm của vật liệu xây
dựng, từ đó trẻ sẽ dần biết sử dụng vật liệu xây dựng phù hợp trong các cơng
trình xây dựng. Phát triển ở trẻ các năng lực tạo hình, óc thẩm mỹ, kĩ năng sáng
tạo. Qua q trình lựa chọn vật liệu để tạo ra các cơng trình phong phú đã phát
triển ở trẻ năng lực cảm thụ cái đẹp và năng lực sáng tạo ra cái đẹp; giúp trẻ
củng cố thị hiếu thẩm mỹ, biết phân biệt cái đẹp với cái xấu, cái thô kệt và biết

yêu cái đẹp. khi chơi trẻ lắng nghe, trao đổi; đề nghị bạn giúp đỡ, chia sẻ đồ
21


chơi; hợp tác qua đó trẻ được phát triển kĩ năng giao tiếp. Khơng những vậy nó
cịn giúp trẻ nâng cao năng lực cảm xúc trẻ tự hào về sản phẩm mình làm được,
ý thức về sự thành cơng. Tự hào khi xây xong ngôi nhà, cảm nhận cái đẹp khi
trang trí, chia sẻ niềm vui với bạn.
Góc tạo hình
Tạo hình là hoạt động ln được trẻ ưa thích. Trong góc hoạt động tạo hình,
trẻ được thể hiện sự sáng tạo của mình qua các hoạt động như cắt, xé dán… tiếp
nhận những xúc cảm tích cực sáng tạo thơng qua việc bố trí, tổ chức mơi trường,
khơng gian hoạt động thích hợp.
Để trẻ hoạt động tại góc tạo hình cần được bố trí đầy đủ các phương tiện,
vật liệu cho trẻ thực hiện hoạt động như: Bút màu, bút dạ, bút chì, đất nặn hột
hạt, tăm tre giấy màu hồ dán, Giấy A4 hoặc giấy vẽ … Bàn ghế, các giá đựng,
giá vẽ nên bố trí mở, phù hợp với chiều cao của trẻ để trẻ có thể dễ lấy và sử
dụng.
Qua các hoạt động tại góc tạo hình giúp trẻ phát triển nhận thức trẻ biết
cách pha màu tạo màu mới; nhận biết được cái gì có thể dán bằng hồ, cái gì cần
băng dính, tái hiện người và đồ vật trong tranh vẽ, phối cảnh. Phát triển ở trẻ kĩ
năng sáng tạo vẽ, cắt dán, năn… bằng sự tưởng tượng của chính mình thơng qua
biểu tượng mà trẻ đã lĩnh hội được và phát triển vận động tinh khéo của bàn tay
học cách cầm bút vẽ,cầm kéo, sử dụng hồ dán, băng dính…Kĩ năng vận động
thơ như sắp xếp bàn ghế, nhào đất nặn. Khi tự tạo ra một sản phẩm trẻ cảm thấy
tự hào với tác phẩm nghệ thuật của mình. Nhận biết một số quy tắc như rửa tay,
thu dọn đồ dùng khi vẽ hoặc nặn xong, chia sẻ đồ dùng tạo hình với bạn.
Góc thư viện
Sách truyện là phần quan trọng trong đời sống của trẻ thơ. Xem sách, nghe
đọc truyện là một hoạt động thú vị đối với trẻ. Góc thư viện thường được đặt xa

những nơi dễ gây phân tán hoặc xa các hoạt động khác. Ở góc này trẻ được xem,
đọc truyện tranh, chơi tìm các tranh ảnh hoặc đốn nhận, đặt tên hay mô tả cho
các đồ vật đồ chơi trong tranh …

22


Các loại sách cho trẻ được bày lên bàn và các giá sách, để trẻ dể nhìn và sử
dụng. Những kỹ năng trẻ học được trong góc thư viện như kĩ năng đọc qua quá
trình xem truyện trẻ nhận biết các ký hiệu chữ viết có ý nghĩa; quy luật đọc sách
(từ phải sang trái, từ trên xuống dưới, từ trang đầu đến trang cuối). Xem sách
còn giúp trẻ phát triển vận động tinh như mở sách, lật từng trang, chỉ theo tranh
hoạc dịng chữ. Trẻ lắng nghe cơ hoặc bạn kể chuyện; bắt chước những từ hoặc
câu nói trong truyện; trẻ tự kể lại; trả lời những câu hỏi theo truyện; học từ mới.
Nhớ cốt truyện và kể lại; dự đốn những chuyện gì sẽ xãy ra tiếp theo; giải
quyết vấn đề nãy sinh trong câu chuyện. Trẻ được xem tranh được nghe kể
chuyện giúp trẻ phát triển trí tưởng tượng, hiểu biết về thế giới xung quanh.
Góc thiên nhiên
Trẻ nhỏ rất thích tìm hiểu mơi trường xung quanh, đặt biệt là thích chăm
sóc cây cối, con vật ni và theo dõi xem chúng lớn lên như thế nào. Với sự
chuẩn bị của cô giáo trẻ được chơi, được hoạt động trong một môi trường thiên
nhiên đa dạng. Trẻ được gieo hạt chăm sóc và quan sát q trình lớn lên của cây.
Để tổ chức cho trẻ chơi ở góc khám phá khoa học lớp hoặc ngồi hiên, có
thể đặt các loại cân, và quả cân cho trẻ thử nghiệm sự thăng bằng, các loại hạt để
trồng và theo giỏi sự nẩy mầm, các con vật để chăm sóc hằng ngày và quan sát
sự thay đổi của chúng. Khu nuôi thỏ gà chim cùng với các chậu hoa cây cảnh
thảm cỏ. Khu chơi cát, nước bên trong lớp học có thể đặt gần nguồn nước. Các
loại khác như rổ đĩa bát nhựa, thìa, các loại vỏ trai ốc, phểu… cho trẻ chơi với
nước. Cát có thể đặt vào khai để trên bàn, hoặc trong hố cát, chậu cát. Trẻ có
thể ngồi chơi với cát khơ hoặc đổ nước vào để xây dựng. Có thể cung cấp thêm

những cành cây đồ chơi hình người, con vật, ơ tơ, bộ đồ chơi gia đình cho trẻ
chơi với cát. Các hoạt động trên có thể diễn ra trong lớp học hoặc ngồi sân
trường. Gi áo viên cần chuẩn bị các loại hạt giống rau, hoa, quả… Côn trùng
sống và mẫu vật: Kiến, bướm, chuồn chuồn…Lồng, hộp, chai lọ. và các dụng cụ
vụ làm vườn: xẻng, cuốc đồ chơi…
Khi chơi trẻ khám phá được sự đa dạng của động vật, thực vật và vật liệu
thiên nhiên từ đó hình thành cho trẻ thái độ tơn trọng và có trách nhiệm với sự
23


vật xung quanh. Nhận biết được hạt giống nẩy mầm và lớn lên như thế nào.
Phân loại lá của cây theo hình dáng và màu sắc nhận biết cây xanh cần nước và
khơng khí cũng như chất dinh dưỡng ở đất. Liên hệ nguồn gốc các thức ăn, nhận
biết côn trùng như kiến kiếm ăn thế nào?. Trẻ hoạt động ở góc này cịn giúp trẻ
phát triển vận động động thơ đào xới đất đi dạo tìm kiếm lá cây, tưới cây, nhổ
cỏ, kĩ năng vận động tinh gieo hạt, bắt sâu. Khi chơi trẻ khám phá ra nhiều điều
mới lạ và cùng nhau trò chuyện về các con vật, cây cối, côn trùng; đặt câu hỏi,
trả lời về những hiện tượng quan sát thấy. Trẻ cùng nhau gieo hạt; có trách
nhiệm với những cơng việc được giao như tưới cây, biểu lộ tình cảm với con vật
và cây cối; tự hào khi gieo hạt thấy chúng nẩy mầm qua đó phát triển kĩ năng xã
hội,xúc cảm cho trẻ.
Góc âm nhạc
Âm nhạc phân vai trị quan trọng trong chương trình mẫu giáo. Đây là hoạt
động vui vẻ, giải trí, kích thích vận động tay chân và được rất nhiều trẻ u
thích.
Góc âm nhạc được bố trí nơi n tĩnh, cách xa góc khác. Ở góc âm nhạc có
thể để cát-xét, băng…Trẻ có thể nghe nhạc, nghe các bài hát mẫu giáo và chơi
với dụng cụ âm nhạc
Ở góc chơi này trẻ được học được nhiều kĩ năng như kĩ năng sáng tạo, nhận
thức….Trẻ tự vận động theo nhạc, biểu diễn một mình hoặc theo nhóm và học

được các động tác liên hoàn trong một bài múa, học được động tác gắn liền với
bài hát. Xem hay lắng nghe lẫn nhau; lần lượt hát; chia sẻ kinh nghiệm. Nó cịn
giúp trẻ học được kĩ năng vận động tinh như vỗ tay theo nhạc; cầm và vẫy khăn,
quạt biểu diễn, sử dụng dụng cụ âm nhạc, kĩ năng vận động thô vận động và làm
động tác theo nhạc kết hợp trò chơi (đi nhanh, chậm, giậm chân, ngồi xuống,
đứng lên).
1.2.2.2 Tổ chức hoạt động vui chơi tại các góc cho trẻ mẫu giáo lớn.
Để tổ chức một hoạt động vui chơi tại các góc cho trẻ mẫu giáo lớn đầu tiên
giáo viên cần phải lập kế hoạch tổ cần đề ra mục đích yêu cầu chơi về các mặt
như kiến thức, về kĩ năng, thái độ. Chuẩn bị không gian chơi tạo ra các góc chơi
24


hợp lí, thống mát, sạch sẽ đủ ánh sáng…Cung cấp đồ dùng đồ chơi, vật liệu đa
dạng hấp dẫn, an toàn, phù hợp theo chủ đề. Sắp xếp đồ dùng đồ chơi ở trạng
thái mở, tạo điều kiện cho trẻ chơi, trải nghiệm trong nhiều loại trò chơi. Ấn
định thời gian cho trẻ đủ chơi (khoảng 50 – 60 phút). Chuẩn bị tâm thế vào chơi
cho trẻ để trẻ tích cực hoạt động tại các góc chơi. Giáo viên tạo cho trẻ tâm
trạng vui vẻ, hồ hởi và mong muốn được chơi theo ý muốn, theo nhu cầu và sở
thích của chúng.
Sau khi đã lên kế hoạch và tạo ra môi trường cho trẻ chơi giáo viên tổ chức
hoạt động cho trẻ vui chơi tại các góc. Trước khi cho trẻ về các góc chơi giáo
viên cho trẻ thỏa thuận trước khi chơi hỏi xem trẻ chọn góc chơi nào, trẻ chơi trị
chơi gì, thỏa thuận vai chơi với bạn trong nhóm chơi. Trong q trình chơi trẻ
được trẻ tự hoạt động theo sự hiểu biết vốn kinh nghiệm của trẻ về mơi trường
xung quanh. Nếu trẻ gặp khó khăn trong khi chơi cơ giáo có thể đóng là một
vai trong trị chơi gợi ý, hướng dẫn, tạo tình huống liên kết các nhóm chơi…Kết
thúc trị chơi cơ nhận xét khen các nhóm chơi tốt, khen những trẻ có kĩ năng
chơi tốt và động viên những trẻ khác cũng chơi tốt như bạn trong những lần chơi
sau.

Tổ chức hoạt động vui chơi tại các góc là hoạt động trọng tâm của chương
trình giáo dục trẻ mẫu giáo ở trường mầm non. Vì vậy khi tổ chức cho trẻ cần
đảm bảo tính tự do, tự nguyện chủ động và sáng tạo của trẻ, đảm bảo môi trường
chơi đa dạng, hấp dẫn, an toàn, quan tâm đến đặc điểm các nhân, tạo điều kiện
phát huy khả năng tự lập của trẻ, phát triển toàn diện cho trẻ khi chơi. Giáo viên
giữ vai trò là người tổ chức, hướng dẫn, là người bạn, người hợp tác cùng trẻ.
1.2.2.3 Biểu hiện tính tự lập của trẻ mẫu giáo lớn trong hoạt động vui chơi
tại các góc.
Tính tự lập của trẻ mẫu giáo lớn có thể được biểu hiện qua nhận thức và
hành vi. Khi vui chơi tại các góc trẻ mẫu giáo lớn thể hiện tính tư lập rất rõ, ít lệ
thuộc vào người lớn trẻ hồn tồn tùy thuộc vào ít thích của mình. Nó biểu hiện
ở việc trẻ tự nghĩ ra trị chơi sau đó lựa chọn góc chơi mà mình thích.Trẻ mẫu
giáo lớn thế giới nội tâm đã bắt đầu phong phú nên các tính của trẻ được bộc lộ
25


×