Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

cuoc thi LLVt Thanh Hoa 65 nam xay dung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (74.04 KB, 8 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Câu hỏi 1: Anh (chị) cho biết quá trình thành lập và hoạt động của tổ chức tiền
thân LLVT Thanh Hóa ngày nay?


Trả lời


* Quá trình thành lập của tổ chức tiền thân LLVT Thanh Hóa ngày nay:


- Ngày 19-9-1941, tại hang Treo, một điểm căn cứ Ngọc Trạo, huyện Thạch
Thành, đội du kích của chiến khu Ngọc Trạo được thành lập gồm 21 đồng chí.
Chỉ một tuần sau khi thành lập, đội du kích Ngọc Trạo đã phát triển lên tới 40
người, sau một tháng lên tới hơn 80 người và được chia thành hai trung đội.
- Để tăng cường lực lượng, Tỉnh ủy quyết định phát triển lực lượng vũ trang của
chiến khu lên trên 500 chiến sĩ. Đây là một trong những đội du kích thốt ly tập
trung đầu tiên của cả nước được thành lập sau Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ
8.


- Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban chỉ đạo chiến khu, đội du kích được biên chế
thành 3 tiểu đội: tiểu đội cảm tử, tiểu đội súng, tiểu đội trinh sát và cán bộ phận y
tế, cứ thương và liên lạc. Tuy vũ khí chỉ 11 khẩu súng, cịn lại là vũ khí thơ sơ
như dao bầu, mã tấu, cung nỏ và gậy guộc, và hoạt động trong điều kiện hết sức
khó khăn, thiếu thốn về mọi mặt nhưng các chiến sĩ luôn lạc quan, tin tưởng dốc
lòng, dốc sức xây dựng chiến khu, giữ gìn kỷ luật và thực hiện bám đất, bám dân,
sẵn sàng chiến khu.


- Trước sự lớn mạnh không ngừng của chiến khu Ngọc Trạo, thực dân Pháp đã
điên cuồng càn quét nhằm triệt phá phong trào, khủng bố tinh thần cách mạng
của nhân dân ta. Nhưng các chiến sỹ cảm tử Ngọc Trạo vẫn anh dũng chiến đấu,
tiêu diệt kẻ thù, bảo vệ thành quả cách mạng.


* Hoạt động của tổ chức tiền thân LLVT Thanh Hóa ngày nay:



- Rạng sáng ngày 19/10/1941 tại khu vực đình Ngọc Trạo. Lợi dụng lúc sương
mù bao phủ, quân Pháp đã huy động hơn 500 lính và tuần đinh yểm trợ để càn
quét chiến khu. Bị tấn công bất ngờ, nhưng lực lượng du kích Ngọc Trạo đã anh
dũng đánh lui tốn quân này.


- Cuộc chiến dằng co kéo dài nhưng do lực lượng mỏng, Ban Chỉ huy Chiến khu
đã quyết định di chuyển tồn đội du kích về phía Bắc huyện Vĩnh Lộc. Tối
25/10/1941, toàn đội đã tập kết tại đình làng Cẩm Bào (xã Vĩnh Long, huyện
Vĩnh Lộc) thơng qua kế hoạch phân tán lực lượng về các địa phương để tránh sự
truy lùng khủng bố của địch.


Câu hỏi 2: Anh (chị) cho biết bối cảnh và quá trình thành lập Tỉnh đội bộ dân
quân Thanh Hóa (nay là Bộ CHQS Thanh Hóa); ý nghĩa thực tiễn đối với cách
mạng Việt Nam nói chung và tỉnh Thanh Hóa nói riêng ?


Trả lời


* Bối cảnh thành lập Tỉnh đội bộ dân quân Thanh Hóa (nay là Bộ CHQS Thanh
Hóa):


- Một số tổ chức tiền thân của LLVT Thanh Hóa được thành lập như đội du kích
chiến khu Ngọc Trạo, chi đội Đinh Cơng Tráng, Trung đồn 77.


- Các cơ quan quân sự các huyện đồng bằng và trung châu được thành lập.
- Các đại đội dân quân du kích tập trung liên huyện được thành lập.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

- Cũng trong năm 1947, thực dân Pháp cho quân đổ bộ các huyện ven biển và
đánh chiếm một số vị trí ở miền Tây Thanh Hóa.


* Q trình thành lập Tỉnh đội bộ dân quân Thanh Hóa (nay là Bộ CHQS Thanh


Hóa):


Ngày 9-10-1947, Chủ tịch UBKC tỉnh Thanh Hóa Đặng Việt Châu ký quyết định
(số 3932 THKC) thành lập Tỉnh đội bộ dân quân:


Bộ máy lãnh đạo gồm:


01 tỉnh đội trưởng,
01 chính trị viên,
02 tỉnh đội phó.
Cơ quan có:


Tổ văn thư: 2 nhân viên


Tổ huấn luyện quân sự: 2 nhân viên.
Phụ cấp được hưởng:


Tỉnh đội trưởng và chính trị viên: 350 đồng/tháng.
Tỉnh đội phó và cán sự: 300 đồng/tháng.


Về tổ chức Đảng: Cơ quan Tỉnh đôi thành lập một chi bộ (chi bộ 12) trực thuộc
Tỉnh uỷ, đồng chí Lê Hữu Khai, tỉnh uỷ viên chính trị viên tỉnh đội làm Bí thư
chi bộ.


Ngày 8-12-1947, Chủ tịch UBKC Liên khu IV Trần Hữu Dực ký quyết định (số
117 QN-QK4) cử các ông:


Võ Nguyên Tuệ: Tỉnh đội trưởng.
Lê Hưu Khai: Chính trị viên.
Lê Như Hoan: Tỉnh đội phó.


Nguyễn Minh Sơn: Tỉnh đội phó.


* Ý nghĩa thực tiễn đối với cách mạng Việt Nam nói chung và tỉnh Thanh Hóa
nói riêng:


- Tỉnh đội bộ dân quân Thanh Hóa (nay là Bộ CHQS Thanh Hóa) được thành lập
đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng chiến:


+ Là cơ quan quân sự trực tiếp triển khai và thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của
Đảng, Chính phủ về chủ trương, đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược.


+ Góp phần tổ chức thống nhất các lực lượng vũ trang trong toàn tỉnh, tập hợp,
động viên nhân dân tham gia LLVT, khích lệ tinh thần chiến đấu của quân và
dân trong tỉnh góp phần vào thắng lợi chung của cả nước.


+ Là cơ quan quân sự trực tiếp tổ chức, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược đến thắng lợi hoàn toàn cùng với quân và dân cả nước.


+ Phối hợp, hiệp đồng với các địa phương, đơn vị trong quá trình đấu tranh cách
mạng.


Câu hỏi 3: Anh (chị) cho biết những đóng góp và thành tích nổi bật của quân,
dân Thanh Hóa trong 9 năm kháng chiến chống Pháp (từ 1945 – 1954)?


Trả lời


* Trong xây dựng lực lượng và đánh trả các cuộc càn quét, đánh phá các căn cứ
của địch:



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

các huyện đồng bằng và trung châu; Thành lập Tỉnh đội bộ dân quân Thanh Hóa
(nay là Bộ CHQS Thanh Hóa).


- Ngay từ những năm đầu kháng chiến, quân và dân Thanh Hóa cùng với quân và
dân cả nước chiến đấu anh dũng chống thực dân Pháp xâm lược. Tiểu biểu:
+ Đánh địch và giải phóng đồn Cổ Lũng năm 1949.


+ Năm 1950, quân và dân Thanh Hóa giải phóng miền Tây Thanh Hóa. Phịng
tuyến sơng Mã của địch bị tan vỡ hồn tồn. Miền Tây Thanh Hóa được nối
thơng với Lào.


* Trong phối hợp và tăng cường lực lượng cho các đơn vị khác:


- Tháng 10-1950, Tỉnh đội Thanh Hóa tổ chức bàn giao đại đội 109 và 11 trung
đội cho chủ lực Liên khu IV. Tiếp đó thành lập lại đại đội 109 cho Nga Sơn.
- Thang 5-1951, phối hợp với chiến dịch Hà Nam Ninh (Quang Trung), tỉnh đội
Thanh Hóa điều tiểu đồn 275 ra hoạt động tại Nga Sơn tạo điều kiện cho chủ
lực của ta hoạt động.


- Tháng 12-1951, quân và dân ta mở chiến dịch Hồ Bình, chỉ sau 4 ngày Thanh
Hóa huy động cho chiến dịch được trên 9 vạn dân công, chiếm 70% nhân lực
phục vụ chiến dịch.


Tổng kết chiến dịch Hoà Bình, Thanh Hóa huy động 21.786 dân cơng dài hạn,
78.488 dân công ngắn hạn, vận chuyển 1.143 tấn lương thực, 58 chiến sĩ dân
công được khen thưởng.


- Cuối năm 1951,đầu 1952: Phối hợp với chiến dịch Hồ Bình, bộ đội Liên khu
III cùng các đơn vị chủ lực hoạt động ở Ninh Bình, Kim Sơn và Phát Diệm.
Thanh Hóa điều đại đội 98 (Quảng Xương), đại đội 112 (Tĩnh Gia), đại đội 130


(Hoằng Hoá) ra phối hợp với đại đội 109, 10 và 57 để bảo vệ Nga Sơn và phía
bắc tỉnh.


* Trong xây dựng hậu phương chi viện cho các chiến trường:


- Đầu năm 1953, quân và dân Thanh Hóa vận chuyển 5000 tấn gạo lên Mường
Lát chuẩn bị cho chiến dịch Thượng Lào. Kết thúc chiến Thượng Lào, Thanh
Hóa đã huy động 35.000 dân cơng, 5.000 xe đạp thồ, vận chuyển 1.500 tấn gạo
và hàng trăm tấn lương thực, thực phẩm, vũ khí lên Sầm Nưa, đam bảo 76% nhu
cầu của cả chiến dịch. Thanh Hóa được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng lá cờ “Phục
tiền tuyến khá nhất”.


- Trong chiến dịch Điện Biên Phủ: Thanh Hóa cung cấp cho chiến dịch 80%
lương thực, vượt mức Trung ương giao 9 tấn, 1300 con bò, 2.000 con lợn,
250.000 quả trứng, 150 tấn đậu các loại, 450 tấn cá khô, 20.000 lọ mắm và hàng
tấn rau các loại. Huy động 102.254 dân công dài hạn và 76.670 dân công ngắn
hạn. Tổng số dân công phục vụ chiến dịch là 1..061.593 lượt người với 27 triệu
227 ngày công, 11.000 xe đạp thồ, 1.300 thuyền ván và thuyền nan, 42 ngựa thồ,
31 xe ô tô và nhiều phương vận chuyển khác.


Chiến sĩ xe đạp thồ Cao Ty (thị xã Thanh Hóa) nâng kỷ lục 160 kg lên 195 kg rồi
lên 250 kg, 300 kg và thường xuyên đạt 320 kg một chuyến. Đồng chí Đới Sỹ
Trầu (Quảng Xương) liên tục gánh 60 kg hàng, dẫn đầu về gánh bộ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Trương Cơng Man, Lị Văn Bường, Tơ Vĩnh Diện, Trần Đức.


Câu hỏi 4: Anh (chị) biết gì về sự kiện Hàm Rồng chiến thắng; diễn biến của 2
ngày chiến đấu 3 và 4-4-1965, tại trận địa chiến đấu cụm Hàm Rồng - Nam
Ngạn? Ý nghĩa lịch sử của chiến thắng?



Trả lời


* Sự kiện Hàm Rồng chiến thắng:


- Nằm ở vị trí trọng yếu, nên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cầu
Hàm Rồng luôn được giới quân sự Mỹ xác định là “điểm nút”, là “điểm tắc lý
tưởng” của khu vực bắc miền Trung, cần phải tập trung đánh phá. Ðánh phá Hàm
Rồng, đế quốc Mỹ không chỉ nhằm hủy diệt cây cầu, cắt đứt huyết mạch giao
thông, cắt đứt sự chi viện sức người, sức của cho miền nam ruột thịt, mà cịn
nhằm sử dụng sức mạnh của khơng lực Hoa Kỳ đè bẹp tinh thần và ý chí chiến
đấu của miền bắc XHCN và của cả dân tộc Việt Nam.


- Từ năm 1964, trước thất bại của chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, để cứu vãn
tình thế, đế quốc Mỹ đã tiến hành chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở miền nam,
đồng thời mở cuộc chiến tranh phá hoại ra miền bắc. Tiếp nối sự kiện “Vịnh Bắc
Bộ”, trong hai ngày 3 và 4-4-1965, đế quốc Mỹ đã điên cuồng huy động 454 lượt
máy bay các loại, ném 627 quả bom phá, 58 bom nổ chậm, bắn hàng trăm tên lửa
và rốc-két vào Hàm Rồng và các khu vực trọng điểm của tỉnh Thanh Hóa. Trên
mảnh đất Hàm Rồng ngày ấy, mỗi ngọn núi, dịng sơng, nhà máy, xí nghiệp và
làng mạc đều trở thành mục tiêu đánh phá ác liệt của địch, đều phải gánh chịu
những đau thương, mất mát to lớn. Song với lòng yêu nước nồng nàn, với tinh
thần “Khơng có gì q hơn độc lập, tự do”, qn và dân Hàm Rồng đã đồn kết
một lịng, anh dũng chiến đấu, tạo thành thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc;
đan thành lưới lửa dày đặc, nhiều tầng, nhiều lớp, giáng cho giặc Mỹ những đòn
sấm sét. Chỉ trong hai ngày, với 47 máy bay Mỹ bị bắn cháy và nhiều giặc lái bị
bắt sống… Hàm Rồng đã lập nên kỷ lục đầu tiên về thành tích tiêu diệt máy bay
Mỹ trên bầu trời miền bắc. Chiến thắng Hàm Rồng đã làm nức lòng quân dân cả
nước, trở thành biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng thời đại Hồ Chí
Minh, trở thành điển hình mẫu mực của đường lối chiến tranh nhân dân dưới sự
lãnh đạo của Ðảng.



* Diễn biến của 2 ngày chiến đấu 3 và 4-4-1965, tại trận địa chiến đấu cụm Hàm
Rồng - Nam Ngạn:


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

20 phút ngày 4-4, không quân địch đánh phá Bến phà Ghép, nhằm cắt đứt "nút"
giao thông khu vực này, ngăn chặn lực lượng cơ động tăng cường cho Hàm
Rồng. Tại đây, việc làm cao cả, tấm gương hy sinh anh dũng của Nguyễn Bá
Ngọc không chỉ nêu tấm gương sáng cho đông đảo thiếu niên trong tỉnh noi theo
mà còn khơi dậy lòng căm thù giặc sâu sắc. 10 giờ 02 phút cùng ngày, địch mở
tấn công thứ 2 vào cầu Hàm Rồng, nhiều tốp máy bay địch từ nhiều hướng tập
trung đánh phá Hàm Rồng. Ngay từ lúc còn xa mục tiêu, chúng đã bị đánh chặn
bởi lực lượng vũ trang ba thứ quân nhiều tầng, nhiều hướng. Không quân ta cùng
xuất trận với lối đánh táo bạo, bất ngờ, hiệp đồng chặt chẽ. Cuộc chiến đấu diễn
ra khá quyết liệt, chảo lửa Hàm Rồng mù mịt thuốc súng, khói bom. Lực lượng
vũ trang nhân dân ở khu vực Bến phà Ghép, Hà Trung, Hoằng Long, Hoằng
Anh, Hoằng Lý, Nam Ngạn, các huyện ven biển cùng chia lửa với Hàm Rồng.
Biên đội không quân của Trần Hanh gồm Trần Nguyên Nam, Phạm Giấy, Lê
Minh Huấn được sự yểm trợ của 2 biên đội bạn vẫn lối đánh táo bạo, bất ngờ, đối
đầu với máy bay Mỹ, hạ liên tiếp 2 chiếc F105 của giặc Mỹ.


- Buổi chiều, lợi dụng ánh sáng mặt trời từ hướng Tây-Nam, chúng cho máy bay
đánh liên tục vào khu vực cầu. Bị lưới lửa phịng khơng nhiều tầng nhiều hướng
của ta đón đánh, buộc phải ném bom bừa bãi để tháo chạy. Đúng 16 giời 00, các
đợt tấn công của địch chấm dứt. Nhiều tấm gương hy sinh dũng cảm trong chiến
đấu, phục vụ chiến đấu nhưng có thêm 30 máy bay Mỹ đền tội ác, nâng tổng số
máy bay Mỹ tan xác trên vùng đất, vùng trời tỉnh Thanh lên 47 chiếc trong hai
ngày 3 và 4-4-1965, trong đó có 31 chiếc bị bắn rơi, bắn cháy ở khu vực Hàm
Rồng.


* Ý nghĩa lịch sử của chiến thắng Hàm Rồng:



- Chiến thắng Hàm Rồng trong 2 ngày 3, 4 tháng 4 năm 1965 là cuộc đối đầu đầu
tiên của quân và dân ta với chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mỹ mà quy mô,
thủ đoạn của chúng hết sức xảo quyệt, là một chiến thắng có ý nghĩa chiến lược.
Quân và dân Thanh Hóa nói chung, quân và dân Hàm Rồng nói riêng đã làm nên
một kỳ tích, gây tiếng vang trong cả nước, có tác động quan trọng đến cuộc
chiến tranh phá hoại của địch. Đó là một thắng lợi to lớn về quân sự của quân và
dân ta và là sự thất bại thảm hại của đế quốc Mỹ.


- Chiến thắng Hàm Rồng đã làm phá sản âm mưu đánh sập cầu Hàm Rồng của
địch. Tuyến đường chiến lược Bắc - Nam vẫn được giữ vững, nối liền giữa hậu
phương với tiền tuyến. Chiến thắng đó đã làm thất bại “chiến tranh trả đũa” của
Không quân và Hải quân Mỹ, làm cho Bộ Quốc phòng Mỹ hết sức lúng túng
trước thất bại ở Hàm Rồng. Chưa có một cuộc chiến tranh nào trong lịch sử nước
Mỹ, chỉ trong 2 ngày mà chúng đã phải thiệt hại cả máy bay và người lái nhiều
đến như vậy. Không lực Hoa Kỳ đã bị hạ uy thế trước con mắt của nhân dân tồn
thế giới, sự bịp bợm của khơng qn Mỹ đã bị vạch trần, sức mạnh về vũ khí và
chiến thuật chiến tranh phi nghĩa bị đánh bại hoàn toàn.


- Chiến thắng Hàm Rồng đã chứng tỏ đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng
ta là đúng đắn. Lần đầu tiên các binh chủng hợp thành của ta đã quán triệt một
cách sâu sắc tư tưởng chỉ đạo của Đảng, sự nhạy bén trong thực hiện nhiệm vụ
của Bộ Chỉ huy Hàm Rồng trong việc phòng thủ, bố trí trận địa, kết hợp giăng
lưới lửa thành nhiều tầng, nhiều lớp, sẵn sàng đánh thắng kẻ thù.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

không đối không đối với không lực Hoa Kỳ. Ngay giữa lúc bom đạn địch đang
dội xuống dày đặc, dân quân Yên Vực (Hoằng Long) vẫn chèo thuyền vượt sông
Mã chuyên chở đạn dược cho bộ đội cao xạ. Nữ anh hùng Ngô Thị Tuyển vượt
đạn bom vác 98 kg đạn, nặng gấp đơi trọng lượng cơ thể mình tiếp cho bộ đội.
Tổ cứu thương của Nhà máy Điện Hàm Rồng gồm 6 nữ đồng chí khơng sợ hy


sinh, có mặt bên mâm pháo băng bó cho thương binh, tiếp đạn cho bộ đội. Các
cụ già Nam Ngạn vẫn nổi lửa nấu cơm, canh, cả nhà sư cũng tiếp tế cho bộ đội.
Tổ trung liên trên núi Ngọc đã mưu trí nhả đạn, tạo thành một mũi tiến công sắc
bén khiến cho bọn giặc lái không dám bổ nhào...


- Trong chiến đấu, cơ sở Đảng ở khu vực Hàm Rồng là lực lượng tiên phong,
nòng cốt, sáng tạo, tổ chức vận động quân và dân tham gia chiến đấu và phục vụ
chiến đấu.


- Có thể nói, Chiến thắng Hàm Rồng là một dấu son ngời sáng trong lịch sử đấu
tranh dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. Tinh thần chiến đấu kiên cường đó
đã trở thành biểu tượng về chiến tranh nhân dân, chống lại chiến tranh phá hoại
của đế quốc Mỹ. Trong chiến thắng đó, mỗi người dân thực sự trở thành một
chiến sĩ, mỗi xóm làng là một pháo đài đánh giặc, mỗi đường phố là một mặt
trận, mỗi chi bộ Đảng là một bộ tham mưu.


- Ghi nhận những cống hiến hy sinh to lớn đó, quân và dân Hàm Rồng đã vinh
dự được Bác Hồ kính yêu và Trung ương Ðảng, Chính phủ gửi thư khen ngợi; đã
có bảy tập thể và nhiều cá nhân được phong tặng Anh hùng Lực lượng vũ trang
và Anh hùng Lao động.


- Bạn bè quốc tế và lực lượng u chuộng hịa bình trên tồn thế giới – những
người luôn dõi theo và cổ vũ tinh thần chiến đấu của nhân dân Việt Nam trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, mỗi khi nhắc đến Hàm Rồng hoặc có dịp
đến thăm Hàm Rồng đều dành cho mảnh đất này những tình cảm tốt đẹp và sự
ngưỡng mộ sâu sắc: “Cầu Hàm Rồng là chiếc cầu đẹp nhất mà trước đây chúng
ta chưa từng thấy. Không phải vì nó rộng, nó dài, nó nguy nga hơn các cây cầu
khác, mà chính truyền thống anh hùng của chiến sĩ và nhân dân đã mang lại cho
nó cái đẹp diệu kỳ… Cầu Hàm Rồng là một đài kỷ niệm về chủ nghĩa anh hùng
cách mạng của nhân dân và thanh niên Việt Nam. Cầu Hàm Rồng cũng là một


tượng trưng trước toàn thế giới về sự thất bại của chính sách xâm lược và hiếu
chiến của chủ nghĩa đế quốc Mỹ” (M.Da-ga-ren, Ủy viên Bộ Chính trị Ðảng
Cộng sản Mỹ).


Câu hỏi 5: Anh (chị) cho biết những đóng góp và thành tích nổi bật của qn,
dân Thanh Hóa trong kháng chiến chống Mỹ xâm lược (từ 1954 – 1975)?


Trả lời


* Xây dựng lực lượng vũ trang địa phương:
- Bộ đội địa phương:


+Cuối năm 1964, Thanh Hóa có 2 đại đội bộ binh, 2 đại đội cao xạ 37 ly và 45
ly. Đầu năm 1965 phát triển thành 2 tiểu đoàn cao xạ, 2 tiểu đoàn, 1 đại đội pháo
binh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

+ Đoàn an dưỡng đã tiếp nhận 27.000 cán bộ, chiến sĩ từ chiến trường ra. Sau
thời gian điều trị có 6.018 đồng chí đủ tiêu chuẩn trở lại đơn vị chiến đấu, 7.514
đồng chí chuyển sang cơ quan Nhà nước, 10.278 đồng chí phục viên, xuất ngũ về
địa phương.


- Dân quân tự vệ:


+Năm 1965 có 170.700 người. Năm 1967 có 220.848 người. Năm 1975 có
199.979 người. Đã có 3.064 dân quân, tự vệ tham gia chiến đấu sử dụng súng
27,7 ly và 14,5 ly. Tay cày, tay súng có 3.355 người sử dụng súng trường, trung
liên đến pháo cao xạ 37,57 và 100 ly. Có 4 đại đội súng máy 12,7 ly chi viện cho
chiến trường Trị Thiên. Xây dựng 647 tổ, 3.806 người làm quân báo nhân dân;
1.410 tổ, 3.601 người làm thông tin liên lạc; 3.129 dân quân, tự vệ huấn luyện bổ
sung pháo cao xạ và 543 dân quân, tự vệ huấn luyện bổ sung pháo mặt đất.



* Tuyển quân chi viện cho các chiến trường:


- Thời kỳ 1955 – 1964 có 31.299 thanh niên gia nhập quân đội.


- Thời kỳ 1965 – 1975 có 195.53 thanh niên gia nhập qn đội (trong đó có
7.039 nữ). Trung đồn 14 huấn luyện quân tăng cường từ tháng 4-1970 đến 1975
đã huấn luyện và giao cho các chiến trường 78 tiểu đồn (trong đó có 4 tiểu đồn
nữ).


* Phịng tránh đánh địch:


Năm 1976, tồn tỉnh có 1.544 tổ báo động phịng khơng; 1.309.845 hầm cá nhân,
là thời điểm có tổ báo động phịng khơng nhân dân và số hầm cá nhân cao nhất
trong thời kỳ chống Mỹ (năm 1968 có 112 tổ báo động; 270.000 hầm cá nhân).
* Tội ác của đế quốc Mỹ đối với nhân dân Thanh Hóa:


- Đế quốc Mỹ đã sử dụng 40.056 lần tốp, 78.455 lần chiếc máy bay ném bom,
6.927 lần chiếc máy bay trinh sát, đánh phá 14.056 trận (có 2.090 trận ban đêm),
đánh phá vào 3.700 mục tiêu. 6.229 lần tàu chiến các loại, bắn phá 243 lần vào
433 mục tiêu ven biển và hải đảo với 34.809 quả đạn các loại. Có lần chúng bắn
tên lửa Talos vào tận sân bay Sao Vàng và xã Ngọc Khê (Ngọc Lặc).


- 100% huyện, thị xã và 84,9% xã, thị trấn bị máy bay địch đánh phá; trong đó,
khu vực đồng bằng có 84,2%; miền núi có 73%; ven biển có 100% xã, thị trấn bị
đánh phá. Máy bay Mỹ đã ném xuống địa bàn Thanh Hóa 20 vạn tấn bom các
loại (khơng kể 34.809 quả đạn của hải quân Mỹ bắn từ biển vào). Bình quân 17,9
tấn bom/km2 và 220 kg bom/người.


- Đế quốc Mỹ đã giết hại 8.287 người, làm bị thương 12.984 người. 21 xí nghiệp


và cơ sở cơng nghiệp ở khu vực Hàm Rồng, thị xã Thanh Hóa bị phá hủy hoàn
toàn. Đập Bái Thượng bị máy bay địch đánh phá 18 lần; hầu hết hệ thống đê
sông lớn và kênh dẫn nước bị máy bay Mỹ oanh tạc; 14 bệnh viện, 114 trạm xá,
135 trường học bị đánh phá.


* Thành tích chiến đấu của quân và dân Thanh Hóa:


- Trên khơng: Qn và dân Thanh Hóa đã đánh 9.983 trận, sử dụng 998.970 viên
đạn các loại. Bắn rơi 376 máy bay (có 3 chiếc B52). Dân quân, tự vệ bắn rơi 41
máy bay. Bắt sống 36 giặc lái.


- Trên biển: Đánh 175 trận, sử dụng 8.897 viên đạn. Bắn chìm 5 tàu biệt kích, 52
tàu khu trục hạm (lực lượng vũ trang địa phương bắn chìm, bắn cháy 12 tàu). Bắt
sống 3 biệt kích người nhái tại Nghi Sơn và Hà Nẫm (Hải Thượng - Tĩnh Gia).
* Số thương binh, liệt sĩ:


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Đảng và Nhà nước, số người được Nhà nước công nhận là thương binh, liệt sĩ
tăng lên nhiều. Thanh Hóa là một trong những địa phương trong cả nước có
nhiều thương binh, liệt sĩ hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.


Câu hỏi 6: Anh (chị) cho biết những đóng góp nổi bật của LLVT tỉnh trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc từ năm 1975 đến nay?


Trả lời


- Từ tháng 2 đến tháng 8-1976, LLVT Thanh Hóa tham gia xây dựng cơng trình
T hống Nhất.


- Tháng 6-1979, thực hiện lời kêu gọi của Ban chấp hành TW Đảng và lệnh Tổng
động viên của Chủ tịch nước, Thanh Hóa bàn giao Trung đoàn 14A và tiểu đoàn


247 bộ đội địa phương huyện Hoằng Hóa cho Mặt trận Hà Giang gồm 2000 cán
bộ, chiến sĩ. Tháng 8-1979, theo lệnh của của Bộ CHQS tỉnh giao Trung đoàn
14B cho Mặt trận Quảng Ninh với quân số gần 2000 cán bộ, chiến sĩ.


- Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc có nhiều tập thể và cá nhân có
thành tích xuất sắc và được Đảng, Nhà nước, Chính phủ tặng nhiều danh hiệu
cao quý:


+ Ngày 20-12-1979, Chủ tịch Nước Cộng hoà XHCN Việt Nam công bố lệnh
(số 187 và 188/LCT) tuyên dương anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho
126 đơn vị và 68 cá nhân đã lập nhiều thành tích đặc biệt xuất sắc trong sự
nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước và trong công cuộc chiến đấu, phục vụ
chiến đấu bảo vệ biên giới phía Nam và phía Bắc Tổ quốc. Thanh Hóa có 7 đồng
chí được tun dương Anh hùng lực vũ trang nhân dân.


+ Ngày 28-8-1981, Hội đồng Nhà nước công bố lệnh (số 02 KT/HĐNN7) tuyên
dương danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân cho 21 đơn vị và 6 cá nhân có thành
tích đặc biệt xuất sắc trong xây dựng, chiến đấu và bảo vệ Tổ quốc. Thanh Hóa
có 2 đồng chí.


+ Ngày 20-12-1984, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam ký quyết định (số 583/KT-HĐNN) tặng thưởng Huân chương Quân công
hạng Nhất cho lực lượng vũ trang tỉnh Thanh Hóa.


+ Ngày 7-3-1985, Hội đồng Nhà nước quyết định (số 619/KT-HĐNN) tặng
thưởng Huân chương Sao vàng cho lực lượng vũ trang tỉnh Thanh Hóa.


+ Ngày 16-8-1985, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam ký quyết định (số 722/KT-HĐNN) tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh
cho lực lượng vũ trang tỉnh Thanh Hóa.



- LLVT Thanh Hóa thường xuyên diễn tập khu vực phòng thủ sẵn sàng chiến
đấu, bảo vệ Tổ quốc.


- LLVT Thanh Hóa có nhiều thành tích trong phòng chống bão lũ, cứu giúp nhân
khắc phục hậu quả thiên tai và được Thủ tướng Chính phủ tặng bằng khen.


</div>

<!--links-->

×