Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Tìm hiểu hiện trạng phát triển du lịch ở khu du lịch biển cửa việt – tỉnh quảng trị giai đoạn 2006 2010 định hướng và giải pháp phát triển đến năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.99 MB, 64 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA ĐỊA LÝ

----

BÙI VĂN QUYẾT

Tìm hiểu hiện trạng phát triển du lịch ở khu du
lịch biển Cửa Việt – tỉnh Quảng Trị giai đoạn
2006 - 2010. Định hướng và giải pháp phát triển
đến năm 2020

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
SƯ PHẠM ĐỊA LÝ

1


LỜI CẢM ƠN
Trong q trình hồn thành bài khóa luận tốt nghiệp, em đã nhận
được sự quan tâm, giúp đỡ của thầy cơ giáo, bạn bè, của Sở văn hóa –
thể thao và du lịch tỉnh Quảng Trị, phòng văn hóa – thể thao và du
lịch huyện Gio Linh, Ban quản lí du lịch Cửa Việt, UBND thị trấn
Cửa Việt. Qua đây, em cũng xin gửi lời cảm ơn đến Ban giám hiệu
trường ĐHSP Đà Nẵng, Ban chủ nhiệm khoa Địa lí, cùng tất cả thầy
cơ, bạn bè trong khoa Địa lí và các cơ quan, ban ngành tỉnh Quảng Trị
đã tạo mọi điều kiện cho em có thể hồn thành bài hóa luận tốt nghiệp
này.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới cơ giáo, Thạc sĩ
Hồng Thị Diệu Huyền đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo em trong q
trình thực hiện và hồn thành bài khóa luận này.


Trong q trình làm bài khóa luận này, do cịn nhiều khó khăn nên
đề tài khơng tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong được sự đóng góp ý
kiến của tất cả các quý thầy cô để đề tài em được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn !!
Sinh viên thực hiện
Bùi Văn Quyết

2


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Số lượng du khách đến khu du lịch biển Cửa Việt giai đoạn 2006 – 2010 ........... 32
Bảng 2.2: Thời gian lưu trú bình quân của du khách tại khu du lịch biển Cửa Việt
thời kì 2006 – 2010 ......................................................................................................................... 33
Bảng 2.3: Tổng doanh thu của khu du lịch Cửa Việt giai đoạn 2006 – 2010 ......................... 34

DANH MỤC BẢN, BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Biểu đồ thể hiện lượt khách đến khu du lịch biển Cửa Việt giai đoạn
2006 – 2010...................................................................................................................................... 32
Biểu đồ 2.2: Biểu đồ thể hiện tổng doanh thu của khu du lịch biển Cửa Việt giai đoạn
2006 – 2010...................................................................................................................................... 35
Hình 3.1: Sơ đồ quy hoạch chi tiết khu dịch vụ - du lịch Cửa Việt – Quảng Trị .................. 47
Hình 3.2: Sơ đồ phối cảnh minh họa khu du lịch biển Cửa Việt ............................................. 48
Bản đồ hành chính tỉnh Quảng Trị
Bản đồ tuyến điểm du lịch tỉnh Quảng Trị

3


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


UBND : Uỷ ban nhân dân
NXB : Nhà xuất bản
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội
CHDCND: Cộng hòa dân chủ nhân dân
NQ-HĐND: Nghị quyết hội đồng nhân dân
QĐ-UBND: Quyết định ủy ban nhân dân
ASEAN: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á - Association of Southeast Asian
Nations
IUOTO: Hiệp hội các tổ chức du lịch quốc tế - (International Union of Official
Travel Organisation)

4


PHỤ LỤC ẢNH

Lễ hội nhịp cầu Xuyên Á

Một chiều trên biển Cửa Việt

Lễ hội đua thuyền trên sông Hiếu

Cổng vào khu du lịch Cửa Việt

Tượng đài chiến thắng Cửa Việt

Các kiốt phục vụ hải sản

5



A – PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế nói chung cùng với sự bùng
nổ dân số, quá trình đơ thị hóa diễn ra q mức đã có những tác động rất lớn đến đời
6


sống của con người. Bên cạnh những tác động tích cực mà các yếu tố trên mang lại
cho con người thì có khơng ít những tác động tiêu cực con người phải đối mặt như:
thiên tai, ô nhiễm môi trường, áp lực cơng việc cao… Từ đó vấn đề nghỉ ngơi, chăm
sóc sức khỏe, khơi phục sức lao động cho con người là vấn đề được cả xã hội quan
tâm. Chính vì vậy, hoạt động du lịch ngày càng trở thành một nhu cầu tất yếu khách
quan của con người. Trong những thập kỉ gần đây, du lịch đã trở thành một ngành
kinh tế lớn, được mệnh danh là “ ngành cơng nghiệp khơng khói” và có vai trị quan
trọng trong đời sống con người. Du lịch đang phát triển mạnh và đáp được những nhu
cầu ngày càng cao của con người trong xã hội hiện nay. Đặc biệt là du lịch biển – loại
hình du lịch đưa con người về với thiên nhiên, hịa vào mơi trường trong lành và hài
hịa của khí trời, bên tiếng sóng vỗ rì rào và những bãi cát dài thơ mộng. Cảnh quan
thoáng đãng, hoang dã sẽ giúp con người có những giây phút nghỉ ngơi thoải mái, lấy
lại sức khỏe và tinh thần sau những ngày làm việc căng thẳng, mệt mỏi. Đây là loại
hình phát triển rất phong phú và đa dạng với nhiều loại hình thu hút khách du lịch.
Hằng năm, du lịch biển đã đem lại nhiều lợi ích cho những quốc gia có biển và là một
trong những loại hình du lịch chiếm ưu thế nhất trên thế giới.
Đối với Quảng Trị - một mảnh đất nằm trên khúc ruột miền trung của nước ta, tài
nguyên của tỉnh khá đa dạng và phong phú với tài nguyên du lịch tự nhiên và tài
nguyên du lịch nhân văn, đó là điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch của tỉnh. Với
một đường bờ biển dài 75km cùng nhiều bãi biển đẹp và cực kì quyến rũ, trong đó bãi
biển Cửa Việt là một trong những bãi biển ở nước ta còn giữ được vẻ đẹp hoang sơ và

là một trong hai bãi biển đẹp nhất tỉnh Quảng Trị. Đến với Cửa Việt, du khách sẽ
được thỏa sức nô đùa cùng sóng biển hoặc nằm n bình sưởi nắng trên bờ cát trắng.
Được nghe những âm thanh tuyệt diệu của tiếng gió biển, tiếng sóng vỗ. Vào lúc
chiều tà, du khách có thể mê say ngắm nhìn những đàn hải âu bay lượn, đùa giỡn trên
những làn sóng thẳm xa. Đến đây, du khách cịn có dịp tham quan tượng đài chiến
thắng Cửa Việt, được tham gia vào hội đua thuyền, được thưởng thức các đặc sản
biển của người dân địa phương. Đó là những điều kiện thuận lợi để khai thác phát
triển khu du lịch biển Cửa Việt. Tuy nhiên, do một số nguyên nhân mà những tiềm
năng ấy vẫn chưa được khai thác triệt để.
Với mong muốn góp một phần hiểu biết nhỏ bé của mình vào việc phát triển khu
du lịch biển Cửa Việt tương xứng với tiềm năng, qua đó giới thiệu về khu du lịch biển
7


Cửa Việt với tất cả du khách trong và ngoài nước, đưa khu du lịch biển Cửa Việt trở
thành một điểm du lịch tham quan và nghỉ ngơi nổi tiếng trong thời gian tới. Tơi đã
chọn đề tài “ Tìm hiểu hiện trạng phát triển du lịch ở khu du lịch biển Cửa Việt –
tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2006 - 2010. Định hướng và giải pháp phát triển đến
năm 2020” để làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
- Tìm hiểu thực trạng phát triển du lịch ở khu du lịch biển Cửa Việt – tỉnh Quảng
Trị
- Tìm hiểu một số định hướng và giải pháp góp phần phát triển du lịch biển Cửa
Việt.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Thu thập các tài liệu, số liệu liên quan đến hoạt động của khu du lịch biển Cửa
Việt.
- Nhận xét, đánh giá hiện trạng phát triển du lịch của khu du lịch biển Cửa Việt.
- Tìm hiểu một số định hướng và đề xuất các giải pháp phát triển.

3. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Tìm hiểu hiện trạng phát triển khu du lịch biển Cửa Việt – tỉnh
Quảng Trị. Định hướng và giải pháp phát triển.
- Về thời gian: Tình hình phát triển khu du lịch từ 2006 – 2010 và định hướng đến
năm 2020.
- Về lãnh thổ : Nghiên cứu trên phạm vi khu du lịch biển Cửa Việt – tỉnh Quảng
Trị.
4. Lịch sử nghiên cứu
Ngày nay, du lịch đã trở thành một ngành kinh tế quan trọng của nhiều quốc gia
cũng như nhiều địa phương. Và việc nghiên cứu, phát triển du lịch ngày càng được
đẩy mạnh hơn, khơng ít các cơng trình nghiên cứu về du lịch, nhiều đề tài, bài báo đã
được đăng trên các phương tiện thông tin đại chúng. Nhiều nhà khoa học, nhà nghiên
cứu, nhà kinh tế, nhà giáo và cả sinh viên cũng đã tham gia nghiên cứu, viết bài về đề
tài du lịch.
Liên quan đến du lịch Quảng Trị nói chung và khu du lịch biển Cửa Việt nói riêng
đã có một số bài viết, đề tài nghiên cứu, bài báo khoa học được đăng tải như:
8


- Đào Đình Bắc - Quy hoạch du lịch (NXB Hà Nội).
- Non nước Việt Nam – Tổng cục du lịch Việt Nam ( 2008 ).
- Nguyễn Bích San – Cẩm nang hướng dẫn dẫn du lịch ( NXB văn hóa thơng tin)
- Quy hoạch du lịch Quảng Trị giai đoạn 2007 – 2010, tầm nhìn đến 2020 ( 2007).
- Phát triển du lịch Quảng Trị trong bối cảnh mới - TS. Nguyễn Phú Đức.
- Sở văn hóa – thể thao và du lịch Quảng Trị (2004) – Du lịch Quảng Trị - hội nhập
và phát triển.
- Sở văn hóa – thể thao và du lịch Quảng Trị (2005) – Góp phần xây dựng du lịch
đặc sắc và hấp dẫn riêng của Quảng Trị (Kỉ yếu – hội thảo du lịch).
- Cửa Việt – thành phố biển trong tương lai ( báo QĐND, số ra ngày 01/02/2010 ).
Phần lớn đó là các bài viết của các nhà khoa học và của sở văn hóa – thể thao và du

lịch tỉnh Quảng Trị, đề cập đến vấn đề du lịch chung của nhiều vùng miền cũng như
trong tỉnh Quảng Trị, chưa có một cơng trình nghiên cứu cụ thể và đánh giá nào về
khu du lịch biển Cửa Việt.
5. Quan điểm nghiên cứu
5.1. Quan điểm hệ thống
Địa lý một vùng là một hệ thống gồm nhiều thành phần có mối quan hệ tương tác
lẫn nhau như: phân hệ khách du lịch, tổng thể tự nhiên, cơng trình kĩ thuật, văn hóa –
xã hội… Vì vậy, khi nghiên cứu một thành phần nào đó phải đặt trong hệ thống của
lãnh thổ đó. Cũng như đề tài này nghiên cứu hiện trạng phát triển du lịch ở khu du
lịch biển Cửa Việt phải đặt trong hệ thống các yếu tố tự nhiên, kinh tế- xã hội của
một vùng. Từ đó có cái nhìn tổng hợp trong các mối quan hệ đa phương và tránh sai
sót khi nghiên cứu.
5.2. Quan điểm tởng hợp
Tài ngun du lịch là hệ thống các yếu tố về tự nhiên và kinh tế – xã hội để phát
triển du lịch trên một lãnh thổ nào đó. Để nghiên cứu về tài nguyên du lịch, tình hình
phát triển của một điểm du lịch thì phải vận dụng quan điểm tổng hợp nhằm phát hiện
ra các mối quan hệ, tác động qua lại, cấu trúc bên trong và động lực phát triển của nó.
Quan điểm này được vận dụng sau khi đã phân tích từng yếu tố, thành phần để phác
họa nên tổng thể các điều kiện phát triển trên lãnh thổ nghiên cứu.
5.3. Quan điểm sinh thái

9


Hiện nay, mục tiêu chiến lược của nhân loại là phát triển nền kinh tế bền vững, vừa
đẩy mạnh phát triển kinh tế đồng thời cũng bảo vệ và duy trì mơi trường sinh thái, tạo
nên sự bền vững được vận dụng nhằm nghiên cứu mối quan hệ giữa tài nguyên du
lịch và con người, ảnh hưởng của tự nhiên đến sự phát triển du lịch.
5.4. Quan điểm lịch sử - viễn cảnh
Các yếu tố tự nhiên, dân cư, kinh tế trên một lãnh thổ đều có nguồn gốc phát sinh

và phát triển, vì vậy mà quan điểm này được vận dụng để phân tích các số liệu trong
một thời gian nhất định từ đó nghiên cứu và đánh giá thực trạng phát triển của ngành
du lịch biển ở khu du lịch biển Cửa Việt, qua đó làm cơ sở để đề xuất một số giải
pháp phát triển bền vững.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp thu thập, phân tích và tổng hợp tài liệu
Sử dụng phương pháp này chủ yếu để thu thập, xử lý, phân tích và tổng hợp tài
liệu. Từ nguồn tài liệu thô đã thu thập, cần xử lý thành tài liệu tinh để từ đó rút ra
nhận xét, kết luận vấn đề nghiên cứu.
6.2. Phương pháp bản đồ, biều đồ
Phương pháp này cho phép thu thập các thông tin về số lượng, chất lượng, phân
bố, thực trạng khai thác của khu vực nghiên cứu. Đồng thời sau khi nghiên cứu, điều
tra, đánh giá, phương pháp bản đồ còn được sử dụng để thể hiện sự phân bố về số
lượng, chất lượng, khả năng tồn tại và khai thác của đối tượng nghiên cứu.
Biểu đồ là cơng cụ để thể hiện tình hình phát triển của một đối tượng, hay sự thay
đổi về chất và lượng của một đối tượng nghiên cứu nào đó, qua đó cho ta một cái
nhìn tổng quan về sự thay đổi của đối tượng đó.
6.3. Phương pháp thực địa
Khảo sát thực địa là phương pháp truyền thống trong nghiên cứu địa lý đặc biệt là
trong việc nghiên cứu hiện trạng phát triển du lịch. Tác giả tiến hành khảo sát thực
địa tại địa bàn, làm việc với cơ quan địa phương... Kết quả điều tra thực địa là
cơ sở ban đầu và là điều kiện thẩm định lại một số nhận định trong giáo trình nghiên
cứu. Thơng qua đó đã cho phép đề ra những giải pháp khắc phục những nhược
điểm, phát huy những ưu điểm. Đây là phương pháp khoa học nhất để thu hút được
số liệu tương đố chính xác về số lượng khách, nhu cầu sở thích của khách và những
dịch vụ mà khách quan tâm.
10


7. Bố cục của đề tài

Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, kiến nghị thì nội dung chính của đề tài được
triển khai ra ba chương sau :
Chương 1: Cơ sở lý luận chung
Chương 2: Hiện trạng phát triển du lịch ở khu du lịch biển Cửa Việt – tỉnh Quảng
Trị giai đoạn 2006 - 2010.
Chương 3: Định hướng phát triển khu du lịch biển Cửa Việt đến 2020 và một số
giải pháp

11


B – PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Du lịch
Ngày nay trên phạm vi toàn thế giới, du lịch đã trở thành nhu cầu khơng thể thiếu
được trong đời sống văn hóa – xã hội và hoạt động du lịch đang được phát triển một
cách mạnh mẽ, trở thành một ngành kinh tế quan trọng ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Thuật ngữ du lịch trở nên rất thơng dụng. Nó bắt nguồn từ tiếng Pháp: ‘Tour’ nghĩa là
đi vòng quanh, cuộc dạo chơi, còn “ touriste” là người đi dạo chơi. Du lịch gắn liền
với việc nghỉ ngơi, giải trí nhằm hồi phục, nâng cao sức khỏe và khả năng lao động
của con người, nhưng trước hết liên quan mật thiết với sự di chuyển nơi ở của họ.
Vậy du lịch là gì ?
Trong vòng hơn 6 thập kỉ vừa qua, kể từ khi thành lập Hiệp hội quốc tế các tổ chức
du lịch IUOTO năm 1925 tại Hà Lan, khái niệm du lịch luôn luôn được tranh luận và
cho đến ngày nay khái niệm du lịch vẫn chưa có sự thống nhất. Do có sự khác nhau
về hồn cảnh và góc độ nhận thức nên đã có nhiều quan điểm khác nhau về du lịch.
Năm 1963, tại hội nghị Liên Hợp Quốc về du lịch họp tại Roma đã đưa ra định
nghĩa “ Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt
nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của các cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở

thường xuyên của họ hay ngồi nước họ với mục đích hịa bình. Nơi đến khơng phải
là nơi làm việc của họ”.
Theo các nhà du lịch Trung Quốc thì: “Du lịch là tổng hòa các mối quan hệ và hiện
tượng lấy sự tồn tại và phát triển kinh tế, xã hội làm cơ sở nhất định, lấy chủ thể du
lịch, khách du lịch và trung gian du lịch làm điều kiện phát triển”.
Trong giáo trình thống kê du lịch thì các tác giả lại định nghĩa : “Du lịch là một
ngành kinh tế - xã hơi, dịch vụ có nhiệm vụ phục vụ nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ
ngơi hoặc kết hợp với các hoạt động chữa bệnh, thể thao, nghiên cứu khoa học và các
nhu cầu khác”.
Theo I.I. Pirogionic, 1985 thì: “Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong
thời gian rỗi liên quan với sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư trú
thường xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao

12


trình độ nhận thức văn hóa hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự
nhiên, kinh tế, văn hóa”.
Theo pháp lệnh du lịch Việt Nam ban hành ngày 20/02/1999 thì: “Du lịch là hoạt
động của con người ngồi nơi cư trú thường xun của mình nhằm thỏa mãn nhu cầu
tham quan, giải trí, nghĩ dưỡng trong một thời gian nhất định”.
Từ điển Bách Khoa toàn thư thì đã tách ra “Du lịch” thành hai thành phần riêng biệt:
- Du lịch là sự di chuyển và cư trú qua đêm tạm thời trong thời gian rỗi của cá nhân
hay tập thể ngoài nơi cư trú nhằm mục đích phục hồi sức khỏe, nâng cao tại chỗ nhận
thức về thế giới xung quanh có hoặc khơng kèm theo tiêu thụ một giá trị về tự nhiên,
kinh tế, văn hóa và dịch vụ do các cơ sở chuyên nghiệp cung ứng.
- Du lịch là một lĩnh vực kinh doanh các dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu nảy sinh
trong quá trình di chuyển và lưu trú qua đêm, tạm thời và thời gian rỗi của các cá
nhân hay tập thể ngồi nơi cư trú bởi mục đích phục hồi sức khỏe, nâng cao nhận
thức tại chỗ về thế giới xung quanh.

Như vậy có rất nhiều quan niệm về du lịch nhưng chúng ta có thể kết luận rằng du
lịch là tổng thể những hoạt động và những mối quan hệ phát sinh qua lại lẫn nhau
giữa du khách và các yếu tố tự nhiên, kinh tế, xã hội phục vụ du lịch. Do đó để đẩy
mạnh hoạt động du lịch địi hỏi tồn xã hội đều có trách nhiệm đóng góp, hỗ trợ và
đầu tư để du lịch ngày càng phát triển, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế - xã hội của
đất nước.
1.1.2. Du khách
Gắn liền với hoạt động du lịch, khách du lịch được xem là yếu tố quyết định sự
hoạt động của du lịch. Đã có rất nhiều ý kiến khác nhau về khách du lịch (du khách),
nhưng hầu hết tất cả các định nghĩa đều xem du khách là người đi khỏi nơi cư trú
thường xuyên của mình.
Theo nhà kinh tế học người Anh Odgilvi: “Khách du lịch là loại khách đi xa nhà
một thời gian nhất định, tiêu khoản những khoản tiền tiết kiệm được”.
Morval lại cho rằng: “Khách du lịch là người đến đất nước khác theo nhiều nguyên
nhân khác nhau, nhưng nguyên nhân chủ yếu khơng phải là thương mại”.
Cịn theo quan niệm của nhà kinh tế học người Áo Jozepstander: “du khách là loại
khách đi lại theo ý thích ngồi nơi cư trú thường xuyên để thõa mãn những nhu cầu
sinh hoạt cao cấp mà không theo đuổi mục tiêu kinh tế”.
13


Ngồi ra nhiều nước trên thế giới thường có sự phân biệt giữa du khách trong nước
và du khách nước ngoài. Ở nước ta, theo điều 20 chương VI pháp lệnh Du lịch thì du
khách quốc tế phải có các đặc điểm sau:
- Là người nước ngoài hoặc người Việt Nam ở nước ngoài vào Việt Nam du lịch.
- Là cơng dân Việt Nam, người nước ngồi cư trú ở Việt Nam ra nước ngoài du lịch.
- Là những người đi ra khỏi môi trường sông thường xuyên của một nước đang
thường trú đến Việt Nam trong thời gian dưới 12 tháng ngồi mục đích tiến hành các
hoạt động nhằm đem lại thu nhập và kiếm sống ở Việt Nam.
Du khách trong nước là những người đi ra khỏi môi trường sống thường xuyên của

mình để đến một nơi khác trong nước với thời gian liên tục dưới 12 tháng mà mục
đích của chuyến đi khơng nhằm các hoạt động đem lại thu nhập và kiếm sống ở nơi
đến.
Như vậy, có thể nói rằng du khách là người từ nơi khác đến vào thời gian rãnh rỗi
của họ với mục đích thỏa mãn tại nơi đến nhu cầu nâng cao hiểu biết, phục hồi sức
khỏe, tăng cường tình đồn kết giữa các dân tộc, quốc gia và khu vực, thư giãn, giải
trí hoặc thể hiện mình kèm theo việc tiêu thụ những giá trị tinh thần, vật chất và các
dịch vụ do các cơ sở ngành du lịch cung ứng.
1.1.3. Khu du lịch, điểm du lịch
- Khu du lịch
Các nhà khoa học du lịch Trung Quốc đã đưa ra khái niệm và đặc điểm về khu du
lịch: “ Khu du lịch được xác định là đơn vị cơ bản để làm quy hoạch và quản lý du
lịch, là thể tổng hợp địa lí lấy chức năng du lịch làm chính và nội dung quy hoạch
quản lí để triển khai các hoạt động du lịch.”
Theo khoản 7 - điều 7 - chương 1 - Luật du lịch Việt Nam năm 2006: “ Khu du lịch
là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, ưu thế nổi bật về cảnh quan thiên nhiên được
quy hoạch đầu tư phát triển, nhằm thoả mãn các nhu cầu đa dạng của khách du lịch
đem lại hiệu quả kinh tế xã hội và môi trường.”
Luật du lịch cũng quy định ở nước ta, khu du lịch gồm : khu du lịch địa phương và
khu du lịch quốc gia.
- Khu du lịch địa phương là nơi :
+ Có diện tích tối thiểu là 200ha
+ Có tài ngun du lịch hấp dẫn
14


+ Có khả năng đảm bảo phục vụ tối thiểu 100.000 lượt khách du lịch/ năm.
+ Có mặt bằng, khơng gian đáp ứng yêu cầu của các hoạt động về nghỉ ngơi, giải
trí, tham quan du lịch.
+ Có kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất – kĩ thuật du lịch và dịch vụ đạt tiêu chuẩn, quy

chuẩn kĩ thuật do cơ quan quản lí nhà nước có thẩm quyền ban hành.
Khu du lịch địa phương do chủ tịch UBND tỉnh ban hành.
- Khu du lịch quốc gia là nơi:
+ Có tài nguyên du lịch đặc biệt hấp dẫn với ưu thế về cảnh quan thiên nhiên, có
khả năng thu hút nhiều khách du lịch.
+ Có diện tích tối thiểu 1000ha.
+ Có khả năng đảm bảo phục vụ ít nhất 1 triệu lượt khách/năm.
+ Có quy hoạch phát triển khu du lịch được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
+ Có mặt bằng, không gian đáp ứng yêu cầu của các hoạt động về nghỉ ngơi, giải
trí, tham quan trong khu du lịch.
+ Có kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất - kĩ thuật du lịch và dịch vụ đạt tiêu chuẩn, quy
chuẩn kĩ thuật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
+ Có cơ sở lưu trú du lịch, khu vui chơi giải trí, thể thao và các cơ sở dịch vụ đồng
bộ khác.
Khu du lịch quốc gia do Thủ Tướng Chính Phủ quyết định cơng nhận.
- Điểm du lịch
Theo định nghĩa chung nhất điểm du lịch là những chỗ hoặc cơ sở mà khách du
lịch muốn đến và lưu trú, điểm du lịch có thể là những chỗ khơng có dân cư. Đó là
định nghĩa rộng của điểm du lịch. Tuy nhiên trong kinh tế du lịch, điểm du lịch là
một nơi một vùng hay một đất nước có sức hấp dẫn đặc biệt đối với dân ngồi địa
phương và có những thay đổi nhất định trong kinh tế do hoạt động du lịch tạo nên.
Theo định nghĩa trên thì điểm du lịch có thể là bất cứ điểm lớn hoặc điểm nhỏ có
tài nguyên du lịch( Tài nguyên du lịch tự nhiên, tài nguyên du lịch nhân văn) và có
hoạt động du lịch phát triển. Nếu xét dưới góc độ tiến trình vận động có lẽ nên đưa
ra cặp khái niệm điểm du lịch và điểm tài nguyên du lịch.
Điểm tài nguyên du lịch là nơi ở có ít hay nhiều nguồn tài ngun du lịch có sức
hấp dẫn đối với khách song chưa được tổ chức khai thác. Điểm du lịch là nơi có tài
nguyên du lịch hấp dẫn phục vụ nhu cầu tham quan của khách du lịch. Điểm tài
15



nguyên du lịch có thể chưa phải là điểm du lịch song nó có thể trở thành điểm du lịch
khi khơng có việc tổ chức khai thác. Ngược lại điểm du lịch cũng có thể trở thành
điểm tài nguyên du lịch khi sản phẩm du lịch đi vào giai đoạn thoái trào, hoạt động
kinh doanh du lịch ngừng trệ.
Theo luật du lịch Việt Nam năm 2006: “Điểm du lịch là nơi có tài nguyên
du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham quan của khách du lịch”.
1.1.4. Tài nguyên du lịch
Tài nguyên du lịch bao gồm các thành phần và những kết hợp khác nhau của cảnh
quan thiên nhiên và cảnh quan nhân văn có thể sử dụng cho dịch vụ du lịch và thỏa
mãn về nhu cầu về chữa bệnh, nghỉ ngơi, tham quan hay du lịch.
Về thực chất, tài nguyên du lịch là các đối tượng tự nhiên, các đối tượng văn hóa –
lịch sử đã bị biến đổi ở mức độ nhất định dưới sự ảnh hưởng của nhu cầu xã hội và
khả năng sử dụng trực tiếp vào mục đích du lịch.
Tài nguyên du lịch là một trong những yếu tố quan trọng đối với phát triển kinh tế
và đời sống con người, hiểu theo nghĩa rộng tức: “ Tài nguyên là bao gồm tất cả các
nguồn lực, năng lượng và thơng tin có trên trái đất đồng thời trong không gian vũ trụ
liên quan mà con người có thể sử dụng phục vụ đời sống cho sự nghiệp phát triển của
mình.”
Các yếu tố tài nguyên liên quan đến các điều kiện tự nhiên, điều kiện lịch sử văn
hố, kinh tế- xã hội vốn có trong tự nhiên hoặc do con người tạo dựng nên, các yếu
tố này luôn luôn tồn tại và gắn liền với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội
đặc thù của mỗi vùng miền, mỗi địa phương. Nhưng các yếu tố này chỉ trở thành tài
nguyên du lịch khi được đầu tư quy hoạch và phát triển, được khai thác và sử dụng
cho mục đích phát triển du lịch.
Trong pháp lệnh du lịch nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam(1999)
thì tài nguyên du lịch được hiểu là : “ Cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử, di tích
cách mạng, các giá trị nhân văn, cơng trình lao động sáng tạo của con người có thể
được sử dụng nhằm thoả mãn nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các điểm
du lịch, khu du lịch nhằm tạo ra sức hấp dẫn du lịch.

Tại khoản 4 điều 4 chương 1 Luật du lịch Việt Nam năm 2005 quy định: “ Tài
nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử văn hố, cơng
trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có thể được sử
16


dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch,
điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch.”
Tài nguyên du lịch có thể được hiểu là tài nguyên du lịch đang khai thác và tài
nguyên du lịch chưa được khai thác. Mức độ khai thác các tiềm năng liên quan đến
tài nguyên du lịch phụ thuộc vào các tiềm năng, ngun vốn có cịn tiềm ẩn,
trình độ phát triển khoa học công nghệ tạo ra các phương tiện để khai thác các tiềm
năng tài nguyên đó.
Vậy ta có khái niệm tài nguyên du lịch: “ Tài nguyên du lịch là tổng thể tự nhiên và
văn hoá lịch sử cùng các thành phần của chúng góp phần phục vụ và phát triển thể
lực và trí lực của con người, khả năng lao động và sức khoẻ của họ những tài nguyên
này được sử dụng cho nhu cầu trực tiếp và gián tiếp cho việc sản xuất dịch vụ du
lịch.”
Khi xét về cơ cấu, người ta thường chia làm hai loại:
- Tài ngyên du lịch tự nhiên: Bao gồm điều kiện khí hậu thời tiết, các cảnh quan,
phong cảnh đẹp, các dạng địa hình độc đáo có sức thu hút khách du lịch và thỏa mãn
những nhu cầu vui chơi, giải trí, tham quan của du khách.
- Tài nguyên du lịch nhân văn: Là các đối tượng và hiện tượng do con người tạo ra
như các di tích lịch sử, văn hóa, các lễ hội, các phong tục tập quán độc đáo của từng
địa phương, từng vùng và mỗi quốc gia.
1.1.5. Cơ sở lưu trú du lịch
Theo thông tư số 882008/TT – Bộ Văn Hóa - Thể Thao và Du lịch năm 2008 đã
quy định: Cơ sở lưu trú du lịch là cơ sở cho thuê buồng, giường và cung cấp các dịch
vụ khác phục vụ khách lưu trú, trong đó khách sạn là cơ sở lưu trú chủ yếu.
Theo Luật du lịch nước ta thì cơ sở lưu trú du lịch bao gồm: Khách sạn, làng du

lịch, biệt thự du lịch, căn hộ du lịch, bãi cắm trại du lịch, nhà nghỉ du lịch, nhà ở có
phịng cho khách du lịch thuê, các cơ sở lưu trú du lịch khác.
Việc xếp hạng các cơ sở lưu trú du lịch ở nước ta thực hiện theo tiêu chuẩn quốc
gia do bộ Khoa học – công nghệ theo Luật tiêu chuẩn và quy chuẩn kĩ thuật, dựa trên
các tiêu chí sau :
- Khách sạn: Là cơ sở du lịch, có quy mơ từ 10 buồng ngủ trở lên, đảm bảo chất
lượng về cơ sở vật chất, trang thiết bị và dịch vụ cần thiết phục vụ khách lưu trú và sử
dụng dịch vụ, bao gồm các loại sau:
17


+ Khách sạn thành phố: Là khách sạn được xây dựng tại các đô thị, chủ yếu phục
vụ khách thương gia, khách công vụ, khách tham quan du lịch.
+ Khách sạn nghỉ dưỡng: Là khách sạn được xây dựng thành khối hoặc thành quần
thể các biệt thự, căn hộ ở các khu vực có cảnh quan thiên nhiên đẹp, phục vụ nhu cầu
nghỉ dưỡng, giải trí, tham quan của khách du lịch.
+ Khách sạn nổi: Là khách sạn di chuyển hay neo đậu trên mặt nước.
+ Khách sạn bên đường: Là khách sạn gần đường giao thông, gắn với việc cung cấp
nhiên liệu, bảo dưỡng, sửa chữa phương tiện vận chuyển và cung cấp các dịch vụ cần
thiết phục vụ khách du lịch.
- Làng du lịch: Là cơ sở lưu trú du lịch gồm tập hợp các biệt thự hoặc một số cơ sở
lưu trú du lịch khác như căn hộ và bãi cắm trại, được xây dựng ở nơi có tài nguyên du
lịch, cảnh quan thiên nhiên đẹp, có hệ thống dịch vụ gồm các nhà hàng, quầy bar,
cửa hàng mua sắm, khu vui chơi giải trí, thể thao và các tiện ích khác phục vụ khách
du lịch.
- Biệt thự du lịch: Là biệt thự có trang thiết bị tiện nghi cho khách du lịch thuê, có
thể tự phục vụ trong thời gian lưu trú.
- Căn hộ du lịch: Là căn hộ có trang thiết bị tiện nghi cho khách du lịch thuê, có thể
tự phục vụ trong thời gian lưu trú, nếu có từ 10 căn hộ du lịch trở lên thì được gọi là
khu căn hộ du lịch.

- Bãi cắm trại du lịch: Là khu vực đất được quy hoạch ở nơi có cảnh quan thiên
nhiên đẹp, có kết cấu hạ tầng, có cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch và dịch vụ cần thiết
phục vụ khách cắm trại.
- Nhà nghỉ du lịch: Là cơ sở lưu trú du lịch, có trang thiết bị, tiện nghi cần thiết
phục vụ khách du lịch như khách sạn nhưng không đủ tiêu chuẩn xếp hạng khách sạn.
- Nhà ở có phịng cho khách du lịch th: Là nơi sinh sống của người sở hữu hoặc
sử dụng hợp pháp trong thời gian cho thuê lưu trú du lịch, có trang thiết bị, tiện nghi
cho khách du lịch thuê lưu trú, có thể có dịch vụ khác theo khả năng đáp ứng của chủ
nhà.
- Các cơ sở lưu trú du lịch khác: gồm tàu thủy du lịch, tàu hỏa du lịch, lều du lịch…

18


1.1.6. Sản phẩm du lịch
Sản phẩm du lịch là một tổng thể bao gồm các thành phần không đồng nhất hữu
hình và vơ hình, đó là tài ngun tự nhiên, tài nguyên nhân văn, cơ sở vật chất kỹ
thuật, cơ sở hạ tầng dịch vụ du lịch và đội ngũ cán bộ nhân viên du lịch.
Theo Michael M. Coltman, sản phẩm du lịch có thể là một món hàng cụ thể
như thức ăn, hoặc một món hàng khơng cụ thể như chất lượng phục vụ, bầu khơng
khí tại nơi nghỉ mát.
-

Cơ cấu của sản phẩm du lịch:
+ Những thành phần tạo lực hút (lực hấp dẫn đối với du khách) gồm nhóm tài
nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn.
+ Cơ sở du lịch (Điều kiện vật chất để phát triển ngành du lịch) gồm cơ sở hạ tầng
kỹ thuật và cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch.
+ Dịch vụ du lịch: là kết quả mang lại nhờ các hoạt động tương tác giữa những tổ
chức cung ứng du lịch và khách du lịch và thông qua các hoạt động tương tác đó để

đáp ứng nhu cầu của khách du lịch và mang lại lợi ích cho tổ chức cung ứng du lịch.
1.2. Vai trò của du lịch
1.2.1. Đối với sự phát triển kinh tế
a. Góp phần tăng GDP
Ngành du lịch được xem là ngành “cơng nghiệp khơng khói” , mang lại lượng lớn
ngoại tệ trong nền kinh tế quốc dân, nhất là đối với các nước có tiềm năng lớn về du
lịch thì đây được xem là nguồn thu lớn trong GDP. Theo thống kê của tổ chức du lịch
thế giới, hiện nay một số quốc gia trên thế giới có thu nhập từ du lịch và dịch vụ du
lịch đóng góp từ 5 – 6,5% GDP. Hằng năm doanh thu từ ngành du lịch là rất lớn, đã
góp phần nâng cao đời sống của người dân, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
b. Thu hút lao động, giải quyết việc làm
Tài nguyên du lịch thường có mặt khắp mọi nơi ngay cả vùng xa xôi, hẻo lánh.
Khi con người đưa những tài nguyên này vào sử dụng đòi hỏi phát triển kinh tế - xã
hội ở khu vực đó. Chính điều này sẽ góp phần tạo thêm việc làm cho người lao động,
giải quyết được vấn đề thất nghiệp và thêm việc làm cho nhân dân quanh khu vực du
lịch.
Đồng thời, nơi đây cũng thu hút thêm lao động đến tìm việc làm, nhất là khu vực
người dân sống trong khu vực có dự án du lịch, bởi du lịch phát triển tức là có thêm
19


nhiều dịch vụ, hoạt động du lịch cũng phát triển. Do đó sẽ cần nhiều lao động có tay
nghề, kĩ năng hoạt động du lịch… Du lịch không chỉ tạo việc làm cho bản thân người
lao động trong ngành mà còn thu hút lao động của các ngành khác, bởi các loại hình
du lịch và dịch vụ du lịch rất phong phú và đa dạng để ngày càng đáp ứng nhu cầu và
thị hiếu của du khách.
c. Kích thích đầu tư
Ngành du lịch có cấu trúc khác với các ngành khác, nó được tạo nên bởi nhiều
doanh nghiệp và hàng loạt các dịch vụ khác nhau có diện đầu tư rộng. Việc đầu tư cơ
sở hạ tầng như: điện, nước, giao thông, khách sạn, nhà hàng, khu vui chơi, giải trí…

các cơng trình văn hóa nghệ thuật, các lễ hội thường đem lại lợi nhuận thấp nên nhà
nước chịu trách nhiệm đầu tư nhằm tạo điều kiện cho du lịch phát triển qua đó kích
thích sự đầu tư của các tầng lớp nhân dân, các doanh nghiệp. Từ đó kéo theo tăng
nguồn đầu tư từ các ngành khác như xây dựng, giao thông vận tải, tiểu thủ công
nghiệp, ngân hàng…
d. Thúc đẩy sự phát triển kinh tế địa phương
Phát triển du lịch là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất để phát triển và đẩy
mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế của một vùng và một địa phương có nền kinh tế còn
kém phát triển.
Du lịch phát triển tạo điều kiện cho những người dân sinh sống tại vùng có địa
điểm du lịch mở rộng kinh doanh, phát triển kinh tế gia đình, tăng thu nhập, cải thiện
đời sống qua các hình thức kinh doanh như: nhà hàng, khách sạn, các dịch vụ giải trí,
sản xuất và các nhà hàng lưu niệm… góp phần tăng thu nhập cho gia đình và địa
phương.
e. Tăng nguồn thu ngoại tệ
Du lịch phát triển, nhất là du lịch quốc tế sẽ đem lại nguồn thu ngoại tệ thông qua
hoạt động xuất nhập khẩu du lịch. Ngành du lịch tạo nên sự biến đổi trong cơ cấu thu
chi của đất nước, của vùng du lịch. Đối với khách du lịch quốc tế, khi mang ngoại tệ
đến đổi và chi tiêu ở các khu vực du lịch sẽ tăng tổng số tiền trong cán cân thu chi
của vùng và của đất nước.
Hoạt động du lịch là nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho đất nước, ở các nước phát
triển nguồn thu từ du lịch chiếm tới 20% nguồn thu ngoại tệ của đất nước. Nguồn thu
này thường được sử dụng để mua sắm máy móc, trang thiết bị cần thiết cho quá trình
20


tái sản suất xã hội, góp phần xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kĩ thuật cho đất
nước.
1.2.2. Đối với sự ởn định chính trị xã hội
Ngành du lịch có tác động đến nhiều mặt của một đất nước và một vùng thông

qua nhu cầu của du khách. Du lịch được xem như là một “giấy thông hành của hịa
bình” , đẩy mạnh các mối giao lưu quốc tế, mở rộng sự hiểu biết giữa các dân tộc.
Chính du lịch quốc tế làm cho con người sống ở các khu vực khác nhau, có nền văn
hóa và trình độ phát triển khác nhau xích lại gần nhau hơn, hiểu nhau hơn và tăng
thêm tình đồn kết cộng đồng. Du lịch là chiếc cầu nối các dân tộc trên thế giới lại
với nhau, là công cụ, là môi trường thuận lợi góp phần củng cố hịa bình, giao lưu
quốc tế giữa các dân tộc trên phạm vi toàn cầu.
Những chuyến du lịch, tham quan tại các di tích lịch sử, các cơng trình văn hóa,
thắng cảnh giúp mỗi người dân hiểu biết nhiều hơn về đất nước mình, từ đó giáo dục
tinh thần u nước, khơi dậy lịng tự hào dân tộc.
Ngồi ý nghĩa về chính trị thì du lịch cũng đem lại nhiều ý nghĩa về mặt xã hội.
Thông qua du lịch, con người được thỏa mãn trí tị mị, mở mang hiểu biết lẫn nhau,
hiểu biết về văn hóa, lịch sử, phong tục, tập quán ở đất nước mình và trên thế giới.
Trong một chừng mực nào đó, du lịch cịn có vai trị giữ gìn, phục hồi sức khỏe cho
con người, hạn chế bệnh tật, kéo dài tuổi thọ và khả năng lao động cho con người.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển ngành du lịch
1.3.1. Các nhân tố tự nhiên
Bất kì một nền kinh tế muốn phát triển được thì trước thì trước hết phụ thuộc chặt
chẽ vào các điều kiện tự nhiên, là cơ sở đầu tiên cho việc khai thác, xây dựng và phát
triển kinh tế. Đặc biệt ngành du lịch lại càng gắn bó mật thiết và liên quan chặt chẽ
đến các điều kiện tự nhiên hơn nữa. Các thành phần tự nhiên, cảnh quan thiên nhiên
có thể đem lại sức hút cho du khách, vì vậy chúng được sử dụng vào mục đích phát
triển du lịch và trở thành tài nguyên du lịch tự nhiên, các thành phần tự nhiên đó
gồm:
a. Vị trí địa lí
Vị trí địa lí là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển du lịch. Khoảng cánh từ
địa điểm du lịch đến nơi ở của khách du lịch quyết định đến số lượng du khách, sự
tăng hay giảm của doanh thu du lịch. Những điểm ở gần trung tâm du lịch, có vị trí
21



thuận lợi sẽ thu hút khách du lịch, những nơi xa trung tâm du lịch sẽ hạn chế du
khách do tốn thời gian và chi phí đi lại của du khách. Nhưng trong một số trường
hợp, với những du khách có khả năng thanh tốn cao, có tính hiếu kì trước những
điều mới lạ thì những địa điểm ở xa nơi cư trú lại có sức hấp dẫn lớn.
b. Địa hình
Địa hình đóng vai trị quan trọng trong việc góp phần tạo nên phong cảnh và sự
đa dạng của cảnh quan du lịch. Ở những nơi địa hình càng tương phản, càng độc đáo
thì càng có sức hấp dẫn du khách. Khách du lịch thường thích những dạng địa hình
đồi núi, địa hình bờ biển, địa hình caxtơ. Địa hình núi là nơi thuận lợi để tổ chức các
hình thức du lịch mạo hiểm leo núi, nhảy dù… hay xây dựng các nhà nghỉ dưỡng. Ở
địa hình bờ biển có thể tổ chức tham quan du lịch, tắm biển, lướt ván, câu cá… Đặc
biệt kiểu địa hình caxtơ như núi và hang động caxtơ là những dạng tài nguyên du lịch
rất có giá trị. Trên thế giới đã đưa vào khai thác hàng ngàn hang động, núi đá vôi, thu
hút một khối lượng du khách lớn trong tổng du khách tồn cầu. Ở Việt Nam, địa hình
caxtơ rất phổ biến từ Quảng Bình ra Bắc, với hệ thống hang động, núi đá vơi kì vĩ
như Phong Nha – Kẻ Bàng, Vịnh Hạ Long…hàng năm thu hút hàng triệu lượt du
khách đến tham quan, đem lại nguồn thu lớn cho du lịch nước ta.
Ngoài việc tạo nên những phong cảnh đẹp thì địa hình cịn có tác động rất lớn đến
việc xây dựng cơ sở hạ tầng – vật chất kĩ thuật phục vụ cho các nhu cầu của du
khách.
c. Khí hậu
Khí hậu có tác động rất lớn đến hoạt động du lịch, quyết định đến thời gian du
khách lưu lại điểm du lịch dài hay ngắn, đến tính mùa vụ trong các loại hình du lịch.
Ví dụ như mùa đơng có thể phát triển các loại hình du lịch trên núi như trượt băng,
trượt tuyết, mùa hè có thể đẩy mạnh các loại hình du lịch tắm biển, nghỉ dưỡng, lướt
ván… Do đó, ở những vùng có khí hậu khác nhau thì đặc điểm mùa vụ và các loại
hình du lịch cũng có sự khác nhau. Phần lớn du khách thường ưa thích những nơi có
khí hậu ơn hịa, dễ chịu mà tránh những nơi quá nóng, quá lạnh hoặc quá ẩm.
d. Thủy văn

Đây là một yếu tố không thể thiếu được để duy trì sự sống và các hoạt động sản
xuất, sinh hoạt của con người. Trong hoạt động du lịch, nước được sử dụng với nhiều
mục đích khác nhau. Tài nguyên nước phân bố trên khắp thế giới như trong các biển,
22


đại dương, sông, hồ…và nhiều nơi trên thế giới đã xây dựng những khu nghĩ dưỡng
ven hồ, ven biển… thu hút lượng lớn du khách đến nghỉ ngơi. Dọc các sơng, hồ, suối
có thể tổ chức các hoạt động du lịch như câu cá, bơi thuyền, nghỉ dưỡng… Trong tài
nguyên nước, cần phải nói đến tài ngun nước khống, đây là loại tài nguyên có giá
trị về du lịch an dưỡng và chữa bệnh.
e. Sinh vật
Thế giới động vật và thực vật đóng vai trị quan trọng trong q trình phát triển
của ngành du lịch thông qua sự đa dạng và tính đặc hữu. Hiện nay, khi nền kinh tế
ngày càng phát triển, đời sống con người ngày càng được nâng cao thì nhu cầu về với
thiên nhiên, tham quan các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên ngày càng lớn.
Đây cũng là nơi thu hút đông lượng du khách đến tham quan. Các loài động thực vật
quý hiếm, nhất là những lồi đặc hữu có sức hấp dẫn mạnh đối với du khách từ nơi xa
đến, vì vậy, du lịch về với thiên nhiên đang dần trở thành một xu thế và nhu cầu phổ
biến đối với du khách. Tuy nhiên, khơng phải bất kì mọi tài ngun động thực vật đều
trở thành đối tượng tham quan của du lịch. Để phục vụ mục đích du lịch khác nhau,
người ta đưa ra các chỉ tiêu sau:
Chỉ tiêu phục vụ mục đích tham quan du lịch
+ Thảm thực vật phong phú, độc đáo và điển hình.
+ Có lồi đặc trưng cho khu vực, loài đặc hữu, loài quý hiếm đối với thế giới và
trong nước.
+ Có một số động vật ( thú, chim, bò sát, cá…) phong phú hoặc điển hình cho vùng.
+ Có các loại khai thác đặc sản phục vụ nhu cầu của du khách.
+ Thực, động vật có màu sắc hấp dẫn, vui mắt, một số lồi phổ biến, dễ quan sát
bằng mắt thường, ống nhịm hoặc nghe tiếng hót, tiếng kêu và có thể chụp ảnh được.

+ Đường sá thuận tiện cho việc đi lại tham quan, vui chơi của khách.
Ngồi ra, người ta cịn đưa ra một số chỉ tiêu nhằm mục đích săn bắn thể thao hay
nghiên cứu khoa học. Tóm lại, tài nguyên động thực vật có ảnh hưởng rất lớn đến sự
phát triển của ngành du lịch.
2.1.2. Các nhân tố kinh tế - xã hội
a. Dân cư và nguồn lao động
Dân cư vừa là lực lượng lao động sản xuất quan trọng của xã hội, đồng thời vừa là
thị trường tiêu thụ các sản phẩm của các ngành sản xuất, trong đó có du lịch. Cùng
23


với các hoạt động lao động, sản xuất ra của cải vật chất phục vụ nhu cầu của cá nhân
và xã hội thì mỗi người cịn có nhu cầu nghỉ ngơi và du lịch. Nhu cầu du lịch của mỗi
người tùy thuộc vào đặc điểm của xã hội, nhân khẩu, mức thu nhập của bản thân, đặc
điểm kết cấu dân cư theo nghề nghiệp, theo lứa tuổi. Mỗi lứa tuổi khác nhau sẽ có
nhu cầu du lịch khác nhau và lựa chọn các loại hình du lịch khác nhau. Ví dụ như giới
trẻ thường thích du lịch những nơi có thể tổ chức các hoạt động mạnh: thể thao, trò
chơi mạo hiểm, leo núi… Những người già lại thích những nơi yên tĩnh có thể nghỉ
dưỡng, chữa bệnh…
Sự phát triển du lịch cịn tùy thuộc vào trình độ văn hóa chung của dân cư. Nếu đất
nước đó dân cư có trình độ văn hóa cao, nhu cầu đi du lịch của cộng đồng sẽ tăng lên
rõ rệt. Đặc biệt là ở các nước phát triển thì du lịch đã trở thành nhu cầu không thể
thiếu được trong đời sống tinh thần của người dân. Ngày nay, du lịch được xem như
là một tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng cuộc sống của người dân.
b. Sự phát triển các ngành kinh tế và mức thu nhập bình quân đầu người
Sự phát triển của nền sản xuất xã hội có vai trị quyết định làm xuất hiện nhu cầu
du lịch và biến nhu cầu của con người thành hiện thực. Một đất nước cịn ở trong tình
trạng kém phát triển, thu nhập của người dân thấp thì khơng thể phát triển ngành du
lịch. Ở các nước có nền kinh tế chậm phát triển thì nhu cầu về du lịch và trình độ phát
triển ngành du lịch nhìn chung cịn hạn chế. Ngược lại, nhu cầu và loại hình du lịch ở

các nước có nền kinh tế phát triển lại phong phú và đa dạng: đó là nhu cầu du lịch
cuối tuần, các kì nghỉ dài ngày hay tổ chức các chuyến du lịch ra nước ngoài…
Nền kinh tế phát triển làm cho người dân có mức sống cao hơn, do đó họ có khả
năng thanh tốn cao những chi phí của chuyến du lịch trong nước cũng như nước
ngồi. Vì vậy, có thể nói thu nhập của dân cư là chỉ tiêu quan trọng và điều kiện vật
chất để con người có thể đi du lịch, khi thu nhập tăng thì mức tiêu dùng du lịch và cơ
cấu tiêu dùng du lịch cũng tăng theo.
c. Các nhân tố chính trị
Đây là nhân tố đặc biệt quan trọng, có tác dụng thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát
triển ngành du lịch của một quốc gia. Du lịch chỉ có thể xuất hiện và phát triển trong
điều kiện đất nước hịa bình, có sự hợp tác hữu nghị giữa các dân tộc, các quốc gia.
Nếu đất nước có chiến tranh, mất ổn định về chính trị, gây tổn thất cho các cơng
trình, cơ sở hạ tầng và mơi trường du lịch. Do đó, sự ổn định về chính trị là tiền đề để
24


đẩy mạnh phát triển du lịch của một quốc gia, qua đó thắt chặt tình đồn kết, hữu
nghị giữa các dân tộc trong nước và các nước khác trên thế giới.
d. Các chính sách nhà nước
Hiện nay, du lịch đã trở thành ngành kinh tế quan trọng đối với nhiều quốc gia
trên thế giới. Vì vậy, nhà nước ln khuyến khích và phát triển ngành du lịch nhằm
thu hút khách du lịch từ trong nước cũng như quốc tế, từ đó tăng nguồn thu từ ngành
du lịch. Ở nước ta, nhà nước đã có nhiều chính sách nhằm đẩy mạnh hoạt động du
lịch như hỗ trợ tiền thuê đất để xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch, hỗ trợ về tín dụng với
lãi suất ưu đãi để tăng thêm nguồn vốn cho phát triển du lịch, hay chính sách hỗ trợ
đào tạo nguồn nhân lực nhằm nâng cao chất lượng lao động cho ngành du lịch… Có
thể nói rằng nếu một quốc gia có điều kiện kinh tế và văn hóa – xã hội để phát triển
du lịch nhưng chính sách hỗ trợ cho ngành du lịch của nhà nước đó khơng phù hợp và
chưa tương xứng thì ngành du lịch của quốc gia đó sẽ khơng mang lại hiệu quả cao.
e. Các di sản, di tích lịch sử và lễ hội truyền thống

Các di sản, di tích lịch sử-văn hóa là tài sản văn hóa qúy giá của mỗi địa phương,
mỗi một dân tộc và đất nước. Các tài nguyên này có sức hút rất lớn đối với những du
khách ham hiểu biết và muốn mở rộng kiến thức của mình như các nhà nghiên cứu,
học sinh, sinh viên… Mỗi di sản, di tích lịch sử - văn hóa của từng địa phương đều
mang nhưng nét độc đáo và có ý nghĩa riêng, nếu các cấp chính quyền địa phương có
chính sách khai thác đúng đắn vừa đem lại nguồn thu nhập từ du lịch, vừa góp phần
giáo dục ý thức bảo vệ các giá trị tinh thần của nhân dân.
Ngoài ra, các lễ hội cũng tạo nên những nét riêng cho từng địa phương, từng khu
vực du lịch. Đây là kho báu quý giá của quá khứ để lại cho thế hệ hiện tại. Các lễ hội
dân tộc, các cuộc hành hương về cội nguồn, những cuộc đua thuyền truyền thống…
đã thu hút hàng ngàn du khách đến với các địa phương diễn ra các lễ hội, tăng số
lượng du khách và doanh thu trong năm.

25


×