Nhà Tiền Lê, kinh đô Hoa Lư (29 năm, 980 - 1009)
Tình hình nội trị và ngoại giao thời Tiền Lê
- Sau khi đánh bại cuộc xâm lược của nhà Tống, Lê Hoàn bắt tay vào việc ổn định tình
hình trong nước. Ngoài việc tổ chức lại chính quyền, mở mang đường sá, khuyến khích
nhân dân sản xuất, nhà Lê phải lo chống lại các cuộc nổi dậy của nhân dân các vùng xa,
đặc biệt là ở các châu phía nam.
Năm 989, quản giáp Dương Tiến Lộc được cử đi thu thuế ở hai châu Ái, Hoan, đã nhân đó
liên kết với một số thủ lĩnh địa phương giữ châu, chống lại triều đình. Lê Hoàn phải cầm
quân đi đánh dẹp.
Các năm 999, 1001, Lê Hoàn lại phải đem quân đánh dẹp các cuộc nổi dậy của người Hà
Động, Cử Long (đều thuộc miền tây Thanh Hóa). Tình hình tạm yên trong một thời gian.
Năm 1008, dân hai châu Đô Lương, Vị Long (thuộc Tuyên Quang) nổi dậy. Lê Long Đỉnh
đã cầm quân đi đánh. Tiếp đó, năm 1009, Lê Long Đỉnh lại phải đem quân đi đánh người
châu Thạch Hà... (thuộc Hà Tĩnh).
Tình hình này vẫn còn diễn ra trong nhiều năm dưới thời Lý.
- Trong công cuộc ổn định tình hình ở phía nam, nhà Tiền Lê còn phải đối phó với những
hoạt động xâm lấn của Chăm pa.
Năm 979, Khi Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị ám hại, vua Chăm pa nghe lời xúi giục
của Ngô Nhật Khánh (phò mã của nhà Đinh) đã cho thủy quân tiến ra, định xâm lấn vùng
nam Đại Cồ Việt. Chẳng may, hạm thuyền Chăm pa bị bão tố đánh đắm, vua Chăm pa
buộc phải chạy về nước.
Năm 980, sau khi lên ngôi, Lê Hoàn đã cử Từ Mục và Ngô Tử Canh sang Chăm pa đặt
quan hệ hòa hiếu, nhằm yên mặt nam để chống giặc Tống. Vua Chăm pa cậy thế hùng
mạnh, đã bắt giữ các sứ thần.
Năm 982. sau khi đã đánh bại quân Tống, Lê Hoàn quyết định đem quân đánh Chăm pa,
tiến thảng đến kinh đô, phá hủy thành trì rồi rút quân về. Quan hệ Việt - Chăm tạm yên.
- Quan hệ với nhà Tống sau chiến tranh bắt đầu hòa hoãn, tốt đẹp. Năm 982, 983 Lê Hoàn
sai sứ sang Tống cầu phong, đặt lại quan hệ hòa hiếu.Năm 986, nhà Tống cử sứ bộ sang
phong Lê Hoàn làm Tĩnh hải quân tiết độ sứ, An Nam đô hộ, kinh triệu quận hầu. Lê Hoàn
đã nhân đó trao trả nhà Tống hai tên tướng Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huân.
Năm 987, nhà Tống cử Quốc tử giám bác sĩ là Lý Giác sang sứ nước ta. Với ý thức dân
tộc, không chịu thua kém nước người, Lê Hoàn đã cử một nhà sư giỏi là Đỗ Thuận đóng
giả làm Giang lệnh, chèo đò sang đón sứ. Ra giữa sông, Lý Giác nhìn thấy đôi ngỗng đang
bơi, bèn ứng khẩu ngâm hai câu thơ :
Nga nga lưỡng nga nga
Ngưỡng diện hướng thiên nha
Nghĩa là
Ngỗng kia, ngỗng một đôi
Ngửa mặt nhìn chân rời
Đỗ Thuận bình tĩnh vừa chèo đò vừa đọc tiếp :
Bạch mao phô lục thủy
Hồng trạo bãi thanh ba
Nghĩa là
Lông trắng phô nước biếc
Rẽ sóng, chèo hồng bơi
Lý Giác vừa ngạc nhiên vừa khâm phục và từ đó luôn luôn tỏ ra kính nể triều đình nhà
Tiền Lê.
Năm 990, sứ nhà Tống là Tống Cảo sang nước ta phong thêm cho Lê Hoàn hai chữ “đặc
tiến". Lê Hoàn đã dàn chiến thuyền trên sông để đón sứ, sau đó lên bộ cùng sứ thần đi
ngựa về cung. Đến điện Minh Đức, Lê Hoàn nhận sắc phong nhưng không lạy, lấy cớ là
vừa qua đi đánh giặc bị ngã ngựa, chân đau. Trong tiệc thết đãi, Lê Hoàn lại nói với Tống
Cầu về tâu với vua Tống là từ sau, khi có quốc thư thì cho giao nhận ngay ở đầu địa giới,
không phiền phải đến tận kinh đô nữa. Đề nghị này đã được vua Tống chấp nhận.
Năm 991, Lê Hoàn sai sứ sang Tống đáp lễ.
Năm 993, nhà Tống sai sứ sang phong Lê Hoàn làm Giao Chỉ quận vương,tiếp đó năm
997, vua Tống lại phong Lê Hoàn làm Nam bình vương.
Quan hệ Việt - Tống tốt đẹp. Nhà Tiền Lê tuy chịu thần phục nhà Tống, hàng năm nộp
cống đầy đủ, nhưng luôn luôn giữ vững tinh thần tự chủ, độc lập.
Năm 1005, Lê Hoàn chết. Các con của Lê Hoàn tranh chấp ngôi vua, đem quân đánh lẫn
nhau. Năm 1006, viên tri Quảng Châu của nhà Tống dâng sớ xin đem quân xâm lược Đại
Cồ Việt. Vua Tống đã khước từ, nói :"Họ Lê thường vẫn sai con vào chầu, không thiếu
trung thuận, nay nghe tin mới chết, chưa có lễ thăm viếng đã vội đem quân sang đánh trong
lúc có tang,có phải là việc làm của đấng vương giả đâu ? "
Ít lâu sau, an phủ sứ Thiệu Việp lại xin vua Tống đánh chiếm nước ta một lần nữa nhưng
vua Tống vẫn bảo : "Giao Châu độc địa, nếu đem quân sang đánh, chết hại rất nhiều, nên
giữ cẩn thận cõi đất của tổ tông mà thôi".
Năm sau đó, vua Tống phong Lê Long Đỉnh là Giao Chỉ quận vương và đúc ấn ban cho.
Long Đỉnh đã nhân đó, xin được thông thương với vùng Hoa Nam.
Nhà Tiên Lê suy vong. Nhà Lý được thành lập
Lê Hoàn chết, con là Long Việt lên nối ngôi mới được 3 ngày thì bị em là Long Đỉnh giết
và cướp ngôi. Xảy ra cuộc chiến giữa các hoàng tử và Long Đỉnh, tranh chấp ngôi vua, kéo
dài trong 8 tháng. Các hoàng tử lần lượt bị giết hoặc chịu hàng phục Long Đỉnh (tức Lê
Ngọa Triều). Lê Long Đinh chấn chỉnh lại triều đình, đặt quan hệ với nhà Tống và đem
quân đi trấn áp các cuộc nổi dậy của những vùng xa. Tình hình trở lại ổn định. Lê Long
Đỉnh xoay sang ăn chơi trụy lạc nên mắc bệnh trĩ phải nằm để hội chầu với các quan, Long
Đỉnh lại thích những trò hành hình dã man như đốt người, xéo thịt, thả người trôi sông, bắt
trèo cây cao rồi chặt đổ cho người rơi xuống chết. Trong cung lại nuôi một số người
chuyên pha trò những lúc vua nói với các quan. Chính sự đổ nát, lòng người chăn nản.
Trước tình hình đó, một số nhà sư ở châu Cổ Pháp (Bắc Ninh) đã truyền nhau những câu
"sấm" nói về sự sụp đổ tất yếu của nhà Tiền Lê.Tháng 11 năm 1009, Lê Ngọa Triều chết.
Được sự ủng hộ của các nhà sư và theo lời "sấm kí", chi hậu Đào Cam Mộc cầm đầu một
số triều thần đưa Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ, Lý Công Uẩn lên làm vua.
Lý Công Uẩn là người châu Cổ Pháp, thủa nhỏ làm con nuôi của nhà sư Lý Khánh Văn,
sau đó đến học ở chùa Lục Tổ của sư Vạn Hạnh. Lớn lên, ông được cử chỉ huy quân Điện
tiền, thăng dần lên chức Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ, Lý Công Uẩn là người vừa có học,
có đức lại biết xử sự đúng nên rất được triều thần nhà Tiên Lê quý trọng.
Lý Công Uẩn lên ngôi, xuống lệnh đại xá cho thiên hạ, quyết định lấy năm 1010 làm năm
Thuận Thiên thứ nhất. Nhà Lý thành lập, một giai đoạn mới trong lịch sử bắt đầu.
Thế phả
Lê Đại Hành (980-1005)
Niên hiệu:
- Thiên Phúc (980-988)
- Hung Thống (989-993)
- Ư'ng Thiên (994-1005)
Lê Hoàn sinh nǎm (941) ở Xuân Lập, Thọ Xuân, Thanh Hoá trong một gia đình nghèo khổ "bố dỡ
đó, mẹ xó chùa". Cha họ Lê, mẹ là Đặng Thị Sen đều lần lượt qua đời khi Lê Hoàn còn nhỏ tuổi.
Bởi vậy, cũng ngay từ bé, Lê Hoàn phải làm con nuôi cho một vị quan nhỏ, người cùng họ. Lớn
lên, Lê Hoàn đi theo Nam Việt vương Đinh Liễn. Trong công cuộc đánh dẹp các sứ quân, Lê Hoàn
tỏ rõ là người có tài nên được Đinh Bộ Lĩnh giao cho trông coi 2000 binh sĩ. Đến khi dẹp yên các
sứ quân, thống nhất đất nước, lập nên cơ nghiệp nhà Đinh, Lê Hoàn được phong chức Thập đạo
tướng quân, Điện tiền đô chỉ huy sứ của triều đình Hoa Lư. Lúc này Lê Hoàn vừa tròn 30 tuổi.
Tháng 10 nǎm Kỷ Mão (979), cha con Đinh Tiên Hoàng bị Đỗ Thích giết hại, Đinh Toàn 6 tuổi lên
ngôi vua, Lê Hoàn làm nhiếp chính, trong một tình thế đầy khó khǎn. Các đại thần Đinh Điền,
Nguyễn Bặc, Phạm Hạp nổi loạn nhưng đã bị Lê Hoàn dẹp tan.
Tháng 7 nǎm Canh Thìn (980) đại quân Tống theo đường thủy bộ xâm lược Đại Cồ Việt. Lê Hoàn
lúc nào đã lên ngôi hoàng đế tức Lê Đại Hành, vừa triển khai lực lượng sẵn sàng chiến đấu vừa
sai sứ đưa thư cầu hoà. Vua Tống đòi Dương Vân Nga và con là Đinh Toàn sang chầu. Tình thế
bức bách, Lê Hoàn buộc phải cho quân đánh giặc quyết bảo vệ đất nước. Ông đã tái tạo một Bạch
Đằng, sáng tạo một Chi Lǎng, thắng lớn trên cả hai mặt trận thuỷ bộ, giết tướng giặc Hầu Nhân
Bảo, diệt quá nửa quân Tống, buộc vua Tống phải xuống chiếu lui quân.
Đại thắng nǎm Tân Tỵ (981) đã mở đầu kỷ nguyên Đại Việt bách thắng bọn phong kiến phương
Bắc.
Không chậm trễ, Lê Hoàn dốc sức chǎm lo xây dựng và bảo vệ đất nước. Bên trong, Lê Hoàn
chống cát cứ, xây dựng cơ sở của nền kinh tế. Đối với bên ngoài ông thi hành chính sách ngoại
giao mềm dẻo khôn khéo nhưng kiên quyết bảo vệ nền độc lập của đất nước. Ông là một vị vua
nội trị, ngoại giao đều xuất sắc.
Nǎm Â't Tỵ (1005) vua Lê Hoàn mất, thọ 65 tuổi, làm vua được 24 nǎm. Theo thông lệ, khi vua mất
chưa đặt tên thuỵ thì gọi là Đại Hành. Trường hợp vua Lê Hoàn lấy Đạ Hành làm Thuỵ hiệu là vì
Lê Ngoạ Triều và triều thần không đặt tên thuỵ cho ông.
Lê Trung Tông (1005)
Vua Lê Đại Hành có 4 hoàng tử là Long Du, Ngân Tích, Trung Tông Long Việt và Lê Long Đĩnh
(Ngoạ Triệu). Vua Đại Hành đã định cho người con thứ ba là Long Việt làm Thái tử. Nhưng đến lúc
vua mất, các hoàng tử tranh nhau ngôi, đánh nhau trong 7 tháng. Đến khi Long Việt vừa lên ngôi
được 3 ngày thì bị em là Long Đĩnh sai người vào cung giết chết, thọ 23 tuổi. Sử gọi là Lê Trung
Tông.
Lê Long Đĩnh (1005-1009)
Niên hiệu: Ư'ng Thiên (1006-1007); Cảnh Thuỵ (1008-1009)
Long Đĩnh là người bạo ngược, tàn ác như Kiệt, Trụ ở bên Tàu. Khi đã giết anh, chiếm được ngôi
vua, Long Đĩnh càng tàn bạo. Vua hay lấy việc giết làm trò chơi. Có những toịo nhân phải tội hình,
vua cho lấy rơm tẩm dầu quấn vào người rồi đốt cho chế. Có trường hợp vua cho tù trèo lên cây
cao rồi sai người chặt gốc cây đổ. Vua còn bỏ ngưòi vào sọt rồi đem thả xuống sông. Vua thích chí
ngồi xem đao phủ thực hiện mệnh lệnh ác độc của mình. Có lần vua lấy mía để lên đầu nhà sư mà
róc vỏ, thỉnh thoảng vờ nhỡ tay bổ dao vào đầu sư chảy máu, trông thấy thế vua thích thú vui
cười. Vào các buổi chầu, vua cho tên hề nói khôi hài, hay nhại lại lời tâu bầy của các đại thần để
gây cười. Vì sống dâm dục quá độ, vua mắc bệnh không ngồi được. Bởi vậy đến buổi chầu, vua
cứ nằm mà thị triều, cho nên tục gọi là Ngoạ Triều.
Long Đĩnh làm vua được 2 nǎm đổi niên hiệu là Cảnh Thuỵ. Nǎm sau (1009) thì mất, làm vua
được 4 nǎm, thọ 24 tuổi.
Long Đĩnh mất, con tên là Sạ còn bé, đình thần nhân dịp tôn Lý Công Uẩn lên làm vua, khởi dựng
sự nghiệp triều Lý hiển hách. Triều Lý và các triều đại tiếp theo sẽ được giới thiệu ở phần - Các
triều đại Việt nam từ thế kỷ 11 đến thời kỳ thuộc Pháp.
Dương Vân
Nga