Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy ở trẻ từ 1 3 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (845.4 KB, 118 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ
HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA TÂM LÝ HỌC

HOÀNG THỊ QUANG

MỐI QUAN HỆ GIỮA NGÔN NGỮ VÀ TƢ DUY
Ở TRẺ TỪ 1 – 3 TUỔI

CHUYÊN NGÀNH: TÂM LÝ HỌC
MÃ SỐ: 60 31 04 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS TRƢƠNG THỊ KHÁNH HÀ

Hà Nội – 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài này là do tơi thực hiện, là một phần trong đề tài
nhóm B mã số QG.12.27 do PGS.TS Trƣơng Thị Khánh Hà làm chủ nhiệm.
Những kết quả, số liệu trong đề tài là hồn tồn trung thực và chƣa đƣợc
cơng bố trong bất kì cơng trình nghiên cứu nào trƣớc đây.

Tác giả

Hồng Thị Quang

1



LỜI CẢM ƠN
Luận văn này đƣợc hoàn thành tại khoa Tâm lý học – Trƣờng Đại học
Khoa học xã hội và nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội, dƣới sự hƣớng dẫn
khoa học của PGS.TS Trƣơng Thị Khánh Hà.
Tôi xin đƣợc gửi lời cảm ơn đến quý thầy, cô giáo trong khoa Tâm lý học –
Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội đã
truyền dạy cho tôi những kiến thức và kinh nghiệm q báu trong thời gian tơi
theo học bậc cao học tại khoa. Các thầy cô cũng đã luôn sẵn sàng hỗ trợ, giải đáp
thêm cho tôi những điều cịn chƣa rõ về mặt chun mơn, để tơi có đƣợc cái
nhìn đa chiều hơn về vấn đề nghiên cứu trong đề tài khoa học này.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Trƣơng Thị
Khánh Hà, ngƣời đã hƣớng dẫn, đã đi cùng tơi trong suốt q trình nghiên cứu:
từ khi hình thành ý tƣởng đề tài cho đến khi tơi hồn thiện tồn bộ luận văn tốt
nghiệp này! Tơi đặc biệt ghi nhớ sự nhiệt tình, lịng tận tâm và sự tỉ mỉ của cơ
dành cho tơi trong suốt q trình học và trong q trình hƣớng dẫn tơi làm cơng
tác nghiên cứu đề tài.
Để thực hiện đƣợc nghiên cứu khoa học này, tơi cịn nhận đƣợc sự hợp
tác và hỗ trợ nhiệt tình trong suốt quá trình nghiên cứu từ Ban giám đốc, Ban
giám hiệu, các thầy cô giáo và các em nhỏ ở các trƣờng mẫu giáo Vƣờn Tài
Năng, Đồ Rê Mí, và Jerry House.
Tơi cũng xin gửi lời cảm ơn đến q thầy cơ giáo ở phịng đào tạo, phịng
cơng tác sinh viên đã có những hƣớng dẫn chi tiết cho tơi về thủ tục hành chính
và tạo mọi điều kiện thuận lợi để tơi có thể hồn thiện luận văn tốt nghiệp này!
Cuối cùng, xin gửi lời tri ân đến gia đình, ngƣời thân, thầy cơ giáo cũ và
bạn bè – những ngƣời đã động viên, giúp đỡ để tơi có đƣợc ngày hơm nay.
Hà Nội, ngày 6 tháng 6 năm 2014
Tác giả

Hoàng Thị Quang
2



DANH MỤC BẢNG SƠ LIỆU, HÌNH ẢNH TRONG ĐỀ TÀI
STT

TÊN BẢNG

Trang

1

Bảng 1.1. Khả năng nhận thức – tƣ duy

106 – 107

2

Bảng 1.2. Khả năng ngôn ngữ - giao tiếp

108-109

3

Bảng 2.1. Các thành tựu phát triển nhận thức – tƣ duy của trẻ

58–59

4

Bảng 2.2. Các thành tựu phát triển ngôn ngữ của trẻ


70–72

5

Bảng 2.3. Tƣơng quan giữa sự phát triển tƣ duy và ngôn ngữ của trẻ

114 – 115

6

Bảng 2.4. Tƣơng quan giữa item tƣ duy 9, 10 với các item ngôn ngữ

86

7

Bảng 2.5. Tƣơng quan giữa item tƣ duy 14, 15, 16 với các item ngôn ngữ

87

8

Bảng 2.6. Tƣơng quan giữa item tƣ duy 17, 18 với các item ngôn ngữ

88

DANH MỤC HÌNH ẢNH
9


Hình 4.1. Bé Đ. K (23 tháng tuổi) đang vƣơn mình để lấy bim bim trên kệ

64

10

Hình 4.2. Bé A.T (29 tháng tuổi) biết bắc ghế đứng lên để lấy bim bim

64

11

Hình 4.3. Bé C. M (26 tháng tuổi) thực hiện trị chơi thả khối hình

66

3


MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN................................................................................................. 1
LỜI CẢM ƠN....................................................................................................... 2
DANH MỤC BẢNG SƠ LIỆU, HÌNH ẢNH TRONG ĐỀ TÀI...........................3
MỞ ĐẦU.............................................................................................................. 6
Chƣơng 1. LÍ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA NGƠN NGỮ VÀ TƢ DUY Ở
TRẺ 1 – 3 TUỔI.................................................................................................... 9
1.1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề......................................................... 9
1.1.1. Những nghiên cứu nƣớc ngồi về ngơn ngữ, tƣ duy và mối quan hệ
giữa chúng ở trẻ từ 1 – 3 tuổi....................................................................... 9

1.1.2. Những nghiên cứu trong nƣớc về ngôn ngữ, tƣ duy và mối quan hệ
giữa chúng ở trẻ từ 1 – 3 tuổi..................................................................... 21
1.1.3. Những quan điểm về việc giáo dục sớm........................................... 26
1.2. Một số lý luận cơ bản............................................................................... 28
1.2.1. Lý luận về ngôn ngữ......................................................................... 28
1.2.1.1. Khái niệm ngôn ngữ................................................................ 28
1.2.1.2. Các loại ngôn ngữ................................................................... 28
1.2.1.3. Ngôn ngữ của trẻ em từ 1 – 3 tuổi........................................... 29
1.2.2. Tƣ duy của trẻ em............................................................................ 33
1.2.2.1. Khái niệm tƣ duy và tƣ duy trẻ em......................................... 33
1.2.2.2. Các loại tƣ duy....................................................................... 34
1.2.2.3. Tƣ duy của trẻ em 1 – 3 tuổi................................................... 35
1.2.3. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tƣ duy ở trẻ 1 – 3 tuổi.....................38
1.2.3.1. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tƣ duy.................................... 38
1.2.3.2. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tƣ duy ở trẻ 1 – 3 tuổi............39
1.2.4. Các yếu tố ảnh hƣởng đến sự phát triển tƣ duy của trẻ....................41
1.2.4.1 Di truyền.................................................................................. 41
1.2.4.2. Mơi trƣờng và giáo dục.......................................................... 42
1.2.4.3. Tính tích cực hoạt động của trẻ............................................... 45

4


2.1. Tổ chức nghiên cứu................................................................................. 50
2.1.1. Vài nét về địa bàn và khách thể nghiên cứu..................................... 50
2.1.2. Tiến trình tổ chức nghiên cứu........................................................... 50
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu......................................................................... 51
2.2.1. Phƣơng pháp nghiên cứu lí luận...................................................... 51
2.2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu thực tiễn.................................................. 51
2.2.2.2. Phƣơng pháp quan sát

2.2.2.3. Phƣơng pháp phỏng vấn sâu
2.2.2.4. Phƣơng pháp phân tích chân dung tâm lý

54
56
57

2.2.2.5. Phƣơng pháp thống kê toán học 57
CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU........................................................... 58
3.1. Thực trạng mức độ phát triển tƣ duy của trẻ em từ 1 đến 3 tuổi..............58
3.2. Thực trạng mức độ phát triển ngôn ngữ của trẻ em từ 1 đến 3 tuổi..........70
3.3. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tƣ duy của trẻ từ 1 – 3 tuổi.....................83
3.4. Phân tích một số chân dung tâm lí........................................................... 89
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ............................................................................. 99
1. Kết luận...................................................................................................... 99
2. Kiến nghị..................................................................................................102
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................104
PHỤ LỤC.........................................................................................................107

5


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bác Hồ đã từng viết:

“Trẻ em nhƣ búp trên cành.

Biết ăn, ngủ, biết học hành là ngoan”.
Đúng vậy, trẻ em chính là niềm vui, là mầm non, là tƣơng lai của mỗi đất

nƣớc. Các em cần đƣợc vui chơi, học hành và cần đƣợc ngƣời lớn quan tâm dạy
dỗ để sau này trở thành những ngƣời có ích cho xã hội. Vì vậy, trong bất kì chế
độ xã hội nào thì cơng tác chăm sóc giáo dục trẻ em ln nhận đƣợc sự quan tâm
sâu sắc của tồn xã hội.
Trong q trình phát triển chung của trẻ em thì giai đoạn từ lúc lọt lịng cho
đến 6 tuổi là qng thời gian có tầm quan trọng đặc biệt. Nhịp độ phát triển của
trẻ trong thời kì này rất nhanh và nhịp độ phát triển nhanh nhƣ vậy khơng bao
giờ cịn thấy đƣợc trong những năm tháng về sau. Đồng thời, thành tựu phát triển
mà trẻ đạt đƣợc trong những năm đầu đời có ý nghĩa rất lớn cho sự trƣởng thành
sau này của trẻ. Chính vì vậy, các bậc cha mẹ và các nhà giáo dục đã luôn dành
cho giai đoạn này sự quan tâm lớn, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển về mọi mặt
của trẻ, trong đó có vấn đề phát triển ngôn ngữ và tƣ duy.
Tuy nhiên, trong thực tiễn chăm sóc và giáo dục trẻ em 1 – 3 tuổi hiện nay,
mối quan tâm của các bậc cha mẹ đến sự phát triển ngôn ngữ và tƣ duy của trẻ là
chƣa thực sự đầy đủ. Đối với trẻ ở độ tuổi này, các bậc cha mẹ và ngƣời chăm
sóc trẻ chủ yếu là quan tâm về việc phát triển thể chất cho trẻ hơn là phát triển tƣ
duy và ngôn ngữ. Và nếu có thì đa phần các phụ huynh cũng phát triển cho con
theo kiểu mò mẫm hoặc theo kinh nghiệm của ngƣời đi trƣớc mà không theo
một nền tảng, cơ sở phát triển nào.
Hiện nay ở nƣớc ta, riêng trong ngành tâm lý học phát triển, chúng ta có thể
dễ dàng nhận thấy các cơng trình nghiên cứu về giai đoạn lứa tuổi này nhiều hơn
bất kì giai đoạn nào khác, trong đó vấn đề ngơn ngữ và tƣ duy cũng đƣợc đề cập
đến. Nhƣng nhìn chung, các nghiên cứu về ngôn ngữ và tƣ duy trẻ em vẫn tập
trung vào lứa tuổi mẫu giáo (3 – 6 tuổi) hơn là giai đoạn trƣớc đó (trẻ 1 – 3 tuổi).
Bên cạnh đó, các nghiên cứu đó cịn mang tính độc lập (nghiên cứu riêng tƣ duy
6


hoặc ngơn ngữ) mà chƣa có nhiều nghiên cứu chỉ ra mối quan hệ giữa ngôn ngữ
và tƣ duy của trẻ.

Nhƣ vậy, cả về mặt lí luận và thực tiễn, có thể nói rằng vấn đề phát triển
ngơn ngữ và tƣ duy cho trẻ em giai đoạn ba năm đầu đời chƣa đƣợc quan tâm
đúng mực mà vẫn còn những khoảng trống nhất định. Vì vậy, tơi quyết định chọn
đề tài "Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy ở trẻ em từ 1 – 3 tuổi" với mục
đích góp phần nghiên cứu về ngơn ngữ và tƣ duy cũng nhƣ mối quan hệ giữa
chúng ở trẻ từ 1 - 3 tuổi. Với đề tài này, tôi hy vọng phần nào giúp đỡ đƣợc các
bậc phụ huynh cũng nhƣ các nhà giáo dục trẻ hiểu đƣợc một cách đúng đắn về
đặc điểm ngôn ngữ và tƣ duy của trẻ cũng nhƣ mối quan hệ giữa chúng để có
đƣợc sự quan tâm, tác động và giáo dục đúng mực đối với trẻ. Theo đó, giúp trẻ
có đƣợc sự phát triển tốt nhất, tạo cơ sở và nền tảng tốt cho sự phát triển về sau
của trẻ.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu đặc điểm ngôn ngữ và tƣ duy ở trẻ em từ 1 – 3 tuổi và mối quan
hệ giữa chúng.
Trên cơ sở đó giúp các bậc phụ huynh, ngƣời chăm sóc có nhận thức đúng
đắn về sự phát triển ngôn ngữ và tƣ duy của trẻ; cũng nhƣ hiểu đƣợc mối quan
hệ giữa ngôn ngữ và tƣ duy để có thể bồi dƣỡng, phát triển tồn diện đối với trẻ.
3. Đối tƣợng và khách thể nghiên cứu
- Đối tƣợng: đặc điểm phát triển ngôn ngữ, tƣ duy; mối quan hệ giữa ngôn
ngữ và tƣ duy.
- Khách thể: 80 trẻ em từ 1 – 3 tuổi, 10 ngƣời lớn chăm sóc trẻ.
4. Giả thuyết khoa học
- Tƣ duy của trẻ từ 1 – 3 tuổi chủ yếu là tƣ duy trực quan – hành động. Trẻ

ở cuối giai đoạn này cũng bắt đầu dần hình thành tƣ duy trực quan – hình tƣợng.
Ngơn ngữ của trẻ 1 – 3 tuổi phát triển mạnh mẽ về cả mặt thông hiểu lời nói; cả
sự hình thành và phát triển ngơn ngữ nói .
- Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tƣ duy ở trẻ 1 – 3 tuổi là chặt chẽ và theo
chiều thuận. Ngôn ngữ phát triển tạo điều kiện cho sự phát triển tƣ duy; và
ngƣợc lại thì sự phát triển tƣ duy sẽ thúc đẩy quá trình phát triển ngôn ngữ ở trẻ.

7


5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu lí luận
- Nghiên cứu tài liệu về đặc điểm ngôn ngữ của trẻ em từ 1 - 3 tuổi.
- Nghiên cứu tài liệu về đặc điểm tƣ duy của trẻ em từ 1 – 3 tuổi.
- Nghiên cứu tài liệu về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tƣ duy ở trẻ 1- 3
tuổi.
5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu thực tiễn
- Nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ và tƣ duy của 80 trẻ em từ 1 – 3 tuổi trên
địa bàn Tp. Hà Nội thơng qua các bảng quan sát, các tình huống...
- Phân tích mối quan hệ giữa ngơn ngữ và tƣ duy của trẻ
- Đề xuất những kiến nghị giúp phụ huynh phát triển ngôn ngữ và tƣ duy
của trẻ.
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
6.1. Đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm phát triển ngôn ngữ, tƣ duy ở trẻ em từ 1 – 3 tuổi và mối quan hệ
giữa chúng.
6.2. Khách thể và địa bàn nghiên cứu
- 80 trẻ em từ 1 – 3 tuổi ở các nhà trẻ trên địa bàn Tp. Hà Nội, 10 ngƣời lớn
chăm sóc trẻ.
6.3. Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 11/2012 đến tháng 05/2014
7. Các phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
7.2. Phương pháp sử dụng thang đo
7.3. Phương pháp quan sát
7.4. Phương pháp phỏng vấn sâu
7.5. Phương pháp phân tích chân dung tâm lý
7.6. Phương pháp thống kê toán học


8


Chƣơng 1
LÍ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA NGƠN NGỮ VÀ TƢ DUY
Ở TRẺ 1 – 3 TUỔI
1.1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Những nghiên cứu nước ngồi về ngơn ngữ, tư duy và mối quan
hệ giữa chúng ở trẻ từ 1 – 3 tuổi
Vấn đề về tƣ duy và ngôn ngữ; cũng nhƣ mối quan hệ giữa tƣ duy và
ngôn ngữ đã đƣợc nghiên cứu từ rất sớm. Và, vấn đề mối quan hệ giữa tƣ duy và
ngôn ngữ không chỉ là mối quan tâm ở trong tâm lí học mà cả trong logic học và
ngơn ngữ học. Theo đó, có hai quan điểm cơ bản thƣờng đƣợc phát biểu và ủng
hộ nhiều hơn cả trong lĩnh vực này là:
- Quan điểm thứ nhất, là quan điểm cho rằng tƣ duy và ngôn ngữ là đồng
nhất (tƣ duy là ngôn ngữ thầm, là “ngôn ngữ trừ đi âm thanh”).
- Quan điểm thứ hai, là quan điểm cho rằng tƣ duy và ngơn ngữ chỉ gắn bó
bề ngồi với nhau (ngơn ngữ là lớp vỏ bên ngồi của tƣ duy, là phƣơng tiện biểu
hiện các ý nghĩ có sẵn nảy sinh bên ngồi hình thái các từ và các hình tƣợng cảm
tính).
Trong tâm lý học hiện đại, biểu hiện của quan điểm thứ nhất là cách giải
thích theo chủ nghĩa hành vi coi tƣ duy là kĩ xảo ngơn ngữ vận động; cịn biểu
hiện của quan điểm thứ hai là những lí luận khác nhau về tƣ duy “thuần túy” do
trƣờng phái Vuxbua sản sinh ra.
Tác giả A. N. Xôkôlôv trong tác phẩm “Ngôn ngữ bên trong và tƣ duy” đã
cho rằng: chúng ta thiên về việc gán cho hành động tƣ duy có 1 sự độc lập hồn
tồn đối với ngơn ngữ, nếu nhƣ một cá thể thành thạo đƣợc hoặc có khả năng
thành thạo đƣợc các khái niệm của mình mà khơng cần sự hƣớng dẫn bằng lời từ
phía hồn cảnh xung quanh. Rất có thể là tình trạng trí tuệ của cá thể nhƣ vậy,

phát triển trong những điều kiện nhƣ vậy sẽ rất là nghèo nàn. Nhƣ vậy, chúng ta
có thể kết luận rằng, sự phát triển trí tuệ của cá thể và con đƣờng hình thành các
khái niệm của cá thể này phụ thuộc rất nhiều vào ngôn ngữ. Điều này làm cho
chúng ta hiểu đƣợc rằng sự phát triển của ngôn ngữ đồng thời cũng là phƣơng
9


tiện của sự phát triển trí tuệ. Hiểu theo nghĩa này thì tƣ duy và ngơn ngữ là có
liên hệ lẫn nhau. [26; tr 77 - 78]
Thật vậy, việc phân tích lịch sử - xã hội vấn đề tƣ duy và ngôn ngữ theo các
quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng đã làm bộc lộ ra tính khơng có căn
cứ khoa học của các quan niệm nhƣ trên, đã làm bộc lộ ra đặc tính máy móc và
duy tâm của các quan niệm đó và đã xác lập đƣợc mối liên hệ lẫn nhau giữa
ngôn ngữ và tƣ duy, xác lập đƣợc sự thống nhất không thể tách rời đƣợc của
ngơn ngữ và tƣ duy trong q trình giao tiếp và hoạt động nhận thức của con
ngƣời. Nảy sinh ra nhƣ là phƣơng tiện để giao tiếp và hiểu biết lẫn nhau, ngôn
ngữ đồng thời cũng trở thành phƣơng tiện tƣ duy. Nó khái quát hóa và ghi lại
kinh nghiệm xã hội của con ngƣời và lời ngƣời ở dạng các khái niệm, phán đoán
và suy luận. Mặt khác, tƣ duy thể hiện ra nhƣ là phƣơng tiện để hình thành và
phát triển các ý nghĩ đó, nhƣ là phƣơng tiện để phân tích, tổng hợp, trừu tƣợng
hóa và khái quát hóa các sự vật hiện tƣợng của hiện thực.
Các nhà tâm lí học Liên Xơ cũng đã đề cập đến vấn đề tƣ duy và mối quan
hệ của nó với ngơn ngữ trong tác phẩm ''Tâm lí học" nhƣ sau:
Tƣ duy nảy sinh trên cơ sở phản xạ định hƣớng ở lứa tuổi nhỏ mang tính
chất thực tiễn (giống nhƣ hành động của khỉ). Mức độ sớm nhất về tƣ duy của
trẻ đƣợc thể hiện nhƣ sau:
- Các em giải đƣợc các bài “toán” rất trực quan (các trò chơi, rút dây giày,
luồn các dây nhỏ qua lỗ nhỏ…).
- Các bài “toán” bắt đầu xuất hiện nhƣ “một cái mồi”. Nó lơi cuốn đứa trẻ
ngay từ khi các em mới đƣợc nửa năm. Bài “toán” đƣợc ngƣời lớn nêu lên thành

câu hỏi hoặc thành các mệnh lệnh làm tăng tính mục đích và tính hợp lí trong các
hoạt động trƣớc đây không theo trật tự nào của đứa trẻ. Điều đó nói lên hoạt
động tƣ duy điển hình của con ngƣời.
- Bài “tốn” đƣợc giả bằng hành động thực tế, bằng con đƣờng phân tích
thực tế các đối tƣợng hoàn chỉnh và kết hợp các bộ phận của chúng lại với nhau.
- Trẻ em ngay cả khi giải đúng bằng hành động một bài “toán” thực tế đơn
giản, các em cũng khơng nói nhiều về những cách thức mà các em đã sử dụng.
10


Việc nắm vững ngôn ngữ thể hiện trƣớc hết đứa trẻ phải hiểu đƣợc, sau
đó nói lên lời, tích lũy nhanh chóng kinh nghiệm đời sống thực tế, đảm bảo cho
sự phát triển tƣ duy sau này của đứa trẻ. [12]
Vậy, giữa tƣ duy và ngơn ngữ có mối liên hệ lẫn nhau. Mối quan hệ này
cũng đƣợc thể hiện ngay cả ở tƣ duy và ngôn ngữ của trẻ em. Và nội dung này
vẫn ln có đƣợc sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Các tác giả đã và đang
tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu và đƣa ra những kết luận của mình. Trong đó, phải
kể đến các tác giả nổi bật sau:
* Jean Piaget (1896 – 1980), là một nhà tâm lý học nổi tiếng ngƣời Thụy
Sĩ. Tên tuổi của ơng đƣợc biết đến trên tồn thế giới vì những cống hiến to lớn
của ơng cho nền tâm lý học và giáo dục học thế kỉ XX. Suốt cuộc đời nghiên cứu
khoa học miệt mài, J. Piaget đã để lại một di sản khổng lồ các công trình nghiên
cứu đƣợc ghi chép bằng số liệu tỉ mỉ và một kho tàng các tác phẩm nổi tiếng nhƣ
“Ngôn ngữ và tƣ duy của trẻ” (1923), “Tâm lí học trí khơn” (1946), “Tâm lí học
trẻ em” (1966)…
Những thành tựu nghiên cứu về sự phát sinh, phát triển trí tuệ của trẻ em
mà ông phát hiện ra là một trong những đóng góp lớn nhất cho sự phát triển tâm
lý học thế kỷ XX. Mối quan tâm lớn nhất của Piaget là cấu trúc trí tuệ và q
trình phát sinh phát triển trí tuệ của trẻ em nhƣ thế nào? Theo ơng, trí tuệ của cá
nhân phát triển từ thấp đến cao đƣợc tuân theo trật tự chặt chẽ. Đây không phải

là trật tự thời gian mà là trật tự kế tiếp, mọi cá nhân phát triển bình thƣờng đều
phải tn theo trật tự đó. Đồng thời q trình phát triển này theo hai quy luật:
tăng trƣởng liên tục, từng tí một và phát triển nhảy vọt. Chính sự nhảy vọt cho ta
khái niệm giai đoạn. Piaget cho rằng mỗi lứa tuổi có đặc trƣng riêng về chất
lƣợng trí tuệ và đƣợc coi là một giai đoạn phát triển.
Một giai đoạn trí tuệ có những đặc trƣng sau:
- Thứ nhất, các thành tựu trí tuệ giai đoạn này là sự kế tiếp giai đoạn trƣớc
- Thứ hai, các thành tựu của gia đoạn này cũng là sự thống hợp các cấu trúc
đã có từ giai đoạn trƣớc
- Thứ ba, mỗi giai đoạn là một cấu trúc tổng thể các sơ đồ chứ không phải
là sự xếp chồng các sơ đồ lên nhau
11


- Thứ tƣ, mỗi giai đoạn đều gồm các cấu trúc đã có, đang có và các yếu tố
chuẩn bị cho giai đoạn tiếp sau.
Dựa vào các tiêu chuẩn trên, sắp xếp các dữ kiện, Piaget chia quá trình phát
triển trí tuệ của trẻ em thành các giai đoạn lớn:
- Giai đoạn cảm giác - vận động, gọi tắt là giai đoạn giác - động(từ 0 đến
1.5 tuổi hay 2 tuổi). J. Piaget đã chia sự hình thành và phát triển tƣ duy trong giai
đoạn giác – động làm 6 thời kì nhỏ:
+ Thời kì 1 (0 - 1 tháng): Các phản xạ có tính chất bẩm sinh - phản xạ bú,
đƣợc phát động do sự kích thích của mơi trƣờng và chúng càng đƣợc lặp lại
càng có hiệu lực hơn. Từ đó hình thành sơ cấu cảm giác và cử động. Sự lặp lại
các phản xạ bú tạo ra phản ứng vịng trịn sơ cấp.
+ Thời kì 2 (1 - 4 tháng): hình thành tri giác và thói quen vận động, qua
điều kiện hố các phản xạ đã có theo các tƣơng tác của môi trƣờng (động tác
mút khi nhìn thấy bầu sữa v.v…).
+ Thời kì 3 (4 - 8 tháng): phản ứng vòng tròn thứ cấp đƣợc thiết lập do sự
lặp lại các cƣ xử (các phản ứng) phối hợp giữa hệ thống tự giác với các sơ cấu

vận động (lặp lại các hành vi kéo sợi dây làm lắc quả chng để phát ra tiếng
kêu.v.v…).
+ Thời kì 4 (8 - 12 tháng): hình thành khả năng phối hợp phƣơng tiện - mục
đích (nhấc tay ngƣời lớn để lấy đồ chơi v.v…) Xuất hiện dấu hiệu của trí khơn,
trên cơ sở sơ đồ mục đích - phƣơng tiện.
+ Thời kì 5 (12 - 18 tháng): phát hiện ra các phƣơng tiện mới, khả năng
mục đích - phƣơng tiện (kéo chiếu để cho búp bê lại gần. Kéo sợi dây để lấy vật
v.v…).
+ Thời kì 6 (18 - 24 tháng): phát sinh các “giải pháp sáng tạo” (hiện tƣợng
bừng hiểu) trong ứng xử (tìm cách mở nắp hộp hoặc bao diêm lấy kẹo hay vật
hấp dẫn nào đó v.v…). Điều này chứng tỏ trẻ đã có sự nhập tâm các sơ đồ hành
động và có sự phơi hợp các sơ đồ đó ở trong đầu. Nhiều nhà tâm lý học cho rằng,
trẻ 2 tuổi đạt mức trí tuệ hành động, giống nhƣ trí tuệ của khỉ hình ngƣời trong
các thực nghiệm của W. Koehler.
- Giai đoạn tiền thao tác(từ 1.5 tuổi hay 2 tuổi đến 7 tuổi)
12


- Giai đoạn thao tác cụ thể (từ 7 - 8 tuổi đến 11 - 12 tuổi)
- Giai đoạn thao tác hình thức (từ sau 11- 12 tuổi)
Về sự phát triển ngơn ngữ, Piaget cho rằng: ở đứa trẻ bình thƣờng, ngôn
ngữ xuất hiện gần nhƣ đồng thời với những hình thức khác của tƣ duy kí hiệu.
Theo ơng, sau một giai đoạn bi bô tự phát (chung ở trẻ e thuộc tất cả các văn hóa
từ 6 đến 10 – 11 tháng tuổi), thứ ngôn ngữ này bắt đầu bằng một giai đoạn sau
khi thời kỳ giác động kết thúc, mà ngƣời ta thƣờng mô tả nhƣ ngôn ngữ bằng
những “từ - câu”. Những từ đơn nhất ấy có thể lần lƣợt thể hiện những ham
muốn, những xúc cảm hay những nhận xét. Từ cuối năm thứ hai, ngƣời ta thấy
có những câu gồm hai từ, rồi những câu nhỏ đầy đủ không chia động từ, rồi dần
dần đạt tới những cấu trúc ngữ pháp.
Piaget đề cập đến vấn đề ngôn ngữ tự kỷ với quan điểm: ngôn ngữ tự kỷ là

sự thể hiện trực tiếp tính tự kỷ của ý nghĩ trẻ em, là sự thỏa hiệp từ ban đầu giữa
tính tự kỷ của tƣ duy trẻ em và sự xã hội hóa từ của nó, là sự thỏa hiệp có tính
chất cơ động, trong đó, tùy theo mức độ phát triển của trẻ, các yếu tố tự kỷ giảm
đi và các yêu tố tƣ duy đƣợc xa hội hóa tăng lên, nhờ đó tính tự kỷ trung tâm cả
trong tƣ duy và trong ngôn ngữ dần biến mất. Về mặt chức năng, ngôn ngữ tự kỷ
không phải là cái gì khác ngồi sự phụ họa đơn giản, kèm theo giai điệu chính
của hoạt động của trẻ em và khong làm thay đổi điều gì trong giai điệu đó. Có lẽ
đó là hiện tƣợng kèm theo chứ khơng thực hiện bất cứ chức năng nào trong hành
vi và tƣ duy của trẻ. Và, ngôn ngữ tự kỷ là biểu hiện trực tiếp mức độ chƣa hoàn
thiện, chƣa đầy đủ của việc xã hội hóa của ngơn ngữ trẻ em.
Khi bàn về ngôn ngữ và tƣ duy, Piaget cho rằng: những tiến bộ của tƣ duy
biểu tƣợng, so với hệ thống các dạng thức giác – động, trên thực tế là nhờ chức
năng kí hiệu nói chung mà có. Chính chức năng này làm cho tƣ duy tách khỏi
hành động và do đó tạo ra biểu tƣợng. Ơng cũng thừa nhận rằng, trong q trình
hình thành ấy, ngơn ngữ đóng vai trị đặc biệt quan trọng vì trái với những cơng
cụ ký hiệu khác (những hình ảnh…) đƣợc cá nhân tạo ra theo những nhu cầu,
ngôn ngữ đã đƣợc xây dựng xong xuôi về mặt xã hội và đối với các cá nhân học
để sử dụng nó trƣớc khi góp phần làm phong phú nó, ngơn ngữ chứa đựng sẵn
13


một tập hợp với những công cụ nhận thức (những liên hệ, những phân loại…)
phục vụ cho tƣ duy. [7].
Tuy nhiên, đối với trẻ em thì ơng vẫn quan điểm rằng ngôn ngữ không quan
trọng lắm đối với sự phát triển của tƣ duy. Theo ông, tƣ duy phát triển là nhờ có
việc trẻ hành động tực tiếp với các vật thể vật chất, phát hiện ra những thiếu sót
trong tƣ duy hiện có, luyện tập để sáng tạo ra phƣơng thức tƣ duy phù hợp với
hiện thực (Piaget nhân mạnh tầm quan trọng của hoạt động trực quan của trẻ với
đồ vật). Theo đó, hạn chế của Piaget là khơng đánh giá hết đƣợc vai trị to lớn
của ngơn ngữ trong việc thúc đẩy sự phát triển của tƣ duy.

Quan điểm của Piaget có ảnh hƣởng to lớn đến giáo dục mẫu giáo và tiểu
học thông qua ba điểm sau:
+ Chú trọng cho trẻ hoạt động tìm tịi: trẻ em đƣợc động viên tự tìm tịi
phát hiện qua sự tác động ngẫu nhiên. Thay vì cung cấp cho trẻ kiến thức sẵn có
bằng lời, ngƣời ta đƣa ra một loạt các hoạt động thiết kế nhằm kích thích cho trẻ
khám phá, phát hiện, tìm tịi và cho phép trẻ tự do lựa chọn các hoạt động này.
+ Nhận thức rõ sự sẵn sàng học tập của trẻ. Ngƣời ta không cố gắng thúc
đẩy sự phát triển của trẻ em. Nội dung học tập đƣợc xác định trên mức độ phát
triển của trẻ. Giáo viên quan sát và lắng nghe học sinh của mình, giới thiệu
những kinh nghiệm cho phép trẻ thực hành những mơ hình mới sửa đổi cách nhìn
nhận thế giới cịn sai lạc. Những kĩ năng mới khơng thể đƣợc áp đặt trƣớc khi
trẻ hồn tồn thích thú hay sẵn sàng.
+ Công nhận sự khác biệt cá thể. Lí thuyết của Piaget cho rằng tất cả trẻ em
đều trải qua trình tự phát triển nhƣ nhau nhƣng trẻ em phát triển với những tốc
độ khác nhau. Vì thế, giáo viên phải nỗ lực tổ chức hoạt động cho từng trẻ, hoặc
nhóm khơng phải theo cả lớp.
Lí thuyết của Piaget chú ý nhiều đến hành vi nhƣ một cách thức học tập mà
coi nhẹ giao tiếp ngôn ngữ. Ảnh hƣởng của Piaget đến giáo dục rất lớn; cung cấp
cho giáo viên cách thức để quan sát, nhận định và tăng cƣờng sự phát triển của
trẻ em. Ơng cịn trang bị những cơ sở lí luận cho cách tiếp cận theo hƣớng lấy trẻ
em làm trung tâm hoạt động và giảng dạy.
14


*L. X.Vưgôtxki (1896- 1934), là nhà Tâm lý học Xô Viết vĩ đại. Chỉ sau gần
10 năm hoạt động với tƣ cách là nhà tâm lý học chuyên nghiệp ông đã để lại
hàng trăm cơng trình nghiên cứu tâm lí học. Và ngày nay, tƣ tƣởng của ơng vẫn
mang tính thời sự, những số liệu, nghiên cứu và giả thuyết của ông vẫn đang
đƣợc chứng minh. Quan điểm của ông đƣợc đánh giá cao khơng chỉ bởi các nhà
tâm lí học hoạt động mà cả những nhà tâm lí học Âu – Mỹ. Cùng với J. Piaget,

ông đƣợc coi là ngƣời sáng lập ra tâm lí học phát triển.
Vấn đề tƣ duy và ngơn ngữ chiếm vị trí trung tâm trong các cơng trình
nghiên cứu của L. X. Vugotxki cũng nhƣ tâm lý học Xô viết đã giải quyết đƣợc
rất nhiều vấn đề trong lĩnh vực này theo quan điểm mới và khoa học triệt để:
nguồn gốc của tƣ duy, trí tuệ và của ngơn ngữ, bản chất xã hội của tƣ duy ngơn
ngữ, vai trị của ngơn ngữ trong tƣ duy và trí tuệ trẻ em, bản chất của khái niệm
khoa học và vai trị của phƣơng tiện kí hiệu (ngơn ngữ) trong q trình hình
thành và phát triển của nó, sự hình thành và phát triển của ý và nghĩa trong quá
trình hình thành phát triển từ, tức là mối quan hệ phát sinh giữa ý, nghĩa và từ
ngữ… Toàn bộ những vẫn đề nêu trên đƣợc L. X. Vugotxki giải quyết theo tƣ
tƣởng phát triển, nguyên tắc phát triển, nguyên tắc gián tiếp, lịch sử, tiếp cận
theo phƣơng pháp lịch sử - phát sinh, phƣơng pháp phân tích đơn vị, phƣơng
pháp cơng cụ và phƣơng pháp kích thích kép… Nói cách khác, ở đây hội tụ đầy
đủ các nguyên lý, phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể của
L.X.Vugotxki và cộng sự. Trong quá trình giải quyết những vấn đề trên
L.X.Vƣgotxki cũng thƣờng xuyên đề cập và tranh luận với nhiều nhà tâm lý học
đƣơng thời có quan điểm khác, đặc biệt là với W.Sterner, J.Piaget, Keler,
J.Watson. Các kết quả nghiên cứu vấn đề này đƣợc L.X.Vƣgotxki phân tích
trong tác phẩm “Cơng cụ và kí hiệu trong sự phát triển của trẻ em” (1930) và sau
này đƣợc tổng kết trong tác phẩm tâm lý học lớn nhất của ông “Tƣ duy và ngôn
ngữ” (1934). Sau đây là một số luận điểm chính của L.X.Vƣgotxki về vấn đề tƣ
duy và ngôn ngữ.
- Nguồn gốc phát sinh của tƣ duy, ngôn ngữ và tƣ duy ngôn ngữ
Theo L.X.Vƣgotxki, tƣ duy và ngơn ngữ có nguồn gốc khác nhau và đều
bắt nguồn từ hành động. Sự phát triển của tƣ duy và của ngôn ngữ đến một thời
15


điểm nhất định sẽ diễn ra sự kết hợp, trong đó tƣ duy có ngơn ngữ cịn ngơn ngữ
là ngơn ngữ trí tuệ.

Sử dụng phƣơng pháp phân tích đơn vị và phƣơng pháp luận lịch sử phát
sinh để phân tích kết quả nghiên cứu của các nhà tâm lý học lớn đƣơng thời nhƣ
Keler, J.Watson, J.Piaget, Sterner v.v… L.X.Vƣgotxki đã đi đến những kết luận:
+ Trong quá trình phát sinh cá thể của tƣ duy và ngôn ngữ, chúng ta tìm
thấy nguồn gốc khác nhau của hai quá trình này.
+ Trong q trình phát triển ngơn ngữ trẻ em, chúng ta có thể thừa nhận có
“giai đoạn tiền trí tuệ” cũng nhƣ trong q trình phát triển tƣ duy có “giai đoạn
tiền ngơn ngữ”.
+ Trƣớc thời điểm nào đó, sự phát triển của tƣ duy và ngôn ngữ theo hai
đƣờng khác nhau, độc lập với nhau.
+ Tại một thời điểm nào đó, cả hai tuyến cắt nhau, sau đó tƣ duy trở thành
tƣ duy ngơn ngữ, cịn ngơn ngữ trở thành ngơn ngữ trí tuệ. [15; tr 536 - 537]
- Sự phát triển tƣ duy, ngôn ngữ và tƣ duy ngôn ngữ ở trẻ em
L.X.Vƣgotxki không tán thành các quan niệm cực đoan, hoặc cho rằng trí
tuệ cấp cao của ngƣời có nguồn gốc từ trí tuệ của khỉ và nó chính là sự tiếp tục
trực tiếp của các nguồn gốc đó, mà khơng có bƣớc nhảy vọt sang hình thức tồn
tại mang tính chất xã hội; hoặc cho rằng trí tuệ cấp cao là phát kiến vĩ đại của
chính đứa trẻ, qua việc tự nó tìm ra đƣợc quan hệ giữa kí hiệu và ý nghĩa của nó,
nghĩa là tƣ duy, trí tuệ nhƣ là hành động tinh thần thuần tuý.
Theo L.X.Vƣgotxki, trẻ em chỉ sử dụng công cụ giống nhƣ khỉ (trong các
thực nghiệm của Keler) cho đến khi chúng vẫn cịn ở giai đoạn phát triển tiền
ngơn ngữ. Nhƣng ngay sau khi ngôn ngữ của trẻ đƣợc xuất hiện và đƣợc đƣa
vào sử dụng thì việc sử dụng cơng cụ của trẻ đƣợc đổi mới hồn tồn, khắc phục
đƣợc các qui luật tự nhiên sẵn có và lần đầu tiên tạo ra hình thức sử dụng cơng
cụ đặc trƣng cho loài ngƣời. Từ thời điểm này, trẻ nhỏ với sự giúp đỡ của ngôn
ngữ, bắt đầu làm chủ tình huống, làm chủ hành vi bản thân, xuất hiện hình thức
tổ chức hành vi hồn tồn mới cũng nhƣ quan hệ mới với môi trƣờng. Đứa trẻ ở
trong điều kiện nảy sinh các dạng hành vi đặc trƣng cho loài ngƣời, tách rời khỏi
16



các dạng hành vi động vật, phát triển trí tuệ và sau đó mang tính chất cơ bản đối
với lao động - hình thức sử dụng cơng cụ của lồi ngƣời. [15; tr 537]
L.X. Vƣgotxki cũng cho rằng quá trình phát triển nêu trên khơng phải là kết
quả của chính hành động trí tuệ (nhƣ quan điểm của trƣờng phái Vuxbua), cũng
khơng phải là sản phẩm của q trình tự động hoá, xuất hiện nhƣ là sự bừng hiểu
ở thời điểm của cuối q trình hành động (nhƣ lí luận của trƣờng phái Gestalt). Ông
cho rằng: “ngay từ những ngày đầu tiên, sự thích ứng của nó với mơi trƣờng đƣợc
thực hiện bằng các phƣơng tiện xã hội thông qua những ngƣời xung quanh. Con
đƣờng từ đồ vật đều trẻ em và từ trẻ em đến đồ vật đều đi qua ngƣời khác. Chuyển
từ con đƣờng phát triển sinh học sang con đƣờng phát triển xã hội, tạo thành mắt
xích trung tâm trong quá trình phát triển, là bƣớc ngoặt cơ bản trong

lịch sử hành vi của trẻ em. Con đƣờng đi qua ngƣời khác là con đƣờng trung
tâm của sự phát triển trí tuệ”. [15; tr 539]
Con đƣờng đi từ đồ vật đến trẻ em và từ trẻ em đến đồ vật đều đi qua
ngƣời khác. Nếu chúng ta chỉ đặt trẻ vào mơi trƣờng có tồn đồ vật mà khơng có
hƣớng dẫn, khơng có ngơn ngữ trong q trình hƣớng dẫn trẻ chơi thì nó cũng
chỉ là đống đồ chơi chết cứng, trẻ có thể thích một hai loại đồ chơi do màu sắc,
âm thanh hay kích cỡ, nhƣng trẻ cũng chỉ biết cầm nó nhƣ một vật vơ tri. Vậy
nên vai trị của ngƣời hƣớng dẫn trong giai đoạn đầu đời của trẻ là hết sức quan
trọng.
L.X.Vƣgotxki trong ''Tƣ duy và ngôn ngữ" đã lập luận rằng: hoạt động tinh
thần của con ngƣời chính là kết quả học tập mang tính xã hội. Theo ơng, khi trẻ
em gặp một số khó khăn trong cuộc sống, trẻ tham gia vào sự hợp tác với ngƣời
lớn và của bạn bè có năng lực cao hơn, những ngƣời này đã giúp đỡ trẻ và
khuyến khích trẻ. Trong mối quan hệ hợp tác này, những quá trình tƣ duy trong
một xã hội nhất định đƣợc truyền giao sang trẻ, mà ở đó ngơn ngữ là phƣơng
thức đầu tiên trao đổi các giá trị xã hội. Vƣgotxky coi ngôn ngữ là vô cùng quan
trọng đối với sự phát triển tƣ duy.

Cũng bàn về vấn đề ngôn ngữ tự kỷ nhƣng theo quan điểm đối lập với
Piaget, Vƣgotxki cho rằng: ngôn ngữ tự kỷ của trẻ em là một trong những hiện
tƣợng chuyển từ các chức năng tâm lý bên ngoài vào các chức năng tâm lý bên
17


trong. Sự chuyển tiếp này là quy luật chung tƣơng đối với sự phát triển tất cả các
chức năng tâm lý cấp cao. Các chức năng này, ngay từ đầu, xuất hiện nhƣ là các
hình thực hoạt động hợp tác và chỉ sau đó mới đƣợc trẻ em chuyển vào lĩnh vực
các hình thức hoạt động tâm lý. Ngơn ngữ cho bản thân xuất hiện bằng con
đƣờng phân hóa chức năng ngơn ngữ có tính chất xã hội có sẵn từ đầu cho ngƣời
khác. Theo ông, ngôn ngữ tự kỷ có chức năng gần gũi với chức năng của ngơn
ngữ bên trong. Đó khơng phải là giai điệu phụ họa mà là giai điệu chính, là chức
năng độc lập, phục vụ cho mục tiêu của hoạt động trí tuệ, cho ý thức khắc phục
khó khăn và trở ngại, cho tƣởng tƣợng và tƣ duy. Đó là ngơn ngữ cho mình,
phục vụ cho tƣ duy trẻ em. [34]
Nhƣ vậy, Vƣgotxki cho rằng ngôn ngữ giúp trẻ tƣ duy và lựa chọn các hành
động phù hợp. Ơng đánh giá ngơn ngữ nhƣ nền tảng cho tất cả các quá trình tƣ duy
bậc cao nhƣ điều khiển, chú ý, ghi nhớ có chủ định và nhớ lại, phân loại kế hoạch
hóa hoạt động và giải quyết vấn đề. Trẻ càng lớn càng thấy các hoạt động dễ dần,
ngôn ngữ tự điều chỉnh sẽ chuyển vào bên trong thành lời nói thầm.

L.X.Vƣgotxki cũng đã có những kết luận quan trọng về mặt giáo dục đối
với trẻ. Theo ông, giáo dục không đi cùng hoặc đi sau sự phát triển, mà giáo dục
phải đi trƣớc sự phát triển, và ông đƣa ra khái niệm “vùng phát triển gần nhất”.
Khái niệm “vùng phát triển gần nhất” dựa trên quan điểm rằng: nếu có
ngƣời định hƣớng và hỗ trợ giải quyết một phần khó khăn của nhiệm vụ, thì
ngƣời học có thể tƣ duy theo cách tiến bộ hơn so với khi phải thực hiện toàn bộ
nhiệm vụ đó một mình. Đối với mỗi trẻ nhất định, vùng phát triển gần nhất đƣợc
xác định là khoảng cách giữa những gì trẻ có thể hồn thành khi giải quyết vấn

đề một mình và những gì trẻ có thể làm đƣợc khi nhận đƣợc sự giúp đỡ hữu ích.
Mặc dù hai đứa trẻ có khả năng nhƣ nhau để làm bài tập một mình, một trẻ có
khả năng hồn thành nhiều hơn khi đƣợc giúp đỡ, trong khi trẻ kia khơng nhận
đƣợc sự giúp đỡ đáng kể thì hồn thành ít hơn. Việc trẻ làm tốt đến mức độ nào
khi đƣợc giúp đỡ thì nói lên nhiều điều về tƣ duy của trẻ hơn là việc trẻ không
làm tốt khi không đƣợc trợ giúp.
Trong lý thuyết về “vùng phát triển gần nhất” có khái niệm “thời kì giảng
dạy tối ƣu một mơn học nào đó”, có khi cịn gọi là “thời kỳ nhạy cảm”, là thời kì
18


cơ thể nhạy bén nhất đối với một loại tác động nào đó, mà ở thời kì khác tác động
đó có thể chỉ là trung tính, hay tác động kém. L.X.Vƣgotxki viết: “Vì vậy việc
giảng dạy chỉ có kết quả nhất khi nó đƣợc tiến hành trong một thời kỳ nhất định,
thời kỳ này đƣợc xác lập bởi vùng phát triển gần – có khi cịn gọi là thời kỳ có
ngƣỡng thấp (nhạy cảm cao) của giảng dạy; thời kỳ ngƣợc lại gọi là thời kỳ có
ngƣỡng cao (kém nhạy cảm)”.
Tiếp thu quan điểm của Vƣgotxki, ngƣời ta chỉ ra hai đặc điểm quan trọng
của quá trình trẻ hoạt động với ngƣời lớn. Đó là:
+ Tính liên chủ thể: hai ngƣời tham gia vào cùng một nhiệm vụ từ khác biệt
đến thống nhất. Liên chủ thể tạp ra cơ sở chung cho giao tiếp khi từng cá thể tự
điều chỉnh để phù hợp với quan điểm của bạn giao tiếp. Ngƣời lớn cố gắng thúc
đẩy tính liên chủ thể khi diễn đạt hiểu biết của mình trong cách thức để hiểu vấn
đề của trẻ. Khi trẻ cố gắng lĩnh họi sự giảng giải tức là nó đã bƣớc thêm một
bƣớc về nhận thức.
+ Phƣơng pháp bắc giàn hay còn gọi là phƣơng pháp thích ứng: ngƣời lớn
thay đổi sự hỗ trợ của mình đẻ phù hợp với mức độ phát triển hiện có của trẻ.
Lí thuyết của Vƣgotxki đƣa đến một cách nhìn mới trong dạy học, ở đó
nhấn mạnh ngữ cảnh giao tiếp. Về sự hợp tác cùng nhau, cũng nhƣ Piaget, ơng
coi trọng sự tham gia tích cực và sự khác biệt của các cá thể. Khác với Piaget,

ơng coi giáo dục khơng chỉ hồn thiện những cái đã hình thành mà cịn thúc đẩy
sự phát triển khi trẻ tiếp thu sự chỉ dẫn, hỗ trợ của ngƣời lớnđể giải quyết những
nhiệm vụ ở “vùng phát triển gần nhất”.
Ngoài quan điểm của các tác giả trên, chúng ta cịn có thể kể đến các tác giả
nổi tiếng khác nghiên cứu về tƣ duy và ngôn ngữ của trẻ em nhƣ: Henri Wallon,
J.S.Bruner, Alfred Binet, Howard Gardne, A.M.Leusina, E.I. Chikhiêva,
* Alfred Binet, năm 1904, cùng một nhóm các nhà tâm lý học ngƣời Pháp
chuyên nghiên cứu tâm lý trẻ đã nghiên cứu thành công phƣơng pháp nhận diện
và đánh giá trí tuệ của học sinh. Cơng trình đƣợc đƣợc giới chức giáo dục Pháp
đánh giá rất cao. Sau đó, bài kiểm tra của Binet trở nên thông dụng trên khắp
nƣớc Mỹ và bùng phát mạnh vào năm 1917 – chính phủ Mỹ sử dụng bài kiểm tra
19


này để phân loại, đánh giá và phân bổ tân binh vào các vị trí trong quân đội, trong
Thế chiến thứ I. Các bài kiểm tra của Binet nhằm kiểm tra trí thơng minh đối với
học sinh, qua đó ơng sẽ đánh giá đƣợc năng lực tƣ duy và suy luận của trẻ trong
nhiều lĩnh vực khác nhau. Bài kiểm tra đòi hỏi trẻ phải làm một số trắc nghiệm về
khả năng làm theo hƣớng dẫn, bắt chƣớc hình mẫu, gọi tên đồ vật hoặc sắp xếp
món đồ theo thứ tự và chủng loại.
* J.S.Bruner, nhà tâm lý học Mỹ chuyên nghiên cứu về tâm lý học trẻ em
và các q trình nhận thức đã phân tích các mức độ khác nhau của hoạt động
nhận thức, từ tri giác đến tƣ duy khái niệm. Ở trẻ nhỏ, sản phẩm của q trình tƣ
duy chính là các biểu tƣợng, hình ảnh nhƣng ở các mức độ khác nhau. Sự phát
triển của các biểu tƣợng là một trong những chỉ số của sự phát triển trí tuệ nói
chung và sự phát triển tƣ duy nói riêng.
* Tác giả E.I. Chikhiêva, nhà sƣ phạm Nga – Xơ viết là một tác giả có uy
tín nghiên cứu về phát triển ngơn ngữ cho trẻ mẫu giáo. Cuốn sách "Phát triển
ngôn ngữ trẻ em dưới tuổi đến trường phổ thông" của bà đã đề ra các phƣơng pháp
phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách hệ thống. Trong đó, bà nhấn mạnh cần dựa trên

cơ sở tổ chức cho trẻ tìm hiểu về thế giới thiên nhiên xung quanh trẻ thông qua các
hoạt động chơi, xem tranh, kể chuyện cho trẻ nghe để hình thành và phát triển kỹ
năng kể chuyện cho trẻ. Bà cũng lƣu ý các nhà giáo đến vai trò to lớn của tự nhiên
trong việc giáo dục trẻ em nói chung và ngơn ngữ nói riêng. Có điều làm sao khi
chung đụng với thiên nhiên, các em đƣợc quan sát nhiều, hoạt động nhiều và thể
hiện tình cảm nhiều thì mới có lợi cho ngơn ngữ. Những tƣ tƣởng này đến nay vẫn
còn nguyên giá trị đối với khoa học giáo dục mầm non.

[22]
* Tác giả K-Hainơ Dich trong các tác phẩm của mình, trong đó có cuốn
"Dạy trẻ học nói như thế nào?" đã dựa trên cơ sở các đặc điểm phát triển ngôn
ngữ của trẻ để xây dựng nội dung phƣơng pháp, biện pháp và các bài tập phát
triển ngơn ngữ cho trẻ trƣớc tuổi học. Trong đó, có chú ý tới hồn chỉnh bộ máy
phát âm, tạo mơi trƣờng ngôn ngữ nhất là ngôn ngữ của ngƣời lớn xung quanh.
[21]
20


Trong phạm vi của đề tài này, chúng tôi kế thừa quan niệm của
L.X.Vưgơtxki trong việc tìm hiểu, đánh giá sự phát triển ngôn ngữ, tư duy của trẻ
và mối quan hệ giữa chúng; cũng như trong việc tìm hiểu những tác động ảnh
hưởng đến sự phát triển ngôn ngữ và tư duy của trẻ.
1.1.2. Những nghiên cứu trong nước về ngôn ngữ, tư duy và mối quan
hệ giữa chúng ở trẻ từ 1 – 3 tuổi
Ở nƣớc ta trong những năm gần đây, vấn đề phát triển ngôn ngữ cho trẻ em
ngày càng đƣợc nhiều nhà khoa học, nhà giáo dục học đặc biệt quan tâm qua các
cơng trình nghiên cứu. Tuy nhiên, vấn đề tƣ duy trẻ em thì vẫn chƣa có nhiều
cơng trình nghiên cứu chun biệt. Và có chăng thì vấn đề về ngơn ngữ và tƣ duy
của trẻ em vẫn mới chỉ đƣợc quan tâm nghiên cứu một cách riêng lẻ (nghiên cứu
về tƣ duy, hoặc nghiên cứu về ngơn ngữ); cịn mối quan hệ lẫn nhau giữa ngơn

ngữ và tƣ duy thì chƣa đƣợc quan tâm nghiên cứu và chƣa có những cơng trình
chun biệt.
Tác giả Nguyễn Xuân Khoa trong cuốn “Phương pháp phát triển ngôn ngữ
cho trẻ mẫu giáo” đã chỉ ra rằng: Từ 1 năm đến 1 năm 5 tháng, trẻ em bắt chƣớc
ngƣời lớn, lặp lại những từ nghe đƣợc: bà, bố, mẹ, ủ (ngủ)… Số lƣợng từ có thể
đạt từ 30 – 40 từ. Từ tháng thứ 6 của năm thứ 2, vốn từ tăng vụt lên và đến cuối
năm thứ 2 các em có thể nói đến 5, 6 trăm từ. Đến năm thứ 3, các em đã sử dụng
đƣợc từ 1300 từ, trong đó phần lớn là danh từ, động từ cịn tính từ và những từ
loại khác thì chiếm tỉ lệ rất ít, khơng đáng kể. Những từ đƣợc các cháu sử dụng
thƣờng là những từ chỉ tên gọi, đồ chơi, đồ dùng, con vật… mà các cháu thƣờng
xuyên đƣợc tiếp xúc, là những từ chỉ những việc làm của các cháu và của mọi
ngƣời xung quanh (nhƣ: ăn, ngủ, tắm, rửa, quét, đi, bế, cõng…) hoặc là những
từ chỉ hành động của những con vật (nhƣ: gà mổ thóc, cá bơi…). Vật thể xung
quanh thu hút sự chú ý của trẻ và nhận đƣợc tên gọi chỉ trong trƣờng hợp ngƣời
ta cho trẻ “giao tiếp” với chúng: đụng đến, sờ mó đến vật, mâm mê trong tay,
vuốt ve, sờ mó, nghe, ngửi, ăn… Ngay khoảng 2 tuổi, trẻ nhớ tên gọi đối tƣợng
khó khăn nếu chỉ nhìn nó. Bên cạnh đó, trong tác phẩm này, tác giả cũng đã đề
cập đến nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ khác nhau cho trẻ. Theo đó, góp phần vào
việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ em. [11]
21


Tác giả Tạ Ngọc Thanh trong tác phẩm “Đánh giá và kích thích sự phát
triển của trẻ 0 – 3 tuổi”, đã cho rằng: Sự phát cảm ngôn ngữ của trẻ diễn ra mạnh
từ 1 – 3 tuổi: trẻ nhớ đƣợc các từ, rồi câu nói, các sự việc mới xảy ra, lặp lại các
hành động đã làm trƣớc đó... Đến cuối 2 tuổi, các âm bập bẹ của trẻ dƣờng nhƣ
mất đi nhƣờng chỗ cho sự phát triển các từ chỉ động. Trẻ 2 – 3 tuổi có số lƣợng
từ tăng rất nhanh và các từ loại không chỉ là động từ, danh từ nhƣ trƣớc hai tuổi
mà dần dần các từ loại khác (tính từ, trạng từ...) cũng xuất hiện. Đến 3 tuổi, trẻ đã
hiểu đƣợc các câu nói, hiểu đƣợc nghĩa khái qt của từ (ví dụ: từ “áo” là để chỉ

tất cả các áo có hình dáng, kích thƣớc, màu sắc khác nhau). Trẻ 3 tuổi có thể phát
âm rõ ràng để ngƣời khác hiểu ý của mình (tuy việc phát âm cũng chƣa thật
chính xác), có thể kể chuyện đơn giản và có thể thuộc những bài thơ, bài hát
ngắn. Tác giả cũng cho rằng ngơn ngữ của trẻ phát triển mạnh và có quan hệ chặt
chẽ với sự phát triển tƣ duy. Bên cạnh đó, trong tác phẩm của mình, tác giả đã
đƣa ra các phƣơng pháp, các chỉ số đánh giá về sự phát triển tâm lí của trẻ từ 0 –
3 tuổi (trong đó có nhận thức và ngơn ngữ); và đƣa ra một số biện pháp kích
thích sự phát triển nhận thức và ngôn ngữ cho trẻ giai đoạn này. Điều này có ý
nghĩa to lớn đối với cả nhà giáo dục và phụ huynh trong việc hiểu rõ hơn và biết
cách tác động tốt hơn để kích thích sự phát triển ngôn ngữ và tƣ duy của trẻ. [24]
Tác giả Đinh Hồng Thái cũng đã đề cập đến vấn đề ngơn ngữ của trẻ trong
giáo trình "Phát triển ngơn ngữ tuổi mầm non" . Trong tác phẩm, tác giả đã trình
bày khá đầy đủ những vấn đề chung về ngơn ngữ và sự phát triển ngôn ngữ trẻ
em tuổi mầm non; cũng nhƣ trình bày những đặc điểm phát triển ngôn ngữ và
những nhiệm vụ, nội dung phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non. Đây đƣợc xem
là cuốn giáo trình khá đầy đủ về phát triển ngơn ngữ của trẻ. [20]
Tác giả Bùi Kim Tuyến và các công sự của mình cũng đã đề cập đến vấn đề
trong tác phẩm "Các hoạt động phát triển ngôn ngữ của trẻ mầm non". Các tác
giả đã dựa trên đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ để đề ra các phƣơng pháp
và hình thức tổ chức hoạt động phát triển ngơn ngữ cho trẻ. Theo đó, cuốn sách
đã cung cấp cho các nhà giáo dục và các bậc phụ huynh những hiểu biết khái
quát về đặc điểm ngôn ngữ của trẻ cũng nhƣ có đƣợc những hoạt động có thể
kích thích khả năng phát triển ngôn ngữ của trẻ.
22


Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Huy Cẩn "Các q trình hình thành và
phát triển ngơn ngữ trẻ em" và luận án tiến sĩ của tác giả Lƣu Thị Lan "Những
bƣớc phát triển ngôn ngữ trẻ mẫu giáo" đã khái quát các bƣớc phát triển ngôn
ngữ cho trẻ từ 1 - 6 tuổi. Tác giả đã tập trung mô tả khá tỉ mỉ các hiện tƣợng xuất

hiện ngôn ngữ tự nhiên của trẻ về mặt ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng. Các cơng trình
này cung cấp tài liệu về những bƣớc phát triển ngôn ngữ trẻ em Việt Nam, đóng
góp trong lĩnh vực nghiên cứu ngơn ngữ trẻ em trƣớc tuổi học đƣa ra những cơ
sở khoa học định hƣớng cho việc nghiên cứu tiếp cơng trình phát triển ngôn ngữ
cho trẻ mầm non và đào tạo giáo viên mầm non.
Về tƣ duy trẻ em thì có thể nói là ở Việt Nam chƣa có nhiều cơng trình
nghiên cứu chun biệt. Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu về trí tuệ trẻ em
của Hồ Ngọc Đại, Phạm Hồng Gia, Nguyễn Ánh Tuyết, Nguyễn Khắc Viện…đã
đạt đƣợc nhiều kết quả đáng trân trọng.
Thành tựu nghiên cứu về sự phát triển trí tuệ trẻ em đầu tuổi học của Hồ
Ngọc Đại đã chỉ ra chiến lƣợc về giáo dục trí tuệ. Cùng với đồng nghiệp của
mình là Nguyễn Kế Hào và các cộng sự ở Trung tâm Công nghệ giáo dục, ơng đã
thực hiện một số cơng trình thực nghiệm dài hạn về chiến lƣợc giáo dục mới với
tƣ tƣởng cơ bản là: ngƣời lớn tổ chức trẻ em hoạt động để chiếm lĩnh nền văn
hóa lồi ngƣời.
Cơng trình nghiên cứu về trí thơng minh của Phạm Hồng Gia cho rằng trí
thơng minh ở trẻ em, một sản phẩm tƣ duy đƣợc đặc trƣng bởi tính chủ động, linh
hoạt, sáng tạo trong nhận thức và hành vi. Vậy cốt lõi của trí thơng minh chính là tƣ
duy. Q trình phát triển tƣ duy cũng chính là con đƣờng lĩnh hội khái niệm, là tiền
tố tạo nên trí thơng minh. Việc hình thành trí thơng minh ở trẻ em là con đƣờng
vững chắc nhất để chiếm lĩnh khái niệm khoa học. Ở trẻ mẫu giáo, trí thơng minh thể
hiện trong thao tác với đồ vật. Đó là kỹ năng, kỹ xảo thuần thục, óc quan sát, trí nhớ
logic, sự thể hiện ngơn ngữ. Ở trẻ em, trí thơng minh và năng khiếu phải đƣợc bộc
lộ và phát triển trong hoạt động của chính bản thân đứa trẻ.

23


Các cơng trình nghiên cứu của bác sỹ Nguyễn Khắc Viện về tâm lý học trẻ
em có một ý nghĩa đặc biệt sâu sắc. Qua nhiều năm làm việc, tiếp xúc với trẻ em,

ơng cho rằng trí khơn của trẻ biểu hiện ở chỗ biết định hƣớng trong không gian,
thời gian và các mối quan hệ xã hội. Các bài viết của ơng thể hiện một tình u
tha thiết đối với con trẻ, một mong muốn mãnh liệt là làm sao nền giáo dục nƣớc
nhà không làm thui chột mà ngƣợc lại phát triển hết mọi khả năng có thể có của
trẻ em.
Cũng xuất phát từ quan điểm cơ bản của lý thuyết hoạt động, trong lĩnh vực
tƣ duy của trẻ mẫu giáo, Nguyễn Ánh Tuyết đã có cơng trình nghiên cứu về tính
linh hoạt trong tƣ duy bằng thực nghiệm cho trẻ hành động trên các đồ vật có
nhiều hình dạng khác nhau gồm nhiều biến thể của các hình học. Kết quả, trẻ giải
quyết nhiệm vụ thực tiễn một cách linh hoạt với nhiều phƣơng án khác nhau, chứ
không rập khuôn theo một mẫu cứng nhắc nào. Từ đó tác giả cho rằng, nếu trẻ
em mẫu giáo hành động với các đồ vật phong phú đa dạng sẽ tránh đƣợc sự cứng
nhắc, gị bó trong hành động vật chất, dẫn tới kiểu tƣ duy giáo điều, kinh nghiệm
chủ nghĩa sau này.
Trong luận án “Xây dựng trắc nghiệm đánh giá sự phát triển tâm lí của trẻ
cuối độ tuổi nhà trẻ” (2002), tác giả Tạ Thị Ngọc Thanh dựa trên cơ sở lí luận về
việc xây dựng và đánh giá trắc nghiệm, và đã xây dựng thành công trắc nghiệm
TBT đánh giá sự phát triển tâm lí của trẻ cuối độ tuổi nhà trẻ. Phƣơng pháp thiết
kế và kiểm nghiệm trắc nghiệm của tác giả đƣợc thực hiện qua 3 bƣớc: Xây
dựng các tiêu chí và thiết kế trắc nghiệm → Thử nghiệm trắc nghiệm trên 44 trẻ
thuộc các trƣờng mầm non của quận Ba Đình và Thanh Trì (mẫu đại diện cho trẻ
nông thôn và thành thị) → Kiểm nghiệm trắc nghiệm trên 405 trẻ trên địa bàn nội
và ngoại thành thành phố Hà Nội. Sau khi thử nghiệm và kiểm nghiệm, Test TBT
đƣợc chỉnh sửa và hoàn chỉnh bao gồm 3 lĩnh vực: tâm vận động, trí tuệ và cá
nhân – xã hội; mỗi lĩnh vực có từ 3 đến 7 chỉ báo; mỗi chỉ báo đều gồm 4 item
đƣợc sắp xếp theo mức độ khó tăng dần. Kết quả kiểm định độ tin cậy và độ hiệu
lực đã chứng tỏ rằng test TBT là công cụ đáng tin cậy để đo sự phát triển tâm lý
của trẻ cuối độ tuổi nhà trẻ trên địa bàn Tp Hà Nội. Kết quả kiểm nghiệm cũng
24



×