Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Tài liệu Luận văn tốt nghiệp “Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng gốm xây dựng của Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu thuộc Tổng công ty Thủy tinh và Gốm xây dựng – Viglacera” docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.51 KB, 67 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Thực hiện đường lối chiến lược CNH - HĐH mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra
nhằm đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu trở thành một nước có nền
kinh tế công nghiệp hiện đại, bảo đảm dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn
minh, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt chú trọng công tác xuất nhập khẩu nhằm phát
triển và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại với mục tiêu kim ngạch xuất khẩu
tăng bình quân hàng năm 27,7%, kim ngạch nhập khẩu tăng bình quân hàng năm
22%. Nhìn lại chặng đường phát triển của hoạt động ngoại thương Việt Nam cho
thấy, mặc dù còn rất khiêm tốn song đã đi những bước rất vững chắc khai thác mọi
tiềm năng để phát triển, khẳng định chỗ đứng của mình ở thị trường trong nước và
Quốc tế.
Trong xu thế mở cửa và hoà nhập vào nền kinh tế thế giới theo tinh thần đổi mới
kinh tế của Nhà nước ta, việc mở rộng hoạt động của các doanh nghiệp ra các thị
trường nước ngoài là một xu hướng tất yếu khách quan đáp ứng yêu cầu của nền
kinh tế đất nước nói chung và của doanh nghiệp nói riêng. Hoạt động xuất khẩu là
một mặt của lĩnh vực ngoại thương có vị trí đáng kể trong nền kinh tế quốc dân
góp phần kích thích sản xuất hàng hoá trong nước phát triển, tăng tích luỹ ngoại tệ
cho đất nước để thực hiện tái sản xuất mở rộng, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, giải
quyết công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân và thực hiện CNH - HĐH đất
nước.
Nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu trong toàn bộ
hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh thương mại. Qua quá trình
học tập ở trường và thực tập tại Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu, em đã
mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài: “Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng gốm
xây dựng của Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu thuộc Tổng công ty Thủy
tinh và Gốm xây dựng – Viglacera”.
Đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp
trong cơ chế thị trường ở nước ta.
ChươngII: Thực trạng hoạt động xuất khẩu mặt hàng gốm xây dựng ở Công ty
Kinh doanh và Xuất nhập khẩu thuộc Tổng công ty Thủy tinh và Gốm xây dựng.


Chương III: Phương hướng và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng gốm xây
dựng của Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu.
Do hạn chế về thời gian và khả năng tìm hiểu về tình hình thực tế có hạn, chuyên
đề của em không tránh khỏi những sai sót, mong được sự cảm thông và đóng góp
ý kiến của các thầy cô các cán bộ kinh doanh ở công ty. Em mong rằng các ý kiến
và biện pháp mà em đưa ra trong chuyên đề này góp phần thúc đẩy hơn nữa hoạt
động xuất khẩu ở Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của PGS – TS Hoàng Đức Thân
và Thạc sỹ Lê Thanh Ngọc, đồng thời cảm ơn sự giúp đỡ quý báu của các thầy cô
giáo trường Đại học Kinh tế Quốc dân, các bạn đồng nghiệp trong quá trình hoàn
thành chuyên đề này. Em cũng chân thành cảm ơn các cô, các chú, các anh, các
chị công tác tại Công ty Kinh doanh và Xuất nhập khẩu đã tận tình giúp đỡ và tạo
điều kiện để em hoàn thành chuyên đề này.
Hà nội, tháng 4 năm 2003
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG
HOÁ CỦA DOANH NGHIỆP TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG Ở NƯỚC
TA.
I. TẦM QUAN TRỌNG CỦA XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ.
1. Sự cần thiết và vị trí của xuất khẩu hàng hoá.
Hoạt động kinh tế là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Lực
lượng sản xuất càng phát triển, phân công lao động càng mở rộng thì sự khác biệt
giữa các quốc gia trên thế giới càng sâu sắc, không chỉ khác biệt về truyền thống
văn hoá mà còn là sự chênh lệch về trình độ nhận thức, công nghệ kỹ thuật cũng
như về năng suất lao động, giá thành sản phẩm từ đó làm xuất hiện lợi thế mới của
mỗi quốc gia. Điều này đòi hỏi các quốc gia phải có những biện pháp thích hợp
nhằm phát huy triệt để lợi thế của mình trong sự phân công lao động và trao đổi
mậu dịch quốc tế. Đó chính là việc một quốc gia có thể mua từ các quốc gia khác
những hàng hoá mà bản thân không sản xuất được hoặc sản xuất ra không đáp ứng
yêu cầu do giá thành cao mà chất lượng lại kém. Và như vậy có nghĩa là quan hệ
thương mại đã không chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc gia mà không ngừng phát

triển và lan rộng trên phạm vi quốc tế thông qua hoạt động xuất nhập khẩu.
Xuất khẩu hàng hoá đóng vị trí quan trọng trong nền kinh tế đất nước, góp phần
thúc đẩy hơn nữa vào quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới. Với Việt Nam ta,
xuất nhập khẩu nói chung và xuất khẩu nói riêng từ lâu đã được coi là một mặt
hoạt động không thể thiếu được của hoạt động kinh tế đối ngoại, là một phương
tiện quan trọng để phát triển nền kinh tế đất nước.
Xuất khẩu hàng hoá nằm trong khâu phân phối lưu thông của quá trình tái sản xuất
mở rộng, nhằm mục đích liên kết giữa sản xuất và tiêu dùng giữa nước này với
nước khác
2.Vai trò của xuất khẩu hàng hoá.
Kinh doanh xuất khẩu tạo điều kiện cho nhiều quốc gia có thể phát huy tối đa
những lợi thế của mình về vốn, công nghệ, tài nguyên, nguồn lao động. Đồng thời
kinh doanh xuất khẩu cũng tạo điều kiện cho nhiều quốc gia đang phát triển và
những quốc gia kém phát triển có điều kiện tiếp thu được những công nghệ, kinh
nghiệm quản lý kinh doanh tiên tiến của các quốc gia đi trước.
Đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế
và thực hiện quá trình CNH-HĐH đất nước. Vai trò của xuất khẩu được thể hiện
qua các điểm sau:
2.1 Đối với nền kinh tế quốc dân.
*Xuất khẩu là phương tiện chính góp phần tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu
phục vụ CNH-HĐH đất nước.
Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn như:
-Đầu tư nước ngoài.
-Vay nợ, viện trợ.
-Thu từ hoạt động du lịch, dịch vụ thu ngoại tệ.
-Xuất khẩu hàng hoá.
Trong đó nguồn thu từ xuất khẩu hàng hoá là nguồn vốn quan trọng nhất, chiếm tỷ
trọng lớn để nhập khẩu máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến, phương pháp quản
lý …Vì vậy, nguồn vốn huy động từ nước ngoài được coi là nguồn chủ yếu để huy
động phát triển. Nhưng mọi cơ hội đầu tư hoặc vay nợ từ nước ngoài và các tổ

chức quốc tế chỉ tăng lên khi các chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng
xuất khẩu của nước đó vì đây là nguồn chính đảm bảo cho đất nước có thể trả nợ
được.
Để khuyến khích mạnh mẽ xuất khẩu, hướng nhập khẩu phục vụ tốt sản xuất và
tiêu dùng, bảo vệ và phát triển sản xuất trong nước, nâng cao hiệu quả sản xuất,
nhập khẩu, mở rộng hợp tác kinh tế-thương mại với nước ngoài, góp phần thực
hiện mục tiêu kinh tế – xã hội của đất nước. Xuất khẩu và nhập khẩu trong thương
mại quốc tế vừa là điều kiện, vừa là tiền đề của nhau, xuất khẩu để nhập khẩu và
nhập khẩu để phát triển xuất khẩu.
Đối với nước ta, để tránh được nguy cơ tụt hậu thì trong chính sách CNH-HĐH,
Đảng và Nhà nước ta coi nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ hiện đại là một
nhiệm vụ trọng tâm, cơ bản trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội
đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp phát triển.
*Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát
triển.
Có hai cách nhìn nhận và tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế:
-Xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu
nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển như nước ta,
sản xuất về cơ bản còn chưa đủ tiêu dùng, nếu chỉ thụ động chờ ở sự “thừa ra” của
sản xuất, thì xuất khẩu sẽ vẫn cứ nhỏ bé và tăng triển chậm. Sản xuất và sự thay
đổi cơ cấu kinh tế sẽ rất chậm chạp.
-Coi thị trường và đặc biệt thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản
xuất. Quan điểm này xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới để tổ chức sản
xuất. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản
xuất phát triển. Sự tác động này đến sản xuất thể hiện ở chỗ:
+ Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi.
+ Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sản xuất
phát triển và ổn định
+ Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất,

nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
+ Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế, kỹ thuật nhằm cải tạo và tạo ra một
năng lực sản xuất mới.
+ Xuất khẩu góp phần trong việc hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi
được với thị trường.
+ Xuất khẩu thúc đẩy chuyên môn hoá, tăng cường hiệu quả sản xuất từng quốc
gia. Khoa học công nghệ càng phát triển thì phân công lao động càng sâu sắc.
Ngày nay, nhiều sản phẩm mà việc chế tạo từng bộ phận được thực hiện ở các
quốc gia khác nhau. Để hoàn thiện được những sản phẩm này, người ta phải tiến
hành xuất khẩu linh kiện từ nước này sang nước khác để lắp ráp sản phẩm hoàn
chỉnh. Như vậy, mỗi nước có thể tập trung vào sản xuất một vài loại mà họ có lợi
thế, sau đó tiến hành trao đổi lấy những hàng hoá mà mình cần.
*Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện
đời sống nhân dân.
Xuất khẩu tác động đến nhiều mặt của đời sống nhân dân. Trước hết sản xuất hàng
xuất khẩu là nơi thu hút hàng triệu người lao động và tạo ra thu nhập không thấp.
Hoạt động thương mại nói chung và xuất khẩu nói riêng phát triển kéo theo hàng
triệu người tham gia lao động vào lĩnh vực này và dần dần nâng cao mức sống của
người dân. Bởi vì xuất khẩu phát triển đã kéo theo hàng loạt các ngành nghề khác
phát triển, khôi phục lại những ngành nghề truyền thống, khắc phục số nông nhàn
trong lĩnh vực nông nghiệp ngày càng triệt để hơn. Xuất khẩu phát triển thúc đẩy
quá trình liên doanh liên kết, hàng loạt các ngành nghề mới ra đời đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao của người tiêu dùng.
Bên cạnh đó, xuất khẩu còn tạo nguồn vốn để nhập khẩu những vật phẩm tiêu
dùng thiết yếu mà trong nước không tự sản xuất được hoặc sản xuất với giá thành
cao phục vụ đời sống và đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu của người
dân.
*Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại. Xuất
khẩu nâng cao uy tín nước ta trên thị trường thế giới và tăng cường các quan hệ
kinh tế đối ngoại. Xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại có sự tác động

qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động cơ bản, là hình thức
ban đầu của kinh tế đối ngoại, từ đó thúc đẩy các mối quan hệ khác như: du lịch
quốc tế, bảo hiểm quốc tế, tín dụng quốc tế phát triển theo. Ngược lại, sự phát triển
của các ngành này lại tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu phát triển.
Xuất khẩu có vai trò quan trọng trong qúa trình phát triển nền kinh tế đất nước.
Hiện nay Nhà nước ta đã và đang thực hiện các biện pháp thúc đẩy các ngành kinh
tế hướng vào xuất khẩu, khuyến khích các khu vực tư nhân mở rộng xuất khẩu để
giải quyết việc làm và tăng thu ngoại tệ cho đất nước.
2.2Đối với doanh nghiệp.
-Thông qua hoạt động xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước có điều kiện tham
gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới. Những yếu tố này đòi hỏi các
doanh nghiệp phải hình thành một cơ cấu sản xuất phù hợp với thị trường.
-Xuất khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công việc
quản trị sản xuất và kinh doanh cho phù hợp với thời đại. Đồng thời xuất khẩu còn
tạo nguồn thu ngoại tệ cho doanh nghiệp để tái đầu tư vào quá trình sản xuất cả về
chiều rộng lẫn chiều sâu.
-Sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều lao động, tạo ra
thu nhập ổn định cho họ, tạo nguồn ngoại tệ để nhập khẩu hàng tiêu dùng. Nó vừa
đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của nhân dân vừa thu được lợi nhuận.
-Xuất khẩu tạo điều kiện cho doanh nghiệp có cơ hội mở rộng thị trường, mở rộng
quan hệ buôn bán với nhiều đối tác nước ngoài trên cơ sở đôi bên cùng có lợi. Vì
vậy, đã giúp doanh nghiệp tăng được doanh số bán và lợi nhuận. Đồng thời chia sẻ
được rủi ro mất mát trong hoạt động kinh doanh tăng cường uy tín kinh doanh của
công ty. Từ đó có điều kiện học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm quản lý tiên tiến từ phía
đối tác nước ngoài, góp phần nâng cao năng lực chuyên môn cho các thành viên
trong doanh nghiệp.
-Kinh doanh xuất khẩu phát huy được những khả năng vượt trội của doanh nghiệp
và khắc phục được những hạn chế của doanh nghiệp.
-Xuất khẩu khuyến khích phát triển các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
như hoạt động đầu tư, nghiên cứu và phát triển, các hoạt động sản xuất, Marketing

cũng như sự phân phối và mở rộng kinh doanh.
Có thể nói một cách khái quát rằng xuất khẩu góp phần quan trọng trong sự tồn tại
và phát triển của doanh nghiệp cũng như sự phát triển kinh tế của một quốc gia.
3. Khái niệm và các hình thức kinh doanh xuất khẩu.
3.1 Khái niệm về kinh doanh xuất khẩu.
Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế. Nó không phải là
hành vi mua bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán trong một
nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm bán sản phẩm, hàng
hoá sản xuất trong nước ra nước ngoài thu ngoại tệ, qua đó có thể đẩy mạnh sản
xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế ổn định từng bước nâng cao
mức sống nhân dân. Xuất khẩu là hoạt động kinh tế đối ngoại đem lại những hiệu
quả đột biến cao hoặc có thể gây thiệt hại vì nó phải đối đầu với một hệ thống kinh
tế khác từ bên ngoài mà chủ thể trong nước tham gia không dễ dàng khống chế
được.
Kinh doanh xuất nhập khẩu cũng chính là hoạt động kinh doanh quốc tế đầu tiên
của một doanh nghiệp. Hoạt động này được tiếp tục ngay cả khi doanh nghiệp đã
đa dạng hoá hoạt động kinh doanh của mình.
Mục đích của kinh doanh xuất khẩu là khai thác được lợi thế của các quốc gia
trong phân công lao động quốc tế, tạo nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Hoạt động
xuất khẩu diễn ra trong mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện với nhiều loại mặt hàng
khác nhau. Phạm vi hoạt động xuất khẩu rất rộng cả về không gian và thời gian.
3.2 Các hình thức xuất khẩu.
Hoạt động xuất khẩu được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng những
hình thức chủ yếu thường được các doanh nghiệp ngoại thương lựa chọn sau:
3.2.1 Xuất khẩu trực tiếp.
Đây là hình thức mà hàng hoá được mua hay bán trực tiếp của nước ngoài không
qua trung gian. Theo hình thức này đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp ký
kết hợp đồng ngoại thương. Các doanh nghiệp ngoại thương tự bỏ vốn ra mua các
sản phẩm từ các đơn vị sản xuất trong nước sau đó bán các sản phẩm này cho các
khách hàng nước ngoài (có thể qua một số công đoạn gia công chế biến).

Ưu điểm của hình thức xuất khẩu này là lợi nhuận của đơn vị kinh doanh xuất
khẩu thường cao hơn các hình thức khác do giảm bớt được các khâu trung gian.
Với vai trò là người bán trực tiếp, các đơn vị kinh doanh chủ động trong kinh
doanh, có điều kiện tiếp cận thị trường, nắm bắt được các thông tin một cách nhạy
bén hơn để tự mình có thể thâm nhập thị trường, đưa ra được những ứng xử linh
hoạt, thích ứng với thị trường và do vậy có thể đáp ứng nhu cầu thị trường, gợi
mở, kích thích nhu cầu. Nếu đơn vị tổ chức hoạt động kinh doanh tốt sẽ đem lại
hiệu quả kinh doanh cao, tự khẳng định mình về sản phẩm nhãn hiệu … dần dần
đưa được uy tín về sản phẩm trên thế giới.
Nhược điểm: Hình thức này đòi hỏi phải ứng trước một số vốn khá lớn để sản xuất
hoặc thu mua hàng và có thể gặp nhiều rủi ro. Đối với đơn vị mới tham gia kinh
doanh thì áp dụng hình thức này rất khó do điều kiện về vốn sản xuất hạn chế, am
hiểu thương trường quốc tế còn ít, uy tín nhãn hiệu còn xa lạ đối với khách hàng.
3.2.2 Xuất khẩu gián tiếp.
Đây là hình thức xuất khẩu qua trung gian thương mại.
Ưu điểm: Người trung gian giúp cho người xuất khẩu tiết kiệm được thời gian, chi
phí, giảm bớt nhiều việc liên quan đến tiêu thụ hàng. Ngoài ra người trung gian
còn có thể giúp cho người xuất khẩu tín dụng trong ngắn hạn và trung hạn bởi vì
trung gian có quan hệ với công ty vận tải, ngân hàng…
Nhược điểm: Lợi nhuận bị chia xẻ do tổn phí, doanh nghiệp xuất khẩu mất mối
quan hệ trực tiếp với thị trường, thông tin nhiều khi không chính xác.
3.2.3 Xuất khẩu uỷ thác.
Trong phương thức này, đơn vị có hàng xuất khẩu là bên uỷ thác giao cho đơn vị
xuất khẩu gọi là bên nhận uỷ thác tiến hành xuất khẩu một hoặc một số lô hàng
nhất định với danh nghĩa của mình (bên nhận uỷ thác) nhưng với chi phí của bên
uỷ thác. Về bản chất, chi phí trả cho bên nhận uỷ thác chính là tiền thù lao trả cho
đại lý.
Ưu điểm: Công ty uỷ thác xuất khẩu không phải bỏ vốn vào kinh doanh, tránh
được rủi ro trong kinh doanh mà vẫn thu được một khoản lợi nhuận là hoa hồng
cho xuất khẩu. Do chỉ thực hiện hợp đồng uỷ thác xuất khẩu nên tất cả các chi phí

từ nghiên cứu thị trường, giao dịch đàm phán ký kết hợp đồng và thực hiện hợp
đồng không phải chi, dẫn tới giảm chi phí trong hoạt động kinh doanh của Công
ty.
Nhược điểm: Do không phải bỏ vốn vào kinh doanh nên hiệu quả kinh doanh thấp
không bảo đảm tính chủ động trong kinh doanh. Thị trường và khách hàng bị thu
hẹp vì Công ty không có liên quan tới việc nghiên cứu thị trường và tìm khách
hàng.
3.2.4 Chuyển khẩu, tạm nhập tái xuất.
Đây là hình thức mua của nước này bán cho nước khác, không làm thủ tục xuất
nhập khẩu và thường hàng đi thẳng từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu.
Người kinh doanh chuyển khẩu trả tiền cho người xuất khẩu và thu tiền của người
nhập khẩu hàng hóa đó. Thường khoản thu lớn hơn tiền trả cho người xuất khẩu,
do đó người kinh doanh thu được số chênh lệch (lãi). Các mặt hàng này (tạm nhập
tái xuất, tạm xuất tái nhập, chuyển khẩu) được miễn thuế xuất nhập khẩu.
Xét về đường đi của hàng hoá tái xuất và chuyển khẩu giống nhau. Chỗ khác nhau
là kinh doanh chuyển khẩu chủ yếu là kinh doanh dịch vụ vận tải, còn tái xuất là
loại hình hợp đồng kinh doanh hàng hoá: nhập khẩu để xuất khẩu hàng đó, không
qua chế biến, thu lãi tức thời. Người kinh doanh bỏ vốn ra mua hàng, bán lại hàng
đó để thu lời nhiều hơn. Việc giao dịch thực hiện ở ba nước: Nước xuất khẩu,
nước tái xuất, nước nhập khẩu. Giao dịch tái xuất là giao dịch ba bên ở ba nước.
3.2.5 Mua bán đối lưu.
Đây là hoạt động giao dịch trong đó hoạt động xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với hoạt
động nhập khẩu. Mục đích của hoạt động xuất khẩu không phải nhằm thu về một
khoản ngoại tệ mà là thu về một lượng hàng hoá khác tương đương với giá trị của
lô hàng xuất khẩu. Yêu cầu của buôn bán đối lưu là cân bằng về tổng giá trị xuất
nhập khẩu, chủng loại hàng hoá quý hiếm, giá cả. Doanh nghiệp có thể sử dụng
hình thức này để nhập khẩu nhiều loại hàng hoá mà thị trường trong nước đang rất
cần hoặc có thể xuất khẩu sang một nước thứ ba.
3.2.6 Gia công quốc tế.
Gia công hàng xuất khẩu là một phương thức kinh doanh trong đó một bên (gọi là

bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên khác
(gọi là bên đặt gia công) để chế biến ra thành phẩm giao lại cho bên đặt gia công
và nhận thù lao (gọi là chi phí gia công).
Gia công quốc tế là hình thức xuất khẩu khá phổ biến, được nhiều nước, đặc biệt
là các nước đang phát triển có nguồn nhân lực dồi dào áp dụng. Thông qua hình
thức này, họ vừa tạo cho người lao động có công ăn việc làm, lại vừa tiếp nhận
được công nghệ mới. Mặt khác nước này lại không phải bỏ ra nhiều vốn và cũng
không lo về thị trường tiêu thụ.
Các nước đặt gia công cũng có lợi vì họ có thể tận dụng được nguồn nguyên liệu
phụ và nhân công dồi dào với giá rẻ của nước nhận gia công. Song hình thức này
cũng có hạn chế là các nước nhận gia công bị phụ thuộc vào nước đặt gia công về
số lượng, chủng loại hàng hoá gia công đồng thời cũng bị o ép về phí gia công.
4. Nhiệm vụ của xuất khẩu hàng hoá.
Từ sau năm 1986, Chính phủ Việt Nam bắt đầu mở cửa nền kinh tế, xoá bỏ chế độ
quản lý kế hoạch hoá tập trung, nền kinh tế của Việt Nam nói chung và xuất khẩu
nói riêng đã đạt được những thành tựu nhất định. Với mục tiêu: “Đẩy mạnh xuất
khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại. Tạo
thêm các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Nâng sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu
trên thị trường. Giảm tỷ trọng sản phẩm thô và sơ chế; tăng tỷ trọng sản phẩm chế
biến sâu và tinh trong hàng xuất khẩu”. ở những thời điểm nhất định mục tiêu xuất
khẩu có khác nhau, nhưng mục tiêu quan trọng chủ yếu nhất của xuất khẩu là để
nhập khẩu đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế quốc dân. Nhu cầu của nền kinh tế rất
đa dạng: Phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cho tiêu dùng, cho
xuất khẩu và tạo công ăn việc làm.
Để thực hiện tốt mục tiêu trên, hoạt động xuất nhập khẩu cần phải hướng vào các
nhiệm vụ sau:
-Phải mở rộng thị trường, nguồn hàng và đối tác kinh doanh xuất khẩu nhằm tạo
thành cao trào xuất khẩu, coi xuất khẩu là mũi nhọn đột phá cho sự phát triển.
-Phải ra sức khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước như đất đai, nhân
lực, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật-công nghệ, chất xám theo

hướng khai thác lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh.
-Nâng cao năng lực sản xuất hàng xuất khẩu để tăng nhanh khối lượng và kim
ngạch xuất khẩu.
-Tạo ra những mặt hàng (nhóm hàng) xuất khẩu có khối lượng và giá trị lớn đáp
ứng những đòi hỏi của thị trường thế giới và của khách hàng về chất lượng và số
lượng, có sức hấp dẫn và khả năng cạnh tranh cao.
II. NỘI DUNG CỦA XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ Ở DOANH NGHIỆP.
1.Nghiên cứu thị trường xuất khẩu.
Nghiên cứu thị trường là một khâu rất quan trọng không thể thiếu được đối với bất
kỳ doanh nghiệp nào muốn tham gia kinh doanh trên thị trường thế giới. Nghiên
cứu thị trường tạo khả năng cho các nhà kinh doanh thấy được quy luật vận động
của từng hàng hoá cụ thể thông qua sự biến đổi nhu cầu, nguồn cung cấp và giá cả
hàng hoá đó trên thị trường, giúp họ giải quyết được các vấn đề thực tiễn kinh
doanh.
Nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin số liệu về thị trường so sánh,
phân tích những thông tin số liệu đó để rút ra kết luận về xu hướng vận động của
thị trường. Những kết luận này giúp cho nhà quản lý đưa ra được những nhận định
đúng đắn để lập kế hoạch kinh doanh, kế hoạch Marketing. Nội dung chính của
nghiên cứu thị trường là xem xét khả năng xâm nhập và mở rộng thị trường.
Nghiên cứu thị trường được thực hiện theo hai bước: nghiên cứu khái quát và
nghiên cứu chi tiết thị trường.
Nghiên cứu khái quát thị trường cung cấp cho ta biết được những thông tin về quy
mô, cơ cấu, sự vận động của thị trường, các yếu tố ảnh hưởng đến thị trường như
môi trường kinh doanh, môi trường chính trị – luật pháp, khoa học công nghệ, môi
trường văn hoá xã hội, môi trường sinh thái.
Nghiên cứu chi tiết thị trường cho biết những thông tin về tập quán mua bán,
những thói quen và những ảnh hưởng đến hành vi, mua hàng của người tiêu dùng.
Nghiên cứu thị trường được tiến hành theo hai phương pháp chính: nghiên cứu tại
bàn và nghiên cứu tại hiện trường. Nghiên cứu tại bàn là nghiên cứu bằng cách thu
thập thông tin từ các nguồn tài liệu đã được xuất bản công khai và xử lý các thông

tin đó. Nghiên cứu tại hiện trường là việc thu thập thông tin chủ yếu thông qua tiếp
xúc trực tiếp, sau đó tiến hành phân tích các thông tin thu thập được.
Nghiên cứu thị trường bao gồm:
1.1Lựa chọn thị trường xuất khẩu.
Lựa chọn thị trường xuất khẩu phức tạp hơn nhiều so với việc lựa chọn thị trường
trong nước bởi vì các nước khác nhau có những nhu cầu, yêu cầu rất nhau về mỗi
loại hàng hoá. Do vậy việc lựa chọn thị trường xuất khẩu đòi hỏi phải tốn nhiều
thời gian và công sức mới đưa ra được quyết định đúng đắn. Khi nghiên cứu thị
trường doanh nghiệp cần chú ý đến các vấn đề sau:
-Thông tin về quy mô, cơ cấu, sự vận động của thị trường và các nhân tố làm thay
đổi dung lượng của thị trường.
-Nắm vững thông tin về biến động giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới cũng
như giá nguồn hàng cung cấp trong nước.
-Công việc nghiên cứu thị trường phải diễn ra thường xuyên liên tục vì thị trường
luôn biến động.
1.2Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu.
Mục đích của việc lựa chọn mặt hàng xuất khẩu là để xác định những mặt hàng
kinh doanh phù hợp với năng lực và khả năng của công ty, đồng thời đáp ứng
được nhu cầu của thị trường, từ đó mang lại hiệu quả kinh doanh cao.
Để lựa chọn mặt hàng xuất khẩu, trước tiên cần phải dựa vào nhu cầu và thị hiếu
của người tiêu dùng về chủng loại, số lượng, chất lượng, giá cả hàng hoá trên thị
trường xuất khẩu. Mặt khác cần phải xem xét đến khả năng đáp ứng của thị trường
trong nước về mặt hàng đó. Nghiên cứu thị trường để lựa chọn mặt hàng xuất khẩu
cũng cần phải phân tích kỹ tình hình cung trên thị trường đó chính là toàn bộ khối
lượng hàng hoá đã và đang có khả năng bán ra trên thị trường, cần xem xét đến giá
cả trung bình, sự phân bố hàng hoá và tình hình sản phẩm của công ty đang ở giai
đoạn nào trên thị trường. Chú ý đến đối thủ cạnh tranh, khả năng cung ứng, sức
mạnh tài chính, kế hoạch sản xuất kinh doanh của họ và các biện pháp cạnh tranh
mà họ sử dụng.
Cần phải đánh giá đúng thực lực của mình về khả năng cung ứng, giá cả và việc

dự báo chính xác những thuận lợi, khó khăn khi tung hàng hoá ra thị trường nước
ngoài.
1.3Lựa chọn đối tác kinh doanh.
Đối tác kinh doanh là những người những hoặc những tổ chức có quan hệ giao
dịch với doanh nghiệp nhằm thực hiện các hợp đồng mua bán hàng hoá hoặc các
loại dịch vụ. Việc lựa chọn đúng đối tác là điều rất quan trọng để thực hiện thắng
lợi hợp đồng xuất khẩu. Để lựa chọn đối tác kinh doanh người ta thường dựa vào
những căn cứ sau:
-Tình hình sản xuất, kinh doanh của đối tác để thấy được khả năng cung cấp lâu
dài.
-Quan điểm kinh doanh của đối tác trên thị trường trong nước cũng như trên thị
trường quốc tế.
-Lĩnh vực kinh doanh của đối tác.
-Khả năng tài chính và cơ sở vật chất của đối tác. Khả năng thanh toán của đối tác
trong ngắn hạn, dài hạn đảm bảo hợp đồng được thanh toán đúng thời hạn. Nghiên
cứu sức mạnh về vốn, về công nghệ của đối tác cho thấy được những ưu thế trong
thoả thuận về giá cả, điều kiện thanh toán.
-Thông tin và mối quan hệ trong kinh doanh.
2.Xây dựng kế hoạch và phương án xuất khẩu hàng hoá.
2.1 Xây dựng kế hoạch xuất khẩu hàng hoá.
Công ty cần phải đặt ra những mục tiêu kế hoạch trong từng thời kỳ nhất định và
thống nhất với mục tiêu chiến lược. Mục tiêu cần phải rõ ràng, cụ thể đối với toàn
công ty và đối với từng bộ phận. Chẳng hạn khi mục tiêu chiến lược của công ty
trong giai đoạn này là lợi nhuận thì mục tiêu kế hoạch chung của công ty là phải
đạt được bao nhiêu lợi nhuận trong năm…
Có thể vạch ra các mục tiêu định tính hay định lượng. Các mục tiêu định lượng
được coi là chỉ tiêu kế hoạch xuất khẩu, bao gồm: Chỉ tiêu doanh số, chỉ tiêu chi
phí, chỉ tiêu lợi nhuận, dự trữ…Công ty cần xây dựng kế hoạch các công việc cụ
thể cần làm để hoàn thành các chỉ tiêu này.
Việc xây dựng kế hoạch xuất khẩu là điều kiện tiền đề cho việc hoàn thành tốt

chiến lược xuất khẩu và là một công việc rất cần thiết. Nó giúp công ty nắm bắt
những cơ hội và giảm thiểu rủi ro. Việc dự báo chính xác nhu cầu thị trường từ đó
xây dựng lên các kế hoạch thu mua, dự trữ…sẽ đảm bảo cho xuất khẩu thắng lợi.
2.2Phương án xuất khẩu hàng hoá.
Trên cơ sở kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu tiếp cận thị trường, đơn vị
xuất khẩu phải lập phương án kinh doanh cho mình. Việc xác định phương án kinh
doanh bao gồm:
-Đánh giá tình hình thị trường và thương nhân, phác hoạ bức tranh tổng quát về
hoạt động kinh doanh, những thuận lợi và khó khăn.
-Lựa chọn mặt hàng thời cơ điều kiện và phương thức kinh doanh, sự lựa chọn này
phải mang tính thuyết phục trên cơ sở phân tích tình hình có liên quan.
-Đề ra mục tiêu cụ thể như sẽ bán được bao nhiêu hàng, giá bán lẻ bao nhiêu, thâm
nhập vào thị trường nào.
-Đề ra biện pháp và công cụ thực hiện nhằm đạt được mục tiêu.
-Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh thông qua các chỉ tiêu
cơ bản.
+ Chỉ tiêu tỷ suất ngoại tệ hàng xuất khẩu.
+ Chỉ tiêu tỷ suất doanh lợi xuất khẩu.
+ Chỉ tiêu thu hồi vốn cho xuất khẩu.
+ Điểm hoà vốn trong xuất khẩu hàng hoá.
3.Giao dịch, đàm phán ký kết hợp đồng xuất khẩu hàng hoá.
Giao dịch là sự tiếp xúc, quan hệ giữa các cá nhân để trao đổi thông tin hoặc thoả
mãn một nhu cầu nào đó. Giao dịch kinh doanh là sự tiếp xúc, quan hệ giữa các
chủ thể kinh doanh nhằm trao đổi các thông tin về thị trường, hàng hoá, giá cả,
kinh nghiệm kinh doanh …
Đàm phán kinh doanh là bàn bạc, thoả thuận giữa hai hay nhiều bên để cùng nhau
nhất trí hay thoả hiệp giải quyết những vấn đề về kinh doanh có liên quan đến các
bên.
Đàm phán “hợp đồng kinh doanh quốc tế”: Là một loại đàm phán “hợp đồng kinh
doanh”, trong đó yếu tố quốc tế được thể hiện ở việc có ít nhất hai chủ thể có quốc

tịch khác nhau tham gia đàm phán để lập nên (ký kết) các hợp đồng kinh doanh
quốc tế.
Giao dịch đàm phán trong hoạt động xuất khẩu là một quá trình trong đó diễn ra sự
trao đổi, bàn bạc giữa doanh nghiệp ngoại thương và khách hàng nước ngoài về
các điều kiện mua bán một loại hàng hoá để đi đến thoả thuận, nhất trí giữa hai
bên.
Trong kinh doanh nói chung và trong kinh doanh quốc tế nói riêng, người ta có thể
sử dụng một trong ba phương thức giao dịch, đàm phán sau:
-Giao dịch, đàm phán qua thư tín: Là phương thức được sử dụng phổ biến trong
kinh doanh. Phương thức này thường là sự khởi đầu và giúp cho việc duy trì
những giao dịch lâu dài. So với phương thức gặp gỡ trực tiếp, giao dịch qua thư tín
tiết kiệm được nhiều chi phí, các quyết định đưa ra thường được cân nhắc kỹ càng
và tranh thủ được nhiều ý kiến của tập thể.
-Giao dịch, đàm phán qua điện thoại: là trao đổi bằng miệng. Trao đổi qua điện
thoại đảm bảo tính khẩn trương, đúng thời điểm cần thiết. Do không có gì làm
bằng chứng do đó phương thức này chỉ được sử dụng trong những trường hợp cần
thiết như sợ bị lỡ cơ hội kinh doanh hoặc chỉ chờ xác nhận một vài chi tiết của hợp
đồng.
-Giao dịch, đàm phán trực tiếp: là giao dịch mà người mua và người bán cùng thoả
thuận, bàn bạc, thảo luận trực tiếp về hàng hoá, giá cả, điều kiện giao dịch, phương
thức thanh toán…Phương thức đàm phán này đẩy nhanh tốc độ giải quyết những
bất đồng và nhiều khi là lối thoát duy nhất cho những cuộc đàm phán như thư tín,
điện thoại đã kéo dài quá lâu không có kết quả. Phương thức này phù hợp cho đàm
phán ký kết những hợp đồng lớn.
Việc giao dịch đàm phán tiến hành theo các bước:
Bước 1: Hỏi giá: là việc người mua đề nghị người bán báo cho mình biết giá cả và
các điều kiện để mua hàng.
Bước 2: Chào hàng: Là lời đề nghị ký kết hợp đồng với khách hàng nước ngoài.
Trong chào hàng cần ghi rõ tên hàng, quy cách, chất lượng, khối lượng, mẫu mã,
bao bì, giá cả, thời hạn giao hàng, điều kiện thanh toán và các dịch vụ kèm theo.

Có hai loại chào hàng là chào hàng cố định và chào hàng tự do.
Bước 3: Đặt hàng: lời đề nghị ký kết hợp đồng xuất phát từ phía người mua được
đưa ra dưới hình thức đặt hàng.
Bước 4: Hoàn giá: khi nhận được đơn chào hàng nhưng người nhận không chấp
nhận hoàn toàn đơn chào hàng thì họ sẽ đưa ra đề nghị mới thì lời đề nghị này gọi
là hoàn giá
Bước 5: Chấp nhận: Đây là kết quả của quá trình hoàn giá. Khi đã chấp nhận thì
có nghĩa là hợp đồng đã được thành lập.
Bước 6: Xác nhận: Hai bên sau khi thống nhất thoả thuận với nhau về các điều
kiện giao dịch nếu cần thì có thể ghi lại mọi điều đã thoả thuận gửi cho bên kia.
Đó là văn kiện xác nhận có cả chữ ký của cả hai bên.
Sau khi hai bên mua bán tiến hành giao dịch và đàm phán có kết quả thì tiến hành
ký kết hợp đồng. Hợp đồng xuất khẩu là những thoả thuận về các điều kiện mua
bán hàng hoá như tên hàng, khối lượng, chất lượng, giá cả, thanh toán…giữa
doanh nghiệp xuất khẩu với khách hàng cụ thể. Về mặt pháp lý, hợp đồng xuất
khẩu là căn cứ pháp luật ràng buộc các trách nhiệm và quyền lợi của các bên. Vì
vậy, khi ký kết hợp đồng xuất khẩu, doanh nghiệp phải xem xét lại các điều khoản
thoả thuận trước khi ký kết hợp đồng.
4.Triển khai thực hiện hợp đồng xuất khẩu hàng hoá.
Sau khi hợp đồng xuất khẩu được ký kết doanh nghiệp cần phải tiến hành triển
khai các công việc để thực hiện hợp đông xuất khẩu hàng hoá đúng với những điều
khoản đã quy định trong hợp đồng.
Để thực hiện một hợp đồng xuất khẩu, đơn vị kinh doanh phải tiến hành các khâu
công việc sau:
*Kiểm tra thư tín dụng (nếu thanh toán bằng L/C): Sau khi ký hợp đồng, nhà xuất
khẩu nước ngoài sẽ mở L/C tại một ngân hàng có ngân hàng thông báo tại Việt
Nam. Bản chất của L/C là sự thoả thuận cam kết của ngân hàng với nhà xuất khẩu.
L/C độc lập với hợp đồng xuất khẩu nhưng lại dựa trên các điều khoản của hợp
đồng xuất khẩu. Ngân hàng chỉ dựa vào L/C và việc thực hiện các quy định trong
L/C để trả tiền cho nhà xuất khẩu. Vì vậy nhà xuất khẩu cần kiểm tra kỹ, dựa vào

hợp đồng. Nừu có gì chưa hợp lý cần báo lại cho phía nước ngoài để hai bên thống
nhất sửa lại.
*Xin giấy phép xuất khẩu: Giấy phép xuất khẩu là một biện pháp quan trọng để
Nhà nước quản lý xuất khẩu. Vì thế, sau khi ký hợp đồng xuất khẩu doanh nghiệp
phải xin giấy phép xuất khẩu hàng hoá để thực hiện hợp đồng đó.
Theo nghị định 57/CP ngày 31/07/1998 của Chính Phủ. Thương nhân là doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thành lập theo quy định của pháp luật được
xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá theo ngành nghề đã ghi trong giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh sau khi đã đăng ký mã số tại cục Hải quan tỉnh, thành phố thì
không phải xin giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu.
*Chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu: Căn cứ để chuẩn bị hàng xuất khẩu là hợp đồng đã
ký với nước ngoài và hoặc L/C. Công việc chuẩn bị hàng xuất khẩu bao gồm ba
khâu chủ yếu:
-Thu gom tập trung làm thành lô hàng xuất khẩu: Doanh nghiệp xuất khẩu tổ chức
thu gom hàng bằng nhiều biện pháp khác nhau như mua nguyên liệu về gia công,
Ký hợp đồng
xuất khẩu
Kiểm tra L/C Xin giấy phép
xuất khẩu
Chuẩn bị
hàng hoá
Uỷ thác
thuê tàu
Kiểm nghiệm
hàng hoá
Làm thủ tục
hải quan
Giao hàng
lên tàu
Mua bảo

hiểm
Làm thủ tục
thanh toán
Giải quyết
khiếu nại
sản xuất thành hàng xuất khẩu, mua đứt bán đoạn với đơn vị sản xuất, đại lý thu
mua. Đây là một khâu rất quan trọng đảm bảo cho doanh nghiệp thực hiện tốt hợp
đồng xuất khẩu theo đúng điều khoản đã quy định trong hợp đồng.
-Đóng gói bao bì hàng xuất khẩu: Là căn cứ theo yêu cầu hợp đồng đã ký kết. Bao
bì vẫn phải bảo đảm được phẩm chất của hàng hoá, vừa thuận tiện cho quá trình
vận chuyển bốc xếp hàng hoá, tạo điều kiện cho việc nhận biết hàng hoá.
-Kẻ ký mã hiệu hàng xuất khẩu: Ký hiệu bằng số hay chữ, hình vẽ được ghi ở mặt
ngoài bao bì để thông báo những thông tin cần thiết cho việc nhận biết, giao nhận,
bốc dỡ và bảo quản hàng hoá. Ký mã hiệu phải đảm bảo những nội dung, cần
thông báo cho người nhận hàng đồng thời phải sáng sủa, rõ ràng.
*Thuê tàu: Trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương việc thuê
tàu chở hàng được tiến hành dưạ vào ba căn cứ sau đây: Những điều khoản của
hợp đồng mua bán ngoại thương, đặc điểm hàng mua bán và điều kiện vận tải.
*Kiểm nghiệm hàng hoá: Trước khi giao hàng người xuất khẩu có nghĩa vụ phải
kiểm tra hàng về phẩm chất, số lượng, trọng lượng, bao bì… Đây là công việc cần
thiết, qua đó quyền lợi của khách hàng được bảo đảm và nâng cao uy tín của
doanh nghiệp xuất khẩu. Việc kiểm nghiệm và kiểm định được tiến hành ở hai
cấp: Kiểm tra ở cơ sở do phòng KCS tiến hành và kiểm tra ở cửa khẩu có tác dụng
kiểm tra lại kết quả kiểm tra lần trước đó.
*Làm thủ tục hải quan: Hàng hoá vận chuyển qua biên giới quốc gia để xuất khẩu,
nhập khẩu đều phải làm thủ tục hải quan.Việc làm thủ tục hải quan gồm 3 bước
chủ yếu sau đây:
-Khai báo hải quan:chủ hàng khai báo các chi tiết về hàng hoá lên tờ khai để cơ
quan hải quan kiểm tra các thủ tục giấy tờ. Tờ khai hải quan phải được xuất trình
kèm theo với một số chứng từ khác, mà chủ yếu là giấy phép xuất nhập khẩu, hoá

đơn, phiếu đóng gói, bảng kê chi tiết.
-Xuất trình hàng hoá: Hàng hoá xuất nhập khẩu phải được sắp xếp trật tự, thuận
tiện cho việc kiểm soát. Chủ hàng phải chịu chi phí và nhân công về việc mở,
đóng các kiện hàng.
-Thực hiện các quyết định của hải quan:Sau khi kiểm soát giấy tờ hàng hoá, hải
quan sẽ ra quyết định và chủ hàng có nghĩa vụ thực hiện các quyết định đó.
*Giao hàng lên tàu: Tuỳ theo thoả thuận về điều kiện cơ sở giao hàng mà việc giao
hàng lên phương tiện vận chuyển sẽ thuộc trách nhiệm bên nào. Nếu hàng hoá
được giao bằng đường biển chủ hàng phải tiến hành các công việc sau:
-Căn cứ vào các chi tiết hàng xuất khẩu lập bản đăng ký hàng chuyên chở.
-Xuất trình bản đăng ký hàng chuyên chở cho người vận tải để lấy hồ sơ xếp hàng.
-Trao đổi với cơ quan điều độ cảng để nắm vững ngày giờ làm hàng.
-Bố trí phương tiện đưa hàng vào cảng, xếp hàng lên tàu.
-Lấy biên lai thuyền phó và đổi biên lai thuyền phó lấy vận đơn đường biển. Vận
đơn đường biển phải là vận đơn hoàn hảo, đã bốc hàng và phải chuyển nhượng
được. Vận đơn cần phải chuyển gấp về bộ phận kế toán để lập bộ chứng từ thanh
toán.
*Mua bảo hiểm: Hàng hoá chuyên chở trên biển thường gặp nhiều rủi ro, tổn thất.
Vì thế bảo hiểm hàng hoá đường biển là loại bảo hiểm phổ biến nhất trong ngoại
thương.Việc lựa chọn điều kiện bảo hiểm phải dựa trên bốn căn cứ sau: Điều
khoản hợp đồng, tính chất hàng hoá, tính chất bao bì và phương thức xếp hàng,
loại tàu chuyên chở.
*Làm thủ tục thanh toán: thanh toán là khâu trọng tâm và kết quả cuối cùng của tất
cả các giao dịch kinh doanh xuất khẩu. Trong thanh toán, nhà kinh doanh phải chú
ý đến các vấn đề: Đồng tiền thanh toán, tỷ giá thanh toán, thời hạn thanh toán,
phương thức và hình thức thanh toán, điều kiện đảm bảo hối đoái.
Có nhiều phương thức thanh toán được sử dụng nhưng hiện nay người ta thường
sử dụng rộng rãi hai phương thức thanh toán là thanh toán bằng thư tín dụng và
thanh toán bằng phương thức nhờ thu.
*Giải quyết khiếu nại (nếu có): Trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh doanh

xuất nhập khẩu có thể xảy ra những vấn đề phức tạp làm ảnh hưởng đến kết quả
thực hiện hợp đồng trong những trường hợp đó, hai bên cần thiện chí trao đổi, thảo
luận để giải quyết. Nếu giải quyết không thành thì tiến hành các thủ tục kiện đối
tác lên trọng tài. Việc khiếu nại phải tiến hành một cách kịp thời tỷ mỉ dựa trên các
căn cứ của các chứng từ kèm theo.
5.Đánh giá hiệu quả xuất khẩu.
Đánh giá hiệu quả hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp là rất quan trọng và cần
thiết. Qua đó, cho phép doanh nghiệp xác định được hiệu quả của mỗi hợp đồng
xuất khẩu cũng như một giai đoạn hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Nhờ các
đánh giá đó doanh nghiệp sẽ có những biện pháp ứng xử phù hợp với việc thực
hiện các hợp đồng xuất khẩu tiếp theo. Hiệu quả xuất khẩu được đánh giá thông
qua hệ thống các chỉ tiêu:
5.1Chỉ tiêu định tính.
Các tiêu chuẩn định tính là các tiêu chuẩn không thể hiện được dưới dạng các số
đo vật lý hoặc tiền tệ. Các chỉ tiêu định tính doanh nghiệp thường sử dụng để đánh
giá hiệu quả xuất khẩu là:
-Khả năng xâm nhập, mở rộng và phát triển thị trường: Kết quả của doanh nghiệp
trong việc thúc đẩy các hoạt động xuất khẩu của mình trên thị trường xuất khẩu,
khả năng mở rộng sang các thị trường khác, mối quan hệ với khách hàng nước
ngoài, khả năng khai thác, nguồn hàng cho xuất khẩu …Các kết quả này chính là
những thuận lợi quá trình mà doanh nghiệp có thể khai thác để phục vụ cho quá
trình xuất khẩu tới độ thu được lợi nhuận cao, khả năng về thị trường lớn hơn.
-Kết quả về mặt xã hội: Những lợi ích mà doanh nghiệp có thể mang lại khi thực
hiện các hoạt động xuất khẩu nào đó thì cũng phải đem lại lợi ích cho đất nước.
Do vậy, doanh nghiệp phải quan tâm đến lợi ích xã hội khi thực hiện các hợp đồng
xuất khẩu, kinh doanh những mặt hàng Nhà nước khuyến khích xuất khẩu và
không xuất khẩu những mặt hàng mà Nhà nước cấm.
5.2Các chỉ tiêu định lượng.
a.Chỉ tiêu lợi nhuận.
Lợi nhuận là chỉ tiêu hiệu quả có tính tổng hợp, phản ánh kết quả cuối cùng của

hoạt động sản xuất kinh doanh. Nó là tiền đề để duy trì và tái sản xuất mở rộng của
doanh nghiệp, để cải thiện và nâng cao đời sống của người lao động.
Doanh thu từ hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp được tính bằng công thức:
TR = P x Q
Trong đó: TR: Tổng doanh thu từ hoạt động xuất khẩu
P: Giá cả hàng xuất khẩu
Q: Số lượng hàng xuất khẩu
Lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu là lượng dôi ra của doanh thu xuất khẩu so với
chi phí xuất khẩu, được tính bằng công thức:
Lợi nhuận xuất khẩu = TR – TC
LNKT = TR – TCKT
L.Ntt = TR – TCtt
Trong đó: TC: tổng chi phí bỏ ra cho hoạt động xuất khẩu
LNKT:Lợi nhuận kinh tế
TCKT: Chi phí
LNtt: Lợi nhuận tính toán
TCtt: Chi phí tính toán.
b.Chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của xuất khẩu.
Hiệu quả của việc xuất khẩu được xác định bằng cách so sánh số ngoại tệ thu được
do xuất khẩu (giá trị quốc tế của hàng hoá) với những chi phí bỏ ra cho việc sản
xuất hàng hoá xuất khẩu đó.
*Tỷ suất lợi nhuận xuất khẩu: là chỉ tiêu hiệu quả tương đối nó có thể tính theo hai
cách:
-Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu:
P
p = 100 %
TR
-Tỷ suất lợi nhuận trên chi phí:
P
p = 100 %

TC
Trong đó:
p : Tỷ suất lợi nhuận xuất khẩu.
P : Lợi nhuận xuất khẩu.
TR : Tổng doanh thu từ hoạt động xuất khẩu.
TC : Tổng chi phí từ hoạt động xuất khẩu.
Nếu p > 1 thì doanh nghiệp đạt hiệu quả trong xuất khẩu.
p < 1 doanh nghiệp chưa đạt hiệu quả trong xuất khẩu.
*Hiệu quả tương đối của việc xuất khẩu:
Tx
Hx =
Cx
Trong đó: Hx:Hiệu quả tương đối của việc xuất khẩu.
Tx: Doanh thu (bằng ngoại tệ từ việc xuất khẩu đơn vị hàng hoá, dịch vụ
(giá quốc tế))
Cx:tổng chi phí của việc sản xuất sản phẩm xuất khẩu, bao gồm cả vận
tải đến cảng xuất (giá trong nước)
Chỉ tiêu này cho ta biết số thu bằng ngoại tệ đối với đơn vị chi phí trong nước.
Tổng giá thành xuất khẩu là tổng chi phí sản xuất hàng xuất khẩu, các chi phí mua
và bán xuất khẩu.
Thu ngoại tệ xuất khẩu là tổng thu nhập ngoại tệ của hàng hoá xuất khẩu tính theo
giá FOB.
Thu nhập nội tệ của hàng xuất khẩu là số ngoại tệ thu được do xuất khẩu tính đổi
ra nội tệ theo tỷ giá hiện hành.
Hiệu quả kinh doanh xuất khẩu:

Thu nhập ngoại Giá thành nguyên
tệ xuất khẩu - liệu ngoại tệ
Tỷ lệ thu nhập =
Ngoại tệ XH Giá thành xuất khẩu nội tệ


Tổng giá thành nội tệ xuất khẩu (VND)
Giá thành chuyển =
đổi xuất khẩu Thu nhập ngoại tệ xuất khẩu (USD)
Thu nhập nội tệ xuất khẩu – Giá thành xuất khẩu nội tệ
Tỷ lệ lỗ lãi =
xuất khẩu Giá thành xuất khẩu nội tệ
*Các chỉ tiêu về sử dụng vốn.
Chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng vốn.
Lợi nhuận xuất khẩu
Hiệu qủa sử dụng vốn = 100%
Vốn
Doanh thu xuất khẩu
Số vòng quay của vốn = 100%
Mức dự trữ bình quân
c.Chỉ tiêu doanh lợi xuất khẩu.
Tx
Dx = 100%
Cx
Trong đó: Dx: Doanh lợi xuất khẩu
Tx: Thu nhập bán hàng xuất khẩu tính bằng ngoại tệ được chuyển đổi
ra tiền Việt Nam theo tỷ giá công bố của ngân hàng Ngoại thương (sau khi trừ mọi
chi phí bằng ngoại tệ)
Cx: Tổng chi phí cho việc xuất khẩu.
d.Tỷ xuất ngoại tệ xuất khẩu.
là số lượng bản tệ bỏ ra để thu được một đơn vị ngoại tệ
Thu nhập ngoại tệ (USD)
Tỷ suất ngoại tệ =
Σ Z nội tệ xuất khẩu (VNĐ)
Nếu tỷ suất ngoại tệ hàng xuất khẩu < tỷ giá do ngân hàng Nhà nước công bố thì

nên xuất khẩu và ngược lại.
III.THỊ TRƯỜNG GỐM XÂY DỰNG VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU GỐM XÂY DỰNG.
1.Thị trường xuất khẩu gốm xây dựng.
2.Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu gốm xây dựng.
2.1 Các nhân tố ảnh hưởng ở tầm vĩ mô.
Sự thay đổi về mức độ giàu có trên thế giới đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến
toàn bộ giá trị hàng hoá lưu chuyển quốc tế. Tỷ lệ mậu dịch quốc tế đang có xu
hướng tăng nhanh hơn tỷ lệ tổng sản phẩm thế giới ở một thời kỳ dài. Điều này có
nghĩa là sự tương quan so sánh giữa kinh doanh và sản xuất không cố định mà
luôn thay đổi qua các thời kỳ.
Mức độ gia tăng khối lượng và giá trị hàng hoá kinh doanh tuỳ thuộc rất lớn vào
mức độ can thiệp của Chính phủ.Thông qua các chính sách, công cụ kinh tế vĩ mô
mà Nhà nước thực hiện sự điều tiết khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu.
a.Chính sách thương mại của nước xuất khẩu.
Trong nền kinh tế thị trường Nhà nước có vai trò chủ yếu là hiệu quả ổn định và
công bằng cho sự phát triển kinh tế xã hội. Như vậy, Nhà nước đã có những tác
động làm ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp
thông qua chính sách thương mại.
Đây là những yếu tố mà doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu buộc phải nắm
rõ và tuân thủ một cách vô điều kiện bởi nó thể hiện ý chí của Nhà nước xuất khẩu
nhằm bảo vệ lợi ích chung của quốc gia. Cụ thể trong hoạt động xuất khẩu doanh
nghiệp cần phải nắm rõ chính sách khuyến khích, hỗ trợ của Nhà nước để thúc đẩy
xuất khẩu như chế độ cấp giấy phép, chế độ hạn ngạch, chính sách thuế nói chung
và thuế xuất nhập khẩu nói riêng để đề ra chiến lược xuất khẩu thích hợp và hiệu
quả nhất.
b.Quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường thế giới.
Nhân tố cung cầu là những nhân tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến lượng cung
cấp hoặc khối lượng hàng hoá xuất khẩu trên thị trường. Trong nền kinh tế thị
trường quan hệ cung cầu điều khiển và kiểm soát thị trường, nó quyết định đến

quá trình xuất khẩu hàng hoá. Vì vậy quyết định của doanh nghiệp phải thật linh
hoạt cho phù hợp với mối quan hệ cung cầu trong từng thời điểm, từng vùng khác
nhau trên thị trường cạnh tranh.
c.Tỷ giá hối đoái của đồng tiền và tỷ xuất ngoại tệ hàng xuất khẩu.
Tỷ giá hối đoái là sự so sánh giữa đồng tiền bản địa (nội tệ) với đồng tiền nước
ngoài (đồng ngoại tệ) ảnh hưởng đến kinh doanh xuất nhập khẩu. Khi tỷ giá hối
đoái tăng đồng tiền nội tệ mất giá thì giá cả sản phẩm nhập khẩu tính bằng đồng
nội tệ sẽ đắt hơn một cách tương đối, sản phẩm xuất khẩu tính bằng đồng ngoại tệ
sẽ rẻ hơn một cách tương đối khi đó nó sẽ khuyến khích xuất khẩu và hạn chế
nhập khẩu. Khi tỷ giá hối đoái giảm thì đồng nội tệ sẽ có giá hơn thì nó sẽ khuyến
khích nhập khẩu và hạn chế xuất khẩu. Sự thay đổi của tỷ giá hối đoái ảnh hưởng
trực tiếp đến tình hình xuất nhập khẩu và lợi nhuận của các nhà kinh doanh xuất
nhập khẩu. Chính vì vậy, đối với các nhà kinh doanh, mặc dù tỷ giá hối đoái tăng
hay giảm là yếu tố khách quan nhưng việc theo dõi sát tình hình tỷ giá hối đoái
thay đổi, để kịp thời đề ra những biện pháp điều chỉnh hoạt động kinh doanh của
mình cũng có tác dụng tăng thêm lợi nhuận.
Đây là nhân tố quyết định bạn hàng, mặt hàng, phương án kinh doanh, quan hệ
kinh doanh của không chỉ một doanh nghiệp xuất nhập khẩu mà với tất cả các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói chung. Sự biến đổi của nhân tố này sẽ gây những
biến đổi lớn trong tỷ trọng giữa xuất khẩu và nhập khẩu.
d.Sự biến động thị trường trong và ngoài nước.
Hoạt động xuất khẩu như một chiếc cầu nối thông thường giữa hai thị trường, tạo
ra sự gắn bó cũng như phản ánh tác động qua lại giữa chúng. Nếu có sự biến động
ví dụ sự tồn đọng giá cả thay đổi, yêu cầu về một mặt hàng ở thị trường ngoài
nước thay đổi sẽ làm thay đổi ngay lập tức lượng hàng hoá qua chiếc cầu xuất
khẩu và ngược lại thị trường ngoài nước quyết định tới sự thoả mãn các nhu cầu
thị trường trong nước, sự biến động của nó về khả năng cung cấp về sản phẩm
mới, về sự đa dạng của hàng hoá cũng như phản ánh qua chiếc cầu xuất khẩu để
tác động ra thị trường ngoài nước.
e.Sự phát triển của nền sản xuất cũng như các doanh nghiệp kinh doanh thương

mại trong và ngoài nước.
Sự phát triển của nền sản xuất của doanh nghiệp sản xuất trong nước tạo ra sự
cạnh tranh mạnh mẽ với sản phẩm của các đối thủ nước ngoài do vậy sẽ thúc đẩy
xuất khẩu. Ngược lại sự phát triển của nền sản xuất nước ngoài làm tăng khả năng
cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu do vậy làm giảm hoạt động xuất khẩu. Tuy
nhiên không phải lúc nào sản xuất trong nước phát triển thì hoạt động xuất khẩu
được mở rộng và khi sản xuất nước ngoài phát triển thì hoạt động xuất khẩu bị thu
hẹp, nó còn phụ thuộc vào chính sách Nhà nước lúc đó cần bảo vệ và khuyến

×