Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Một số biện pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ 4 5 tuổi thông qua các hoạt động tại trường mầm non thị trấn thường xuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.53 MB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HĨA

PHỊNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THƯỜNG XUÂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KỸ NĂNG TỰ BẢO
VỆ BẢN THÂN CHO TRẺ 4 – 5 TUỔI THÔNG QUA
CÁC HOẠT ĐỘNG TẠI TRƯỜNG MẦM NON THỊ
TRẤN THƯỜNG XUÂN

Người thực hiện: Lê Thị Vân Hà
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Mầm non Thị Trấn
SKKN thuộc lĩnh vực: Chun mơn

THANH HĨA, NĂM 2021


MỤC LỤC

Tên mục lục

Trang

Mục lục
1. Mở đầu

2

1.1. Lý do chọn đề tài



2

1.2. Mục đích nghiên cứu

3

1.3. Đối tượng nghiên cứu

3

1.4. Phương pháp nghiên cứu

3

2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

3

2.1. Cơ sở lý luận
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm
2.3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động
giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
3. Kết luận, kiến nghị

3
5
7

17
18

3.1. Kết luận

18

3.2. Kiến nghị

18

Tài liệu tham khảo

20


2

1. Mở đầu.
1.1. Lí do chọn đề tài
“Trẻ em như búp trên cành,
Biết ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan”.
Đây cũng là quan niệm của dân tộc ta về giáo dục, chăm sóc, ni dưỡng
cho trẻ thơ. Búp trên cành là phần lộc non, tươi mới và đẹp đẽ, cần được chăm
sóc và bảo vệ để trở thành cành lá xum xuê trong tương lai. Chăm sóc trẻ thơ,
bảo vệ “búp trên cành” là hạnh phúc của chúng ta hôm nay, là chăm lo cho
tương lai chúng ta mai sau. Chăm sóc và giáo dục trẻ em là trách nhiệm, là tình
thương và hạnh phúc của mỗi người, mỗi gia đình, mỗi cộng đồng. Song song
với việc chăm sóc và ni dưỡng thì chúng ta cần phải phát triển tồn diện cho
trẻ. Là một giáo viên mầm non, tơi nhận thấy trẻ em bây giờ rất thông minh và

lanh lợi, đặc biệt nơi mà tôi giảng dạy lại là địa bàn Thị trấn nên trẻ được tiếp
xúc với sự đổi mới của thời đại, của công nghệ thông tin. Từ đó, tơi ln mong
muốn truyền đạt thật nhiều kiến thức cho trẻ, giúp trẻ phát triển hết những khả
năng vốn có. Chính vì điều đó tơi đã ln trăn trở, tìm tịi và sáng tạo, để tìm ra
những cách thức hay, những phương pháp tốt nhất cho bài giảng của mình.
Trong cơng tác chăm sóc và giáo dục trẻ hiện nay vấn đề giáo dục kỹ năng tự
bảo vệ bản thân cho trẻ đang là vấn đề cấp thiết vì:
Kỹ năng tự bảo vệ bản thân là những hiểu biết của một người về những sự
việc xung quanh mình cũng như cách để hành động đúng, an toàn đối với sự vật
đó. Trẻ có kỹ năng bảo vệ bản thân sẽ biết cách làm thế nào để tránh xa những
mối nguy hiểm hoặc khám phá thế giới trong phạm vi an toàn.
Khi mới sinh ra đứa trẻ nào cũng nhận được sự bao bọc kỹ càng của bố mẹ
và những người thân u nhất. Gia đình chính là mơi trường an toàn cho sự phát
triển của trẻ. Tuy nhiên, cùng với thời gian trẻ lớn lên cũng đồng nghĩa với việc
tiếp xúc với nhiều mơi trường khác nhau ngồi mơi trường gia đình. Trong khi
đó bố mẹ khơng thể lúc nào cũng ở bên trẻ 24/24 giờ được. Nhiệm vụ bảo vệ an
toàn cả về thể chất và tinh thần cho trẻ nhỏ được coi là quan trọng hàng đầu, bên
cạnh đó cịn phải giáo dục trẻ biết cách bảo vệ bản thân trước những mối nguy
hiểm ngoài xã hội. Ở độ tuổi mầm non trẻ xuất hiện trình trạng thụ động, khơng
biết ứng phó trong những hồn cảnh nguy cấp, không biết tự bảo vệ bản thân
trước những nguy hiểm. Có nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra tình trạng này,
trong đó việc thiếu kỹ năng tự bảo vệ bản thân là nguyên nhân sâu xa nhất. Do
đó, việc dạy kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ là rất cần thiết.
Trong năm học này tôi được nhà trường phân công là giáo viên chủ nhiệm
lớp 4 tuổi B1, cùng với việc nắm bắt tình hình đặc điểm của trẻ trong giai đoạn
4 - 5 tuổi, lứa tuổi ln hiếu kì, ham thích tị mị, khám phá những điều mới lạ
và cũng là lứa tuổi mà trẻ dễ gặp phải nhiều mối nguy hiểm nhất bởi trẻ chưa có
kỹ năng để thu thập thơng tin, phán đốn những mối nguy hiểm có thể xảy ra đối
với bản thân. Trong suốt một thời gian dài suy nghĩ làm cách nào để giúp trẻ có
kỹ năng tự bảo vệ bản thân một cách tốt nhất, tơi đã tìm hiểu và áp dụng một số

biện pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ lớp mình chủ nhiệm phụ


3

trách và đã thu được những kết quả không nhỏ. Với mong muốn chia sẻ những
kinh nghiệm của bản thân trong q trình giảng dạy tơi đã mạnh dạn nghiên cứu
đề tài “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ 4-5 tuổi
thông qua các hoạt động tại trường Mầm non Thị trấn Thường Xuân”.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực tiễn, tìm các biện pháp giáo dục kỹ
năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ 4-5 tuổi. Nhằm góp phần vào việc hình thành và
rèn luyện các kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ giúp trẻ có kiến thức cơ bản tự
bảo vệ mình tránh khỏi những nguy hại đến bản thân, rèn luyện kỹ năng ứng phó
với những tình huống nguy hại có thể xảy ra đối với trẻ, giúp trẻ mạnh dạn, tự
tin trong cuộc sống đồng thời góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục
trẻ Mầm non trong giai đoạn hiện nay.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Nghiên cứu một số biện pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ
lớp 4 tuổi B1 gồm 31 cháu tại trường mầm non Thị trấn Thường Xuân.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Để nghiên cứu đề tài này tôi đã chọn phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
- Phương pháp đàm thoại.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp dùng lời (giảng giải).
- Phương pháp thống kê toán học.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Kỹ năng bảo vệ bản thân là gì?

Kỹ năng bảo vệ bản thân là những hiểu biết của một người về những sự
việc xung quanh mình cũng như cách để hành động đúng, an toàn đối với sự vật
đó. Trẻ có kỹ năng bảo vệ bản thân sẽ biết cách làm thế nào để tránh xa những
mối nguy hiểm hoặc khám phá thế giới trong phạm vi an tồn.[2]
Giai đoạn từ 4 đến 12 tuổi có thể coi là giai đoạn mà trẻ dễ gặp phải nhiều
mối nguy hiểm nhất. Bởi ở giai đoạn này, trẻ thích khám phá nhưng lại chưa có
những kỹ năng cơ bản để tìm hiểu thế giới.[5]
Một số kỹ năng bảo vệ bản thân cha mẹ có thể trang bị cho trẻ:[2]
- Kỹ năng an toàn khi tự chơi
Đây được coi là mối quan tâm hàng đầu của hầu hết các bậc phụ huynh
trong thời gian gần đây. Hiện nay do tính chất của công việc cũng như điều kiện
của mỗi gia đình, việc tự chơi của các con rất phổ biến. Trong q trình chơi,
các con có thể gặp phải những mối nguy hiểm từ những đồ vật trong gia đình
như phích nước, ổ điện, bếp điện từ, máy rửa bát, robot lau nhà thông minh, cầu
thang và những đồ vật nhỏ. Các con cần hiểu được đâu là đồ chơi, đâu là đồ
dùng trong gia đình, đâu là đồ vật an tồn và đồ vật khơng an tồn…
- Kỹ năng tránh bị xâm hại cơ thể


4

Ở Việt Nam, vấn đề cho con tìm hiểu về vấn đề này chưa thực sự được
quan tâm đúng mức. Tuy nhiên, đây lại là vấn đề khá nhức nhối trong xã hội
hiện nay. Để đảm bảo cho con có những kiến thức cơ bản về vấn đề bảo vệ thân
thể cũng như cách phòng tránh khi bị xâm hại cơ thể, cha mẹ cần trang bị cho
con những kiến thức cần thiết. Cha mẹ hãy giúp con hiểu được thế nào là hành
động xâm phạm thân thể, nếu bị xâm hại cơ thể các con nên ứng xử ra sao.
Với trẻ mầm non, bố mẹ nên dạy trẻ hiểu được quyền khơng bị xâm hại cơ thể
mình, hiểu được những bộ phận kín trên cơ thể, khơng ai có quyền động chạm đến
(trừ cha mẹ khi giúp con làm vệ sinh, tắm rửa và thầy thuốc khi thăm khám).

Theo các chuyên gia, có nhiều trẻ em đã bị lạm dụng tình dục do bố mẹ vơ
tình biến con thành một gợi ý. Vì thế, cha mẹ tuyệt đối khơng bao giờ cho trẻ ở
truồng. Không nên để con ăn mặc quá hở hang, nên coi trọng sự an toàn hơn cái
đẹp và đặc biệt khơng cho con ra ngồi một mình vào buổi tối.
- Khơng đi theo và nhận quà của người lạ.
Dạy trẻ tuyệt đối không đi theo người lạ, ngay cả khi họ nói sẽ giúp bé tìm
đường về nhà.
Cha mẹ nên dạy bé khơng nhận bất cứ món quà nào người lạ cho mà phải
từ chối khéo léo rằng: “Bố mẹ cháu không cho phép nhận”, đề phịng những
món q bánh kẹo đó có tẩm thuốc mê, bé ngửi hoặc ăn sẽ bị trúng mưu kẻ xấu.
Sau đó, bé hãy tìm đến chỗ có người lớn hoặc chú bảo vệ đứng để tránh bị
người lạ kia tiếp tục dụ dỗ.
Trường hợp người đó cứ bám theo ép bé ăn thì phải quẫy đạp và hét thật to
để mọi người đến cứu.
Không đi theo người nhận là quen bố mẹ: Khi người lạ nhận là bạn của bố
mẹ đến trường đón bé, để tránh trẻ bị dụ dỗ vì tưởng là người quen, phụ huynh
cần được dạy trẻ không được tin lời người lạ, kể cả người nhận là bạn của ba
mẹ, thậm chí biết cả tên ba mẹ và tên của bé.
Khơng đi theo hàng xóm nếu chưa báo cho bố mẹ biết: Trường hợp nhận ra
họ là hàng xóm hay người quen thì bé hãy vào trường báo cho cô giáo biết rồi
nhờ cô gọi cho bố mẹ để xác minh xem có đúng là họ được nhờ đến đón khơng.
Các chun gia cũng vẽ ra một vòng tròn giao tiếp cho trẻ theo quy tắc bàn tay
mà bố mẹ nên ghi nhớ để dạy con:
+ Người ruột thịt với bé có thể ơm ẵm, xiết tay
+ Thầy cô, bà con được nắm tay.
+ Người quen: Bắt tay.
+ Người lạ: Vẫy tay.
+ Người đáng ngại: Xua tay, khơng tiếp xúc để tránh bị bắt cóc hay lạm
dụng tình dục trẻ em.
- Kỹ năng ứng xử khi bị lạc.

Với nhu cầu vui chơi giải trí hiện nay, đã có rất nhiều trường hợp trẻ bị lạc
xảy ra nơi công cộng. Các bậc phụ huynh nên giúp trẻ có những kiến thức ứng
xử cần thiết khi bị lạc như: Con nên gọi sự trợ giúp của ai? Nếu gặp người lạ


5

muốn đưa con về con nên làm gì? Cha mẹ nên dạy con ghi nhớ tên tuổi, số điện
thoại của bố mẹ, địa chỉ nhà. Tuy nhiên, khi trẻ đang hoảng sợ chưa chắc trẻ đã
nhớ chính xác những thơng tin này, vì thế tốt hơn hết nên cho trẻ mang theo
mảnh giấy ghi thông tin liên lạc của bố mẹ trong trường hợp khẩn cấp.
Làm gì khi bị lạc trong trung tâm, siêu thị:
+ Nếu bé lạc ở trung tâm mua sắm hay khu vui chơi đông người, hãy đứng
tại chỗ chờ cha mẹ đến, nếu không thấy bé hãy đến nói với các chú bảo vệ hoặc
cơ bán hàng nhờ họ thông báo lên loa.
+ Tiếp tục chờ đợi bố mẹ đến không đi lang thang, bố mẹ sẽ quay trở lại
tìm kiếm trẻ.
Nếu bị lạc cha mẹ, ngun tắc đầu tiên bé cần nhớ:
+ Bình tĩnh.
+ Khơng khóc lóc hay chạy lung tung
+ Đứng yên tại chỗ để chờ.
Làm gì khi bị lạc ngồi đường:
+ Trường hợp bị lạc ở ngồi đường, bé có thể mượn điện thoại của người đi
đường hoặc chú công an để gọi bố mẹ đến đón.
- Kỹ năng an tồn khi tham gia giao thông.
Đây là một kỹ năng quan trọng đối với trẻ khi tham gia vào xã hội. Cha mẹ
nên giúp trẻ hiểu được một số loại biển báo cơ bản, một số loại đường cơ bản,
một số người có vai trị trong việc điều hành giao thơng, cách sang đường cũng
như cách đi qua các ngã ba, ngã tư.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.

2.2.1. Thuận lợi.
* Về phía nhà trường: BGH nhà trường luôn quan tâm tạo mọi điều kiện
cho giáo viên học tập và rèn luyện. Nhà trường mở những buổi sinh hoạt chuyên
môn, tạo điều kiện cho giáo viên đi tham dự các lớp chuyên đề, lớp tập huấn
“Kỹ năng phịng chống bạo lực, xâm hại tình dục đối với trẻ em”.
* Về phía giáo viên: Có đội ngũ giáo viên yêu nghề, mến trẻ. Bản thân tôi
là một giáo viên trẻ trình độ chun mơn chuẩn ln cố gắng trong quá trình tự
học, tự rèn luyện và tổ chức các hoạt động chăm sóc, giáo dục.
* Về phía trẻ: Trẻ đi học tỷ lệ chuyên cần cao, trẻ ngoan, lễ phép.
2.2.2. Khó khăn.
* Về phía phụ huynh.
- Nhiều gia đình ln bao bọc, nng chiều, cho con tiếp xúc, lạm dụng
mạng internet, chưa quan tâm dạy con về giới tính và những kỹ năng phịng
chống, tự bảo vệ bản thân. Cho con chơi tự do ở những nơi công cộng mà khơng
dạy con cách tiếp xúc và đề phịng người lạ.
- Nhiều phụ huynh còn chưa quan tâm đến việc dạy về giới tính và kỹ năng
phịng chống xâm hại cho trẻ ở lứa tuổi mầm non, cho rằng lứa tuổi này cịn q
nhỏ để học.
* Về phía giáo viên.


6

- Đa số là giáo viên trẻ mới vào trường, vốn kinh nghiệm chưa nhiều, kỹ
năng còn hạn chế.
- Trong các hoạt động tại trường, giáo viên đôi khi chưa cung cấp kiến
thức, chưa giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ. Giáo dục còn chưa
mạnh dạn, tự tin khi nói về vấn đề xâm hại tình dục trước trẻ.
- Chưa có nhiều tài liệu, sách báo về giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân,
phòng chống xâm hại tình dục cho trẻ để giáo viên nghiên cứu.

* Về phía trẻ.
- Trẻ chưa được bố mẹ, cô giáo giáo dục về kỹ năng tự bảo vệ bản thân:
Không đi theo và nhận quà của người lạ; Biết kêu người lớn giúp đỡ khi bị lạc
hoặc gặp nguy hiểm; Kỹ năng tránh bị xâm hại cơ thể.
- Đa số trẻ chưa có kỹ năng tự bảo vệ bản thân, chưa biết về giới tính, chưa
biết ai là người được phép chạm và không được chạm vào vùng kín của mình.
- Phần lớn trẻ cịn nhút nhát, chưa mạnh dạn trong các hoạt động. Các cháu
tuy cùng độ tuổi nhưng khả năng tiếp thu của trẻ chưa đồng đều.
Từ thực trạng nêu trên, trước khi áp dụng các biện pháp tôi đã tiến hành
khảo sát thực tế các kỹ năng tự bảo vệ bản thân của trẻ 4- 5 tuổi B1 với số lượng
31 cháu tại lớp tôi như sau:
Bảng khảo sát thực tế khi chưa sử dụng biện pháp

Stt
1
2
3
4
5

Nội dung đánh giá
Kỹ năng tránh bị xâm hại
cơ thể
Không đi theo và nhận
quà của người lạ
Biết kêu người lớn giúp
đỡ khi bị lạc hoặc gặp
nguy hiểm
Kỹ năng an tồn khi tham
gia giao thong

Khơng chơi với những đồ
vật nguy hiểm, chơi ở nơi
nguy hiểm

Tổng
số trẻ

Đạt
Chưa đạt
Số trẻ Tỉ lệ % Số trẻ Tỉ lệ %

31

14

45

17

55

31

16

52

15

48


31

17

55

14

45

31

16

52

15

48

31

18

58

13

42


Qua khảo sát tôi nhận thấy kỹ năng tự bảo vệ ở trẻ chưa đồng đều, phần
nhiều trẻ còn rất thụ động, chưa nhận biết được mối nguy hiểm có thể xảy ra đối
với mình, chưa có khả năng ứng phó kịp thời với những tình huống nguy cấp,
chưa biết cách bảo vệ bản thân trước nguy hiểm... Có nhiều ngun nhân dẫn
đến tình trạng này, trong đó việc ba mẹ trong gia đình thường xun khơng có
nhà các em phải ở nhà với ơng bà, kiến thức của bố mẹ và ơng bà cịn hạn chế.


7

Một bộ phận bố mẹ chiều chuộng, bao bọc trẻ, ln có thói quen làm thay trẻ
trong tất cả mọi việc vì sợ con gặp nguy hiểm hay sợ con làm hỏng việc. Chính
vì thế, rất khó hình thành ý thức và kỹ năng trong đầu trẻ. Từ những vấn đề này
tôi suy nghĩ để đưa ra biện pháp nào hiệu quả nhất, thiết thực nhất và dễ dàng
thực hiện với thực tế của trường, lớp để mang lại hiệu quả cao trong việc giáo
dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ.
2.3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.2.1: Biện pháp 1: Giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân thông qua các
hoạt động học.
Những kỹ năng mà tôi đã áp dụng vào để xây dựng thành hoạt động học như:
Dạy trẻ không chơi với những đồ vật nguy hiểm (dao, kéo, chất tẩy rửa,
đinh, ổ điện, nước sôi, bật lửa, kim tiêm, quạt, cách chơi cầu trượt...); dạy trẻ
cách đội và tháo mũ bảo hiểm
Ví dụ 1: Đối với kỹ năng “Dạy trẻ không chơi với những đồ vật nguy
hiểm” tôi tiến hành dạy trẻ ở chủ đề “Gia đình” tơi đã xây dựng thành hoạt động
học cụ thể như sau:
- Đầu tiên tối sẽ phân loại ra các nội dung, đồ dùng cần cung cấp cho trẻ
trong tiết dạy (dưới dạng tranh ảnh) và chia lớp làm 02 nhóm để thảo luận:
+ Nhóm thảo luận về đồ dùng sắc nhọn: dao, kéo, đinh, cạnh bàn, cạnh ghế.

+ Nhóm thảo luận về đồ dùng gây bỏng, giật: ấm nước sôi, ổ điện, bếp ga,
bật lửa.
Trẻ thảo luận xong tôi mời đại diện các nhóm lên giới thiệu trình bày
những hiểu biết về các đồ dùng, cách xử lý của nhóm mình cho các nhóm cịn
lại xem. Sau mỗi lần giới thiệu tơi sẽ đăt hệ thống các câu hỏi để cả lớp khám
phá:
- Nhóm thảo luận về đồ dùng sắc nhọn: dao, kéo, đinh, cạnh bàn, cạnh ghế.
+ Các con có nhận xét gì về các đồ dùng này?
+ Điều gì sẽ xảy ra nếu các con tự ý dùng dao, kéo?
+ Khi nào thì các con được dùng kéo? Khi dùng phải như thế nào?
+ Các con phải làm gì khi chơi gần cạnh bàn, cạnh ghế?...
- Nhóm thảo luận về đồ dùng gây bỏng, giật: ấm nước sôi, ổ điện, bếp ga.
+ Đối với những đồ dùng này thì các con phải làm sao? (mục đích câu hỏi
này là giúp trẻ tránh xa)
+ Vì sao lại phải tránh xa?
+ Điều gì sẽ xảy ra khi các con nghịch ấm nước sôi hay cho tay vào ổ điện?
+ Ai sẽ là người được dùng những đồ vật này?
Tiếp theo tôi sử dụng các trò chơi để nhằm khắc sâu hơn cho trẻ những gì
vừa được học như trị chơi “Gạch bỏ các hành vi sai”; “Chọn đồ chơi an tồn,
khơng an tồn”.
Ví dụ 2: Đối với kỹ năng dạy trẻ đội mũ bảo hiểm đúng cách, đây là một
trong những kỹ năng mà tôi cho rằng rất là quan trọng phải chú tâm nhiều, tơi
muốn hình thành cho trẻ của mình thói quen chấp hành đội mũ bảo hiểm khi


8

tham gia giao thơng từ khi cịn rất nhỏ đây là một điều đặc biệt cần thiết khi
tham gia giao thơng để đảm bảo an tồn cho chính bản thân mình. Với kỹ năng
này tơi tiến hành dạy trẻ như sau:

- Đầu tiên tôi sẽ cho trẻ xem 1 số hình ảnh khi bé ngồi trên xe máy: Bé đội
mũ bảo hiểm, bé không đội mũ bảo hiểm, đội mũ bảo hiểm bị ngược, đội mũ
bảo hiểm nhưng không cài dây quai sau đó đàm thoại cùng trẻ:
+ Các con vừa nhìn thấy những gì?
+ Theo các con hành vi nào đúng? Hành vi nào sai khi tham gia giao thơng?
+ Vì sao khơng đội mũ bảo hiểm, đội mũ bảo hiểm bị ngược, không cài dây
quai mũ bảo hiểm là hành vi sai?
+ Để đảm bảo an toàn khi tham gia giao thơng các con phải làm gì?
+ Vậy làm thế nào để đội mũ bảo hiểm đúng cách?
- Bước tiếp theo tôi chia lớp thành 3 đội chọn quy trình các bước đội mũ
bảo hiểm vào băng cài theo suy nghĩ của trẻ
+ Bước 1: Cầm mũ bảo hiểm và xác định phía trước, phía sau của mũ
bảo hiểm.
+ Bước 2: Lật ngửa mũ bảo hiểm và kéo dây quai sang 2 bên
+ Bước 3: Đội mũ bảo hiểm lên đầu
+ Bước 4: Cài chặt 2 dây quai cho vừa khít với cằm
- Mời đại diện trẻ lên nói trình tự các bước đội mũ bảo hiểm đồng thời tôi
giáo dục trẻ: Khi các con được người lớn chở đi học, đi chơi các con nhớ phải
đội mũ bảo hiểm và phải đội đúng cách để bảo vệ an toan cho bản thân.

- Khi ngồi trên các phương tiện giao thơng khơng trêu đùa
nhau, khơng thị đầu thị cổ ra ngồi khi ngồi trên ơ tơ, tàu ...
- Khi đi bộ phải đi trên vỉa hè và luôn luôn đi bên phải đường.


9

- Khi qua đường phải có người lớn dắt qua…
Ví dụ 3: Qua tiết học Khám phá khoa học chủ đề “Bản thân”: Trị chuyện
với trẻ về bản thân, tơi dạy trẻ các kỹ năng sau:

+ Kỹ năng thực hiện các thao tác vệ sinh cá nhân để trẻ có ý thức giữ gìn
cơ thể của mình.
+ Kỹ năng tự chăm sóc bảo vệ bản thân: Trẻ có 1 số kỹ năng và có ý thức
giữ gìn và bảo vệ các bộ phận trên cơ thể.
+ Dạy trẻ biết 4 điểm riêng tư trên cơ thể không được cho người lạ chạm
vào và không chạm vào 4 điểm riêng tư trên cơ thể của người khác.
+ Kỹ năng xử lý khi có người lạ muốn chạm vào những điểm riêng tư…

Ví dụ 4: Trong chủ đề “Gia đình”, trong tiết: “Trị chuyện với trẻ về những
người thân trong gia đình” tơi và trẻ cùng trị chuyện về các nội dung sau:
+ Trị chuyện với trẻ về gia đình mình. Cho trẻ tự kể về gia đình của mình,
trong gia đình có những ai? Trẻ nhận thức được đâu là người thân, đâu là người lạ.
+ Dạy trẻ phân biệt các mối quan hệ ruột thịt, anh em họ hàng, làng xóm…
+ Trẻ làm quen với quy tắc “Năm ngón tay” từ đó dạy trẻ ứng xử theo quy
tắc 5 ngón tay với người thân trong gia đình và những người quen biết.
+ Kỹ năng xử lý khi có người lạ đến nhà mà bố mẹ đi vắng.
+ Kỹ năng khi trẻ ở nhà một mình


10

Đối với các tiết học tôi đã xây dựng, hầu hết việc đưa ra hệ thống câu hỏi
trong quá trình tổ chức cho trẻ tìm hiểu được tơi hết sức chú trọng. Các câu hỏi
phải thật sự ngắn gọn dễ hiểu đối với trẻ, câu hỏi mang tính gợi mở, giúp trẻ suy
nghĩ để trả lời. Đồng thời, để tiết dạy mang lại hiệu quả tơi đã sử dụng hình thức
làm việc nhóm nhằm giúp trẻ có được sự tự tin mạnh dạn trong quá trình học
tập. Sau mỗi bài học tơi thường chọn nhiều trị chơi ơn luyện để giúp trẻ nhớ lâu
những kiến thức đã học.
2.2.2. Giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân thông qua hoạt động vui
chơi và các hoạt động khác.

Hoạt động ngoài trời là hoạt động vui chơi cũng là 1 hoạt động mà bản thân
tơi có thể lồng ghép tích hợp giáo dục nhiều kỹ năng cần thiết cho trẻ.
Khi cho trẻ chơi tự do hoạt động ngồi trời, bản thân ln phải quan sát trẻ
chơi và hướng dẫn trẻ chơi an toàn như: Cách leo lên xuống thang, cách nắm
thành cầu trượt để trượt cho an tồn, cách bám chắc xích đu khi chơi. Khi có bạn
đang chơi xích đu thì khơng được đứng trước hay sau xích đu vì sẽ gây nguy
hiểm. Hướng dẫn trẻ cách kiên trì chờ tới lượt mình chơi, tuyệt đối khơng tranh
giành, xơ đẩy nhau. Nếu không thực hiện đúng trẻ sẽ bị ngã, không an toàn cho
bản thân và bạn.
- Dạy trẻ cách bảo vệ bản thân khi chơi với các đồ dùng đồ chơi ngồi trời.

- Giáo dục trẻ có kỹ năng giữ an toàn cá nhân, kỹ năng tránh xa người lạ mặt,
không quen biết. Biết gọi sự trợ giúp từ những người cảm thấy tin cậy như chú
công an, những người xung quanh khu vực ấy...


11

- Tránh trượt ngã khi vệ sinh lớp học.

- Giờ vệ sinh: Dạy trẻ xếp hàng chờ tới lượt và mang dép khi đi vệ sinh.


12

- Giờ ăn: Dạy trẻ hành vi văn minh văn hóa trong giờ ăn như ngồi ngay
ngắn, giúp cơ trong giờ ăn.

- Giờ ngủ: Trẻ ngủ đúng tư thế, không làm ồn trong giờ ngủ, không cầm bất
cứ đồ vật hay đeo dây thun vào tay.


2.2.3. Giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ qua sử dụng các
tình huống.
Có rất nhiều tình huống xảy ra có thể đe dọa đến sự an tồn của trẻ, vì thế
trẻ cần hiểu được trong tình huống nào thì phải làm gì để tránh sự nguy hiểm.
Tơi đã đưa ra nhiều tình huống cụ thể, chia lớp thành nhiều nhóm nhỏ, tơi hướng
dẫn phân tích, giải thích và cùng trẻ tìm ra cách giải quyết tốt nhất.
Sau mỗi tình huống tơi đưa ra, trẻ sẽ được nhập vai và thể hiện cách xử lý
trong từng tình huống, từ đó trẻ sẽ có biểu tượng về các hành vi chuẩn mực làm
giàu vốn sống, vốn kinh nghiệm giúp trẻ biết lựa chọn những hành vi tích cực để


13

áp dụng vào cuộc sống của mình. Tình huống mà giáo viên cần dạy trẻ phải thật
gần gũi, thực tế, dễ hiểu phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ.
Sau đây là một số tình huồng tơi đã áp dụng:
Tình huống thứ nhất: Nếu có người lạ cho con bánh, kẹo và rủ con đi chơi
thì con làm như thế nào?
Cho trẻ suy nghĩ, cho trẻ đưa ra ý kiến của mình, gợi mở cho trẻ bằng các
câu hỏi.
Tiếp theo phân tích, giải thích cho trẻ và giúp trẻ có phương án giải quyết
đó là: Biết cách từ chối nhưng vẫn thể hiện sự lễ phép, ngoan ngoãn “Cháu cám
ơn, nhưng bố mẹ cháu không cho nhận quà của người lạ”.
Tôi đặt giả thiết nếu con từ chối nhưng họ vẫn một mực dúi quà vào tay
con và có ý lơi kéo con thì lúc đó con làm gì? Với giả thiết này tơi muốn trẻ có
phản ứng thật nhanh như hét to, cấu thật mạnh vào tay người lạ và chạy nhanh
đến người thân gần đó hoặc chỗ đơng người.
Mời trẻ lên đóng vai, một cơ giáo khác đóng vai người lạ. Thơng qua vai
trẻ đóng trẻ sẽ ứng phó với tình huống theo sự hiểu biết của bản thân, từ đó giúp

trẻ khắc sâu hơn những kinh nghiệm mà trẻ có được.

Tình huống thứ 2: Bị lạc bố mẹ khi đi xem lễ hội, siêu thị, khu vui chơi.
Tôi cho trẻ suy nghĩ, mỗi trẻ sẽ đưa ra cách giải quyết của riêng trẻ. Gợi mở cho
trẻ bằng các câu hỏi: Theo con làm vậy có được khơng? Tại sao? Sau đó, cơ
giúp trẻ rút ra phương án tối ưu nhất:
Khi bị lạc bé hãy bình tĩnh, khơng khóc hay la hét và chạy lung tung mà
hãy đứng n một chỗ chờ. Vì bố, mẹ sẽ có thể quay lại chỗ đó để tìm bé. Hoặc
bé có thể tìm đến những người mặc đồng phục giống nhau có đeo bảng tên, hoặc
nhờ bảo vệ, cơ bán hàng để giúp đỡ gọi điện thoại, hoặc thông báo lên loa để tìm
bố mẹ. Tuyệt đối khơng đi theo người lạ dù người đó có hứa sẽ đưa về với bố
mẹ, vì có thể đó là người xấu lợi dụng và sẽ bắt cóc con.


14

Tình huống thứ 3: Con làm gì khi bạn rủ chơi ngoài lề đường, vỉa hè. Cho
trẻ suy nghĩ là đưa ra cách giải quyết của mình. Trong khi trẻ thảo luận, tơi đưa
ra giả thiết: Nếu chơi ngồi đường thì sẽ nguy hiểm như thế nào? Tơi phân tích,
giải thích cho trẻ và giúp trẻ hiểu vấn đề đó là: Tuyệt đối khơng chơi ngồi lề
đường vỉa hè vì sẽ dễ gây ra tai nạn xe cộ dẫn đến nguy hiểm đến bản thân. Khi
gặp tình huống này các bé chỉ cần nói với bạn mình: Mình khơng chơi đâu vì mẹ
nói chơi gần đường giao thơng rất nguy hiểm.
* Ngoài các hoạt động trên, giáo dục những kỹ năng tự bảo vệ bản thân
được diễn ra mọi lúc mọi nơi, tơi đã lồng ghép những tình huống bất ngờ cho trẻ
để trẻ được trãi nghiệm và quan sát trẻ xử lý tình huống sau đó giáo dục trẻ để
trẻ có thể ghi nhớ và khắc sâu hơn.
- Buổi trải nghiệm các tình huống:
+ Bảo vệ mình trước các dịch bệnh: Dạy và củng cố các hành động phòng
ngừa hàng ngày:

Rửa tay
Đeo khẩu trang
Tránh tiếp xúc gần
Che miệng khi ho và hắt hơi

+ Khi gặp hỏa hoạn
Báo cho người lớn khi phát hiện có cháy
Gọi điện nhờ sự giúp đỡ
Ngăn khói lan vào phịng
Cách tránh hít phải khói độc
Dập lửa cháy trên quần áo bé đang mặc
Tìm cách thốt ra khỏi nơi xảy ra đám cháy


15

Thơng qua nhiều tình huống cụ thể mà rất dễ xảy ra trong cuộc sống hàng
ngày, bằng cách cho trẻ thảo luận, yêu cầu trẻ suy nghĩ vận dụng kinh nghiệm
của bản thân để giải quyết tình huống có vấn đề. Thơng qua đó cơ giúp trẻ tìm ra
phương án hiệu quả nhất, đó cũng chính là kinh nghiệm ta cần dạy trẻ. Những
tình huống có vấn đề được giáo viên đưa vào trong các hoạt động giáo dục trẻ đã
giúp trẻ có sự tư duy logic, biết cách diễn đạt suy nghĩ của mình và giúp trẻ có
thêm kinh nghiệm trong cuộc sống
2.2.4. Giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ thông qua phối kết
hợp với phụ huynh.
Ngoài việc giáo dục kỹ năng tự bảo vệ trên lớp, tơi cịn kết hợp chặt chẽ
với cha mẹ trẻ nhằm giúp các cháu có được kỹ năng tự bảo vệ tốt nhất, đảm bảo
sự an toàn cho trẻ ở trường cũng như ở nhà, ở ngoài xã hội. Những giờ học về
kỹ năng sống tôi đều mời phụ huynh tham gia, vừa để lắng nghe, quan sát phản
ứng của con mình trước các tình huống vừa có thể tạo điều kiện để phụ huynh

gặp gỡ trao đổi với giáo viên về tính cách đặc điểm của con em mình cho giáo
viên nắm bắt dễ dàng hơn.


16

Ngồi ra, tơi cịn dành thời gian phù hợp trong giờ đón, trả trẻ để trao đổi
những thơng tin hoặc cung cấp thông tin cho một số phụ huynh không có điều
kiện cập nhật thơng tin liên quan đến sự an tồn của trẻ hàng ngày. Một số thơng
tin có tính thời sự được tơi hết sức lưu tâm, tơi thu thập thơng tin qua trang trí
lên bảng tun truyền, qua zalo của nhóm.

Ngồi ra, tun truyền cho phụ huynh hiểu khơng nên làm hộ con, phải dậy
trẻ tính tự lập từ bé. Trẻ càng được hướng dẫn sớm về cách tự lập, tự bảo vệ bản
thân, nhận biết những mối nguy hiểm từ xung quanh và cách xử lý thì trẻ sẽ
vững vàng vượt qua những thử thách trong mọi tình huống. Điều đó được chứng
minh rõ ràng từ thức tế. Chính vì vậy, cách bảo vệ trẻ tốt nhất chính là dạy trẻ
biết cách tự bảo vệ bản thân.
Thơng qua các cuộc họp đầu năm, cuối kì tơi trao đổi thẳng thắn và đưa ra
một số yêu cầu đối với phụ huynh như sau:
Không để đồ vật, dụng cụ nguy hiểm gần nơi sinh hoạt của trẻ.
Không rời mắt khỏi trẻ khi cho các cháu đến những nơi đơng đúc, tuyệt đối
khơng cho trẻ chơi một mình ở những nơi nguy hiểm: ngồi đường, ao, hồ, cơng
trình xây dựng...
Hạn chế việc nhờ người quen, hàng xóm láng giềng đưa đón trẻ đi học.
Tập cho trẻ gái có thói quen mặc quần lót khi cịn bé
Cha mẹ hạn chế thể hiện tình cảm thái quá đối với con như thường xuyên
nựng nịu bộ phận riêng tư của trẻ.
Tuyệt đối khơng để cho con chứng kiến (nhìn thấy, nghe thấy) vấn đề
riêng tư, tế nhị của cha mẹ.



17

Gia đình tránh xem phim ảnh mang tính chất bạo lực trước mặt trẻ. Cha mẹ
nên dành nhiều thời gian trị chuyện chia sẻ cùng con, khơng vội vàng phê phán
đúng - sai, luôn tin tưởng vào năng lực của trẻ.
Đối với một số phụ huynh khơng có thời gian tham gia vào cuộc họp, đặc
biệt là những cháu con em của gia đình khó khăn tơi đã tìm gặp trực tiếp trao đổi
thông tin cần thiết đặc biệt là vấn đề phịng tránh xâm hại trẻ, tơi cẩn thận trao
gửi một số tài liệu liên quan đến vấn đề này giúp phụ huynh bảo vệ con em mình
và cùng với nhà trường nâng cao kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến.
* Về phía giáo viên.
- Giáo viên có thêm kinh nghiệm về giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân.
- Giáo viên mạnh dạn, tự tin hơn khi đưa ra vấn đề cấp thiết đang diễn ra
trong thực tế xã hội cho trẻ tìm hiểu và làm quen
* Đối với phụ huynh:
- Phụ huynh đã quan tâm dạy con về giới tính và những kỹ năng phịng
chống, tự bảo vệ bản thân. Đã có ý thức giáo dục con khi chơi tự do ở những nơi
công cộng và khi tiếp xúc với người lạ.
- Phụ huynh hưởng ứng, thường xuyên trao đổi và cùng phối kết hợp với
giáo viên để cùng giáo dục, rèn kỹ năng tự bảo vệ bản thân, tự tin cho trẻ và rất
tin tưởng cô giáo bởi họ tự nhận thấy sự tiến bộ rõ rệt của con mình.
* Về phía trẻ.
- Trẻ có chuyển biến rõ rệt về việc hình thành các kỹ năng tự bảo vệ bản
thân phịng chống xâm hại tình dục như: tự tin, bình tĩnh để giải quyết các tình
huống gặp phải trong cuộc sống; có sự nhanh nhạy, phản ứng kịp thời khi bị
người lạ tiếp xúc; biết nhờ sự giúp đỡ từ người xung quanh, chia sẻ với cha mẹ
khi gặp phải nguy cơ bị xâm hại, biết cùng nhau giúp đỡ và giải quyết vấn đề…

- Trẻ tự tin tham gia vào các hoạt động của trường lớp. Điều này chứng
minh rằng việc vui chơi bằng các trò chơi, các hoạt động cho trẻ thực hành trãi
nghiệm cùng với các phương thức sử dụng đa dạng, linh hoạt đã giúp trẻ tiếp nhận kỹ năng
bảo vệ bản thân phòng chống xâm hại tình dục một cách hiệu quả.

Stt
1
2
3
4
5

Nội dung đánh giá
Kỹ năng tránh bị xâm hại cơ
thể
Không đi theo và nhận quà
của người lạ
Biết kêu người lớn giúp đỡ khi
bị lạc hoặc gặp nguy hiểm
Kỹ năng an toàn khi tham gia
giao thông
Không chơi với những đồ vật
nguy hiểm, chơi ở nơi nguy
hiểm

Trước khi
áp dụng

Sau khi áp
dụng


So sánh
tỉ lệ tăng

14/31 = 45% 29/31 = 94%

49%

16/31 = 52%

30/31= 97%

47%

17/31 = 55% 30/31 = 97%

42%

16/31 = 52% 29/31 = 94%

42%

18/31 = 58% 31/31= 100%

42%


18

3. Kết luận, kiến nghị.

3.1 Kết luận.
Giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ là việc làm cấp bách, thực tế
và hồn tồn có thể thực hiện lâu dài, giúp trẻ ngay từ đầu hình thành hiểu biết
ban đầu về quy tắc ứng xử hành vi văn minh trong giao tiếp cũng như các em
cần biết nguy hiểm để tránh xa, trái với nguy hiểm cho bản thân mình là an tồn.
Để đạt hiệu quả trong q trình giáo dục kỹ năng bảo vệ bản thân cho trẻ tại
trường Mầm non.
Trước hết giáo viên phải luôn học hỏi, tìm hiểu, thường xuyên xem tin tức,
thời sự, báo chí để nắm bắt được các tình huống xảy ra hằng ngày để làm vốn
kinh nghiệm dạy trẻ.
Tạo môi trường trong và ngồi lớp học thật sinh động, lơi cuốn, hấp dẫn,
không gian rộng rãi để trẻ tham gia vào các hoạt động. Bố trí, sắp xếp các góc
chơi phù hợp với các trị chơi, các tình huống giả định cũng như đồ dùng, đồ chơi
phải an toàn, phong phú, đa dạng để lôi cuốn trẻ tham gia vào các hoạt động.
Giáo viên cần phải phối hợp chặt chẽ với phụ huynh trẻ để trao đổi những
phương pháp, nội dung cần dạy trẻ tự bảo vệ bản thân. Vì để dạy trẻ được kỹ
năng tự bảo vệ bản thân thì khơng chỉ được dạy ở trường mà cịn phải rèn luyện
thực hiện đều đặn khi ở nhà.
Cha mẹ hãy bỏ qua những quy định tồn tại trước đó, tự đặt tình huống cùng
bàn luận với trẻ, hãy để trẻ tự nói lên những hiểu biết của mình về các tình
huống đó. Thường xun kể chuyện, trị chuyện với trẻ hằng ngày để trẻ ngày
càng được mở rộng những hiểu biết của mình hơn.
Khơng tước đoạt của trẻ quyền làm trẻ con hãy để cho trẻ được làm trẻ con
thật sự đừng mong đợi trẻ là một người giống như người lớn hoặc như người lớn
mong muốn. Hãy giúp trẻ lớn lên là chính nó một cách an tồn, tự lập.
Những biện pháp trên tôi đã vận dụng vào trong việc giáo dục kỹ năng tự
bảo vệ bản thân cho trẻ thông qua các hoạt động tại lớp tôi và tôi nghĩ rằng
những biện pháp mà tơi đưa ra khơng khó thực hiện, giáo viên có thể dễ dàng
thực hiện được. Tôi tin rằng sáng kiến của tôi sẽ áp dụng được trong toàn ngành.
Mặc dù đã đạt được những kết quả trên nhưng bản thân không ngừng bồi

dưỡng chuyên môn cho mình và tiếp tục phát huy những gì đã làm được, đã đạt
được, những gì cịn tồn tại thì cần phải khắc phục để chất lượng giáo dục trong
trường ngày càng tốt hơn.
3.2. Kiến nghị.
* Đối với trường
Thường xuyên tổ chức chuyên đề giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường
để giáo viên có cơ hội trao đổi kinh nghiệm học hỏi lẫn nhau.
Nhà trường cần bổ sung các tài liệu, tranh ảnh, truyện, thơ về giáo dục kỹ
năng sống
Tổ chức nhiều hội thi có sự tham gia của cha mẹ trẻ: Bé thông minh, bé
khỏe bé ngoan...


19

* Đối với giáo viên
Giáo viên cần phải có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng, ý nghĩa của
việc dạy trẻ kỹ năng tự bảo vệ bản thân để từ đó lựa chọn nội dung giáo dục,
hình thức và biện pháp thực hiện dạy trẻ kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho phù
hợp, tích cực nghiên cứu tìm cái mới, sáng tạo để khơi gợi và phát huy sự tham
gia tích cực của trẻ bên cạnh sự hướng dẫn của giáo viên, không nên áp dặt ý
kiến hay suy nghĩ chủ quan của người lớn.
Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng
bảo vệ bản thân cho trẻ 4-5 tuổi thông qua các hoạt động tại trường Mầm non
Thị trấn”. Rất mong Hội đồng khoa học đánh giá và góp ý để sáng kiến ngày
càng hồn thiện hơn./
Tơi xin chân thành cảm ơn!
Thanh Hóa, ngày 15 tháng 04 năm 2021
XÁC NHẬN
Tơi xin cam đoan trên đây là SKKN

của mình viết, khơng sao chép nội
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
dung của người khác.
Người viết

Lê Thị Hiệp

Lê Thị Vân Hà


20

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo dục kỹ năng sống, Lê Bích Ngọc, Nxb ĐHQG Hà Nội 2008-2009.
2. Modun MN 39 BDTX về giáo dục kĩ năng sống cho trẻ MN.
3. Chương trình GDMN theo thơng tư 28/2016/TT- BGDĐT.
4. Chương trình giáo dục mầm non của Nguyễn Ánh Tuyết (chủ biên), Lê
Thị Kim Anh, Đinh Văn Vang (2006).
5. Tài liệu hướng dẫn các bậc cha mẹ chăm sóc, giáo dục Mầm non, Bộ
Giáo dục và Đào tạo - UNESCO, Nxb Hà Nội, 2005.
6. Giáo dục kỹ năng sống ở Việt Nam, Nguyễn Thanh Bình, Nguyễn Kim
Dung, Lưu Thu Thủy, Vũ Thị Sơn, Hà Nội, 2004.



×