Tải bản đầy đủ (.pdf) (162 trang)

XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH. LUẬN ÁN TIẾN SĨ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 162 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

ĐINH QUANG THÀNH

XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TRONG
THỜI KỲ ĐỔI MỚI THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC

HÀ NỘI - 2018


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

ĐINH QUANG THÀNH

XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TRONG
THỜI KỲ ĐỔI MỚI THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC
Mã số: 62 31 02 04

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. BÙI ĐÌNH PHONG
2. TS. VĂN THỊ THANH MAI

HÀ NỘI - 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả

Đinh Quang Thành


MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU

1

Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

7

1.1. Những nghiên cứu chung về xây dựng đội ngũ giáo viên

7

1.2. Những nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ giáo viên 15
1.3. Đánh giá khái qt kết quả của những cơng trình đã cơng bố và vấn đề đặt ra
cho luận án
29


Chƣơng 2 TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ
GIÁO VIÊN
34
2.1. Khái niệm liên quan đến đề tài và khái lược tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục
34
2.2. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ giáo viên

54

Chƣơng 3 XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN GIAI ĐOẠN 2000 - 2015 85
3.1. Thực trạng xây dựng đội ngũ giáo viên giai đoạn 2000-2015
3.2. Đặc điểm, yêu cầu đối với đội ngũ giáo viên hiện nay

85
103

Chƣơng 4 BỐI CẢNH, NỘI DUNG, GIẢI PHÁP XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ
GIÁO VIÊN THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
112
4.1. Bối cảnh, nội dung xây dựng đội ngũ giáo viên

112

4.2. Giải pháp xây dựng đội ngũ giáo viên

119

KẾT LUẬN


148

DANH MỤC CƠNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
150
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

151


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh được Đại hội đồng UNESCO cơng nhận là Anh hùng
giải phóng dân tộc, Nhà văn hố kiệt xuất Việt Nam. Suốt cuộc đời mình, Hồ Chí
Minh rất quan tâm đến việc phát triển giáo dục - đào tạo và chính Người đã đặt nền
móng cho việc xây dựng nền giáo dục Việt Nam mới. Hồ Chí Minh đã đề ra một hệ
thống luận điểm về giáo dục; bao gồm một hệ thống tương đối hoàn chỉnh về khái
niệm, vị trí, vai trị, mục đích, nội dung, đối tượng, môi trường, nguyên tắc, phương
châm, phương pháp và đặc biệt là quan điểm về xây dựng đội ngũ giáo viên, đáp
ứng yêu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục - đào tạo.
Nhân loại đang ở giữa thập niên thứ hai của thế kỷ XXI - thế kỷ bùng nổ
thông tin khoa học và sự ra đời của hàng loạt các sáng tạo công nghệ mới… Đây
cũng là thế kỷ của xu thế tồn cầu hóa, quốc tế hóa, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các
quốc gia, dân tộc. Trong bối cảnh đó, Việt Nam đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập cùng xu thế chung của thế giới.
Hội nhập quốc tế tạo ra những cơ hội lớn cho sự phát triển của đất nước, nhưng
đồng thời cũng mang đến những thách thức khơng nhỏ; trong đó, có những thách thức
đối với giáo dục - đào tạo. Từ hội nhập quốc tế, chúng ta thấy, chất lượng giáo dục đào tạo đang đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển nguồn nhân lực của mỗi
quốc gia. Theo đó, những quốc gia phát triển trong khu vực và trên thế giới là

những quốc gia sớm nhận thức được vai trò tối quan trọng của giáo dục, có hành
động, phù hợp để giáo dục - đào tạo phát triển đi trước một bước.
Quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế cũng đặt giáo dục Việt Nam trong bức
tranh chung của giáo dục các nước trên thế giới; từ đó, giáo dục Việt Nam đã nhận
ra những ưu điểm và hạn chế của mình, đồng thời có điều kiện tốt hơn để học tập
các mơ hình giáo dục đến từ các chế độ chính trị, các châu lục khác nhau. Việc hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; sự phát triển nhanh chóng của khoa học, công
nghệ, khoa học giáo dục và sự cạnh tranh quyết liệt trên nhiều lĩnh vực giữa các
quốc gia đòi hỏi giáo dục nước ta phải đổi mới. Thực chất cạnh tranh giữa các quốc


2
gia hiện nay chính là sự cạnh tranh về nguồn nhân lực và khoa học và công nghệ.
Xu thế chung của thế giới khi bước vào thế kỷ XXI là tiến hành đổi mới mạnh m
hoặc tiến hành cải cách giáo dục.
Như vậy, sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế đã đặt ra những thách thức
đối với giáo dục của Việt Nam. Vì vậy, xây dựng đội ngũ giáo viên, đáp ứng yêu
cầu phát triển của giáo dục đã trở thành nhu cầu tất yếu.
Đến nay, ngành giáo dục Việt Nam đã xây dựng được một đội ngũ nhà giáo
các cấp có phẩm chất đạo đức và ý thức chính trị, tương đối đồng bộ về cơ cấu, đủ
về số lượng, có trình độ năng lực chun mơn, nghiệp vụ tốt, đáp ứng được yêu cầu
phát triển nguồn nhân lực của ngành. Các nhà trường bước đầu được đổi mới theo
tinh thần phát huy tính năng động, chủ động và tích cực của người học; giáo viên đã
chủ động trong việc đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra, đánh giá, ứng dụng
công nghệ thông tin vào công tác giảng dạy và quản lý, từng bước nâng cao chất
lượng giáo dục.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra hiện nay là chất lượng nhà giáo không đồng đều
giữa các vùng miền. Ở địa bàn vùng sâu, vùng xa, những nơi khó khăn, vẫn cịn
thiếu đội ngũ giáo viên có năng lực chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm tốt. Ở nhiều
nơi, giáo viên chưa thật sự đổi mới hiệu quả phương pháp dạy học, kiểm tra, đánh

giá và giáo dục học sinh, chưa biết cách tạo động lực và phát huy tính tích cực, sáng
tạo của học sinh trong học tập và rèn luyện nhân cách đạo đức. Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 8 khóa XI - Nghị quyết số: 29-NQ/TW “Về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo, đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế" đã chỉ rõ
thực trạng: “Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục bất cập về chất lượng, số
lượng và cơ cấu; một bộ phận chưa theo kịp yêu cầu đổi mới và phát triển giáo dục, thiếu
tâm huyết, vi phạm đạo đức nghề nghiệp” [31, tr.117]; thậm chí đã có những trường hợp
vi phạm pháp luật.
Sự nghiệp đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo đang đặt lên vai đội
ngũ nhà giáo Việt Nam những yêu cầu mới với trách nhiệm lớn hơn trong dạy học
và giáo dục. Mỗi thầy giáo, cô giáo theo yêu cầu đổi mới của ngành không những là


3
người phải giỏi về chuyên môn dạy các môn học mà cịn phải là người có năng lực
sư phạm, năng lực giáo dục và truyền động lực học tập, tu dưỡng nhân cách đạo
đức tới mỗi học sinh. Bên cạnh đó, để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, mỗi thầy
giáo, cơ giáo cũng cần có năng lực huy động và phối hợp, hợp tác rộng rãi hơn với
đồng nghiệp, với cha mẹ học sinh, cộng đồng và các tổ chức xã hội để cùng tham
gia hiệu quả vào các hoạt động giáo dục. Khơng chỉ dừng ở đó, mỗi thầy cơ giáo
cịn phải có trách nhiệm góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng và
tham gia rộng rãi các hoạt động ngoài nhà trường.
Như vậy, việc xây dựng và phát triển đội ngũ nhà giáo đáp ứng yêu cầu đổi
mới đã được ngành giáo dục - đào tạo xác định là nhiệm vụ quan trọng, là khâu then
chốt trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục theo yêu cầu đủ về số lượng, đồng
bộ về cơ cấu, có năng lực giáo dục, gương mẫu về đạo đức nhà giáo và trách nhiệm
nghề nghiệp. Hiện nay, ngành giáo dục đang triển khai đổi mới mạnh m mục tiêu,
nội dung chương trình, phương pháp giáo dục, do đó, vai trị, tầm quan trọng của
đội ngũ giáo viên càng được khẳng định.

Trước thực trạng đó, việc xây dựng đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo là việc làm cấp bách, nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục - đào tạo, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc
tế. Với những lý do đó, tôi chọn vấn đề: "Xây dựng đội ngũ giáo viên trong thời kỳ
đổi mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh" làm đề tài Luận án Tiến sĩ, chuyên ngành
Hồ Chí Minh học.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội
ngũ giáo viên nhằm vận dụng vào việc xây dựng đội ngũ giáo viên Việt Nam trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
2.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục tiêu đã nêu trên, đề tài s giải quyết một số nhiệm vụ sau:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu, đánh giá khái quát kết quả nghiên cứu của
những cơng trình đã nghiên cứu và chỉ những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu.


4
- Phân tích, hệ thống hóa khái niệm và những nội dung cơ bản của tư tưởng
Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ giáo viên.
- Làm rõ thực trạng đội ngũ giáo viên nước ta hiện nay, chỉ ra những thành
tựu, những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế đó.
- Trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ giáo viên và thực
trạng đội ngũ giáo viên, tác giả đề xuất nội dung, giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng
đội ngũ giáo viên trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ giáo viên và xây dựng đội ngũ
giáo viên thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Từ khái lược tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, tập trung
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ giáo viên, làm cơ sở cho
việc nghiên cứu xây dựng đội ngũ giáo viên trong thời kỳ đổi mới. Cụ thể là đánh
giá thực trạng đội ngũ giáo viên giai đoạn 2000-2015; từ đó nêu nội dung, giải pháp
xây dựng đội ngũ giáo viên từ nay đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.
- Về khơng gian: Luận án nghiên cứu hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng đội ngũ giáo viên, khảo sát thực trạng xây dựng đội ngũ giáo viên mầm non
và phổ thông trên tất cả các mặt (không bao gồm đội ngũ giáo viên ở Trung tâm
giáo dục thường xuyên).
- Về thời gian: Đánh giá thực trạng đội ngũ giáo viên từ sau Hội nghị Ban
chấp hành Trung ương lần thứ 2 khóa VIII đến năm 2015. Nội dung, giải pháp tiếp
tục xây dựng đội ngũ giáo viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh được xác định từ năm
2016 đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
- Cơ sở lý luận của đề tài là hệ thống những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách,
pháp luật của Nhà nước về giáo dục - đào tạo.


5
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và
các phương pháp cụ thể như: phân tích và tổng hợp, logic và lịch sử, văn bản học,
đọc, hệ thống hóa, khái qt hóa các giáo trình, tác phẩm kinh điển và các cơng
trình nghiên cứu có liên quan.
Sử dụng nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp quan sát;
phương pháp hỏi ý kiến chuyên gia; phương pháp toán học,v.v.. để tổng hợp ý kiến,
xử lý số liệu, tạo ra căn cứ để tác giả luận án đưa ra những nhận định, phân tích,

đánh giá khách quan, khoa học.
5. Đóng góp mới của luận án
Thứ nhất, nghiên cứu, làm rõ các khái niệm liên quan đến tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng đội ngũ giáo viên.
Thứ hai, phân tích, hệ thống hóa, làm sáng tỏ những nội dung cơ bản của tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ giáo viên, góp phần nhận thức sâu sắc và
vận dụng tốt hơn tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục.
Thứ ba, phân tích thực trạng đội ngũ giáo viên nước ta hiện nay, chỉ ra
những thành tựu, những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân của thành tựu, hạn
chế đó.
Thứ tư, trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ giáo viên và
thực trạng đội ngũ giáo viên trong thời kỳ đổi mới, luận án đề xuất những nội dung
và giải pháp khoa học, khả thi, nhằm xây dựng đội ngũ giáo viên trong thời kỳ đổi
mới, hội nhập quốc tế và xây dựng kinh tế tri thức.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Đề tài góp phần làm rõ khái niệm, những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng đội ngũ giáo viên.
- Xác định giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ giáo viên
đối với cơng cuộc đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục nước ta nói chung và xây
dựng đội ngũ giáo viên nói riêng trong thời kỳ đổi mới.


6
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, phục vụ nghiên cứu, giảng
dạy và học tập mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh ở các trường đại học, các học viện.
- Các giải pháp của đề tài có thể xem là các gợi ý để các cơ sở giáo dục vận
dụng xây dựng, phát triển đội ngũ giáo viên.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần bổ sung cơ sở dữ liệu cho các cơ

quan tham mưu, nghiên cứu khi chuẩn bị xây dựng các nghị quyết, chuyên đề, đề án
về giáo dục, liên quan đến giáo dục.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục,
Luận án gồm 4 chương, 9 tiết.


7
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. NHỮNG NGHIÊN CỨU CHUNG VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ
GIÁO VIÊN
Xây dựng đội ngũ giáo viên trong phát triển giáo dục được các nước trên
thế giới đặt lên hàng đầu; là một trong những nội dung cơ bản trong các cuộc cải
cách giáo dục, chấn hưng, phát triển đất nước . Các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin đã quan tâm sâu sắc đến vấn đề xây dựng đội ngũ giáo viên khi bàn
về giáo dục - đào tạo. Lênin trong tác phẩm Bàn về giáo dục đã có nhiều luận điểm
nói về đội ngũ giáo viên. Lênin đặt ra yêu cầu phải: “Nâng cao một cách có hệ
thống, kiên nhẫn, liên tục trình độ và tinh thần của đội ngũ giáo viên nhưng điều
chủ yếu, chủ yếu và chủ yếu là cải thiện đời sống vật chất cho họ”[102, tr241].
Theo tác giả Lê Trung Chinh [23], nghiên cứu về xây dựng, phát triển đội
ngũ giáo viên thường được chia làm bốn hướng chính : Thứ nhất, nghiên cứu các
mơ hình và kinh nghiệm thực tiễn về phát triển nghề nghiệp giáo viên. Thứ hai,
nghiên cứu các hoạt động hỗ trợ thực tiễn để phát triển nghề nghiệp giáo viên. Thứ
ba, nghiên cứu cải tiến các kỹ năng và tăng cường hiểu biết nghề nghiệp cho giáo
viên. Xu hướng này đang được các quốc gia trong khối APEC triển khai thực hiện
đào tạo giáo viên. Các quốc gia ở châu Á-Thái Bình Dương cũng coi đào tạo và bồi
dưỡng giáo viên là một trong những khâu then chốt để phát triển giáo dục, kinh tế ở
các nước này. Các nước này rất coi trọng nâng cao nghề nghiệp liên tục cho giáo
viên. Thứ tư, nghiên cứu phát triển nghề nghiệp cho giáo viên như là một yêu cầu

của tiến trình cải cách giáo dục.
1.1.1. Nghiên cứu về đào tạo, bồi dƣỡng và chuẩn nghề nghiệp giáo viên
1.1.1.1.Về đào tạo, bồi dưỡng
Trong nghiên cứu của mình về đào tạo giáo viên, Michel Develay - nhà giáo
dục của Pháp đã bắt đầu từ lý luận về học đến lý luận về dạy để nghiên cứu về giáo
viên. Theo ông: “Đào tạo mà không làm cho họ có trình độ cao về năng lực tương
ứng không chỉ với các sự kiện, khái niệm, định luật, định lý, hệ biến hóa của mơn
học đó, mà cịn cả với khoa học luận của chúng là không thể được” [23, tr.12].


8
Ngồi ra, trong tác phẩm này, ơng cịn đề cập đến nội dung, cách thức đào tạo, tính
chất và bản sắc nghề nghiệp của giáo viên...
Cơng trình nghiên cứu chung của các nước thành viên OECD đưa ra các yêu
cầu của một giáo viên bao gồm: kiến thức phong phú về phạm vi chương trình và
phạm vi bộ mơn mình dạy; kỹ năng sư phạm; có tư duy phản ánh, năng lực tự phê
bình; biết cảm thơng và cam kết tơn trọng phẩm giá của người khác; có năng lực
quản lý.
Tại Hội thảo Khoa học “Nâng cao chất lượng giáo dục và vấn đề đào tạo
giáo viên”, nhiều tham luận của các tác giả như: Trần Bá Hoành, Mai Trọng
Nhuận, Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đặng Bá Lãm, Đặng Xuân Hải… đã đề cập thực trạng
chất lượng giáo dục, đội ngũ nhà giáo và tính tất yếu phải đào tạo, bồi dưỡng, xây
dựng đội ngũ giáo viên trước yêu cầu mới [100].
Báo cáo kết quả nghiên cứu của Đề tài: “Đánh giá thực trạng triển khai
chương trình bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên phổ thông” do tác giả Cao Đức
Tiến làm chủ nhiệm đề tài cho rằng, việc bồi dưỡng thường xuyên theo chu kỳ đã
góp phần tạo ra được một thói quen tự học tập, tự bồi dưỡng trong đội ngũ giáo viên
trên phạm vi cả nước. Nhu cầu được bồi dưỡng thường xuyên (đào tạo tiếp sau đào
tạo ban đầu) đã trở thành nhu cầu tự thân, ý thức tự giác trong mỗi giáo viên, nhằm
cập nhật hoá kiến thức, từng bước nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ và kỹ

năng sư phạm, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp giáo dục - đào tạo.
Báo cáo “Nghiên cứu đánh giá thực trạng đội ngũ nhà giáo Việt Nam” do
Viện Chiến lược và Chương trình giáo dục tiến hành đã đề cập số lượng, chất lượng
giáo viên, thực hiện chế độ chính sách đối với giáo viên, từ đó đưa ra giải pháp
trong việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên.
Tác giả Trần Bá Hoành[52] trong bài viết “Chất lượng giáo viên” đã đưa
ra cách tiếp cận chất lượng giáo viên từ các khía cạnh như đặc điểm lao động của
người giáo viên; sự thay đổi chức năng của người giáo viên trước yêu cầu đổi
mới giáo dục; mục tiêu sử dụng giáo viên; chất lượng từng giáo viên và đội ngũ
giáo viên. Theo tác giả, có 3 yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng giáo viên, đó là:
quá trình đào tạo - sử dụng - bồi dưỡng giáo viên; hoàn cảnh, điều kiện lao động
sư phạm của giáo viên; ý chí thói quen và năng lực tự học của giáo viên. Đồng


9
thời, cũng đưa ra 3 giải pháp cho vấn đề nâng cao chất lượng xây dựng đội ngũ
giáo viên, cụ thể là: phải đổi mới công tác đào tạo, công tác bồi dưỡng và đổi
mới việc sử dụng giáo viên.
Trong bài viết: “Đổi mới mơ hình đào tạo giáo viên trong các trường đại học
sư phạm theo hướng tiếp cận năng lực”, nhóm tác giả Bùi Minh Đức, Đào Thị Việt
Anh, Hồng Thị Kim Huyền [25] đã nêu ra mơ hình đào tạo giáo viên ở các nước
có nền giáo dục tiên tiến. Cùng với việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông
theo hướng tiếp cận năng lực, các chương trình đào tạo và bồi dưỡng giáo viên cũng
được cải tiến, điều chỉnh, thậm chí đổi mới tồn bộ theo chủ trương hình thành và phát
triển các năng lực nghề nghiệp cho giáo viên. Các tác giả cũng đề xuất giải pháp đổi
mới việc đào tạo giáo viên như sau:
Thứ nhất, các trường sư phạm đào tạo giáo viên cần đổi mới chương trình
theo hướng tiếp cận năng lực.
Thứ hai, chương trình đào tạo giáo viên, trước hết cần xác định được hệ
thống các năng lực chung - những năng lực mà sinh viên của các ngành cần phải có

những năng lực riêng (năng lực mơn học) cho sinh viên các ngành cụ thể.
Thứ ba, đội ngũ giảng viên phải có những năng lực cần thiết và nhất là phải
giỏi những năng lực môn học cụ thể, thay đổi nhận thức, kỹ năng, phương pháp dạy
học, kiểm tra, đánh giá.
Thứ tư, công tác quản lý, tổ chức đào tạo của các bộ phận chức năng trong
trường cũng phải thay đổi theo hướng tiếp cận năng lực học sinh.
Trong chương trình đào tạo sau đại học, chuyên ngành quản lý giáo dục, vấn
đề đội ngũ giáo viên cũng được chú trọng nghiên cứu, đã trở thành đề tài của nhiều
luận văn, luận án; nhất là đề tài nghiên cứu về xây dựng và phát triển đội ngũ giáo
viên ở các cấp học, ngành học của các tác giả Vũ Đình Chuẩn, Nguyễn Công
Chánh,v.v..
1.1.1.2.Về chuẩn nghề nghiệp giáo viên
Tại các quốc gia tiên tiến trên thế giới, vấn đề chuẩn nghề nghiệp của giáo
viên rất được quan tâm. Đây là nội dung mà các trường sư phạm phải tập trung đào
tạo và mỗi giáo viên phải phấn đấu hoàn thiện.


10
Theo tác giả Lê Trung Chinh [23] thì chuẩn nghề nghiệp của giáo viên tại
các bang của nước Mỹ được xây dựng nhằm mục đích làm cho giáo viên nâng cao
kiến thức của nội dung môn học; cải thiện sự hiểu biết về học thuật, xã hội, tinh
thần và vật chất, bảo đảm thầy giáo tận dụng được các kỹ năng dạy học để giúp
học sinh đạt được và vượt qua môn học; phản ánh đầy đủ và sáng tỏ những kiến
thức cần thiết có liên quan về những bài học và kinh nghiệm nghề nghiệp, tạo
đồng thuận về chính kiến nghề nghiệp, dạy học và lãnh đạo; khuyến khích thầy
giáo phát triển sự đa dạng của lớp học nhờ các kỹ năng đánh giá; cung cấp những
bài học mới có tính tích hợp vào trong chương trình và trong lớp học; trang bị cho
học sinh đủ kiến thức để học tập và phát triển; đánh giá định kỳ để tạo ra tác động
của nó đối với hoạt động dạy và học; nhà giáo cần phải nắm được, tận dụng và hỗ
trợ phát triển các mối quan hệ cộng đồng rõ ràng, gắn bó, có kế hoạch; phát triển

văn hóa trường học để giúp cho việc thực hiện liên tục, xử lý các thách thức về vai
trò và các quan hệ truyền thống trong giáo dục; có kế hoạch phát triển nghề nghiệp
bao gồm cả sự xem xét về trí tuệ và tài chính; bố trí đủ thời gian trong số các giờ
làm việc để thu hút sự tham vấn ý kiến của người học nhằm hỗ trợ cho sự phát
triển nghề nghiệp; làm việc có hiệu quả với cha mẹ học sinh và cộng sự.
Giáo viên của Đức phải đạt được 10 năng lực nghề nghiệp thuộc 4 nhóm:
Năng lực dạy học là xây dựng kế hoạch bài học, hỗ trợ việc học của học sinh; năng
lực giáo dục - nghĩa hẹp là hiểu được các điều kiện sống của học sinh, truyền đạt
các giá trị và chuẩn mực; năng lực đánh giá; và năng lực đổi mới.
Quy định về tiêu chuẩn nghề nghiệp giáo viên của Anh rất cụ thể, đó là:
Thiết lập những kinh nghiệm học tập linh động và sáng tạo cho các cá nhân và các
nhóm; đóng góp vào việc phát triển ngơn ngữ, khả năng đọc viết và toán; xây dựng
những kinh nghiệm học tập mang tính thử thách về mặt trí tuệ; xây dựng những
kinh nghiệm học tập phù hợp, có mối liên kết với thế giới bên ngoài trường học;
xây dựng những kinh nghiệm học tập mang tính tổng qt và có sự tham gia; kết
hợp công nghệ thông tin và liên lạc để tăng hiệu quả việc học tập của học sinh; đánh
giá và báo cáo việc học tập của học sinh; hỗ trợ việc phát triển và tham gia xã hội
của thanh niên; tạo ra môi trường học tập an tồn và mang tính hỗ trợ; xây dựng


11
những mối quan hệ với cộng đồng rộng lớn hơn; đóng góp vào những nhóm nghề;
tham gia thực hiện những hoạt động của nghề giáo.
Cơng trình nghiên cứu chung của các nước thành viên OECD đã chỉ ra yêu
cầu đối với một giáo viên cần có các phẩm chất: Kiến thức phong phú về phạm vi
chương trình và nội dung bộ mơn mình dạy; kỹ năng sư phạm, kể cả việc có được
“kho kiến thức” về phương pháp giảng dạy, về năng lực sử dụng những phương
pháp đó; có tư duy phản ánh trước mỗi vấn đề và có năng lực tự phê bình; biết cảm
thơng và cam kết tơn trọng phẩm giá của người khác; có năng lực quản lý, kể cả
trách nhiệm quản lý trong và ngoài lớp học [58].

Hội thảo nghiên cứu về “Chuẩn và chuẩn hóa trong giáo dục - Những vấn
đề lý luận và thực tiễn” do Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam tổ chức tại Hà Nội
năm 2005, đã thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học, nhà sư phạm, nhà giáo dục
như Đặng Thành Hưng, Nguyễn Bá Thái, Nguyễn Thị Minh Hương… Trong các
tham luận của mình, các tác giả cũng đã bàn luận nhiều đến nội dung chuẩn nghề
nghiệp giáo viên để xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên.[104]
1.1.2. Nghiên cứu về chế độ, chính sách đối với giáo viên
Đã có nhiều nghiên cứu, hội thảo bàn về các chế độ, chính sách, lương giáo
viên, xem đây như là một động lực để giáo viên tích cực nâng cao năng lực, tinh
thần và trách nhiệm của mình.
Kết quả nghiên cứu của Đề tài độc lập cấp Nhà nước: “Nghiên cứu đề xuất
các giải pháp cải cách công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên phổ thông” do bà
Nguyễn Thị Bình (Chủ tịch Quỹ Hịa bình và Phát triển Việt Nam) làm chủ nhiệm
[12] đã nêu lên thực trạng tác động của chế độ, chính sách đối với giáo viên nước
ta: từ các chính sách về tuyển chọn, chế độ làm việc, tiền lương và phụ cấp đến
chính sách khen thưởng và tơn vinh. Đây là cơng trình nghiên cứu có sự phân tích
rõ ràng, khoa học, số liệu cụ thể, có so sánh với chế độ, chính sách đối với giáo viên
của các nước. Đồng thời, tác giả cũng đã đề xuất giải pháp sửa đổi chế độ, chính
sách đối với nhà giáo nói chung và giáo viên nói riêng.
Tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc [59] đã nhấn mạnh đến vấn đề “lý tưởng sư
phạm”- cái tạo nên động cơ cho việc giảng dạy của giáo viên, khuyến khích giáo


12
viên sáng tạo, không ngừng tự học, học hỏi, nâng cao trình độ. Trong đó, tác giả đề
xuất việc cần phải xây dựng tập thể sư phạm theo mơ hình “đồng thuận”, để trong
quan hệ giữa giáo viên với nhau có sự chia sẻ “bí quyết nhà nghề”. Theo đó, năng
lực chuyên môn của giáo viên là nền tảng của mơ hình đào tạo giáo viên thế kỷ
XXI: sáng tạo và hiệu quả.
Trong bài viết “Chất lượng giáo viên và những chính sách cải thiện chất

lượng giáo viên”, tác giả Trần Thanh Hoàn [55] đã đưa ra khái niệm chất lượng
giáo viên bằng cách phân tích kết quả nghiên cứu về chất lượng của các nước thành
viên OECD. Theo đó, đặc điểm và năng lực đặc trưng của giáo viên thể hiện qua
sự phân tích 22 năng lực cụ thể, trên góc độ tiếp cận năng lực giảng dạy và giáo
dục. Đồng thời, tác giả cũng đã đề cập những chính sách cải thiện và duy trì chất
lượng giáo viên ở cấp vĩ mô và vi mô; nhấn mạnh 3 yếu tố quyết định chất lượng
giáo viên, đó là bản thân người giáo viên, nhà trường và mơi trường chính sách
bên ngoài.
1.1.3. Nghiên cứu về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo
Một trong những nội dung quan trọng nhất của đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục hiện nay là phải nhanh chóng xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục đáp ứng yêu cầu của giáo dục - đào tạo trong bối cảnh đổi mới, hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng. Do đó, đây là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu bàn
đến trong các nghiên cứu của mình.
Tác giả Phan Văn Kha [56] đã viết: Ngày 13/6/2012, Thủ tướng Chính phủ
nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã phê duyệt “Chiến lược phát triển
giáo dục 2011-2020”. Chiến lược đã xác định rõ mục tiêu, giải pháp và các bước đi
của nền giáo Việt Nam nhằm đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục theo hướng chuẩn
hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế. Tư tưởng xuyên
suốt của chiến lược này là ưu tiên nâng cao chất lượng giáo dục; giáo viên là yếu tố
quyết định chất lượng giáo dục; người học là tâm điểm của chiến lược, hướng tới
phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất của mỗi người học; đảm bảo công bằng
trong tiếp cận giáo dục, tạo cơ hội học tập suốt đời cho mỗi người dân, góp phần
từng bước xây dựng xã hội học tập; phát triển giáo dục đáp ứng nhu cầu phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.


13
Nguyễn Duy Bắc [11] trong bài viết “Đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo
dục, đào tạo theo Nghị quyết Đại hội XI của Đảng”, đã chỉ ra tính tất yếu của đổi

mới giáo dục ở nước ta hiện nay. Quan điểm về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
đã được Đảng ta quán triệt trong Nghị quyết Đại hội XI. Bài viết cũng khẳng định
nội hàm đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục bao gồm đổi mới nội dung, chương
trình, phương pháp, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục và xây dựng đội ngũ giáo
viên,v.v.. đồng thời cũng chỉ ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục.
Phan Văn Kha [57] trong bài viết “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI”, đã trình bày những nội
dung cơ bản của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa
XI - Nghị quyết số 29-NQ/TW “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Trong đó, nêu rõ các vấn
đề như: Những thành tựu và nguyên nhân; các định hướng đổi mới căn bản và toàn
diện giáo dục - đào tạo; quan điểm chỉ đạo; mục tiêu; nhiệm vụ; các giải pháp đổi
mới căn bản và toàn diện giáo dục - đào tạo; các hình thức tổ chức thực hiện trong
giáo dục - đào tạo...
Tác giả Nguyễn Tiến Hùng [54] đã trình bày một số căn cứ đổi mới giáo dục
và quản lý giáo dục ở nước ta. Đó là ba làn sóng đổi mới giáo dục trên thế giới; đề
xuất các giải pháp thực hiện đổi mới căn bản và toàn diện quản lý giáo dục: Thứ
nhất, đổi mới căn bản và toàn diện cấu trúc tổ chức và cơ chế quản lý giáo dục theo
định hướng phân cấp góp phần đảm bảo giáo dục đáp ứng nhu cầu xã hội. Thứ hai,
phát triển cơ chế đảm bảo chất lượng giáo dục và chịu trách nhiệm xã hội. Thứ ba,
phát triển hệ thống quản lý dựa vào cơ sở giáo dục; tăng cường cách tiếp cận dưới lên. Thứ tư, nâng cao năng lực đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục,v.v..
trong nghiên cứu về “Đổi mới căn bản và toàn diện quản lý giáo dục Việt Nam
trong xu thế hội nhập quốc tế”.
Cuốn sách “Định hướng chiến lược, giải pháp đột phá nhằm đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục - đào tạo Việt Nam” do Phạm Văn Linh [62] chủ biên có
bàn nhiều về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo. Cuốn sách tập trung


14

nghiên cứu những kinh nghiệm của các nước trong thực hiện cải cách giáo dục,
đặc biệt là làm rõ những xu hướng lớn, các mơ hình hay trong việc chuyển đổi từ
nền giáo dục với triết lý truyền thống sang nền giáo dục theo xu hướng hiện đại
của thế kỷ XXI; phân tích nội dung, một số quan điểm về đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục - đào tạo; tiếp tục làm rõ định hướng “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã
hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế” đối với giáo dục Việt Nam; phân tích
thực trạng và những vấn đề đặt ra của giáo dục Việt Nam theo tinh thần của Nghị
quyết số 29-NQ/TW khóa XI, tiếp cận đánh giá từ nhiều nguồn khác nhau và chỉ
rõ nguyên nhân, hạn chế; đề xuất các khâu đột phá để thực hiện thành cơng đổi
mới căn bản, tồn diện nền giáo dục nước nhà. Trong đó, cũng chỉ rõ việc xây
dựng đội ngũ giáo viên là yêu cầu tất yếu khách quan và là nhân tố quyết định
thành công của công cuộc đổi mới giáo dục.
Khi bàn về xây dựng đội ngũ giáo viên, tác giả Phạm Văn Linh viết: “Cải
cách đội ngũ giáo viên là điều kiện tiên quyết để tổ chức thực hiện chương trình
giáo dục đã cải cách. Vai trò của giáo viên với tư cách là yếu tố quyết định chất
lượng giáo dục đã được khẳng định không phải chỉ bằng lý luận chung mà bằng các
cơng trình nghiên cứu khoa học cụ thể [62, tr.67-68]. Theo đó, chính phẩm chất và
năng lực của đội ngũ giáo viên đã tạo nên sự khác biệt về kết quả giáo dục giữa
trường này với trường khác. Trong cải cách giáo dục, chính giáo viên là người đưa
các yêu cầu của chương trình giáo dục mới vào đời sống học đường và hơn thế nữa
gánh nặng trong cải cách giáo dục đã đặt lên vai đội ngũ nhà giáo.
Từ đó, tác giả khẳng định rằng: Việc xây dựng đội ngũ giáo viên cần
nhiều thời gian và phải có biện pháp khoa học và phải kiên trì thực hiện các
biện pháp đó. Mục tiêu cơ bản của cải cách đội ngũ giáo viên là xây dựng, phát
triển đội ngũ các nhà giáo giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ và yêu nghề. Muốn vậy
phải có những thay đổi cơ bản trong đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ các nhà
giáo. Các trường sư phạm phải đi đầu và đón đầu trong nhiệm vụ đào tạo đội ngũ
giáo viên theo chuẩn mới. Quan trọng là, các giáo viên đang tại chức phải nhận thức
rằng, ngày nay người dạy cũng đồng thời là người học, để chủ động tự bồi dưỡng
và tham gia các lớp bồi dưỡng theo yêu cầu thực hiện chương trình giáo dục mới.



15
Theo đó, các cơ quan quản lý giáo dục có trách nhiệm tổ chức hiệu quả công
tác bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, nhưng trên hết và trước hết, các cơ quan này phải
có chính sách và giải pháp để thu hút học sinh giỏi vào các trường sư phạm, thu hút
người giỏi vào nghề dạy học và giữ được họ trong nghề, phải tạo động lực cho nhà
giáo được cống hiến. Các biện pháp đang được sử dụng ở các nước về cơ bản là
giống nhau, chỉ khác nhau về liều lượng và mức độ. Đó chính là việc nâng cao vị
thế xã hội của nhà giáo trong nhận thức xã hội và chính sách quốc gia; cải thiện chế
độ lương, phụ cấp và khen thưởng theo hướng đãi ngộ xứng đáng người giỏi, động
viên người trung bình, cho thôi việc hoặc chuyển việc những người kém; cải thiện
điều kiện làm việc liên quan đến các quy định về giờ lên lớp, quy mô lớp học, tỷ lệ
học sinh giáo viên, tài liệu và thiết bị dạy học. Mặc dù chưa đi sâu vào chi tiết,
nhưng những phân tích, đánh giá trong cuốn sách này đã góp phần để tác giả đưa ra
những gợi mở ban đầu, tìm ra những giải pháp thích hợp để xây dựng đội ngũ giáo
viên trong thời gian tới.
Thông qua việc khảo sát các cơng trình nghiên cứu nêu trên, tác giả luận án
đã nhận thấy: Thứ nhất, dù tiệm cận ở góc độ nào, thì đội ngũ giáo viên cũng ln
là một yếu tố quan trọng, quyết định chất lượng giáo dục - đào tạo. Thành công của
các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới bắt nguồn từ việc xây dựng được đội ngũ
giáo viên có phẩm chất, đạo đức tốt, có năng lực sư phạm và chuyên môn nghiệp vụ
cao. Thứ hai, những cơng trình trên chủ yếu mới tiếp cận vấn đề xây dựng, phát
triển đội ngũ giáo viên dưới góc độ giáo dục học. Việc vận dụng vào thực tiễn xây
dựng đội ngũ giáo viên Việt Nam trong thời kỳ đổi mới cịn mờ nhạt và chưa có
giải pháp tổng thể và đột phá để xây dựng đội ngũ giáo viên. Đây chính là những
vấn đề mà luận án cần tiếp tục nghiên cứu, làm rõ.
1.2. NHỮNG NGHIÊN CỨU TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY
DỰNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục nói chung và vấn đề xây dựng đội ngũ

giáo viên nói riêng là đề tài được các nhà khoa học nghiên cứu dưới nhiều góc độ
khác nhau. Các nghiên cứu đó đã từng bước làm rõ giá trị và chứng minh sức sống
mãnh liệt của tư tưởng đó trong thời đại ngày nay. Quá trình nghiên cứu tư tưởng


16
Hồ Chí Minh về đội ngũ giáo viên và xây dựng đội ngũ giáo viên đã được làm rõ ở
các khía cạnh sau đây:
1.2.1. Nghiên cứu về vị trí, vai trị của đội ngũ giáo viên
Thực tế đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về các khái niệm có liên quan đến
nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ giáo viên. Việc nghiên cứu
các khái niệm trong nghiên cứu về Hồ Chí Minh là một nội dung khó, tốn nhiều
cơng sức, trí tuệ của các nhà nghiên cứu. Cho đến nay, khái niệm tư tưởng Hồ Chí
Minh vẫn cần tiếp tục nghiên cứu hồn thiện. Trong các cơng trình, các nhà nghiên
cứu đã phân tích khái quát và đưa ra khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục.
Phan Ngọc Liên [61] trong cơng trình Hồ Chí Minh về giáo dục đã phân tích
cơ sở, q trình hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo.
Trên cơ sở những phân tích của mình, tác giả đã đưa ra khái niệm tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục như sau: Như đã xác định, tư tưởng Hồ Chí Minh là “hệ thống
những quan điểm, quan niệm về con đường cách mạng Việt Nam được hình thành
trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin”. Cũng như các lĩnh vực khác của cách mạng
Việt Nam, giáo dục cũng là đối tượng nghiên cứu, tìm hiểu của tư tưởng Hồ Chí
Minh. Vì vậy tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục là một bộ phận của tư tưởng Hồ
Chí Minh” [61, tr.15]. Do đó, việc xác định nội hàm khái niệm tư tưởng giáo dục
Hồ Chí Minh được nhiều nhà nghiên cứu nêu lên, song chưa có sự nhất trí cao. Tuy
nhiên cũng có thể nêu một số nội dung cơ bản đã có sự đồng thuận với nhau. Theo
đó, “tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm toàn diện và
sâu sắc về những vấn đề cơ bản của giáo dục Việt Nam, từ giáo dục dân chủ nhân
dân đến giáo dục xã hội chủ nghĩa [61, tr.15]. Với ý nghĩa đó, có thể hiểu tư tưởng
giáo dục Hồ Chí Minh là một bộ phận trong hệ thống quan điểm tồn diện và sâu

sắc của Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, khái niệm trên cịn giản
đơn, chưa làm rõ được cơ sở hình thành, nội dung và giá trị của tư tưởng giáo dục
Hồ Chí Minh. Do đó chưa thấy rõ được những yếu tố quan trọng cấu thành hệ thống
giáo dục quốc dân, trong đó, đội ngũ giáo viên là một nhân tố trọng yếu.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trị của đội ngũ giáo viên,
trước hết, phải kể đến cuốn sách Tìm hiểu tư tưởng giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí
Minh [103]. Cuốn sách tổng hợp các báo cáo khoa học thuộc đề tài “Chủ tịch Hồ


17
Chí Minh với giáo dục” do Viện Khoa học giáo dục Việt Nam thực hiện. Trong
cuốn sách này, có nhiều bài viết đề cập tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trị của
đội ngũ giáo viên; trong đó, tác giả Phạm Minh Hạc khẳng định:
Bác Hồ đã chỉ rõ: Vấn đề then chốt quyết định chất lượng giáo dục là
phải xây dựng được đội ngũ đông đảo những người làm công tác giáo
dục… Người luôn đánh giá cao vai trị của cơ giáo, thầy giáo trong xã
hội mới, coi họ là lớp người vẻ vang của đất nước, vì nếu khơng có cơ
giáo, thầy giáo hết lịng dạy dỗ con em nhân dân lao động ngày hơm nay
thì không thể xây dựng được một xã hội tốt đẹp trong tương lai, như mọi
người mong muốn [103, tr.14].
Tiếp đó, trên cơ sở các nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục,
một số cơng trình khoa học đã đưa ra khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng đội ngũ giáo viên. Trong đó, tác giả Vũ Đức Thịnh [96] đã đi từ phân tích
các khái niệm liên quan, rồi khẳng định: Mục tiêu của nền giáo dục xã hội chủ
nghĩa là tạo ra những con người phát triển tồn diện và có năng lực làm chủ trong
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Với cách tiếp cận đó, việc xây dựng đội
ngũ giáo viên trong tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là xây dựng con người mới, xây
dựng người giáo viên mới, đáp ứng đòi hỏi của nền giáo dục mới. Đó cũng chính
là q trình hình thành ở người giáo viên tương lai những phẩm chất, năng lực,
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của giáo dục trong thời kỳ mới.

Liên quan đến vấn đề này, tác giả Vũ Thị Huyền Trang [91] cho rằng:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ giảng viên là tổng thể các
chủ trương, biện pháp, cách thức từ quy hoạch, tuyển dụng đến đào tạo,
bồi dưỡng, quản lý, sử dụng và thực hiện các chế độ, chính sách, góp
phần tạo lập mơi trường sư phạm thuận lợi nhằm hình thành trên thực tế
một đội ngũ giảng viên có đủ phẩm chất, năng lực, đủ về số lượng và
hợp lý về cơ cấu đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục và dạy học của các
trường cao đẳng, đại học [91, tr.14].
Tác giả Hà Thế Ngữ cho rằng, trong giáo dục và muốn nâng cao chất lượng
giáo dục, “vấn đề quan trọng là thầy và trò cần ra sức thi đua “dạy thật tốt, học thật


18
tốt”, bởi đó là nhân tố trực tiếp quyết định chất lượng và hiệu quả giáo dục” [103,
tr.22]. Đồng quan điểm với các tác giả nêu trên, tác giả Nguyễn Hữu Dũng chỉ rõ, vì
cán bộ là gốc cơng việc, nên Hồ Chí Minh đã đánh giá rất cao vai trò của đội ngũ
giáo viên trong sự nghiệp cách mạng nói chung, trong sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ
nói riêng. Người từng nói: “Có gì vẻ vang hơn là đào tạo ra những thế hệ sau này
tích cực xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Người thầy giáo tốt thầy giáo xứng đáng là thầy giáo - là người vẻ vang nhất. Dù tên tuổi không đăng
trên báo, không được thưởng huân chương, song những người thầy giáo tốt là
những anh hùng vô danh” [103, tr.69]. Lời khẳng định của Hồ Chí Minh về vai trị
của nhà giáo nói chung và giáo viên nói riêng thật mộc mạc, giản dị, nhưng hết sức
có ý nghĩa; thể hiện tư duy nhất quán của Người về vị trí, vai trị của người giáo viên,
cơng tác xây dựng đội ngũ giáo viên và nhiệm vụ hết sức quan trọng của công tác đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp giáo dục.
Tác giả Mạch Quang Thắng trong tác phẩm Hồ Chí Minh - con người của sự
sống đã khẳng định: “Nói đến lĩnh vực giáo dục, trước hết phải nói đến đội ngũ
thầy, cơ giáo. Có thầy giỏi thì mới có trị giỏi. Hồ Chí Minh quan niệm như thế.
Thầy giáo, theo Hồ Chí Minh, là lực lượng tiên phong, là lực lượng xung kích trên
mặt trận giáo dục” [94, tr.426].

Trong cuốn sách Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp giáo dục [7] có nhiều
nội dung bàn về vị trí, vai trị của giáo viên trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong đó,
Thứ trưởng Bộ Giáo dục - đào tạo Đặng Huỳnh Mai đã viết: “Bác Hồ đánh giá cao
sứ mệnh vinh quang của người thầy giáo… nhiệm vụ của giáo dục là rất quan trọng
và vẻ vang, bởi vì khơng có thầy giáo thì khơng có giáo dục” [7, tr.87]. Cũng trong
kỷ yếu này, PGS.TS Nguyễn Ngọc Cơ cho rằng: Hồ Chí Minh đã rất sâu sắc khi
khẳng định “phải quan tâm đến đội ngũ thầy giáo, cô giáo. Vì “nếu khơng có
thầy, cơ giáo thì khơng có giáo dục”. Theo tác giả, muốn có sự nghiệp cách
mạng thành cơng thì phải có cán bộ, muốn có đội ngũ cán bộ tốt thì vai trị của
giáo dục rất quan trọng. Theo đó, người thầy giáo giữ trọng trách quyết định “tuy
khơng có gì là oanh liệt nhưng làm trịn nghĩa vụ là anh hùng, anh hùng tập thể”
[7, tr.113].


19
Cũng nhấn mạnh vai trò của người thầy, GS.TSKH Thái Duy Tuyên đã
khẳng định: Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, người thầy giáo quyết định chất lượng
giáo dục, thậm chí khơng có thầy giáo thì khơng có giáo dục. Theo GS Thái Duy
Tuyên, vì tầm quan trọng của người thầy giáo trong công tác giáo dục - đào tạo, nên
Hồ Chí Minh đã 26 lần phát biểu về vấn đề này [7, tr.136].
Cuốn Hồ Chí Minh một tầm nhìn chiến lược về giáo dục và sư phạm [83] đã
tập hợp nhiều bài tham luận của các nhà nghiên cứu, nhà quản lý, lãnh đạo về
những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo, nhất là đào tạo sư
phạm. Trong đó, khi bàn về vị trí, vai trị của đội ngũ giáo viên, tác giả Bùi Kim
Hồng viết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm thầy giáo nhiều năm, đã từng đào tạo
nhiều thế hệ cán bộ, chiến sĩ cách mạng cho nên Người rất hiểu công lao to lớn và
thầm lặng của người thầy. Vì vậy, một vấn đề Người hết sức quan tâm đó là vai trị
và phẩm chất của người thầy giáo nhân dân trong sự nghiệp giáo dục. Bởi theo Hồ
Chí Minh, giáo dục là sự nghiệp chung của Đảng, Nhà nước và nhân dân nhưng
trực tiếp thực hiện nhiệm vụ là đội ngũ giáo viên, vì "khơng có thầy giáo thì khơng

có giáo dục”. Hồ Chí Minh phân biệt rõ vị trí khác nhau của người thầy trong xã hội
cũ và xã hội mới khi viết: "Giáo viên ngày nay không phải là "gõ đầu trẻ" kiếm cơm
mà là người phụ trách đào tạo những công dân tiến bộ, những cán bộ tiến bộ cho
dân tộc" [83, tr.31].
Trong cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về người thầy và việc xây dựng đội
ngũ giảng viên đại học hiện nay,[40] tác giả Ngơ Văn Hà đã phân tích một cách có
hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về người thầy, bao gồm: vai trị, phẩm chất đạo
đức, chun mơn nghiệp vụ và phương pháp giảng dạy của người thầy giáo. Từ
nghiên cứu của mình về vai trị của người thầy trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tác giả
nhận định: Chủ tịch Hồ Chí Minh có quan niệm rất sâu sắc về vai trò, nhiệm vụ của
người thầy giáo trong việc thực hiện mục tiêu và nội dung của giáo dục. Người thầy
giáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh là người đem sự hiểu biết, năng lực và phẩm chất
của mình truyền đạt cho người học, làm cho người học phát huy được năng lực vốn
có của bản thân, phát triển các mặt đức dục, trí dục, thể dục, mỹ dục để trở thành
người lao động chân chính. Theo đó: “Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giữa vai trị và
nhiệm vụ của người thầy có mối quan hệ mật thiết, khơng tách rời nhau. Vai trò


20
quan trọng của người thầy trong xã hội được thể hiện qua nhiệm vụ của họ đảm
nhận. Người thầy đảm nhận tốt nhiệm vụ được giao là sự khẳng định vị trí, vai trị
của họ trong xã hội” [40, tr.10-11].
Bên cạnh đó, vai trị xã hội của người thầy cịn được Hồ Chí Minh chỉ rõ khi
khơng chỉ dừng lại, bó hẹp trong phạm vi trường học mà cịn được thể hiện ở ngồi
xã hội, “thầy giáo và học trị, tùy hoàn cảnh và khả năng, cần tham gia những cơng
tác xã hội, ích nước, lợi dân”. Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp
và chống Mỹ, cứu nước ác liệt, thầy trò các trường đại học đã: người thì lên đường
ra trận, chiến đấu nơi tiền tuyến, người nỗ lực góp sức mình ở hậu phương, gắn bó,
lăn lộn cùng nhân dân lao động sản xuất, góp phần vào sự nghiệp giải phóng dân
tộc. Uy tín và tấm gương của những người thầy ở cả tiền tuyến và hậu phương đã

góp phần khơi dậy lịng u nước, ý chí đấu tranh giành độc lập dân tộc trong các
thế hệ học sinh, sinh viên, động viên họ tích cực tham gia chiến đấu và chiến thắng
kẻ thù xâm lược.
Từ nghiên cứu của mình, Vũ Đức Thịnh [96] đã khẳng định, trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, đội ngũ giáo viên có vai trị rất quan trọng trong sự nghiệp
giáo dục, bởi: Thứ nhất, giáo viên có vai trị đào tạo những lớp người kế tục sự
nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Thứ hai, giáo viên là nhân tố quyết định
quá trình vận hành của hệ thống giáo dục cũng như chất lượng giáo dục. Cùng
quan điểm này, Vũ Thị Huyền Trang [91] cũng đã chỉ rõ 2 vai trị của giáo viên
trong tư tưởng Hồ Chí Minh và khẳng định trong luận văn thạc sĩ khoa học chính trị
của mình.
Tựu trung lại, từ những khảo cứu trên, có thể thấy:
Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo viên và xây dựng đội ngũ giáo viên
nhận được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, đề cập ở nhiều góc độ
khác nhau. Nhà giáo, giáo viên, người thầy là khái niệm có lịch sử ra đời sớm và
được bàn nhiều trong các quan niệm dân gian cũng như nhiều cơng trình nghiên cứu
về giáo dục.
Thứ hai, vị trí, vai trị của đội ngũ giáo viên trong tư tưởng Hồ Chí Minh
thường được thể hiện trong các cơng trình tổng thể nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí


21
Minh về giáo dục và đội ngũ giáo viên. Mặc dù các cách thể hiện quan điểm khác
nhau, nhưng các cơng trình đó đều có điểm thống nhất là Hồ Chí Minh đánh giá cao
tầm quan trọng của đội ngũ giáo viên đối với sự nghiệp giáo dục cách mạng của
nước nhà.
Thứ ba, khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ giáo viên đã
được nghiên cứu bước đầu; đã có một số kết quả, song chưa đầy đủ. Đến nay,
dường như chưa có cơng trình chun biệt nào nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh
về vị trí, vai trị của đội ngũ giáo viên.

Thứ tư, các nghiên cứu cũng cho thấy sự chưa nhất quán trong quan niệm về
vị trí, vai trị của giáo viên.
Thứ năm, ở các chiều cạnh khác nhau, các cơng trình đã bước đầu hình thành
nội hàm tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trị của giáo viên và đó chính là cơ sở
để luận án cần tiếp tục nghiên cứu, phân tích, làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí,
vai trị của giáo viên, hồn thành mục tiêu Luận án đề ra.
1.2.2. Nghiên cứu nội dung tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ
giáo viên
Nghiên cứu tổng quan về vấn đề này cho thấy, giáo dục - đào tạo luôn là vấn
đề quan trọng được toàn xã hội quan tâm. Đảng và Nhà nước ta coi giáo dục - đào
tạo là quốc sách hàng đầu và đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển. Để giáo
dục - đào tạo trở thành nền tảng cho sự phát triển của đất nước, việc nghiên cứu
những di huấn về giáo dục của Hồ Chí Minh là cơ sở lý luận quan trọng, là bệ đỡ
cho giáo dục Việt Nam kế thừa, vận dụng và phát triển trong thời kỳ đổi mới.
Khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, các nhà khoa học coi tư
tưởng của Người về xây dựng đội ngũ giáo viên là nội dung cốt lõi. Những nội
dung tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ giáo viên được các nhà nghiên
cứu tập trung khai thác ở các chiều cạnh sau:
Thứ nhất, xây dựng chất lượng đội ngũ giáo viên.
Nội dung xây dựng chất lượng đội ngũ giáo viên được đề cập trong nhiều
cơng trình nghiên cứu. Các tác giả đều thống nhất chung nhận định, chất lượng đội


×