Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Một số giải pháp rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.85 KB, 17 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HỐ
PHỊNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THẠCH THÀNH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP
RÈN KỸ NĂNG NÓI CHO HỌC SINH LỚP 2

Người thực hiện: Lê Thị Hạnh
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học thị trấn Kim Tân
SKKN thuộc lĩnh vực: Tiếng Việt

THẠCH THÀNH, NĂM 2021
1


Mục
I.
1.
2.
3.
4.
II.
1.
2.
2.1
3
3.1
3.2
3.2.1



MỤC LỤC
Nội dung
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Lí do chon đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG
Cơ sở lí luận
Thực trạng
Thực trạng nhà trường
Các giải pháp rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 2 trường Tiểu
học Thị trấn Kim Tân.
Rà soát, phân loại đối tượng từ đó chia nhóm và có biện pháp
rèn luyện phù hợp.
Rèn kĩ năng nói thơng qua mơn Tiếng Việt.
Phân loại các dạng bài tập.

Tổ chức hình thức dạy học phù hợp với các dạng bài để nâng
3.2.2 cao kỹ năng nói cho học sinh
Rèn kỹ năng nói cho học sinh thơng qua các mơn học khác.
3.3
3.4
3.5
3.6
4
III.
1.

2.

Rèn kỹ năng nói cho học sinh qua hoạt động ngoài giờ lên lớp.
Phát huy vốn sống của học sinh qua thực tế giao tiếp và tích lũy
kinh nghiệm giao tiếp.
Rèn kỹ năng nói thơng qua gia đình.
Hiệu quả của giải pháp nâng cao kỹ năng nói cho học sinh lớp
2.
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
Kết luận
Kiến nghị và đề xuất

Trang
1
2
2
3
3
3
3
3
4
4
5
5
6
6
6
10
11

12
13
13
14
14
14

2


I. MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Không phải ngẫu nhiên mà trong vô số những điều kiện cần phải học, ông
cha ta lại chọn giao tiếp, ứng xử “Học ăn, học nói, học gói, học mở” là ưu tiên
số một. Nói cách khác “Học ăn, học nói, học gói học mở” là điều kiện tiên quyết
để xây dựng nên chuẩn mực trong văn hóa đời sống và giao tiếp hàng ngày.
Trong cuộc sống cá nhân, kỹ năng nói có vai trị vơ cùng quan trọng. Việc vận
dụng kỹ năng nói vào trong cuộc sống của mỗi con người chính là năng lực vận
dụng có hiệu quả những tri thức về giao tiếp, giúp tạo dựng được hình ảnh tốt
về bản thân, các mối quan hệ hợp tác tốt đẹp cũng như chỗ đứng trong xã hội.
Đối với lứa tuổi học sinh Tiểu học đang trong giai đoạn hình thành và phát triển
nhân cách thì kỹ năng nói đóng vai trị hết sức quan trọng, bởi nhờ có kỹ năng
nói các em học tập hiệu quả hơn, các em tự tin tham gia vào hoạt động giáo dục
của nhà trường, gia đình, xã hội và có cơ hội trải nghiệm bản thân. Tuy vậy
khơng phải học sinh ở đâu cũng có khả năng nói tốt. Thực tế cho thấy kỹ năng
nói của học sinh Tiểu học nói chung, học sinh trên địa bàn Thạch Thành nói
riêng đang cịn rất nhiều hạn chế mà học sinh Tiểu học Thị Trấn Kim Tân là một
điển hình. Biểu hiện rõ nét nhất là các em thường hay nói trống khơng, lời nói ít
quan tâm đến chủ ngữ, vị ngữ, với giáo viên ít thưa gửi. Gặp người lạ các em ít
tiếp xúc, ngại trao đổi, chủ yếu là tị mị quan sát. Có chăng một số ít các em

cũng chỉ nói được câu ngắn, nội dung không rõ ràng.
Trong công tác Giáo dục ở bậc tiểu học, muốn học sinh học tập tốt cần rèn
cho các em hai chức năng : Chức năng tư duy và chức năng giao tiếp. Mà ‘hội
thoại là hoạt động giao tiếp căn bản, thường xuyên và phổ biến nhất của sự
hành chức ngôn ngữ” trong đời sống giao tiếp hằng ngày, hội thoại là kỹ năng
cần thiết nhất, được sử dụng nhiều nhất. Vì vậy, dạy kỹ năng hội thoại cho học
sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 2 nói riêng là việc làm có ý nghĩa quan
trọng , giúp học sinh nâng cao năng lực sử dụng ngôn ngữ trong học tập và giao
tiếp.
Phát triển kỹ năng hội thoại( kỹ năng nói) cho học sinh Tiểu học nói chung
học sinh lớp 2 nói riêng chính là việc dạy cho các em biết sử dụng linh hoạt các
nghi thức lời nói vào các cuộc hội thoại cụ thể một cách phù hợp; giúp học sinh
luyện tập cách đối thoại có văn hóa. Phát triển kỹ năng hội thoại cho học sinh
Tiểu học là phát triển đồng thời hai kỹ năng nói, nghe, luyện tập và cả kĩ năng
trao lời và đáp lời trong các cuộc thoại gắn với đời sống học tập, sinh hoạt hằng
ngày. Đặc biệt đối với học sinh lớp 2 việc rèn kỹ năng hội thoại (kỹ năng nói) có
ý nghĩa vơ cùng quan trọng giúp học sinh nâng cao năng lực học tập và giao
tiếp. Việc rèn kỹ năng nói cho học sinh đã được quan tâm từ lớp 1 thông qua
phần luyện nói theo chủ đề của các bài học vần, tập đọc. Đến năm lớp 2 qua
môn Tiếng Việt việc rèn kỹ năng nói cho học sinh được đặc biệt quan tâm. Song
thực tế giảng dạy nhiều năm tôi thấy, việc rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 2
chưa thực sự đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu môn học. Chính vì thế các em
chưa biết cách diễn đạt ý của mình trong các tình huống giao tiếp.Vì vậy tôi đã
mạnh dạn áp dụng các giải pháp để rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 2. Sau một
thời gian áp dụng, tôi thấy đã mang lại hiệu quả hết sức đáng mừng, do đó tơi
3


xin chia sẻ “ Một số giải pháp rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 2 Trường
Tiểu học Thị trấn Kim Tân.

2. Mục đích nghiên cứu:
Tìm hiểu, phân loại hệ thống bài tập rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 2.
Giúp học sinh chuẩn mực trong lời nói, hành vi giao tiếp nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Kĩ năng nói cho học sinh lớp 2 trường Tiểu học Thị trấn Kim Tân.
4. Các phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp điều tra khảo sát thực nghiệm.
- Phương pháp mô tả.
- Phương pháp thông kê, xử lý số liệu.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp .
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp đối chiếu.
- Phương pháp vấn đáp.
II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN
1.Cơ sở lý luận
Theo “Tâm lý học đại cương” của Trần Thị Minh Đức (chủ biên). Giao tiếp
là quá trình tiếp xúc giữa con người với con người nhằm mục đích nhận thức,
thơng qua sự trao đổi với nhau về thông tin, về cảm xúc, sự ảnh hưởng tác động
qua lại lẫn nhau[1]. Có 2 hình thức giao tiếp: Giao tiếp trực tiếp và giao tiếp
gián tiếp. Giao tiếp trực tiếp là phương thức mặt đối mặt sử dụng ngơn ngữ nói
và phương thức phi ngôn ngữ ( cử chỉ, hành động…) trong q trình giao tiếp.
Vậy ngơn ngữ nói là một dạng của hoạt động ngôn ngữ. So với ngôn ngữ viết
ngôn ngữ nói là hình thức cổ xưa của ngơn ngữ lồi người, bởi lẽ trong lịch sử
phát triển ngơn ngữ nói là cái đi trước, ngơn ngữ viết là cái theo sau.Mặt khác,
trong quá trình phát triển của mỗi cá nhân, ngơn ngữ nói được hình thành sớm
hơn ngơn ngữ viết. Chức năng cơ bản của ngơn ngữ nói là thỏa mãn nhu cầu
giao tiếp hằng ngày của con người.
Như vậy, giao tiếp có thể hiểu là một q trình, trong đó con người sẽ chia
sẻ với nhau các ý tưởng, thông tin và cảm xúc, nhằm xác lập và vận hành các

mối quan hệ.
Với học sinh lớp 2, các em biết sử dụng ngôn ngữ để thuyết phục, chào hỏi,
tham gia vào lớp học, bày tỏ cảm xúc nhờ có ngơn ngữ phát triển mà các em có
khả năng tự đọc, tự học, tự nhận thức thế giới xung quanh và tự khám phá bản
thân thông qua các kênh thơng tin khác nhau. Tuy vậy khả năng nói của học sinh
ở đây cũng mang đặc trưng vùng miền rõ rệt. Các em nghĩ sao nói vậy, lời nói ít
quan tâm đến chủ ngữ vị ngữ, ít sử dụng các yếu tố phi ngơn ngữ trong giao tiếp.
Chính vì thế, cần rèn kĩ năng nói cho học sinh là việc làm rất cần thiết giúp học
sinh tự tin trong giao tiếp, mạnh dạn trình bày vấn đề trước đám đơng, biết nói
lời cảm ơn, xin lỗi, biết lắng nghe, biết nêu yêu cầu đề nghị. Từ đó góp phần
nâng cao kĩ năng sống cho học sinh, đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục.
2. Thực trạng
2.1. Thực trạng ở nhà trường:
4


Học sinh:
Năm học 2020- 2021 tôi được phân công chủ nhiệm và giảng dạy lớp 2C
với 28 học sinh. Nhìn chung các em chăm chỉ học tập và tiếp thu bài nhanh, tuy
nhiên kĩ năng nghe nói của các em khơng đồng đều, một số em cịn rụt rè, nhút
nhát trong giao tiếp, một số em có mạnh dạn tự tin hơn nhưng khi giao tiếp các
em thường bộc trực nghĩ sao nói vậy, diễn đạt chưa đủ ý, chưa thành câu.
VD: Khi vào lớp tôi hỏi các em làm bài tập chưa? học sinh trả lời luôn là:
chưa ạ hoặc có ạ.
- Bên cạnh đó nhận thức, vốn từ, mơi trường giao tiếp cịn hạn chế nên ảnh
hưởng ít nhiều đến khả năng nói của các em.
Giáo viên:
- Về thực tế giáo viên lên lớp chỉ mong truyền đạt hết kiến thức để đạt mục
tiêu bài học, chưa chú trọng thực hành rèn kĩ năng nói cho học sinh. Giáo viên
còn rất bỡ ngỡ khi tổ chức các hoạt động nói cho học sinh, chưa biết cách kích

thích hứng thú giúp học sinh giao tiếp tự nhiên, tránh gò bó, khiên cưỡng. Chưa
chú trọng vào việc rèn các kĩ năng, yếu tố phù trợ như điệu bộ, nét mặt, cử chỉ,
ánh mắt...
Qua thực tế dạy học, qua quá trình ghi chép, thống kê tơi thấy kĩ năng
nói của học sinh lớp 2C đầu năm học 2020 – 2021 được đánh giá như sau:
- 14/28 em = 50% học sinh mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp
- 15/28 em = 53.6% học sinh biết chào hỏi, nêu yêu cầu đề nghị. Biết nói
lời cảm ơn, xin lỗi….
- 13/28 em = 46.4% học sinh biết nói thành câu trong các tình huống giao
tiếp
Từ thực trạng trên cho thấy tỉ lệ học sinh chưa có kĩ năng nói khá cao trong
lớp. Biểu hiện rõ nét ở những mặt sau:
* Kỹ năng chào hỏi: Các em chưa tự chủ, tự tin, ngôn ngữ chưa rõ ràng,
mạch lạc, chưa biết chào hỏi đúng lúc, đúng chỗ, phù hợp với hồn cảnh.
* Kỹ năng nói lời cảm ơn, xin lỗi: Chưa tự tin cảm ơn khi nhận được sự
giúp đỡ của người khác, chưa mạnh dạn xin lỗi khi làm phiền người khác.
* Kỹ năng nói lời yêu cầu đề nghị: Chưa mạnh dạn nói lời u cầu đề nghị,
ngơn ngữ trình bày chưa rõ ràng, mạch lạc. Chưa biết từ chối lời yêu cầu đề
nghị của người khác.
* Kỹ năng diễn đạt trước đám đơng: Chưa biết cách trình bày một vấn đề
trước tập thể rõ ràng, mạch lạc, tự tin.
- Khi có thầy cô giáo không trực tiếp giảng dạy hoặc thầy cô giáo lạ hỏi
chuyện các em thường bối rối đỏ mặt, gãi đầu gãi tai thậm chí trả lời ấp úng.
Trong giao tiếp các em còn thiếu mềm mỏng, thẳng thắn bộc lộ rõ cảm xúc
song thiếu kỹ năng định vị, lời nói ít quan tâm đến chủ ngữ, hay nói trống
khơng, với giáo viên, ít nói thưa gửi. Gặp người lạ các em ít tiếp xúc, ngại trao
đổi, chủ yếu là tò mò quan sát. Kỹ năng định hướng giao tiếp của các em hầu
như chưa được hình thành.
Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên là:


5


+ Các em học sinh ở độ tuổi còn nhỏ nên mơi trường giao tiếp hạn hẹp chỉ
bó gọn trong gia đình và nhà trường. Một số em bố mẹ đi làm ăn xa ở nhà với
ông bà. Một số em bố mẹ li hôn em ở với bố, em ở với mẹ.
+ Phần lớn giáo viên đã tích cực rèn kỹ năng nói cho học sinh thơng qua
việc dạy học và giáo dục kỹ năng sống. Nhưng do đặc điểm học sinh trình độ
xuất phát thấp, tiếp thu bài còn chậm nên giáo viên cũng chỉ mới giành thời gian
của tiết học, buổi học vào việc truyền tải kiến thức, ít có thời gian để rèn kỹ
năng nói cho học sinh.
+ Một bộ phận giáo viên chưa nhận thức đúng đắn về việc rèn luyện kỹ
năng cho học sinh dẫn đến chậm đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy
học hoặc có tâm lý ngại đổi mới, ít quan tâm đến dạy học tích hợp.
+ Nhà trường, liên đội chưa tổ chức được nhiều hoạt động ngoài giờ lên lớp
phong phú đa dạng để các em có điều kiện được tham gia, giao lưu trao đổi.
Bên cạnh đó kinh nghiệm sống của các em cịn hạn chế, vốn từ nghèo nàn
nên cách nói, cách diễn đạt của học sinh ở đây cũng mang đặc trưng vùng miền:
nghĩ sao nói vậy, thậm chí nói trống khơng, cộc lốc, thiếu chủ ngữ, vị ngữ. Từ
những thực trạng và nguyên nhân trên tôi đã mạnh dạn đưa ra “Một số giải
pháp rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 2.” do tôi trực tiếp chủ nhiệm và giảng
dạy.
3. Các giải pháp nâng cao kỹ năng nói cho học sinh lớp 2 trường tiểu
học Thị trấn Kim Tân.
3. 1. Rà soát, phân loại đối tượng từ đó chia nhóm và có biện pháp rèn
luyện phù hợp.
- Ngoài những sổ sách do nhà trường quy định tơi có thêm một quyển sổ
ghi chép những điều quan sát, đặc điểm, kỹ năng giao tiếp, hành vi ứng xử của
từng học sinh trong lớp. Trong cuốn sổ này tôi ghi chép những điều quan sát
được bao gồm cả ưu điểm và khuyết điểm của từng em để có cái nhìn khái qt

về việc sử dụng vốn từ, kỹ năng nói, kỹ năng giao tiếp của từng học sinh. Từ đó
tơi phân nhóm học sinh theo kỹ năng nói, kỹ năng giao tiếp.
Nhóm 1: Là những học sinh ngại giao tiếp, khả năng nói chưa tốt hầu
như khơng biết sử dụng lời nói biểu cảm trong giao tiếp.
Đây là những em học sinh khả năng tiếp thu bài chậm. sống hơi khép mình,
rụt rè, nhút nhát trong giao tiếp, và ít chủ động chào hỏi khi gặp gỡ thầy cơ cũng
như bạn bè.
Nhóm 2: Là nhóm học sinh có lời nói tương đối trơi chảy, rõ ràng, tuy
nhiên chưa thể hiện được lời nói biểu cảm trong giao tiếp một cách rõ nét,
diễn đạt chưa đủ ý, nói cịn trống khơng, cộc lốc.
Đây là những em học sinh có cá tính, hiếu động và có chút nghịch ngợm.
Các em mạnh dạn hơn trong giao tiếp so với nhóm học sinh trên, nhưng khi giao
tiếp các em cịn vụng về, lúng túng, nói chưa đủ ý, nghĩ sao nói vậy..
Nhóm 3: Là nhóm học sinh có lời nói lưu lốt, mạch lạc, biết thể hiện
biểu cảm trong giao tiếp nhưng chưa mạnh dạn thuyết tình trong các buổi
sinh hoạt ngoại khóa.
Đây chính là những nhóm trưởng, những người dẫn chương trình trong các
giờ luyện nói trên lớp. Các em có ý thức học tập tốt. Thường xuyên phát biểu ý
6


kiến xây dựng bài trong lớp, nhưng trong các hoạt động của nhà trường chưa
mạnh dạn, tự tin thuyết trình.
Sau khi phân tích đặc điểm cũng như khả năng giao tiếp của từng học sinh
để phân nhóm. Tơi tiến hành sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh, sao cho phân bố
đều ba đối tượng học sinh nêu trên trong các tổ, các nhóm
Ưu điểm giải pháp.
Phân loại học sinh giúp giáo viên hiểu rõ kĩ năng nói của từng em để có
biện pháp, kế hoạch, rèn luyện cho học sinh qua từng tiết dạy.
Sắp xếp chỗ ngồi hợp lí cho học sinh được tương trợ lẫn nhau trong quá

trình học tập như ơng cha ta thường nói:”học thầy khơng tày học bạn”. Sự phấn
khích trong học tập sẽ giúp các em mạnh dạn, năng động hơn rất nhiều trong quá
trình rèn luyện nói.
Sự cổ vũ, động viên của các bạn trong nhóm, trong tổ sẽ giúp các em tự tin
hơn trước lời phát biểu của mìn
3.2 Rèn kỹ năng nói thông qua môn Tiếng Việt.
3.2.1. Phân loại các dạng bài tập
Trong tất cả các giờ học khi nào cần liên hệ hay lồng ghép kỹ năng sống
cho các em tôi đều thực hiện triệt để nhằm nâng cao kỹ năng nói, kỹ năng giao
tiếp cho học sinh. Nhưng trong đó môn Tiếng Việt là môn học quan trọng nhất
giúp các em thực hiện tốt kỹ năng nói, kỹ năng giao tiếp.
Tiếng Việt là một mơn học tuy dễ mà khó. Chính vì thế mà có câu: “Phong
ba bão táp khơng bằng ngữ pháp Việt Nam” để các em tự tin nói mà khơng sợ bị
sai thì cần trang bị cho các em hành trang cơ bản đầu tiên đó là vốn từ giúp các
em khơng chỉ biết nói mà cần nói đúng, nói hay, nói chuẩn. Các em sẽ tự tin và
bản lĩnh hơn khi hiểu rõ những điều mình nói, vốn từ đa dạng phong phú sẽ giúp
các em linh hoạt hơn, hoạt ngơn hơn, cách nói đa dạng hơn. Tôi đã nghiên cứu
và phân loại các bài tập và lựa chọn phương pháp dạy phù hợp phát triển kĩ năng
nói cho các em.
Dạng 1: Loại bài tập luyện phát âm theo chuẩn
Dạng 2: Loại bài tập tình huống
Dạng 3: Loại bài tập luyện kỹ năng hội thoại.
Dạng 4: Loại bài tập kể chuyện.
3.2.2. Tổ chức hình thức dạy học theo nhóm để nâng cao kỹ năng nói
cho học sinh
Lựa chọn phương pháp dạy phù hợp để phát triển kỹ năng nói cho các em
theo các dạng bài tập đã phận loại.
Dạng 1: Loại bài tập luyện phát âm theo chuẩn
*Cách tiến hành:
- Giáo viên lựa chọn những học sinh phát âm chưa chuẩn các từ tiếng khó

trong các bài tập đọc để lập danh sách và có kế hoạch rèn luyện riêng cho các
em.
- Giáo viên thống kê các loại âm, vần mà học sinh thường phát âm sai ( học
sinh lớp 2C tôi chủ nhiệm thường phát âm sai âm n/l, dấu hỏi/dấu ngã, vần
âng/uâng…)
7


- Tơi ln lựa chọn các từ có các âm, dấu, vần học sinh thường phát âm sai
để rèn luyện trong giờ tập đọc.
- Tôi hướng dẫn từng em cách phát âm các từ khó, giáo viên phát âm mẫu
rồi hướng dẫn các em phát âm theo một cách tỉ mỉ.
Ví dụ: Hướng dẫn học sinh phát âm âm n/l.
+ Khi phát âm âm n lưỡi hơi cong và đẩy xuống, miệng mở vừa phải.
+ Khi phát âm âm l lưỡi bật từ trên xuống, miệng há rộng hơn.
- Bên cạnh việc rèn cho các em thường xuyên luyện đọc các từ khó tơi cịn
đưa ra những trị chơi giúp các em vừa học vừa chơi vừa rèn luyện phát âm
chuẩn các từ khó.
Ví dụ: Tổ chức cho học sinh chơi trò chơi “ Thi đọc nhanh và đúng câu có
âm, vần, thanh dễ lẫn.
* Tổ chức thực hiện:
- Giáo viên ghi các câu thơ có cặp âm, vần, thanh khó đọc ra một lá phiếu
học tập.
- Chia học sinh thành 2 nhóm lần lượt lên bốc thăm phiếu học tập và đọc
nội dung bài trong lá phiếu đó.
- Cả lớp theo dõi, nhận xét bài đọc của các bạn tham gia thi đọc.
- Nhóm nào có số học sinh đọc đúng nhiều hơn thì nhóm đấy hiến thắng.
Ví dụ:
+Lá phiếu giúp học sinh phân biệt, phát âm chuẩn n/l.
Nói năng nên luyện ln ln

Lời nói lưu lốt luyện ln lúc này.
+Lá phiếu giúp học sinh phân biệt, phát âm chuẩn tiếng có thanh ngã/hỏi.
Chị Huyền vác nặng – ngã đau
Anh không sắc thuốc - hỏi đâu mà lành.
+Lá phiếu giúp học sinh phân biệt, phát âm chuẩn vần âng/uâng
Thoảng nghe trong gió phiêu diêu
Sáo ai đổ tiếng trời chiều bâng khng
Sao nghe lịng cứ lâng lâng
Nhìn sang bên ấy một vầng trăng tươi.
+Lá phiếu giúp học sinh phân biệt, phát âm chuẩn vần ươn/ương
Cá không ăn muối cá ươn
Con cãi cha mẹ trăm đường con hư
* Kết quả: 100% các em học sinh phát âm đúng các từ khó, nói tương đối
trơi chảy, rõ ràng lưu lốt.
Các em học sinh ngại giao tiếp, khả năng nói chưa tốt giờ cũng tự tin phát
biểu ý kiến xây dựng bài.
Dạng 2: Loại bài tập tình huống
Với các dạng bài tập này tơi chú trọng đến hình thức tổ chức thảo luận
nhóm 4. Tôi sử dụng kĩ thuật ‘khăn trải bàn’ cho các em thảo luận trong nhiều
hơn, rèn kĩ năng trao đổi trong nhóm, nâng cao các vốn từ đang cịn bị hạn chế
của học sinh lớp 2. Giúp kĩ năng nói của học sinh được cải thiện, bước đầu rèn
kĩ năng viết khi các em chọn ý ưng nhất viết vào nội dung của khăn trải bàn.
8


*Cách tiến hành:
+ Thực hiện các bước như trong kĩ thuật “khăn trải bàn”
Với dạng bài tập này sau khi thảo luận nhóm xong tơi tiến hành cho các
nhóm lên thực hành xử lí các tình huống qua “ sắm vai theo tình huống giao
tiếp” để rèn kĩ năng nói, kĩ năng diễn đạt cho học sinh; Giúp giờ học diễn ra tự

nhiên, sôi nổi tránh sự nhàm chán, đơn điệu khi học.
*Kết quả:
Quá trình trao đổi tìm ra nội dung phù hợp nhất chính là bước rèn kĩ năng
nói cho các em. Do được nói trong nhóm nên những học sinh ngại giao tiếp, khả
năng nói chưa tốt hầu như khơng biết sử dụng lời nói biểu cảm trong giao tiếp đã
mạnh dạn hơn khơng cịn rụt rè; Ngồi ra các nhóm trưởng là các em học sinh
có lời nói lưu lốt, mạch lạc, biết thể hiện biểu cảm trong giao tiếp ln có kinh
nghiệm để điều hành nhóm, giúp đỡ, nhắc nhở kịp thời các bạn còn nhút nhát,
nói chưa trơi chảy, nói chưa đủ ý.
- Qua áp dụng phương pháp dạy học nhóm tơi thấy học sinh được nâng cao
kỹ năng nói một cách rõ rệt; Tạo điều kiện phát huy tính tích cực chủ động, sáng
tạo của từng em.
Các em nhút nhát, rụt do được chuẩn bị ý kiến bằng cách viết vào phần cá
nhân, sau đó trình bày lại bằng lời nói nên các em tự tin diễn đạt trước đám đơng
(trong nhóm), rồi đến trước lớp.
Các em học sinh có lời nói tương đối trơi chảy, rõ ràng biết lựa chọn lời nói
phù hợp với tình huống giao tiếp có kèm sắc thái biểu cảm qua giọng nói, sắc
mặt như ăn năn, hối lỗi khi nói lời xin lỗi. Vui vẻ hớn hở khi nhận được quà và
nói lời cảm ơn.
Các em học sinh có lời nói lưu lốt, mạch lạc, biết thể hiện biểu cảm trong
giao tiếp được rèn luyện thêm kĩ năng nói, kĩ năng điều hành các hoạt động
nhóm và xử lí các tình huống phát sinh trong nhóm.
Dạng 3: Loại bài tập luyện kỹ năng hội thoại
*Cách tiến hành:
- Xác định yêu cầu bài tập:
- Xác định tình huống giao tiếp trong bài.
*Hình thức tổ chức: Tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm đơi thảo luận
để xác định việc làm trong tình huống của bài tập
- Các nhóm lên trình bày kết quả trước lớp, các nhóm khác chú ý quan sát
và lắng nghe phần trình bày của nhóm bạn để nhận xét đánh giá

- Tổ chức cho học sinh các nhóm sắm vai tình huống
Ví dụ 1: Bài 1 tuần 4
1.Nói lời cảm ơn của em trong những trường hợp sau:
a, Bạn cùng lớp cho em đi chung áo mưa.
b, Cô giáo cho em mượn quyển sách.
c, Em bé nhặt hộ em chiếc bút rơi.
Sau khi các em thực hiện sắm vai tôi sẽ tổ chức cho các bạn nhóm khác
nhận xét đánh giá tình huống vừa sắm vai. Nội dung các bạn đưa ra đã phù hợp
chưa? Các lời thoại đã thể hiện được sắc mặt, cử chỉ, thái độ, ánh mắt, nụ cười
9


phù hợp với tình huống chưa? Các nhóm có ý kiến nhận xét giáo viên là người
chốt và hướng dẫn cụ thể khi các em chưa thực hiện tốt.
Với các em học sinh có lời nói lưu lốt, mạch lạc, biết thể hiện biểu cảm
trong giao tiếp kỹ năng giao tiếp tốt hơn nên tôi rèn cho các em kỹ năng nói, kỹ
năng dùng lời để xử lý tình huống ngoài sách sẽ giúp các em mạnh dạn, chủ
động hơn khi giao tiếp. Các tình huống thực tế cuộc sống khơng bị áp đặt máy
móc các bài học trong sách vở. Việc đưa ra các tình huống bài tập tương tự sách
giáo khoa để học sinh thực hiện giúp các em hứng thú hơn trong học tập, năng
động hơn trong cách xử lý tình huống và lời nói cũng đa dạng, phong phú hơn.
Tôi luôn chú trọng dành nhiều thời gian cho tất cả các em thực hành luyện
nói trong giờ học Tiếng Việt cũng như trong các giờ học khác của các môn học.
*Hiệu quả:
- Các em học sinh ngại giao tiếp, khả năng nói chưa tốt đã trả lời trôi chảy
những câu mời, nhờ, yêu cầu, đề nghị, cảm ơn, xin lỗi trong các bài tập đáp lời
và nói theo tình huống.
- Các em học sinh có lời nói tương đối trơi chảy, rõ ràng ngồi trả lời
chuẩn và đúng các lời đáp các em còn biết biểu lộ được cảm xúc, sắc mặt, thái
độ khi tham gia sắm vai theo tình huống. cởi mở,tự tin, lịch sự trong giao tiếp.

Giờ học diễn ra sôi nổi, tự nhiên.
- Các em học sinh có lời nói lưu lốt, mạch lạc, biết thể hiện biểu cảm trong
giao tiếp xử lí tốt các tình huống trong và ngồi bài, biết sử dụng lời nói biểu
cảm trong giao tiếp đúng nghi thức, hầu hết học sinh đều biết sử dụng lời nói
biểu cảm để bày tỏ thái độ, cảm xúc của mình khi giao tiếp.
Trong chương trình mơn Tiếng Việt lớp 2 có những yêu cầu cụ thể khác
nhau nhưng chung một mục đích rèn kỹ năng nghe nói (viết) cho học sinh. Làm
tốt khâu phân loại học sinh, xác định yêu cầu bài tập, xác định mục tiêu từng em
cần đạt được khi luyện nói chính là người giáo viên đã góp phần rèn luyện và
phát triển thao tác tư duy cho trẻ, giúp cho q trình luyện nói đúng hướng và có
trọng tâm hơn.
- Học sinh đạt được mục tiêu cụ thể với từng bài với mức độ khác nhau phù
hợp với từng đối tượng học sinh
Sau khi phân loại các dạng bài luyện nói để tìm phương pháp dạy từng bài
đạt hiệu quả cao nhất. Tôi thấy mỗi tuần học, thường có các dạng bài tập này
đan xen nhau, Từ thực trạng ta thấy việc thực hành của học sinh chiếm thời gian
ít trong một tiết học dẫn tới hạn chế khả năng tham gia nói của một số đơng học
sinh. Nên ở những bài dạy có dạng tình huống này tơi thường cho học sinh Thực
hành đóng để xử lí tình huống nên số lượng học sinh tham gia nói để xử lí tình
huống đơng hơn. Dạng tình huống cũng đa dạng, phong phú khơng cịn đơn
điệu và áp đặt tạo hứng thú học tập cho các em.
Dạng 4: Loại bài tập kể chuyện.( Kể chuyện đã nghe đã đọc, kể chuyện về
bản thân và những người xung quanh…)
Loại bài tập này được áp dụng ở phân môn kể chuyện. Tơi chú ý hướng dẫn
học sinh có tư thế, có giọng kể thích hợp, biết sử dụng yếu tố phi ngôn ngữ hỗ
trợ đặc biệt nắm vững câu chuyện định kể.
Cách tiến hành:
10



- Giáo viên lựa chọn bài tập ở tiết kể chuyện có yêu cầu phân vai dựng lại
câu chuyện
- Giao cho học sinh chuẩn bị bài ở nhà thuộc lời thoại câu chuyện theo
nhân vật mà giáo viên giao
- Giáo viên chuẩn bài trí khung cảnh phù hợp với câu chuyện, trang phục
phụ kiện đi kèm giúp tạo hình nhân vật đạt hiệu quả nhất
- Cho học sinh sắm vai dựng lại nội dung câu chuyện.
- Giáo viên và học sinh theo dõi nhận xét góp ý. Chú ý nhận xét sâu về sắc
thái biểu cảm của nhân vật. Ngôn ngữ giọng nói phù hợp với nội dung dàn dựng
câu chuyện.
Kết quả: Học sinh rất hào hứng tham gia và thực hiện tốt nội dung được
giao.
3.3. Rèn kỹ năng nói cho học sinh thơng qua các mơn học khác.
Ngồi luyện nói cho các em ở mơn Tiếng Việt trong các mơn học khác tơi
cũng ln tích hợp rèn kĩ năng nói cho các em.
- Luyện kĩ năng thuyết trình, tự tin biểu diễn trước đám đông cho các em
qua tiết Âm nhạc, Mỹ Thuật, Thủ công.
- Luyện kỹ năng trả lời câu hỏi đủ ý, ngắn gọn, trọng tâm qua các hoạt
động học vấn đáp các mơn Tốn, Tự nhiên và xã hội…
- Các bài tập tình huống trong mơn Đạo Đức cũng rèn cho các em kỹ năng
xử lí tình huống, cách lựa chọn ngơn ngữ để nói, giao tiếp trong từng tình huống
cụ thể.
Khơng chỉ qua mơn Tiếng Việt mới rèn kỹ năng nói cho các em học sinh
mà trong từng giờ dạy, từng tiết học tôi luôn lồng ghép rèn kĩ năng nói cho các
em, q trình rèn luyện nói diễn ra thường xuyên liên tục nên đạt được hiệu quả
cao. Các em mạnh dạn, tự tin phát biểu ý kiến xây dựng bài. Giờ học diễn ra sôi
nổi tạo hứng thú học tập, giảng dạy cho cả cơ và trị.
3.4. Rèn kỹ năng nói cho học sinh qua hoạt động ngoài giờ lên lớp.
- Hướng dẫn, động viên, khuyến khích các em tham gia các hoạt động do
Liên Đội, nhà trường tổ chức như: “ Rung chng vàng’, chương trình “Thắp

sáng ước mơ”, chương trình “Kể chuyện về Bác Hồ”, Tham gia văn nghệ chào
mừng các ngày lễ ... để rèn học sinh kĩ năng nói trước đám đông.
- Tổ chức sinh hoạt tập thể cuối tuần chính là một trong những hoạt động
tích cực giúp tạo mơi trường thuận lợi để các em có cơ hội được giao lưu học
hỏi trao đổi với nhau trong phạm vi lớp học. Ví dụ: sau khi học tiết tập làm văn
tuần 1, tuần 2 (Chào hỏi. Tự giới thiệu) trong giờ sinh hoạt tập thể tơi đã khuyến
khích các em lên tự giới thiệu về bản thân trước tập thể lớp.Thơng thường những
em cán sự lớp có khả năng diễn đạt tốt hơn thì giới thiệu trước làm mẫu để các
em khác học tập.
- Tôi tổ chức các hoạt động như: Chúc mừng sinh nhật bạn nhân dịp sinh
nhật, chúc mừng các bạn đạt giải trong các cuộc giao lưu, Khuyến khích các em
bày tỏ mong muốn, các điều em muốn nói nhân các dịp lễ trong năm để các em
có lời nói phù hợp với các tình huống thực tế. Học sinh nói và vận dụng rất hiệu
quả tham gia các hoạt động hào hứng tích cực. Ngồi rèn kĩ năng nói cịn tăng
thêm tinh thần đồn kết giữa các bạn học sinh trong lớp. Trong lớp việc tổ chức
11


sinh nhật cho các em học sinh được diễn ra thường xuyên, ban đầu chỉ một số
em học sinh có lời nói lưu lốt, mạch lạc, biết thể hiện biểu cảm trong giao tiếp
mạnh dạn lên nói, ở các buổi sinh nhật sau các em học sinh ngại giao tiếp, khả
năng nói chưa tốt cũng xung phong mạnh dạn lên nói lời chúc mừng trước lớp.
- Tổ chức 15 phút đầu giờ chính là một trong những hoạt động tích cực
giúp tạo mơi trường thuận lợi để các em có cơ hội được giao lưu học hỏi trao đổi
với nhau trong phạm vi lớp học. Những buổi sinh hoạt đầu năm học tôi đã
hướng dẫn các em làm quen bằng hình thức tự giới thiệu trước lớp. Thơng
thường những em cán sự lớp có khả năng diễn đạt tốt hơn thì giới thiệu trước
làm mẫu để các em khác học tập. Bên cạnh đó tơi ln thay đổi hình thức tổ
chức sinh hoạt nhằm tạo hứng thú cho học sinh tham gia. Phát động học sinh
tham gia hưởng ứng mạnh mẽ phong trào: “Nói lời hay, làm việc tốt.” do liện

đội nhà trường tổ chức.
- Tổ chức đội ngũ cán bộ lớp theo hình thức luân phiên hàng tháng. Tất cả
các học sinh trong lớp đều có cơ hội làm cán bộ lớp nhờ vậy mà đã tạo động lực
để các em phấn đấu học tập. Qua công tác điều hành công việc của lớp đã giúp
bản thân các em nhút nhát mạnh dạn hơn, biết cách diễn đạt, trình bày trước đám
đơng.
Do học sinh ở đây ít được tham gia các hoạt động vui chơi, giải trí và ít
được tiếp xúc giao lưu như học sinh vùng có điều kiện kinh tế khá giả hơn nên
phần nào cũng ảnh hưởng đến vốn sống, vốn từ và đặc biệt là khả năng nói. Vậy
hoạt động tập thể, hoạt động ngoại khóa ở trường là cơ hội tốt để các em được
mở rộng phạm vi và đối tượng giao tiếp, từ đó củng cố mở rộng vốn từ, vốn
sống. Khơng những tạo động lực để các em học tốt các môn học khác mà còn
giúp các em rèn luyện khả năng nói. Trong năm học vừa qua tơi đã mạnh dạn đề
xuất với nhà trường, Tổ chuyên môn, Liên Đội nhà trường tổ chức nhiều hoạt
động thu hút các em tham gia. Một trong những hoạt động ấy phải kể đến là
chương trình “ Rung chng vàng’, chương trình “Thắp sáng ước mơ”, chương
trình “Kể chuyện về Bác Hồ”.
Hoạt động ngồi giờ lên lớp là cơ hội để học sinh được trải nghiệm, được
thực hiện trong các buổi chào cờ hay sinh hoạt tập thể như vậy tôi luôn cùng
đồng hành với các em ban đầu hỗ trợ, hướng dẫn cách trình bày. Chỉ một hành
động có giáo viên chủ nhiệm đứng cạnh thôi cũng giúp các em tụ tin hơn, nói to
rõ ràng hơn. Mạnh dạn tự tin tham gia vào các hoạt động tập thể. Mạnh dạn
trong giao tiếp giữa học sinh với học sinh, học sinh và giáo viên. Tạo rút ngắn
khoảng cách giữa thầy và trò.
3.5. Phát huy vốn sống của học sinh qua thực tế giao tiếp và tích lũy
kinh nghiệm giao tiếp .
Việc rèn kĩ năng nói được gắn liền với thực tế cuộc sống. Từ khi chưa đi
học các em đã được tiếp xúc với những người trong gia đình bằng những câu
chào hỏi đáp lại lời người khác. Chính vì thế trong q trình giảng dạy, tơi ln
xem trọng việc phát huy vốn sống trong học sinh. Với bất kì bài tập nào tơi ln

cho học sinh nêu ý kiến trước của mình, những ý kiến đúng sẽ được cả lớp
12


công nhận và tuyên dương. Ngược lại những ý kiến sai sẽ được cơ cùng các bạn
góp ý, sửa chữa.
Ví dụ: Nói lời đáp của em trong những trường hợp sau:
A - Cô làm ơn chỉ giúp cháu nhà bác Hạnh ở đâu ạ!
-Rất tiếc cơ khơng biết vì cơ khơng phải người ở đây.
B – Bố ơi, bố có mua được sách cho con không?
- Bố chưa mua được đâu.
C - Mẹ có đỡ mệt khơng ạ?
- Mẹ chưa đỡ mấy.
Đây là các tình huống vốn quen thuộc với các em. Có lẽ em nào cũng đã
từng có lần gặp các tình huống tương tự như vậy. Tơi đã cho các em trao đổi với
các bạn để tìm ra lời đáp và thực hành từng tình huống. Trong khi thực hành có
những em sẽ có những câu nói cộc lốc chưa đủ ý tôi nhắc và yêu cầu các em nói
đủ câu, đủ ý. Đồng thời rèn luyện cho các em biết cách trả lời câu hỏi: đó là phải
nhắc lại phần câu hỏi trước khi trả lời.
Sau mỗi hoạt động như vậy tôi yêu cầu các em ghi chép vào một cuốn sổ
tay. Trong cuốn sổ đó tơi yêu cầu các em ghi lại các từ, các tình huống giao tiếp
và các cách trả lời để làm cuốn sổ tích lũy kiến thức.Với cách làm đấy 100% học
sinh lớp tơi nâng cao được vốn từ cịn hạn chế. Sưu tầm được nhiều tình huống
giao tiếp và cách ứng xử giúp các em tự tin hơn khi nói và khi đáp lời trong các
tình huống trong sách, cũng như ngồi đời.
3.6. Rèn kỹ năng nói thơng qua gia đình
Có thể nói phần lớn quỹ thời gian của học sinh lớp 2C là ở gia đình. Do vậy
gia đình đóng vai trò quan trọng trong rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh.
Thông qua các cuộc tiếp xúc, họp phụ huynh tôi luôn định hướng cho phụ huynh
cách tạo môi trường giao tiếp gia đình, thường xuyên hỏi han trao đổi, hỏi các

em về trường lớp, bạn bè để các em được nói ra suy nghĩ, cảm nhận của bản
thân. Gia đình tạo cho các em nhiều mơi trường giao tiếp khác nhau như cho các
em đi du lịch, trải nghiệm, khám phá ….Những người thân trong gia đình chính
là các tấm gương cho các em noi theo.
4. Hiệu quả của giải pháp nâng cao kĩ năng nói cho học sinh lớp 2
Sau một thời gian mạnh dạn áp dụng các biện pháp nêu trên và qua thực tế
giảng dạy cho thấy kĩ năng sống đặc biệt là kĩ năng nói của các em học sinh
chuyển biến rõ rệt. Đa số học sinh trong lớp đã biết giao tiếp với mọi người
xung quanh rất tốt như: các em nhận thức được cần phải lễ phép với người trên,
phải xưng hô đúng cách, phải biết nói lời cảm ơn hay xin lỗi đúng chỗ đúng nơi,
đúng lúc. Khi giao tiếp với thầy cô trong trường theo đúng nghi thức, hầu hết
học sinh đều biết sử dụng lời nói biểu cảm để bày tỏ sự lễ phép của mình.
Trong tất cả các giờ học trên lớp, học sinh đã biết cách trả lời câu hỏi một
cách rõ ràng, trả lời đủ ý và thành câu… Việc giao tiếp với bạn bè trong lớp cởi
mở, tự tin hơn rất nhiều.
Các giờ học diễn ra sôi nổi, nhẹ nhàng thu hút được sự chú ý của học sinh
đến tận cuối giờ học.
13


Giáo viên khơng phải gị bó học sinh tiếp thu kiến thức mà học sinh chủ
động, hào hứng lĩnh hội.
Cuối năm học tôi tiến hành tổng hợp thống kê các kĩ năng nói của học sinh
lớp 2C đạt được như sau:
- 26/28 em = 92.8% học sinh mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp
-26/28 em = 92.8% học sinh biết chào hỏi, nêu yêu cầu đề nghị. Biết nói lời
cảm ơn, xin lỗi….
- 28/28 em = 100% học sinh biết nói thành câu trong các tình huống giao
tiếp
Qua bảng kết quả trên cho thấy việc thực hiện kĩ năng nói ở cuối năm học

so với đầu năm kết quả rất tốt. Sau khi được rèn luyện, kỹ năng nói của các em
được nâng cao, dẫn tới chất lượng giáo dục môn tiếng việt đạt hiệu quả cao. Cụ
thể
Sau khi được rèn luyện kỹ năng nói của các em được nâng cao, dẫn tới
chất lượng giáo dục đạt hiệu quả cao. Các em tự tin hơn trong học tập, mạnh dạn
hơn trong giao tiếp. Cụ thể cuộc thi sưu tầm tranh về Bác cấp trường lớp có học
sinh đạt giải nhất. Thi an tồn giao thơng cấp trường 2 em đạt giải, 1 giải nhất, 1
giải nhì. Phần thi văn nghệ và thuyết trình về hoa lớp đạt giải nhất.Thi rung
chng vàng các kì dành cho học sinh các khối lớp, một em đạt quán quân. Thi
kể chuyên về Bác ở lớp có 4 em đạt giải. Đặc biệt vừa qua phần thi thuyết trình
ý tưởng về trưng bày sách trong ngày hội sách khối 2 đạt giải nhất với phần
thuyết trình đầy thuyết phục của các em.
Nhìn chung các em biết nói lời xin lỗi khi làm việc gì sai. Biết nói lời yêu
cầu đề nghị rõ ràng chào hỏi hoặc chào hỏi một cách tự chủ, tự tin, ngôn ngữ rõ
ràng mạch lạc. Nói câu có đầy đủ chủ ngữ họăc vị ngữ. Biết nói lời cảm ơn,
mạch lạc diễn đạt đúng nội dung cần đề nghị. Biết từ chối đề nghị của người
khác khi thấy không hợp lý. Kỹ năng nói của các em có sự chuyển biến rõ rệt.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Qua áp dụng giải pháp rèn kĩ năng nói cho học sinh tơi thấy học sinh được
tham gia rèn luyện nói trong tất cả các hoạt động học, đặc biệt trong các tiết tập
làm văn với số lượng lớn. Các em đã mạnh dạn tự tin khi giao tiếp và tích lũy
được một vốn từ phong phú, đa dạng. Biết sử dụng các từ ngữ phù hợp để hoàn
chỉnh các câu văn, đoạn văn. Các em chủ động lĩnh hội kiến thức, hào hứng
tham gia học tập và u thích mơn Tiếng Việt, mạnh dạn tự tin hơn khi giao tiếp.
Kỹ năng nói của học sinh phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như vốn sống,
vốn từ ngữ, khả năng giáo dục trong và ngồi nhà trường mang lại. Chính vì vậy
người giáo viên phải hơn ai hết rèn luyện kĩ năng nói một cách thường xuyên
liên tục, mọi lúc, mọi nơi thông qua dạy học các môn học và hoạt động ngồi
giờ lên lớp. Tăng cường đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, phát

huy tính tích cực chủ động của học sinh.
Giáo viên cần chuẩn mực hơn về lời ăn tiếng nói, cử chỉ điệu bộ, tác
phong bởi hình ảnh, lời nói của cơ ảnh hưởng lớn đến học sinh.Chính vì thế giáo
viên cần là tấm gương sáng cho học sinh noi theo.
14


Giáo viên cần hiểu tâm lí, hồn cảnh gia đình học sinh để gần gũi hơn với
các em. Qua đó hiểu được tâm tư, tình cảm của học sinh, giúp các em mạnh
dạn bày tỏ những điều các em muốn nói với thầy cơ.Tạo sự mạnh dạn, tự tin
trong giao tiếp để các em hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập. Rèn luyện kĩ năng
nói là trang bị cho các em vốn kiến thức, kĩ năng, giao tiếp để bước vào đời tự
tin hơn.
2. Kiến nghị:
- Ban Giám hiệu nhà trường nên quán triệt đến tất cả các giáo viên về tầm
quan trọng của việc rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh lớp 2
- Nhà trường cùng với Liên Đội tổ chức nhiều hơn nữa các hoạt động
ngoài giờ lên lớp như: Rung chng vàng, Tìm hiểu kiến thức , thắp sáng ước
mơ, thi kể chuyện chuyên đề, tham quan,...Để học sinh được tham gia thể hiện
mình trước đám đơng để các em có cơ hội vận dụng kiến thức đã học trong bài
tập làm văn vào thực tế các hoạt động của nhà trường.
- Tổ chức nhiều hơn nữa các chuyên đề về phương pháp dạy học phân
môn tập làm văn tạo nguồn tài liệu để giáo viên được học tập, nghiên cứu, áp
dụng
Do điều kiện thời gian hạn hep, nên tôi chỉ mới thực hiện nghiên cứu áp
dụng ở phạm vi hẹp là lớp 2C lớp tôi trực tiếp giảng dạy và chủ nhiệm. Dù đã
rất cố gắng thực hiện tốt ý tưởng của mình nhưng do thời gian, trình độ bản thân
cịn hạn chế nên chắc chắn khơng thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến, động viên khích lệ của cấp quản lý, các
đồng nghiệp để tơi hồn thiện hơn kinh nghiệm này góp phần năng cao chất

lượng giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
XÁC NHẬN
Thạch Thành, ngày 12 tháng 4 năm 2021
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Tôi xin cam đoan đây là SKKN của bản
thân, không sao chép nội dung của người
khác.
Người viết

Lê Thị Hạnh

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]- Trích trong “Tâm lý học đại cương” của Trần Thị Minh Đức (chủ biên)

16


DANH MỤC
ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐƯỢC HỘI ĐỒNG CẤP PHỊNG
GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT, TỈNH THANH HỐ CƠNG NHẬN
NĂM HỌC

2014-2015

2017-2018


2019 - 2020
2020-2021

TÊN ĐỀ TÀI SKKN

XẾP
LOẠI

Một số biện pháp nhằm nâng cao chất
lượng dạy học phân mơn Chính tả lớp 4 ở
trường Tiểu học Thành An”.

A

“Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2
học tốt các yếu tố hình học.”

B

“ Một số giải pháp nâng cao kỹ năng nói
cho học sinh lớp 4A- Trường Tiểu học
Thành An”

B

“ Một số giải pháp rèn kỹ năng nói cho
học sinh lớp 2- Trường Tiểu học thị trấn
Kim Tân”

A


CẤP
CƠNG
NHẬN

Hội đồng
khoa học
Phịng
GD&ĐT
Hội đồng
khoa học
Phịng
GD&ĐT
Hội đồng
khoa học
Phòng
GD&ĐT
Hội đồng
khoa học
Phòng
GD&ĐT

17



×