Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Một số biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 2 thôngqua các môn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 30 trang )

MỤC LỤC
I.

PHẦN MỞ ĐẦU…………………………………………………… . 2
1. Lí do chọn đề tài………………………………………………. 2
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài………………………………… 2
3. Đối tượng nghiên cứu…………………………………………. 3
4. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu………………………………… 3
5. Phương pháp nghiên cứu………………………………………3

II.

PHẦN NỘI DUNG…………………………………………………..3
1. Cơ sở lí luận……………………………………………………3
2. Thực trạng……………………………………………………...4
2.1.

Thuận lợi, khó khăn……………………………………...6

2.2.

Thành công, hạn chế……………………………………. 7

2.3.

Mặt mạnh, mặt yếu………………………………………8

2.4.

Các nguyên nhân các yếu tố tác động………………….. .8


2.5.

Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đặt
ra…………………………………………………….........9

3. Giải pháp, biện pháp…………………………………………….11
3.1.

Mục tiêu của giải pháp, biện pháp………………………..11

3.2.

Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp….. 12

3.3.

Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp…………………22

3.4.

Mối quan hệ để thực hiện giải pháp, biện pháp……….. …22

3.5.

Kết quả khảo nghiệm giá trị khoa học của vấn đề nghiên
cứu……………………………………………………….. 23

4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm – Giá trị khoa học của vấn đề
nghiên cứu…………………………………………………… ….23
III.


PHẦN KẾT LUẬN………………………………………………....
…..25

1


I.

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Học sinh tiểu học là lứa tuổi đang hình thành giá trị nhân cách, giàu mơ
ước, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá song còn thiếu hiểu biết sâu sắc về
xã hội , còn thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích động ....Đặc biệt là trong
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và cơ chế thị trường hiện nay, thế hệ trẻ
thường xuyên chịu đan xen giữa những yếu tố tích cực và tiêu cực : một là các
em được sự quan tâm chăm sóc quá sức chu đáo của phụ huynh vì sống trong
gia đình ít con, hoàn cảnh kinh tế ổn định; hai là những em sống trong gia đình
với nhiều lo toan cho cuộc mưu sinh, phụ huynh bỏ mặc con cái. Môi trường
hoàn cảnh khác nhau ấy lại thường cùng mang đến cho các em một thiếu sót lớn
trong từng bước trưởng thành, đó là kĩ năng sống. Vì vậy, việc rèn kĩ năng sống
cho học sinh (thế hệ trẻ) là rất cấn thiết, giúp các em rèn luyện hành vi có trách
nhiệm với bản thân, gia đình ,cộng đồng và Tổ quốc ; giúp các em có khả năng
ứng phó trước các tình huống của cuộc sống, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với
gia đình ,bạn bè và mọi người, sống tích cực, chủ động, an toàn, hài hòa và lành
mạnh . Với những lí do đó mà tôi quyết định chọn đề tài “Một số biện pháp rèn
kĩ năng sống (KNS) cho học sinh lớp 2 thôngqua các môn học” để nghiên cứu
và trải nghiệm xin được chia sẻ.
2.


Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài

* Mục tiêu
Nghiên cứu nội dung chương trình, mục tiêu các môn học của lớp 2, mối
quan hệ giữa các nội dung kiến thức các hiện tượng, sự vật với cuộc sống xung
quanh hàng ngày.
Nghiên cứu phương pháp dạy học tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh qua các hoạt động học tập. Từ đó tìm ra phương pháp dạy học để giúp học
sinh kết hợp kiến thức đã học vận dụng vào các hoạt động thực tế.
Nghiên cứu một số biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh thông qua các
môn học.
2


Khảo nghiệm, kiểm định trao đổi để hoàn thiện, áp dụng hiệu quả vào giảng
dạy và để nhân rộng.
Đề ra được nhưng biện pháp cụ thể và hiệu quả để vận dụng vào thục tế.
* Nhiệm vụ
Tìm hiểu những cơ cở lí luận, cơ sở thực tiễn, những thận lợi và khó khăn
của việc rèn kĩ năng sống cho học sinh.
Tìm hiểu thực trạng và nguyên nhân dẫn đến học sinh thiếu kĩ năng sống.
Đưa ra một số biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh thông qua các
môn học.
Rút ra kết luận và bài học kinh nghiệm sau khi áp dụng đề tài.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Học sinh và giáo viên chủ nhiệm khối lớp 2 Trường tiểu học Lê Hồng
Phong.
- Một số biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 2 thông qua các môn
học để giáo dục học sinh có những thái độ, phẩm chất, kỹ năng sống phù hợp.

4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Kỹ năng sống lớp 2 ở trường tiểu học Lê Hồng Phong, huyện Krông Ana.
Từ đầu năm học 2014 – 2015 đến hết học kỳ 1 năm 2016
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí luận
- Phương pháp khảo sát thực tế
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp phân tích và tổng hợp kinh nghiệm giáo dục
II.PHẦN NỘI DUNG
Cơ sở lí luận
* Kĩ năng sống là những kĩ năng tâm lý – xã hội cơ bản giúp cho cá nhân
tồn tại và thích ứng trong cuộc sống, giúp cho cá nhân vững vàng trước cuộc
sống có nhiều thách thức nhưng cũng nhiều cơ hội trong thực tại… Kĩ năng
sống đơn giản là tất cả điều cần thiết mà chúng ta phải biết để có được khả năng
thích ứng với những thay đổi diễn ra hằng ngày trong cuộc sống.
3


Nghiên cứu gần đây về sự phát triển của não trẻ cho thấy rằng khả năng
giao tiếp với mọi người, khả năng biết tự kiểm soát, thể hiện các cảm giác của
mình, biết cách ứng xử phù hợp với các yêu cầu, biết giải quyết các vấn đề cơ
bản một cách tự lập có những ảnh hưởng rất quan trọng đối với kết quả học tập
của trẻ tại trường.
* Vì sao phải rèn luyện KNS cho học sinh?
Giáo dục KNS là giáo dục cách sống tích cực trong xã hội hiện đại, xây
dựng những hành vi lành mạnh và thay đổi những hành vi, thói quen tiêu cực
trên cơ sở giúp HS có thái độ, kiến thức, kĩ năng, giá trị cá nhân thích hợp với
thực tế xã hội. Mục tiêu cơ bản của giáo dục KNS là làm thay đổi hành vi của
HS, chuyển từ thói quen thụ động, có thể gây rủi ro, dẫn đến hậu quả tiêu cực
thành những hành vi mang tính xây dựng tích cực và có hiệu quả để nâng cao

chất lượng cuộc sống cá nhân, rèn luyện kĩ năng ứng xử thân thiện trong mọi
tình huống; có thói quen và kĩ năng làm việc theo nhóm, kĩ năng hoạt động xã
hội; Giáo dục cho học sinh thói quen rèn luyện sức khoẻ, ý thức bảo vệ bản thân,
phòng ngừa tai nạn giao thông, đuối nước và các tệ nạn xã hội.
Đối với học sinh tiểu học việc hình thành các kĩ năng cơ bản trong học tập
và sinh hoạt là vô cùng quan trọng, ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát
triển nhân cách sau này.
1.

Thực trạng
Những năm gần đây, nhiều trẻ em rất thiếu kĩ năng làm việc nhà, kĩ năng

tự phục vụ, kĩ năng giao tiếp với ông bà, cha mẹ. Nhiều em không tự dọn dẹp
phòng ở của chính mình, không giúp đỡ bố mẹ bất kì việc gì ngoài việc học. Phụ
huynh vì bận nhiều công việc nên ít quan tâm giúp đỡ con em trong các hoạt động
cần thiết, làm cho các em rất rụt rè thiếu tự tin khi giao tiếp họăc tham gia các
hoạt động bởi các em bị cuốn hút theo các trò chơi điện tử và hệ thống ảo trên hệ
thống Internet. Đây là những trò chơi làm cho các em xa lánh với môi trường
sống thực tế và thiếu sự tương tác giữa con người với con người, kĩ năng xã hội
của học sinh ngày càng kém. Điều này dẫn đến tình trạng học sinh trở nên ích kỉ,
4


không quan tâm đến cộng đồng. Câu hỏi mà chúng ta thường đặt ra cho học sinh
tiểu học là ngoài những kiến thức cơ bản , học sinh cần học điều gì để giúp các
em hội nhập với xã hội, trở thành công dân có ích cho cộng đồng. Vì thế đây cũng
là nỗi lo lắng, đặt ra cho giáo viên đứng lớp những suy nghĩ, trăn trở.
Mặc dù ở một số môn học, các hoạt động ngoại khóa, giáo dục kĩ năng sống đã
được đề cập đến. Tuy nhiên, do nội dung, phương pháp, cách thức truyền tải chưa
phù hợp với tâm sinh lí của đối tượng nên hiệu quả lồng ghép còn chưa cao.

Qua thực tế giảng dạy ở lớp 2, trường tiểu học Lê Hồng Phong, bản thân
thấy kĩ năng sống của học sinh chưa cao. Chỉ một số học sinh có hành vi, thói
quen, kĩ năng tốt. Còn phần lớn các em có nhận xét, đánh giá về sự việc nhưng
chưa có thái độ và cách ứng xử, cách xưng hô chuẩn mực. Học sinh thể hiện kĩ
năng còn đại khái, chưa mạnh dạn thể hiện kĩ năng của bản thân. Các em còn
ngại nói, ngại viết, khả năng tự học, tự tìm tòi còn hạn chế.
Qua tiến hành khảo sát ( lần 1) ở lớp 2A đầu năm học với chủ đề “ Kĩ
năng của em”; kết quả như sau:
Môn Tự nhiên & Xã hội
Thực hành thảo luận nhóm
TSHS

30

Biết lắng nghe, hợp tác

Chưa biết lắng nghe, hay tách ra khỏi
nhóm

SL

TL%

SL

TL%

13

14.4


17

56.6

* Kết hợp TPTĐ đánh giá ứng xử với bạn khi chơi các trò chơi dân gian
Ứng xử tình huống trong chơi trò chơi tập thể
TSHS

17

Biết cách ứng xử hài hoà khá

Hay cãi nhau, xô đẩy bạn khi chơi

phù hợp
SL

TL%

SL

TL %

11

37.7

19


63.3

Kết quả trên cho thấy, số học sinh có kĩ năng tốt còn ít và số học sinh có
5


kĩ năng chưa tốt còn nhiều. Chính vì vậy mà việc rèn kĩ năng sống cho học sinh
là vấn đề cần quan tâm. Muốn làm tốt công tác này chúng ta cần phải làm gì?
Nhất là những người làm công tác giáo dục vì nhà trường là nơi tốt nhất để hình
thành nhân cách cho học sinh. Đây cũng chính là câu hỏi mà bản thân cần phải
tìm tòi nghiên cứu. Từ những thực trạng trên thôi thúc bản thân tìm ra nguyên
nhân dẫn đến tình trạng “ Học sinh có kĩ năng sống chưa tốt ” là do đâu? để từ
đó tìm ra biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh đạt hiệu quả.
Trong quá trình rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 2 bản thân đã gặp
những thuận lợi và khó khăn sau:
2.1.

Thuận lợi - Khó khăn

* Thuận lợi
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phát động phong trào “ Xây dựng trường học
thân thiện - học sinh tích cực ” Phòng Giáo dục và Đào tạo cũng đã có kế hoạch
từng năm học với những biện pháp cụ thể để rèn kĩ năng sống cho học sinh, đây
chính là những định hướng giúp giáo viên thực hiện như: Rèn luyện kĩ năng ứng
xử hợp lý với các tình huống trong cuộc sống, thói quen và kĩ năng làm việc,
sinh hoạt theo nhóm; rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe, kĩ năng
phòng, chống tai nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác; rèn
luyện kĩ năng ứng xử văn hóa, chung sống hòa bình, phòng ngừa bạo lực và các
tệ nạn xã hội.
Trường học nơi bản thân công tác là ngôi trường đã đạt chuẩn quốc gia

giai đoạn 1 nên thuận lợi trong việc thực hiện nội dung xây dựng môi trường
giáo dục sạch đẹp, an toàn cho trẻ.
Bên cạnh đó, bản thân nhận được một tập thể học sinh khá ngoan và biết
vâng lời, các em gần gũi với cô giáo. Ngoài ra Ban lãnh đạo nhà trường luôn
theo sát, quan tâm, hỗ trợ cho giáo viên trong công tác giảng dạy cũng như giáo
dục. Chính vì thế bản luôn cố gắng làm sao rèn cho các em kĩ năng sống, giúp
các em có một niềm tin, phát triển một cách toàn diện để trở thành con người
năng động, sáng tạo phù hợp với một xã hội hiện đại đang phát triển.
6


Trường thực hiện dự án VNEN nên HS được học kiến thức cùng gia đình
thông qua hoạt động ứng dụng với thực tế cuộc sống.
* Khó khăn
* Đối với giáo viên
Một số giáo viên chỉ tập trung dạy kiến thức còn việc rèn kỹ năng sống
chưa được chú trọng dẫn đến một vài em còn thiếu hụt những hiểu biết về môi
trường xung quanh, ứng xử cần thiết trong cuộc sống.
Mặc dù bản thân có kinh nghiệm nhưng việc đổi mới phương pháp giảng
dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động, sáng tạo và ý thức
vươn lên, rèn luyện khả năng tự học của học sinh còn hạn chế.
Với thời lượng hạn hẹp lồng ghép GDKNS trong các môn học chưa được
trang bị đầy đủ các KNS.
* Về phía phụ huynh
Một số gia đình có hoàn cảnh khó khăn nên cha mẹ ít quan tâmđến con cái.
Các em lớp 2 vừa ở lớp 1 lên do nên tư duy phất triển còn chậm, kĩ năng
diễn đạt còn lúng túng, nhút nhát. Nhất là một số em kỹ năng đọc, viết chưa tốt
nên ngại giao tiếp.
Cha mẹ các em chỉ quan tâm về điểm số hoặc lời nhận xét của cô, nhưng
không bao giờ hỏi xem hôm nay ở lớp con đã làm được việc gì?...

2.2. Thành công – Hạn chế
* Thành công
Sau những giờ học, giờ sinh hoạt tập thể,tôi nhận thấy các em có tiến bộ
hơn rõ rệt. Các kĩ năng sống cần thiết được hình thành: Cơ bản các em rất
ngoan, luôn tự hoàn thành các nhiệm vụ học tập trên lớp mà các nhóm trưởng
giao, hoàn thành bài vở ở nhà, nề nếp tốt, lao động vệ sinh trường lớp sạch sẽ,
chấp hành tốt mọi nội quy của trường của lớp đề ra, không còn đối tượng học
sinh cá biệt. Các em nhiệt tình giúp nhau trong học tập để cùng tiến bộ, chia sẻ
và hợp tác trong mọi công việc chung của lớp một cách tự giác.
Luôn tận tâm với lớp nên bản thân tôi nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình
giúp đỡ của Ban Giám hiệu nhà trường, ban đại diện cha mẹ học sinh, các phong
7


trào ngày càng có hiệu quả hơn.
* Hạn chế
Hạn chế biểu hiện rõ nhất là: Các em thường rụt rè, nhút nhát trước lớp.
Khi phát biểu xây dựng bài còn không dám giơ tay, nói còn nhỏ với tinh thần
trách nhiệm chưa cao.
Một số tiết dạy phần rèn luyện kĩ năng sống còn ít. Cộng đồng khi được
mời cùng tham gia chia sẻ học tập còn e ngại...
Thời gian đầu các nhóm trưởng chưa biết cách điều khiển nên chưa phát
huy hết năng lực sáng tạo và tính tích cực của các bạn.
Mặt mạnh - Mặt yếu
* Mặt mạnh
Bản thân được tham gia tập huấn và thực hành trải nghiệm lớp giáo dục
Kĩ năng sống của Sở GD&ĐT tổ chức tại Ko Tam, thành phố Ban Mê Thuột đã
cung cấp cho giáo viên chủ nhiệm kĩ năng cần thiết về phương pháp tổ chức các
hoạt động giáo dục kĩ năng sống dưới sân cờ. Giáo viên chủ nhiệm có thể dựa
vào những tài liệu này để xây dựng nội dung riêng phù hợp với tình hình thực tế

lớp mình.
Bản thân tôi trực tiếp học hỏi, tìm tòi, nghiên cứu, hoc trực tuyến về công
tác chủ nhiệm lớp, các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp nhằm rèn kĩ năng
sống cho học sinh theo mô hình trường học mới tại đơn vị mình.
Nhà trường đã tổ chức chuyên đề về sinh hoạt tập thể, thường xuyên có sự
trao đổi của trường, cấp cụm để chia sẻ những khó khăn, thu thập thêm kinh
nghiệm, những ý kiến sáng tạo, các biện pháp đã tổ chức mang lại hiệu quả.
* Mặt yếu
Trong những năm qua, mặc dầu việc rèn kĩ năng sống đã được thực thi
một cách ổn định ở các trường Tiểu học. Tuy nhiên vẫn chưa được chú trọng
mấy, tài liệu hay giáo án mẫu để vận dụng vì vậy nội dung còn cứng nhắc, khô
khan về hình thức làm cho học sinh cảm thấy nhàm chán. Bản thân tôi phải vừa
học, vừa mày mò để đúc rút kinh nghiệm nên hiệu quả công việc đôi khi còn
chưa cao.
8


Học sinh một số em lúc đầu chưa tự giác và nhiệt tình hưởng ứng. Còn
tình trạng làm việc riêng, nói chuyện gây ồn ào.
Một vài phụ huynh khi được mời tham gia tiết sinh hoạt tập thể có cộng
đồng tham dự thì còn e ngại và từ chối.
2.3.

Các nguyên nhân, các yếu tác động

Hiện tượng trẻ em lúng túng khi phải xử lí những tình huống của cuộc
sống thực tế, thiếu tự tin trong giao tiếp, thiếu bản lĩnh vượt qua khó khăn, thiếu
sáng kiến và dễ nản chí ngày càng nhiều. Nguyên nhân do đâu? Phải khẳng định
rằng, trước hết do giáo dục. Nhiều vấn đề của xã hội hiện đại tác động đến trẻ
chưa được cập nhật, bổ sung vào chương trình giáo dục nhà trường. Việc định

hướng sai các giá trị là nguyên nhân gây ra những hiện tượng đáng tiếc trong
ứng xử của trẻ. Phương pháp giáo dục nhồi nhét, lí thuyết suông, không tạo
được cho trẻ khả năng tư duy, óc phân tích, suy xét, phán đoán, không tạo cơ hội
cho trẻ trải nghiệm những vấn đề thực tế trong cuộc sống hiện đại…Qua nhiều
năm thực tế giảng dạy ở trường, bản thân nhận thấy kĩ năng sống học sinh chưa
tốt là do những nguyên nhân sau:
- Giáo viên và người lớn chưa thật gần gũi, thân thiện với học sinh.
- Việc rèn kĩ năng sống qua việc tích hợp vào các môn học còn hạn chế.
- Rèn kĩ năng sống qua các tiết sinh hoạt lớp, hoạt động giáo dục, vui
chơi còn chưa sâu sát.
- Giáo viên khuyến khích động viên khen thưởng học sinh còn ít.
- Công tác tuyên truyền các bậc cha mẹ thực hiện dạy các em các kĩ năng
sống cơ bản chưa nhiều.
- Chính việc thiếu hụt nghiêm trọng các kĩ năng sống do sự hạn chế của
giáo dục gia đình và nhà trường, sự phức tạp của xã hội hiện đại là nguyên nhân
trực tiếp khiến học sinh gặp khó khăn trong xử lí với tình huống thực tế của
cuộc sống.
2.4.

Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra

Đây là một đề tài đơn giản, dễ áp dụng, mục đích rèn cho học sinh những
9


kĩ năng sống thực chất nhằm phát huy tính tự giác, tính tích cực. Đặc biệt phát
huy được năng lực sở trường của mỗi cá nhân học sinh. Góp phần thúc đẩy
phong trào thi đua “Trường học thân thiện học sinh tích cực” của trường, của
lớp, tạo cho học sinh thói quen sinh hoạt tập thể vui tươi, lành mạnh, thông qua
các môn học giúp tình thầy trò xích lại gần nhau hơn, tạo cho các em sự tự tin,

có cảm giác được chia sẻ và bày tỏ những điều em muốn nói. Đây cũng là đề tài
giúp giáo viên có cơ hội nghiên cứu, tổ chức các hoạt động dạy học phong phú,
đa dạng, hiệu quả hơn, đồng thời giáo dục được ý nghĩa các ngày chủ điểm
trong năm, giúp các em tham gia học tập và sinh hoạt một cách hứng thú, nhiệt
tình, sôi nổi, và chính là món quà tinh thần quý giá có ý nghĩa sâu sắc, lâu dài,
giúp các em phát triển và tiến bộ.
Trong những năm gần đây, toàn ngành đã chú trọng đến công tác đổi mới
nội dung, phương pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục nhưng vẫn chưa đáp
ứng được nhu cầu phát triển mà xã hội đặt ra. Một số giáo viên còn chú trọng
vào việc trang bị kiến thức cho học sinh mà xem nhẹ việc rèn luyện kĩ năng ứng
xử, kĩ năng thực hành cho học sinh. Còn một số quan điểm lệch lạc chỉ nên tập
trung vào việc học các môn học chính thức trong chương trình mà xem nhẹ công
tác giáo dục cho các em ý thức công dân, tinh thần đoàn kết và các kĩ năng sống
thông qua các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Điều này đã dẫn đến tình
trạng nhiều học sinh rụt rè, nhút nhát trước đám đông. Các em không thể trình
bày được những ý kiến của mình trước tập thể. Có em còn không dám đứng
trước lớp để trình bày một bài hát, kể một câu chuyện hoặc trình bày một vấn đề
mà mình quan tâm, nhất là đối với các em là học sinh người dân tộc thiểu số.
Tuy nhiên, không phải các em không biết, không phải các em không muốn, cũng
không phải các em không thích mà nguyên nhân chính là các em chưa được chỉ
dẫn, chưa được trải nghiệm, chưa được rèn luyện,…Vấn đề được đặt ra là: môn
học nào giúp cho các em có được những trải nghiệm đó và ai là người đưa các
em vào các hoạt động đó để các em rèn luyện ?
Thực tế đã cho thấy, nếu học sinh chỉ quan tâm vào việc học tập các môn
chính thức mà không tham gia các hoạt động ngoại khóa, các phong trào văn
10


hóa văn nghệ, thể dục thể thao thì các em sẽ thiếu linh hoạt, thiếu tự tin khi đứng
trước đám đông hoặc đứng trước lớp để trình bày một bài hát hay một vấn đề

nào đó. Và ngược lại nếu được tham gia tốt các phong trào thì các em sẽ xử lí
vấn đề nhanh nhẹn hơn, mạnh dạn hơn, tự tin hơn. Thông qua các hoạt động đó,
tinh thần đoàn kết, ý thức tập thể cũng được hình thành và vun đắp. Như vậy, có
thể khẳng định rằng: môn học giúp cho các em xóa bỏ tính rụt rè, nhút nhát; rèn
luyện tính mạnh dạn, sự tự tin đó chính là môn đạo đức, tự nhiên và hoạt động
giáo dục ngoài giờ lên. Người giáo viên chủ nhiệm chính là người cố vấn giúp
cho các em tham gia vào các hoạt động để rèn luyện các kĩ năng cơ bản, cần
thiết cho mình.
Như vậy, việc rèn kĩ năng sống thông qua các môn học và hoạt động
ngoài giờ lên lớp là một trong những nội dung quan trọng góp phần tích cực vào
việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh. Và cần được tổ chức
một cách thường xuyên, hiệu quả.
Từ cơ sở và thực tiễn trong quá trình nghiên cứu tôi đã tìm ra một số biện
pháp giúp giáo viên rèn kĩ năng sống cho học sinh tiểu học có tính khả thi sau:
3. Giải pháp, biện pháp
3.1.

Mục tiêu của giải pháp, biện pháp

Tất cả vì học sinh thân yêu, vì mục tiêu giáo dục nhằm nâng cao chất
lượng giảng dạy. Hình thành cho học sinh những cơ sở ban đầu cho sự phát triển
đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản
để học sinh tiếp tục học lên những lớp trên. Học sinh tìm được niềm vui ở đó,
tìm được sự tin tưởng, tìm được tình bạn trong sáng, tình thầy trò cảm động. Nơi
các em được ươm mầm, được chăm sóc và yêu thương.
Trong học tập, không phải mọi tri thức, kĩ năng, thái độ đều được hình
thành bằng những hoạt động độc lập cá nhân. Lớp học là môi trường giao tiếp
giữa thầy - trò, giữa trò - trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên
con đường chiếm lĩnh nội dung học tập. Thông qua thảo luận, tranh luận trong
tập thể, ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ, qua đó người

11


học nâng mình lên một trình độ mới. Bài học vận dụng được vốn hiểu biết và
kinh nghiệm sống của người thầy giáo để đào tạo những con người năng động,
sớm thích nghi với đời sống xã hội. Hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ
năng quan sát, mô tả, phân tích, so sánh, đánh giá mối quan hệ giữa các sự kiện
trong xã hội, đồng thời vận dụng các tri thức đã học vào thực tiễn cuộc sống.
Qua đó khơi dậy và bồi dưỡng tình yêu đất nước, hình thành thái độ đúng đắn
đối với bản thân, gia đình, cộng đồng, kích thích tính ham hiểu biết khoa học
của học sinh, lòng tự hào dân tộc,... Phát huy mọi khả năng để xây dựng một
tương lai xứng đáng với lịch sử của dân tộc. Các tiết sinh hoạt tập thể, Hoạt
động ngoại khóa còn với mục đích giúp các em từng bước hoàn thiện nhân cách,
bồi dưỡng năng lực đáp ứng mục tiêu giáo dục Tiểu học toàn diện.
3.2.

Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp

a. Gần gũi và tạo mối thân thiện với học sinh
Đầu tiên, sau khi nhận lớp, để tạo sự gần gũi và gắn kết giữa học sinh và
học sinh; giữa học sinh và giáo viên chủ nhiệm, bản thân sắp xếp nhiều thời gian
cho học sinh được giới thiệu về mình, động viên khuyến khích các em chia sẻ
với nhau về những sở thích, ước mơ tương lai cũng như mong muốn của mình
với các em qua phiếu thăm dò:
Tôi là ai? Tôi muốn gi?
Họ và tên: …………………………………………………………
Học sinh lớp :……………………………………………………..
Trường: ……………………………………………………………
Nam hay nữ: ………………………………………………………
Ngày sinh:…………………………………………………………

Nơi sinh:…………………………………………………………..
Quê quán: …………………………………………………………
Điều tôi thích nhất (sở thích):……………………………………..
Muốn được kết bạn với ( bạn):……………………………
12


Với học sinh lớp 2 các em chỉ biết tên, lớp và sở thích của mình, còn
ngày sinh, nơi sinh, quê quán …thì chắc chắn không thể biết được. Vì vậy tôi tổ
chức cho các em chơi trò chơi “kết bạn”
* Cách chơi: Mỗi em đến góc học tập lấy một phiếu rồi tự điền những
điều nói về mình vào phiếu. Dán phiếu của mình xung quanh lớp để mọi người
có thể đọc được. Sau đó cho các em đọc phiếu của các bạn xem ai có sở thích
giống mình thì đến gặp bạn đó và nói:” Chúng ta cùng kết bạn”.
* Qua hoạt động giúp cho các em hiểu biết thêm về ngày sinh, nơi sinh,
quê quán, … của mình giới thiệu với bạn. Chú trọng rèn luyện cho học sinh các
kĩ năng như:
- Kĩ năng nhận thức về bản thân.
- Kĩ năng giao tiếp hòa nhập cuộc sống.
- Kĩ năng giao tiếp bằng ngôn ngữ.
- Kĩ năng thuyết trình và nói trước bạn, trước tập thể lớp.
* Đây là hoạt động giúp cô trò và các bạn học sinh hiểu nhau, đồng thời
tạo một môi trường học tập thân thiện “Trường học thật sự trở thành ngôi nhà
thứ hai của các em, các thầy cô giáo là những người thân trong gia đình". Đây
cũng chính là một điều kiện rất quan trọng để phát triển khả năng giao tiếp của
học sinh. Bởi học sinh không thể mạnh dạn, tự tin trong một môi trường mà giáo
viên luôn gò bó và áp đặt.
Tuần tiếp theo, bản thân cho học sinh tự do lựa chọn vị trí ngồi của mình
để qua đó phần nào nắm được đặc điểm tính cách của các em: mạnh dạn hay
nhút nhát, thụ động hay tích cực, thích thể hiện hay không thích...Và tiếp tục qua

những tuần học sau, bản thân chú ý quan sát những biểu hiện về thái độ học tập,
những cử chỉ, hành vi tại vị trí ngồi mà các em chọn để bắt đầu có điều chỉnh
phù hợp.
Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có thể thực hiện trong bất cứ lúc
nào, giờ học nào. Để việc rèn luyện diễn ra một cách thường xuyên và đạt hiệu
quả cao tiếp tục qua biện pháp tiếp theo.
b. Rèn kĩ năng sống hiệu quả qua việc tích hợp vào các môn học
13


Để hình thành những kiến thức và giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua
môn Tiếng Việt, người giáo viên cần phải vận dụng nhiều phương pháp dạy phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh như: thực hành giao tiếp, trò
chơi học tập, phương pháp nêu và giải quyết vấn đề, phương pháp tổ chức hoạt
động nhóm, phương pháp hỏi đáp,…Thông qua các hoạt động học tập, được
phát huy trải nghiệm, rèn kĩ năng hợp tác, bày tỏ ý kiến cá nhân, đóng vai,…học
sinh có được cơ hội rèn luyện, thực hành nhiều kĩ năng sống cần thiết.
Ví dụ 1: Kĩ năng tự học, tự rèn luyện của học sinh
Bài 16 C

Thời gian biểu (TV - 1B /trang 96)
Họ và tên: ………………………
Lớp 2A Trường tiểu học Lê Hồng Phong

Thời gian
Sáng
6 giờ - 6 giờ 30
……………………
Trưa
11 giờ 3o – 12 giờ

………………………..
Chiều
………………………
16 giờ 30 – 17 giờ
…………………….
Tối
19 giờ 30 -20 giờ 30
20 giờ 30 – 21 giờ
21 giờ

Công việc
Em ngủ dậy, tập thể dục, vệ sinh cá nhân
……………………………………………….

Em rửa mặt, rửa chân tay.
………………………………………………
……………………………………………..
Em cho gà ăn, quét nhà giúp mẹ

Em học bài.
………………………………………….
………………………………………….

Với dạng bài tập này các em cần tự điền vào phiếu đúng thời gian và
công việc của mình sao cho phù hợp với bản thân. Giáo viên chỉ là người theo
giỏi hỗ trợ. Sau đó các em tự trao đổi và tự đành giá hoàn thành nhiệm vụ.
Hoạt động này giúp các em quản lý thời gian, là khả năng các em biết
tập trung sắp xếp công việc và giải quyết công việc trọng tâm trong một thời
14



gian nhất định. Giờ ăn, giờ học, giờ làm, giờ chơi một cách hợp lí. Kỹ năng này
rất cần thiết cho việc giải quyết vấn đề, lập kế hoạch, đặt mục tiêu và đạt được
mục tiêu đó; đồng thời giúp các em tránh được căng thẳng do áp lực trong việc
học và việc làm.
Quản lý thời gian là một trong những kỹ năng quan trọng làm chủ bản
thân. góp phần rất quan trọng vào sự thành công của cá nhân.
Ngoài ra các em biết quét lớp, nhặt rác , chăm sóc cây xanh, thân thiện
với môi trường. góp phần thực hiện tốt phong trào thi đua “Xây dựng trường
học thân thiện, học sinh tích cực”.

Các em làm việc tích cực, vui vẻ, tự mỗi em nói được tiếng nói, suy nghĩ
15


của mình với bạn bè, với thầy cô một cách tự tin mạnh dạn. Việc rèn luyện các
kĩ năng này đã tạo ra được thói quen tốt cho bản thân mỗi em, các em tham gia
một cách chủ động tích cực vào quá trình học tập, tạo điều kiện cho các em chia
sẻ những kinh nghiệm, ý kiến hay để giải quyết một vấn đề nào đó.
Ngoài ra, bản thân còn chú ý rèn luyện sức khoẻ và ý thức bảo vệ sức khoẻ,
kĩ năng phòng chống tai nạn giao thông và các thương tích khác qua các môn
học: Ai cũng biết rằng sức khỏe là tài sản vô cùng quí báu của mỗi con người.
Học tập tốt, đạo đức tốt là những điều học sinh phải đạt được thì rèn luyện sức
khỏe tốt cho học sinh là điều phải được đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên có được
một sức khỏe tốt và bảo vệ được nó thì thật không dễ. Dù vậy không có nghĩa là
không làm được, nhiều khi sức khỏe của các em phụ thuộc vào những điều rất
giản dị. Đó chính là giáo dục một lối sống khoa học. Bản thân rèn luyện sức
khoẻ cho các em qua các bài học sau:
Ví dụ 3: Kĩ năng tự chăm sóc và bảo vệ bản thân
Môn: Tự nhiên &Xã hội

Bài: "Ăn uống thế nào để cơ thể khỏe mạnh?”
Với bài học này tôi cho học khởi động để làm nóng bầu khí lớp học qua
trò chơi “Mẹ đi chợ”
• Cách chơi: Lớp đứng thành vòng tròn dưới sự điều khiển của quản trò.
• Quản trò hô trước - Cả lớp đáp lại theo các cụm từ sau.
Quản trò hô:

Mẹ đi chợ mua rau

Lớp đáp:

Rau xanh

Quản trò:

Mẹ đi chợ mua cá

Lớp đáp:

Nấu canh chua

Quản trò hô:

Mẹ đi chợ mua cua

Lớp đáp:

Cua kẹp
16



Khi nghe hô cua kẹp nếu bạn nào không nhanh tay thì bị cua kẹp thì bạn
đó phải chịu phạt.


Trò chơi kết thúc:
Quản trò hỏi:
+ Qua trò chơi các bạn thấy trò chơi có bằng một ly sữa chua không?
Lớp trả lời: Có
Quản trò hỏi tiếp: Các bạn cảm giác như thế nào?
Lớp trả lời: Vừa vừa – Kha khá - Vui, khỏe.
Lúc này khí thế lớp học nóng lên và rất hào hứng tôi mới cho lớp thảo luận

nhóm với phiếu học tập theo thực đơn các bữa ăn trong một ngày.

Bữa ăn trong ngày
M : Buổi sáng
Buổi ……………….
Buổi ……………….
Buổi ……………….

Tên các loại thức ăn, mước uống
Mì tôm, trứng ; bánh mì, nước lọc
…………………………………….
…………………………………….
…………………………………….

Ban thư viện phát phiếu cho từng nhóm thảo luận. Các nhóm trưởng điều
khiển nhóm để hoàn thành nhiệm vụ. Sau đó đổi chéo nhau nhận xét kiểm tra
kết quả, nhằm khắc sâu kiến thức về một bữa ăn đầy đủ cần đảm bảo các chất,

nước uống đầy đủ.

17


* Trong hoạt động này tôi tập trung rèn các kĩ năng:
- Kĩ năng vận động và gây hứng thú
- Kĩ năng hợp tác.
- Kĩ năng làm việc nhóm.
Qua đó giúp các em hiểu rằng ăn uống đủ chất và hợp lí giúp cho chúng ta
khoẻ mạnh, biết phòng tránh một số bệnh lây qua đường tiêu hóa, biết những
việc nên làm, có ý thức tự giác làm vệ sinh cá nhân hằng ngày, tự giác thực hiện
nếp sống vệ sinh, khắc phục những hành vi có hại cho sức khoẻ. Biết tham gia
các hoạt động và nghỉ ngơi một cách hợp lí để có sức khoẻ tốt phát triển thể chất
và trí tuệ. Từ đó rèn cho các em KNS tự chăm sóc bản thân.
Ví dụ 4: Chủ đề An toàn giao thông
Bài: Kỹ năng đi bộ và qua đường an toàn
Ở hoạt động này tôi gợi mở bằng một hệ thống câu hỏi:
Em thường đi cùng với ai khi đi trên đường? Khi đi bộ qua đường em phải
đi ở đâu? ; Nếu đường không có vỉa hè thì đi thế nào?; Em có nên chơi đùa trên
đưòng phố không? Có leo trèo qua dải phân cách và chơi gần dải phân cách
không? Vì sao? ; Khi ngồi trên xe máy em phải như thế nào? Em hãy nêu cách
đội mũ bảo hiểm? Nêu sự cần thiết phải đội mũ bảo hiểm?; Các em đã nhìn thấy
tai nạn trên đường chưa? Theo các em vì sao tai nạn xảy ra? ;...
Giáo dục và rèn cho các em các KNS phòng tránh các tai nạn trên đường
như: Không được chạy lao ra đường, không được bám bên ngoài ô tô, không
được thò tay, chân, đầu ra ngoài khi đi trên tàu, xe, ghe, đò,...vv.
Mời các em tham dự các hội thi: An toàn giao thông, thực hành đi xe đạp…

18



Như vậy, các em có thể tự lập và xử lí được những vấn đề đơn giản khi gặp
phải.
Một điều nữa theo bản thân cũng khá quan trọng là kĩ năng ứng xử có văn
hoá cũng là lối sống lành mạnh mà các em cần phải được đào tạo, vì thế bản
thân tiếp tục áp dụng.
c. Rèn kĩ năng sống qua hoạt động ngoại khóa có hiệu quả
Để rèn kĩ năng sống có hiệu quả bản thân còn vận dụng thông qua các hoạt
động ngoài giờ học. Đó là qua các buổi ngoại khóa của trường, lớp.
Ví dụ: Nhân ngày lễ Chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam 20 -11. Đội đã
phát động phong trào thi làm báo tường giữa các chi đội và sao nhi chúc mừng
các thầy cô trong toàn trường. Bản thân đã hướng dẫn các em cùng sưu tầm bài
và viết bài, vẽ và trang trí báo. …các em rất nhiệt tình, đoàn kết và hợp tác với
nhau rất tốt.
* Qua hoạt động này rèn cho các em nhiều kĩ năng như:
Kỹ năng trình bày
Kỹ năng trang trí
Kỹ năng tư duy tích cực và sáng tạo
Kỹ năng giải trí lành mạnh.

19


d.

Các hoạt

động văn hóa, văn nghệ
Như chúng ta đã biét văn hóa văn, văn nghệ là hoạt động có tính truyền

thông mang lại hiệu quả rất cao trong việc chuyền tải các thông điệp giáo dục tới
học sinh, nhằm xây dựng nếp sống văn minh trong nhà trường, tạo cuộc sống
vui tươi, lành mạnh, lôi cuốn học sinh vào các hoạt động thẩm mĩ, hấp dẫn học
mà chơi, chơi mà học. Thông qua các hoạt động văn hóa, văn nghệ đã giáo dục
cho học sinh nếp sống có kỉ luật, trật tự, vệ sinh.....
Trong hoạt động rèn cho các em kĩ năng mạnh dạn, tự tin, kĩ năng diễn
xuất trên sân khấu, kĩ năng diễn đạt cảm xúc, kĩ năng làm chủ cảm xúc.

20


tốt hơn, mạnh dạn hơn trong giao tiếp, tự tin hơn trong cuộc sống.
Ngoài ra tôi còn dùng đèn chiếu phục vụ và giới thiệu cho học sinh về
Biển đảo của quê hương” . Qua các hình ảnh chân thật giáo dục HS lòng yêu
quê hương đất nước và các em biết giữ gìn và bảo vệ vùng biển thiêng liêng của
Tổ Quốc không để kẻ thù xâm phạm.

Biển đảo quê hương Việt Nam
21


Một điều không thể thiếu được để tạo sự hưng phấn, vui vẻ, phấn khởi,
giúp các em có ý thức cao trong việc rèn luyện các kĩ năng bản thân luôn chú ý
đến công tác động viên, khen thưởng học sinh qua biện pháp sau:
e. Động viên - Khen thưởng
Để động viên, khuyến khích học sinh thực hiện tốt việc rèn luyện các kĩ
năng, ngay từ buổi họp phụ huynh đầu năm học, bản thân đưa ra kế hoạch thông
báo cho phụ huynh biết. Trao đổi với Ban chấp hành hội phụ huynh cùng phối
hợp và dành một khoản riêng để khen thưởng kịp thời, động viên các em để tạo
cho các em có một động cơ tốt trong việc duy trì thực hiện. Bản thân theo dõi

hằng ngày, các em có biểu hiện tốt thì ghi vào sổ tay, trong tiết sinh hoạt cuối
tuần cho các em bình chọn những bạn thực hiện tốt sẽ được một lá cờ. Vì vậy,
các em thi đua nhau “ nói lời hay, làm việc tốt” và tuần nào cũng có rất nhiều em
được cờ chiến thắng.
Mỗi học kì, bản thân tổng kết một lần để khen thưởng những em đã đạt
nhiều lá cờ được những phần quà nhỏ ( nhãn tên, truyện cổ tích, bút màu..). Các
em rất vui và hãnh diện khi được nhận những món quà của cô giáo tặng. Vì thế
các em không ngừng thi đua cố gắng thực hiện tốt. Đây là một hình thức động
viên về tinh thần rất có giá trị và hiệu quả. Các em sẽ nhanh nhẹn hơn, có đạo
đức.

3.3.

Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp

- Giáo viên phải là tấm gương sáng cho học sinh noi theo, giáo viên thực
hiện tốt công tác tự học, sáng tạo, yêu nghề…
- Phối hợp với giáo viên dạy các môn hoạt động giáo dục, tổng phụ trách
đội tổ chức các hoạt động học tập,các chủ điểm sinh hoạt để hình thành kiến
thức đã học thành KNS cho HS thực hiện.
- Tranh thủ sự hỗ trợ của ban giám hiệu nhà trường, cha mẹ học sinh của
lớp.
22


3.4.

Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp

Việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh có thành công hay không, phụ

thuộc rất lớn vào tư cách, đạo đức và năng lực của thầy giáo, cô giáo. Muốn giáo
dục kỹ năng sống cho học sinh tốt, trước hết, mỗi thầy giáo, cô giáo phải giáo
dục cho học sinh bằng sự nêu gương. Thầy giáo, cô giáo phải gương mẫu trong
ứng xử, trong giáo dục nhân cách.
Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính độc lập, sáng tạo
của học sinh gắn với thực tiễn, có tài liệu bổ trợ phong phú, sử dụng thiết bị dạy
học và ứng dụng trong dạy học, luôn tạo cho các em tính chủ động, tích cực,
hứng thú trong học tập; phát huy tính sáng tạo, tạo được bầu không khí cởi mở
thân thiện của lớp của trường. Trong giờ học, giáo viên cần tạo cơ hội cho các
em được nói, được trình bày trước nhóm bạn, trước tập thể, nhất là các em còn
hay rụt rè, khả năng giao tiếp kém qua đó góp phần tích lũy kỹ năng sống cho
các em.
Giáo viên chủ nhiệm: Quan tâm gần gũi đối với các em học sinh là người
cha, người mẹ thứ hai của các em để hiểu được tâm tư nguyện vọng của các em,
phối hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, làm cho họ nhận thức được tầm quan
trọng và cùng với nhà trường giáo dục và rèn luyện cho con em về kỹ năng
sống.
Như vậy kĩ năng sống được giáo dục ở nhà và ở trường thông qua các
môn học chính khóa và ngoại khóa. Giáo dục kĩ năng sống cần bắt đầu từ nhỏ,
từ từng hành vi cá nhân đơn giản nhất, theo đó hình thành tính cách và nhân
cách cho học sinh tiểu học.
Chính nhờ việc chú trọng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh của nhà
trường đã tạo tinh thần đoàn kết, gắn bó, quan tâm giúp đỡ lẫn nhau trong học
tập, học sinh nỗ lực tiếp thu bài giảng và tìm tòi những kiến thức liên quan đến
bài học để liên hệ áp dụng vào thực tiễn, qua đó phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của học sinh. Các em cảm thấy rất vui và biết thêm nhiều kiến
thức. Nhờ đó các em biết tự chăm sóc bản thân như là tự sắp xếp góc học tập
23



thật ngăn nắp, tự giặt quần áo cho mình, vệ sinh cá nhân và môi trường sống....
Ngoài ra, em còn giúp bố mẹ nhiều việc nhà. Đây được xem là bước tiến
quan trọng trong việc đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục xem học sinh là
trung tâm, góp phần tạo điều kiện cho việc hoàn thiện nhân cách học sinh ngay
từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
3.5.

Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu

Sau một thời gian áp dụng đề tài, tôi đã thu được những kết quả như sau:
Học sinh phấn khởi và hứng thú học tập. Các em luôn có ý thức tự quản và hoàn
thành tốt các nhiệm vụ của mình. Chất lượng học tập của lớp được nâng lên,
hiện tượng học sinh lười học, ý lại không còn nữa. Các em chấp hành và tham
gia tất cả các phong trào thi đua của lớp, của trường nhiệt tình có hiệu quả, phát
huy được tinh thần đoàn kết, chia sẻ và giúp đỡ lẫn nhau. Những kĩ năng sống
cần thiết của các em được phát triển rõ rệt: kĩ năng hợp tác, kĩ năng lắng nghe,
kĩ năng tự học tự rèn, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng tổ chức và điều khiển các hoạt
động tập thể, kĩ năng đánh giá và tự đành giá,… Có được kết quả trên là nhờ sự
nỗ lực từ nhiều phía tuy nhiên không thể không nhắc đến sự phối hợp và ủng hộ
của phụ huynh HS.
* Tóm lại
Như vậy bằng nhiều hình thức khác nhau, bản thân luôn cố gắng rèn cho
học sinh những kĩ năng cơ bản có hiệu quả, thể hiện rõ nét ở sự tiến bộ của học
sinh trong nhận thức, trong cư xử, đối xử tốt với bạn bè, người lớn và linh hoạt
xử lí trong mọi trường hợp.

24


* Kết quả thu được qua khảo nghiệm – Giá trị khoa học

* Kết quả
Khảo sát lần 2 ở lớp 2A ( cuối học kì 1) với chủ đề “ Kĩ năng của em” kết
quả cụ thể như sau:
Môn Tự nhiên & Xã hội
Thực hành thảo luận nhóm
TSHS

30

Biết lắng nghe, hợp tác

Chưa biết lắng nghe, hay tách ra khỏi
nhóm

SL

TL%

SL

TL%

24

80

06

20


* Kết hợp TPTĐ đánh giá ứng xử với bạn khi chơi các trò chơi dân gian
Ứng xử tình huống trong chơi trò chơi tập thể
TSHS

30

Biết cách ứng xử hài hoà khá

Hay cãi nhau, xô đẩy bạn khi chơi

phù hợp
SL

TL%

SL

TL %

26

86.6

04

13.4

Qua việc thực hiện các biện pháp trên, đến giữa học kì II, bản thân nhận
thấy các em có tiến bộ rõ rệt. Đa số các em đều có ý thức tốt trong việc rèn
luyện các kĩ năng, được thể hiện rõ qua: Việc sinh hoạt hằng ngày trên lớp,

trong nhiều nghi thức lời nói, các em biết vận dụng những lời nói thân thiện vào
thực tế, những lời chào, cảm ơn hay xin lỗi, những yêu cầu, đề nghị lịch sự,... đã
trở thành thói quen được các em vận dụng hằng ngày. Các em rất hăng hái phát
biểu trong tiết học và luôn được nhận cờ chiến thắng trong tuần. Phụ huynh học
sinh rất vui mừng phấn khởi với kết quả này của lớp.
Kinh nghiệm trên đã áp dụng rộng rãi ở tất cả các lớp trong khối 2 được
các đồng nghiệp đồng tình ủng hộ. Học sinh trong khối ngoan hơn, tự giác chủ
động, mạnh dạn hơn, đã thể hiện được cách xử lí tình huống phù hợp.

25


×