Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 35 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
cho bạn suy nghĩ gì về đặc điểm của quá trình hình thành, phát triển vùng đất Biên
Hịa – Đồng Nai?
Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai về Gia Định Đồng Nai thì về
Ai li hò lờ ! Ai li hò lờ !
Đường về xứ bạn không xa
Qua vùng Đất Đỏ rồi ra Biên Hồ
Ai li hị lờ ! Ai li hò lớ !
Ai nghe chăng tiếng hò bao la
Những tiếng lòng di cư vẫy vùng theo gió
Ai nghe chăng tiếng người cơng phu
Biết tìm tự do tránh xa ngục tù
………..
Ngày nào cạn nước Đồng Nai
Ngày nào cạn nước ngoài khơi
Non sơng ta xóa mờ
Khơng ai nghe tiếng hị
Thì lời nguyền mới phai...
sống hàng ngày của cư dân Đồng Nai cổ và mối quan hệ đồn kết, giao lưu văn hóa
giữa các dân tộc Hoa, Việt, Khmer, Chăm,…
Địa hình đồng bằng xen đồi núi thấp. Khí hậu nóng ẩm, lượng mưa trung bình năm
Thời gian Sự kiện
Thế kỉ I-nửa đầu TK VI <b>Chịu ảnh hưởng của vương quốc Phù Nam </b>
Đến TK III, Phù Nam bước vào thời kì hưng thịnh, lãnh
thổ mở rộng về phía Đơng, đã kiểm sốt cả vùng đất
phía Nam Trung Bộ (Việt Nam), về phía Tây đến thung
lũng sơng Mê Nam (Thái Lan), về phía Nam đến phần
phía Bắc bán đảo Malaixia, về phía Bắc tới tận Ninh
Thuận, Khánh Hịa ngày nay.
Nửa sau TK VI-TK VIII <b>Chịu ảnh hưởng của Chân Lạp và Thủy Chân Lạp </b>
Ở miền Tây sông Hậu vào khoảng giữa thế kỉ VI, một
tộc người ở Bassac là thuộc quốc của Phù Nam nổi lên
thôn tính vương quốc này và thành lập vương quốc
Chân Lạp, xây dựng kinh đô ở vùng Tonle Sap (Biển
Hồ).
Nửa sau TK VIII-Đầu TK IX <b>Chịu ảnh hưởng của Srivijava của người Java </b>
Khi Phù Nam tan rã là lúc nhiều vương quốc nhỏ ở
Đông Nam Á nổi lên thay thế vai trò đế quốc hàng hải
của vương quốc này, mà nổi bật là vương quốc Srivijaya
Chân Lạp vào vị trí chư hầu của mình, tới đầu thế kỷ 9,
Sailendra suy yếu mới từ bỏ vùng đất Thuỷ Chân Lạp.
Nửa đầu TK IX-Giữa TK IX <b>Chịu ảnh hưởng của Champa </b>
Harivarman I tiến vào cao nguyên Đồng Nai thượng,
đánh bại quân Khmer và kiểm soát một vùng đất rộng
lớn.(803 và 817)
Nửa sau TK IX-Cuối TK IX <b>Chịu ảnh hưởng của Angkor và Champa </b>
Với thời gian, Hoàn Vương Quốc (Champa) lại trở thành
nạn nhân của sự giàu có của mình, các thế lực lân bang
liên tục tràn vào cướp phá. Trong suốt 21 năm, từ 854
đến 875, quân của đế quốc Angkor đã nhiều lần tiến
đánh Hoàn Vương Quốc, chiếm nhiều vùng đất rộng lớn
dọc tả ngạn sông Đồng Nai, đôi khi còn băng cao
nguyên Langbian đột nhập vào lãnh thổ Panduranga
cướp phá. Vikrantavarman III mất năm 854 (được thờ
dưới pháp danh Vikrantasvara), không người kế tự, nội
Cuối TK IX và đầu TK X <b>Vùng đất Đồng Nai bị kiểm soát lỏng lẻo, trở về </b>
<b>với sự hoang hóa ban đầu mà chủ nhân của nó là </b>
<b>những người dân tộc thiểu số như: Stieng, Choro,</b>
<b>…</b>
Theo sách Biên Hòa Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển thì “Từ đầu công
nguyên, trên vùng đất Đồng Nai hẳn có nhiều bộ tộc cư trú, sinh sống. khi Phù Nam
lập quốc, quản lí từ đèo Cả trở vào Nam Bộ, nhưng thực tế vùng đất này được quản
lí rất lỏng lẻo. Hơn nữa, các bộ tộc mang tính tự trị cao, vốn thích tự do làm chủ núi
rừng, nên khi có “thể chế quản lí”, đạo Ấn Độ du nhập, một số bộ tộc từ chối, họ rút
sâu vào rừng hiểm trở, sống trên những thung lũng xung quanh đồi núi phía nam
dãy Trường Sơn. Một số dần dần tiếp thu tin ngưỡng văn hóa Phù Nam, nhưng cải
biến cho phù hợp với địa sinh thái trong vùng, hình thành một nét văn hóa mang
tính bản địa”. Như vậy cư dân vản địa ở đây chủ yếu là các dân tộc ít người.
Một số kết quả nghiên cứu cổ nhân học trên các xương sọ tìm thấy trong các dic tích
mộ táng ở duyên hải đồng bằng miền Tây Nam Bộ cho thấy sọ của những người
thuộc chủng Indonesien có mẫu tầm vóc trung bình nam 1.62 mét, nữ 1.60 mét,
gần gũi với mẫu người dân tộc ít người hiện nay là Stieng, Choro, Châu Mạ,…
Cư dân bản địa ở đây chủ yếu theo truyền thống tục thờ tự nhiên (đa thần giáo). Đó
là những vị thần gần gũi với cuộc sống, phù hợp họ trong cuộc sống; hoặc những vị
thần mà họ không thể chế ngự được, mang đến cho họ sự sợ hãi, kinh hoàng. Họ
tiếp thu các nền văn hóa Champa, Chân Lạp, nhưng kế thừa truyền thống văn hóa
Ĩc Eo để tạo ra một sắc thái riêng, khá độc đáo của mình (qua cac tượng, bia, kiến
trúc,…): họ có ảnh hưởng đạo Hinđu, nhưng truyền thống tục thở tự nhiên vẫn là
chủ đạo.Xã hội được tổ chức theo thị tộc, bộ tộc, mỗi bộ tộc có một tộc trưởng đứng
đầu xử lí cơng việc, giai tầng xã hội phân chia khơng lớn. Đất của bộ tộc khai phá là
sở hữu xã hội mang tính cộng đồng, giàu nghèo được phân biệt ở vật dụng được
dùng trong nhà, họ theo chế độ mẫu hệ mà ngày nay còn thể hiện trong các sinh
<b>Câu 2. Phân tích giá trị di sản văn hóa dân gian ở vùng đất Biên Hòa – Đồng nai </b>
trong quá trình đấu tranh xây dựng, phát triển, chống ngoại xâm trước khi có Đảng
cộng sản Việt Nam lãnh đạo?
Ca dao - dân ca:
Cảm hứng thơ ca của đồng bào dân tộc ít người cịn dồi dào, phong phú. Tiếng
Châu Mạ, Xtiêng, Châu ro giàu chất thơ, có khả năng biểu cảm tốt, những lời hát đối
đáp giao duyên trong lao động và những bài ca nghi lễ thường đọng lại thành ca
Đak til hơ, joh bou mbring;
Ching any tur bou, kông tapxai;
Kwaiom ai ma any tam krơm;
Rơm chong toh bo bai,
Mpao krơm ai bintrony ta bụt,
Krơnl bi két chai xo;
Bi rao che kiêng.
Tạm dịch:
Rượu cần (Rnom) không uống vị men sẽ chua,
Nước suối khơng múc bình sẽ lên men,
Chiêng lâu khơng đánh sẽ đóng ten đồng.
Chúng mình cùng sống, mong ghì lấy nhau
Cặp vú rắn chắc đóng vào ngực anh,
Như cái khố lành quấn vào eo lưng,
Như lược nhiều chân cài vào búi tóc,
Như diều xoắn vặn cùng sợi dây lèo.
Chỉ một đoạn thơ ngắn với vần điệu tự do, liền mạch như trên, nỗi khao khát của
K'YiI đã cho thấy quan niệm về tình yêu hôn nhân của trai gái Châu Mạ, cũng cho
thấy tập tục uống rượu cần, múc nước suối,đánh chiêng đồng bằng tay của người
Châu Mạ xưa. 207 câu hát Tampơk Kôông và K'Yai'' đều chứa đựng những yếu tố
trữ tình có ý nghĩa hiện thực như thế. Thơ ca dân gian của người Việt khá phong
phú. Đó là lời ca đọng lại từ những khúc hát trữ tình, lâu dần thành câu nói cửa
miệng. Phong phú nhất là mảng ca dao trữ tình mang theo trong hành trang của
người Việt đến xứ Biên Hòa - Đồng Nai. Nhiều câu hát cũ vẫn nguyên vẹn vẻ đẹp ở
đất mới:
Đã trục trặc thì trục trặc cho ln
Đừng như con thỏ đứng ở đầu trng
Khi vui giỡn bóng khi buồn bỏ đi.
(Ca dao Trung bộ)
Thử chuông cho biết chuông ngân
Thử bạn đôi lần cho biết dại khôn.
(Ca dao Bắc bộ).
Nhiều câu hát gốc Trung bộ, Bắc bộ được biến thể đôi chút trở thành tài sản gắn với
địa phương. Ca dao “ Chiều chiều quạ nói với diều... '' phổ biến khắp nơi đậu lại xứ
Biên Hịa:
Bao phen quạ nói với diều
Ngã ba Rạch Cát có nhiều cá tơm.
Mơtif ca dao “ngó lên'' phổ biến ở Trung bộ (Ngó Lên Hịn Kẽm đá dừng... Ngó lên
hịn núi Thiên Thai...) cũng thấy xuất hiện ở Biên Hịa- Đồng Nai:
Ngó lên Bình Điện thấy miệng em cười
Tơ duyên muốn kết sợ người đã có đơi.
Ngó lên Châu Thới có đám mây bạch
Ngó xuống Rạch Cát thấy con cá chạch đỏ đi.
Nước chảy xuôi con cá đo đuôi lội ngược
Anh mảng thương nàng có được hay khơng?
Tương tự, có thể dẫn chứng hàng loạt câu ca dao có nguồn gốc ''miệt ngồi" được
cải biến cho phù hợp với tâm tình cư dân vùng đất mới:
Đố anh con rít mấy chưn
Câu ơ mấy nhịp chợ Dinh mấy người..
Ba Gioi ăn cá bỏ đầu
Bà Trường thấy vậy xỏ xâu mang về
Má ơn con má hư rồi
Cái trâm cũng bán vàng đôi cũng cầm
Thương em đưa nón đội đầu
Về nhà má hỏi qua cầu gió bay.
Có thể phân định mảng ca dao biến thể của người Biên Hòa – Đồng Nai với mảng ca
dao nói về Đồng Nai ở chủ thể thầm mỹ của nó. Xứ Đồng Nai xưa rộng lớn, trù phú,
Đồng Nai gạo trắng nước trong
Ai đi đến đó thi khơng muốn về
Đồng Nai gạo trắng như cò
Trốn cha trốn mẹ xuống đị theo anh.
Hết gạo thì có Đồng Nai
Hết củi thì có Tân Sài chở vơ.
Làm trai cho đáng nên trai
Nón chiên anh đội băng chừng Đồng Nai...
Mảng ca dao ''về Đồng Nai'' có giá trị ở chỗ nó in dấu ấn hình ảnh và cảm xúc của
người phương xa đầu hướng đến Đồng Nai. Ngay cả câu ca dao quen thuộc : “Nhà
Bè nước chảy chia hay. Ai về GiaĐịnh Đồng Nai thì về “, cảm hứng chủ đạo ở nó có
lẽ cũng là tầm tình của người khẩn hoang chưa quen với vùng đất mới. Đáng lưu ý
là mảng ca dao dân ca này sinh từ cảm xúc của người địa phương trong bối cảnh tự
nhiên - xã hội ở xứ Đồng Nai. Mảng ca dao dân ca này số lượng khơng nhiều nhưng
nó mang ý nghĩa hiện thực và sắc thái địa phương, từ hình thức thể hiện đến dịng
mạch cảm xúc. Có thể nói, ca dao dân ca ''đặc sản”' của Biên Hịa – Đồng Nai
thường ngắn, vần điệu ít nghiêm ngặt, hay phá cách lục bát, ít chải chuốt ngơn từ,
q là ở lời bộc trực chân tình, lịng thực thà, rộng mở. Cảm xúc buổi đầu bỡ ngỡ, lạ
lùng trước cảnh vật hoang sơ rõ ràng là của lớp người mới di dân khẩn hoang ở
Nam bộ:
Đến đây xứ sở lạ lùng
Con chim kêu phải sợ, con cá vùng phải kinh
Đi ra sợ đỉa cắn chưn
Xuống sông sầu ních lên rùng cọp tha...
Rồi qua lao động, chinh phục tự nhiên, làm chủ vùng đất mới, niềm tự hào về quê
hương, và mối quan hệ máu thịt với đất nước, con người ờ Biên Hòa – Đồng Nai dần
trở thành dịng mạch chính trong ca dao dân ca:
Trà Phú Hội, nước Mạch Bà
Sầu riêng An Lợi chuối già Long Tân
Cá bi, sị huyết Phước An
Gạo thơm Phước Khánh, tơm càng Tam An
Biên Hịa có bưởi Thanh Trà
Thủ Đức nem nướng, Điện Bà Tây Ninh.
Rạch Đông nước chảy,
Con cá nhảy con tơm nhào
Hai đứa mình kết nghĩa
Lẽ nào cha mẹ không thương
Đưa em về miếu Bà Cô
Em trả trái bưởi em bù trái thơm…
Bao giờ cạn nước Đồng Nai
Nát chùa Thiên Mụ mới sai lời nguyền
Cả những niềm vui tinh nghịch còn âm vang hương sắc của quê nhà:
Sáng mai đi chợ Biên Hịa
Mua một vải vng ta
Đem về cho con Hai nó cắt
Con Ba nó may
Anh bước cẳng ra đi
Con Tám níu, con Chín trì
Ớ Mười ơi, sao em để vậy cịn gì áo anh ?
Đồn rằng con gái Phú Yên
Đồng Nai đi cưới một thiên cá mòi
Chẳng tin giở quả ra coi
Chị Hươu đi chợ Đồng Nai
Ghé qua Bến Nghé còn nhai thịt bị...
Trong q trình đấu tranh, bảo vệ q hương xứ sở, hào khí Đồng Nai được kết
tinh, đọng lại trong ca dao dân ca:
Rồng Chầu ngoài Huế
Ngựa tế Đồng Nai
Nước sơng trong đổ lộn sơng ngồi
Thương người xa (đáo) xứ lạc loài tới đây.
Nhiều khi, qua một câu hát, tính khí, lối ứng xử của người Biên Hịa – Đồng Nai bộc
lộ rõ rệt. Có sự nóng nảy, mãnh liệt của con người bộc trực:
Chợ Biên Hòa đèn mờ đèn tỏ
Anh coi không rõ anh tưởng đèn màu
Rút dao đâm họng máu trào
Để em ở lại kiếm nơi nào hơn anh.
Có tình cảm bền chặt, ít đổi thay:
Nước Đồng Tranh sóng dồi lên xuống
Cửa Đồng Mơn mây cuốn buồm xi
Bậu với qua hai mặt một lời
Trên có trời dưới có đất
Nguyện non cạn sơng dời cũng chẳng xa.
Cũng có nét cởi mở, bạo dạn, mở lịng của thơn nữ Nam bộ:
Thấy anh lớn tuổi mà khờ
Lưng em không dựa, dựa bờ cỏ mai.
Nỗi niềm cơ cực của người cùng khổ cũng được gởi gắm chân tình qua ca dao dân
ca; như lời than của một công nhân cao su:
Cao su đi dễ khó về
Khi đi trai tráng khi về bủng beo
Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, ca dao dân ca tiếp tục nâng đỡ tâm hồn
của người kháng chiến. Cuộc sống kháng chiến đă đem lại cho ca dao dân ca Đồng
Nai khơng khí mới. Người phụ nữ kháng chiến xứ Đồng Nai thoát khỏi thân phận bị
ràng buộc, rụt rè; dám nói thật và nói vui:
Khoai lang lột vỏ hai đầu
Nửa thương anh trung đội trưởng,
Nửa sầu anh chính trị viên.
Bà mẹ của vùng kháng chiến ít chữ nghĩa nhưng lịng đầy lạc quan, câu hát đầy
theo hũ gạo nuôi quân:
Nhớ đoàn Vệ quốc hốt cho nắm đầy
Một tháng là ba mươi ngày
Mỗi ngày một nắm nhớ rày Vệ quốc quân.
Không khí đóng cọc, ngăn tàu giặc Pháp của chiến khu lòng chảo cũng được phản
ảnh sinh động trong ca dao kháng chiến:
Đốn cây cắm cọc ngăn tàu
Lịng sơng Vũng Gấm, Bà Hào, Phước An
Làm cho quân giặc hoang mang
Không cho khủng bố ruồng càn chiến khu.
Và nhiều câu ca dao dưới hình thức “bình cũ rượu mới'' thể hiện đặc điểm kháng
Khu Đ đi dễ khó về
Lính đi bỏ mạng quan về mất lon.
Ca dao dân ca ở Đồng Nai là gương phản ánh tâm hồn của người Biên Hòa – Đồng
Nai gắn với sự phát triển kinh tế xã hội ở đia phương; nếu sưu tập, tìm hiểu đầy đủ
có thể qua đó hiểu được mọi cung bậc tình cảm của con người mà lịch sử giấy bút
chưa thể ghi nhận.
Tục ngữ, phương ngơn:
Hiện chưa có đầy đủ tài liệu để có thể nói về tục ngữ, phương ngơn của đồng bào
các dân tộc Châu Mạ, Châu Ro, Xiêng ở địa bàn Đồng Nai. Nhóm dân tộc này chưa
có chữ viết, cho nên kinh nghiệm sản xuất, kinh nghiệm sống và tập quán xã hội ắt
được truyền đời chủ yếu qua lời nói ngắn gọn, có vần điệu dễ nhớ hình thành tục
ngữ, phương ngơn trong kho tàng văn hóa dân gian địa phương. Như người Châu
Ro chẳng hạn, họ truyền nhau kinh nghiệm quan sát tự nhiên để đoán định thời tiết:
“Ray nhim Đaq Gung char” hoặc ''GungcharĐaq nhim Ray'' (nghĩa là cây anh (to)
ven sơng Ray khóc cây em (cỏ tranh) ở núi Chứa Chan là vào mùa mưa). Cũng vậy,
họ thấy ếch kêu, ve kêu, đi kì đà đen đều, đầu cắt kè chuyển màu xanh, xương
ếch chuyển màu đen... thì tiết trời sắp có mưa. Trong ứng xử xã hội, người Châu Ro
khuyên nhau giữ nếp sống ''làm em chịu lành làm anh chịu cả “ và ứng xử chừng
mực: “vui cười quá đáng thì sống trước mắt, chết sau lưng”.
Luật tục kinh nghiệm của người Châu Mạ chủ yếu cũng truyền khẩu qua lời nói. Kinh
nghiệm sống cho thấy:
Rnom any yô jơh bou chrka .
Ching any tua bou, kông tap xai…
(Rượu cần không uống thì chua men
Bình khơng múc nước thì lên men
Chiêng để lâu khơng đánh thì đóng ten đồng)
Bởi vậy, đồ vật phải dùng, yêu phải cưới, con người phải làm việc. Luật tục truyền
đời phải nhớ:
Muốn cưới xin phải có lễ vật và trao vịng tay.
Luật tục cũng nghiêm cấm khơng được ngoại tình:
Ăn ớt rát họng
Ăn sả rát yết hầu
Ngủ với vợ người khác có chuyện !
Tìm hiểu về tục ngữ, phương ngơn của đồng bào dân tộc ít người ở Đồng Nai là
cơng trình lớn, cịn ở phía trước; ở đây chỉ muốn ví dụ để cho thấy nó có vai trị
quan trọng, như là bộ bách khoa thư không bằng văn tự trong đời sống tinh thần
của đồng bào.
Người Việt ở Biên Hòa - Đồng Nai kế tục vốn tri thức và tiếng nói của cha ơng ở
ngun qn cho nên kho tàng tục ngữ, phương ngôn về kinh nghiệm sản xuất, qui
tắc ứng xử ít có khác lạ so với xứ Bắc, xứ Trung. Tuy nhiên, có những kinh nghiệm
sống hình thành từ cuộc sống cụ thể ở Biên Hòa - Đồng Nai cũng được truyền miệng
qua bao thế hệ. Đó là những kinh nghiệm trong việc sản xuất từ việc dự báo thời
tiết, mùa vụ đến việc chọn giống nuôi trồng:
- Được mùa cau đau mùa lúa, được mùa lúa úa mùa cau.
- Ruộng đấng thì ăn, ruộng năn thí bỏ.
- Được mùa xồi toi mùa lúa.
- Đười ươi cười thì nắng, cỏ gà trắng thì mưa.
- Tháng giêng nắng dai, tháng hai giông tố
Tháng ba nồm sợ, tháng tư nồm non.
- Gà rừng gáy thì cấy hạt đậu...
- Thợ mộc không ghế, thợ rèn không dao…
Hoặc là những kinh nghiệm thưởng thức sản vật địa phương:
- Cơm Nai Rịa, cá Rí Rang.
- Gạo Cần Đuốc, nước Đồng Nai.
- Trầu bai Bến Cá, thuốc lá Tân Huê.
- Dưa đàng đít, mít đàng đầu.
- Ăn chuối đàng sau, ăn cau đàng trước.
- Nhất đầu thỏ, nhì mỏ lươn.
- Nhất rún chị sui nhì đi rắn hổ…
hoặc là những kinh nghiệm ứng xử xã hội hình thành tập quán cộng đồng:
- Đi xe coi ách coi nài
- Coi trong bộ ví coi ngồi bộ tun
- Họ hàng thì xa, sui gia thì gần
- Sang đất người ta thì hạ dù xuống
- Tham ăn một miếng mang tiếng cả đời.
Tục ngữ phương ngôn mang sắc thái của Biên Hòa - Đồng Nai hiện chưa được ghi
chép đầy đủ, có bao nhiêu mặt sinh hoạt của con người là có bấy nhiêu lĩnh vực đời
sống đã đi vào kho tàng tục ngữ, phương ngôn, nó góp phần làm giàu thêm vốn
sống, làm phong phú vốn tiếng Việt ở địa phương.
Diễn xướng
Do mới hình thành từ sự hội nhập nhiều lớp cư dân cách đây hơn ba thập kỷ, ở Biên
Hòa – Đồng Nai khơng thấy có làn điệu dân ca nào đặc thù nhưng lại có gần như đủ
giọng dân ca của xứ Trung, xứ Bắc. Quan họ, ca Huế, ví dặm... hiện vẫn có đất sống
ở các cụm dân cư cịn da diết với cố hương. Tiếng hát ru của các bà má Biên Hòa –
Đồng Nai đủ giọng ba miền Nam- Trung – Bắc. Các điệu hò, lý ở đồng ruộng, trên
dịng sơng hay ở bãi mía, sân đình thường lộ rõ âm điệu của xứ Thuận, xứ Quảng.
Có thể nói, hội nhập, tổng hợp, dung hịa là đặc điểm của diễn xướng nghệ thuật
truyền thống ở xứ Biên Hịa – Đồng Nai. Có hai dạng diễn xướng nghệ thuật truyền
thống khó phân đinh rạch rịi: diễn xướng nghệ thuật trong sinh hoạt thông thường
và diễn xướng thực hiện nghi lễ.
Trong sinh hoạt thông thường, người Biên Hịa – Đồng Nai xưa có sinh hoạt nghệ
thuật: Hị hát, lý, kể vè, nói thơ, nói tuồng, đờn ca tài tử... nhằm giải trí, giao lưu
văn hóa, thư giãn tinh thần và tăng hứng thú lao động.
Sách Gia Định Thành thơng chí của Trịnh Hồi Đức có ghi ở Cù Lao Phố xưa, ngày
tết có hát sắc bùa: “Đêm 28 tháng chạp, na nhân (tục danh nậu sắc bùa) đánh
trống, gõ phách, một bọn 15 người đi dọn đường, trông nhà hào phú nào mở cửa
Đó là hình thức diễn xướng tổng hợp với chức năng chúc xuân, bắt đầu từ 28 tháng
chạp đến rằm tháng riêng hàng năm, có nguồn gốc liên quan đến tục hát xiếc bùa
của người Mường theo đoàn người di dân vào Đồng Nai, phổ biến đến đầu thế kỷ
XX, hiện đã thất truyền ở Biên Hòa – Đồng Nai, còn thấy bảo lưu ở một số xã thuộc
tỉnh Bến Tre.
sau phải tiếp vần câu hị trước. Nếu bí vần là bi đứt, coi như thua cuộc. Lời đáp câu
đối nối nhau, bên nam bên nữ, tốp này tốp kia cùng vào cuộc chơi, có người hị cái,
có người nhắc câu, tập thể hò phụ họa. Cứ thế cuộc hò kéo dài, có khi liên tục mấy
ngày liền. Nhiều người mê hò mà đến mê nhau. Các vùng Cù Lao phố (Biên Hòa),
Cù lao Thạnh Hội (Tân Uyên), Bình Lục (Vĩnh Cửu), Phước Hịa (Long Thành), Hiệp
Phước (Nhơn Trạch)…đều có những giọng hị nổi tiếng, thường giao lưu đối đáp với
nhau, hiện nhiều nghệ nhân ở lứa tuổi 50, 60 trở lên còn ấp ủ nhiều kỷ niệm đẹp về
một thời hị cấy. Ví dụ, một đoạn đối đáp hò cấy ghi được ở Cù lao Thạnh Hội:
Nam: (Hị… hơ… ơ… ớ… ơ)
Tay cầm bó mạ rẻ hai (hò…hơ…)
Miệng hò tay cấy/ chân tui thài lai ngoẹo… nàng.
Giọng xơ nam: (Hị …. Khoan… hị…)
Nữ: (Hị… hơ… hớ… hơ…)
Mạ non khéo cấy thẳng hàng (hò… hơ… hớ…)
Hỏi người quân tử / đá vàng hay… chơi
Giọng xô nữ: (Hị… khoan… hị…)
Nam: (Hị… hơ… ơ….ớ… ơ…)
Ngó lên Bình Điện thấy miệng em cười (hò… hơ…)
Tơ duyên muốn kết/ sợ người đã có… đơi.
Giọng xơ nam: (Hị… khoan… hị…)
Nữ : (Hị… hơ… hớ…. Hơ…)
Ván kia lỡ đóng thuyền rồi (hị… hơ…. Hơ…)
Hỡi người qn tử bng lời nữa… khơng ?
Giọng xơ nữ: (Hị… khoan… hị…)
Sau những lời hị dạo, thưa chào, kết nối, ướm hỏi; cuộc hát đi vào nội dung đố
đáp. Sự dí dỏm, thơng minh, tài ứng đối bộc lộ cả ở giai đoạn này. Ví dụ:
Nữ: Đồn anh hay chữ lắm tài
Cho em hỏi thử một vài câu ca
Anh người xứ ở Biên Hịa
Đó anh biết bưởi thanh trà đâu ngon
Thuốc đâu đằm khói mê hồn
Đá đâu nước chảy vẫn còn trơ trơ ?
Nam: Hỏi thơ thì đáp bằng thơ
Đá Hàn nước chảy trơ trơ vẫn cịn
Tân Huệ thuốc lá thơm ngon
Bưởi thanh thì chẳng đâu hơn Tân Triều
Cho em hỏi thử cây điều mấy bông ?
Nam:Bậu về bắt hết cá sông
Qua đây biết được mấy bông cây điều.
hị ngân dài hơn, ít giọng xơ và một số lời hát theo văn cảnh.
Cũng theo hình thức lao động mà ngồi hị chèo ghe cịn có hị đị dọc của giới
thương hị bn bán đường dài và hị rỗi của nậu ghe chun chở cá. Cịn có bao
nhiều điệu hò nữa ở Biên Hòa – Đồng Nai xưa ? Hiện chưa có đủ điều kiện để trả lời
câu hỏi ấy.
Lý là hình thức diễn xướng những câu hát ngắn, ngẫu hứng thành làn điệu, một loại
hình diễn xướng phổ biến của Nam bộ “Nam lý, Huế hò, Bắc thơ”. Theo ký ức của
người cao tuổi, ngoài các bài lý phổ biến ở Nam bộ, xứ Biên Hịa – Đồng Nai từng có
nhiều người hát lý rất hay, nhưng không hiểu do đâu đã mất hẳn, hiện chưa tìm ra
dấu vết. Bài Lý Đồng Nai âm điệu thế nào khơng rõ, chỉ cịn lại phần lời khơng đầy
đủ:
Gạo Đàng Ngồi: Bảy tiền một bát
Gạo Đàng Trong: Bảy bát một tiền
Anh không tin thì anh vơ Đồng Nai mà coi
Có qn tập trận có chịi bắn bia
Có con ngựa hồng mao tiền mao hậu
Quan võ thầy đầu đội mão đai.
Bà Ba Dẹt ở xã Long Tân, huyện Nhơn Trạch còn hát được điệu lý lu la, lý trèo lên
với các câu hát nửa quen, nửa lạ, ví dụ:
Lý lu là: Ai đem con sáo sang sông
Cho nên con sáo ăn buồng chuối tiêu.
Lý trèo lên: Trèo lên cây khế mà rung
Khế rụng đùng đùng không biết khế ai
Khế này là khế chị Hai
Khế chưa có trái, chị Hai có chồng
Xem ra, lý lu là và lý trèo lên có thể là biến thể của các điệu lý đồng dạng phổ biến
của Nam bộ.
Kể vè, nói thơ, nói tuồng là hình thức diễn xướng tự sự bằng lối “nói vãn” có gõ nhịp
hoặc khơng gõ nhịp, nhằm thể hiện các bài vè, truyện thơ, tích tuồng thuộc nằm
lịng. Ở Biên Hòa – Đồng Nai xưa lưu truyền nhiều bài vè. Phổ biến là các bài vè
quen thuộc (nguyên bản hoặc dị bản) lưu truyền cả nước như: Vè Chàng Lía, vè
Thơng Chánh, vè Con cút, vè Bài tới, vè Con gái lấy thợ câu cua, vè Nói ngược, vè
Nói dóc, vè Trăm thứ bánh… cịn có những bài vè ứng tác tại địa phương kể về các
sự việc đáng chú ý trong đời thường, có thể nêu: Vè Xã Những mất vợ (Ông Võ Văn
Đạc ở xã Long Phước, huyện Long Thành kể), vè Hương thân Cẫn (bà Sáu Nhâm ở
xã Phú Hội huyện Nhơn Trạch kể), vè Rượu (ơng Chín Lát ở xã Long Tân, huyện
Nhơn Trạch kể)…
Qua nội dung của bài vè được kể, có thể tái hiện một phần của đời thực thủa xưa; ví
dụ như bài vè Các đường lục tỉnh được ghi chép trong Di chỉ của Trương Vĩnh Ký
… Đến đây buôn bán một khi
Khúc đà chợ Búng, sang đồng Lái Thiêu
Dầu Một, Chợ Thủ, Ba Càng
Quanh co Đồng Phú, nhộn nhàng Võ Sa
Bến Cá xóm ở đơng nhà
Xưa kia Đồng Ván trời đà cao xây.
Chợ Đồn đá dợn nước trào,
Hoặc khi ngó thấy Cù Lao An Mày
Hịn núi Châu Thới cao thay
Kiểng Dương qua khỏi xuống ngay Nhà Bè.
Tiếng đồn các lái Đồng Nai
Tháng giêng đóng ván, tháng hai đóng thuyền
Tháng ba trở gạo mà chuyên
Tháng tư hành thuyền rải rác mọi nơi.
Kể từ Rách Cát, Rạch Dơi
Sài Gòn, Bến Nghé tựa nơi Nhà Bè
Rủ nhau lãnh thẻ chiêu đề
Ghe nào bạn nấy ta hèo kéo theo.
Thơ được kể ở Biên Hòa xưa thường là truyện thơ Nôm: Lục Vân Tiên, Lâm Sanh
Xuân Nương, Phạm Công Cúc Hoa, Chàng Nhái Kiểng Tiên, Trần Minh khố chuối…
hoặc các truyện cổ tích Tàu diễn ca, như: Tống tửu Đơn Hùng Tín, Tiết Cương phục
Đồng Dao là một dạng hát – kể vè gắn với trò chơi tập thể của trẻ em. Nhiều bài hát
đã mất nghĩa ngơn từ nhưng cịn ý nghĩa văn hóa trong cách chơi, cách diễn đạt thể
hiện tính hồn nhiên của tuổi thơ. Qua khảo sát thực tế, nhận thấy nhiều bài (hoặc dị
bản) đồng dao quen thuộc ở Trung bộ, Bắc bộ có mặt tự lâu đời ở Biên Hòa – Đồng
Nai, phổ biến là các bài: Tập tầm vơng, chơi với quấc, vè Nói ngược, Cu cu chằn
chằn, Con cị Xanh, Xích đu tiên, Bắt con kỳ nhơng… Đồng dao tập cho trẻ em hịa
mình vào tập thể, quen với luật chơi bình đẳng, tự giác.
Đờn ca tài tử là dạng sinh hoạt của các nhóm theo nghiệp đờn ca bài bản tài tử có
nguồn gốc từ nhạc sư Ba Đợi (Nguyễn Quang Đại) phổ biến ở Nam bộ từ đầu thế kỷ
XX. Ở Biên Hịa, Nhơn Trạch, Vĩnh Cửu xưa có người theo học các thấy đờn ca tài tử
tại Sài Gòn, Cần Đước… về lập nhóm, sắm nhạc, họp thành ban nhạc, đờn ca các
bài bản cổ điển như là sinh hoạt âm nhạc thính phịng của dân gian. Từ đờn ca tài
tử đến ca ra bộ, sau này phát triển thành ca cổ, cải lương.
dựa theo tích Tàu, sau có soạn thêm một số tuồng Việt lấy tích trong lịch sử chống
ngoại xâm của dân tộc; xoay quanh các chủ đề ca ngợi trung, hiếu, tiết, nghĩa. Đoàn
hát do dân tự lập, lưu diễn ở các thơn làng, có diễn trích đoạn ở đám tang theo yêu
cầu của gia chủ. Như gánh hát bội của Bầu Làm ở xã An Hòa (huyện Long Thành)
chẳng hạn. Họ hàng, bạn bè trong làng hợp lại mua sắm, tự soạn kịch bản, tự diễn
tập, mùa hát đi diễn khắp miền Đông, mùa ruộng phân tán làm ăn, diễn được hơn
20 vở tuồng tự soạn cả tích Tàu tích Việt, biết thực hiện nghi xây chầu, đại bội theo
<b>Câu 3. Kể tên các di tích văn hóa cấp Quốc gia trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Nêu </b>
khái quát về giá trị, ý nghĩa của hệ thống di tích lịch sử, kiến trúc, mỹ thuật, văn
hóa cấp quốc gia đó.
Cơng trình kiến trúc mộ đá cổ độc đáo: Mộ đá Cư thạch Hàng Gòn
khoảng tháng 3/2006, các chuyên gia của Viện Khoa học xã hội vùng Nam bộ và
Ban quản lý di tích – danh thắng Đồng Nai phối hợp mở đợt điều tra nghiên cứu quy
mô. Nhiều phát hiện mới đã được đoàn nghiên cứu làm rõ.
Trong quá trình đào thám sát, đã phát hiện dấu vết của những vệt đất cháy kéo dài
thành hình vịng cung, phía trên có rất nhiều than tro và xỉ kim loại; các mảnh đồ
gốm trên thân có hoa văn làm từ chất liệu đất sét pha cát và vỏ nhuyễn thể nghiền
nhỏ; phát hiện 2 chiếc tù và bằng đồng và 2 chiếc bàn mài bằng đá có lỗ đeo.
Năm 2007, đoàn đã tiếp tục khai quật và giải mã những “bí mật” di tích Mộ Cự thạch
Hàng Gịn. Nhiều hiện vật bằng gốm, bằng đá, các dụng cụ bàn mài, các cột đá và
những vết đất cháy, than tro.
Đặc biệt trong xưởng chế tác đá đã tìm thấy trước đó, đồn khảo sát cũng đã tìm
thấy những tấm đá, cột đá, nhiều phế vật mảnh tước đá và nhiều công cụ lao động.
Qua đó cho thấy người xưa đã vận chuyển những khối đá lớn về Hàng Gòn để gia
công tạo ra những tấm đan, cột đá sử dụng cho kiến trúc mộ.
Qua so sánh phân tích, các nhà nghiên cứu đã đưa ra phán đoán cho rằng, chủ
nhân của Mộ Cự thạch là một nhân vật quyền uy, là thủ lĩnh của một bộ lạc hay liên
minh các bộ lạc hùng mạnh về kinh tế và quân sự; niên đại của di tích được xác
định trong khoảng thời gian 150 trước Công nguyên đến 240 năm sau Công nguyên.
Địa đạo Nhơn Trạch
Vùng Phước An vốn là rừng nguyên sinh lòng chảo, một thời được mệnh danh là
"Thủ đô của Long Thành kháng chiến chống Pháp". Trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ, rừng lòng chảo là căn cứ hoạt động của Huyện ủy Nhơn Trạch với hệ thống địa
đạo, giao thông hào, ô ụ chiến đấu cùng lán trại trên mặt đất. Lực lượng đào địa
đạo khoảng 20 người thay phiên nhau, đào bằng dụng cụ thô sơ như: cuốc, xẻng đã
khởi công vào đúng ngày 19-5-1963 nhân kỷ niệm 73 năm ngày sinh Bác Hồ.
Đến cuối năm 1964 đã đào được 1,5km đường địa đạo khép kín, liên hồn trong
lịng đất, nối từ căn cứ Huyện ủy về các xã Phú Hội, Phước An, Huyện đội... Đường
địa đạo có kết cấu hình vịm nằm sâu dưới mặt đất từ 5 đến 7m, độ cao từ 1,8m
đến 2m, rộng từ 1m đến 1,2m; có nhiều lỗ thơng hơi, ngách rẽ sang hai bên, hầm bí
mật, giếng nước, bếp Hồng Cầm... đường địa đạo có thể chịu đựng sức cơng phá
của bom 250kg, chứa được từ 300 đến 500 người.
Xuất phát từ căn cứ này, Huyện ủy Nhơn Trạch đã lãnh đạo và chỉ đạo các lực lượng
cách mạng trong huyện kết hợp đấu tranh vũ trang, chính trị, binh vận đánh bại
chính sách ấp chiến lược, chiến tranh đặc biệt, chiến tranh cục bộ và Việt Nam hóa
chiến tranh của Mỹ - ngụy.
Sau ngày giải phóng miền Nam, hệ thống địa đạo dài 1,5km này không còn nguyên
vẹn, chỉ còn giữ lại gần 200m. Mặc dù vậy, ý nghĩa lịch sử của căn cứ cách mạng
này là rất lớn nên ngày 19-1-2001, Bộ VHTT đã xếp hạng địa đạo Nhơn Trạch là di
tích lịch sử cấp Quốc gia (Quyết định số 04/2001/QĐ-BVHTT).
Để bảo tồn và phát huy tác dụng di tích địa đạo Nhơn Trạch, hiện nay trên khu đất
rộng 2,5 hecta đối diện với đền thờ liệt sĩ tọa lạc tại ấp 5, xã Long Thọ, huyện Nhơn
Trạch, đang tiến hành tu bổ, phục hồi lại đoạn địa đạo dài 200m và nơi làm việc của
Huyện ủy theo hồi cố của các nhân chứng lịch sử; xây một nhà truyền thống trưng
bày các tài liệu, hình ảnh, hiện vật của căn cứ Huyện ủy xưa với tổng kinh phí hơn 9
tỷ đồng để khách có điều kiện thăm lại vết tích chiến trường xưa, ôn lại trang sử hào
hùng một thời oanh liệt. Cũng tại khu đất này, huyện Nhơn Trạch sẽ xây một số
cơng trình văn hóa gắn liền với di tích, du lịch sinh thái vườn trái cây Phú Hội và khu
công nghiệp của thành phố trẻ Nhơn Trạch trong tương lai
Văn miếu Trấn Biên
Văn miếu môn.
Văn miếu Trấn Biên là văn miếu đầu tiên được xây dựng tại xứ Đàng Trong, để tơn
vinh Khổng Tử, các danh nhân văn hóa nước Việt và làm nơi đào tạo nhân tài phục
vụ cho chế độ. Năm 1861, nơi thờ phụng trên đã bị thực dân Pháp phá bỏ. Mãi đến
Xây dựng
Năm 1698, khi Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào đến xứ Đồng Nai, thì vùng đất này
đã khá trù phú với một thương cảng sầm uất, đó là Cù lao Phố.
Để có nơi bảo tồn, phát huy và tôn vinh các giá trị văn hóa giáo dục xưa và nay của
dân tộc Việt ở vùng đất mới, 17 năm sau, tức năm Ất Mùi (1715), chúa Nguyễn Phúc
Chu sai trấn thủ Nguyễn Phan Long và ký lục Phạm Khánh Đức xây dựng Văn miếu
Trấn Biên. Đây là văn miếu đầu tiên được xây dựng tại xứ Đàng Trong, có trước cả
văn miếu ở Vĩnh Long, Gia Định và Huế.
Sách Gia Định thành thơng chí của Trịnh Hoài Đức, chép: “Văn miếu Trấn Biên được
xây dựng tại thôn Tân Lại, tổng Phước Dinh, huyện Phước Chánh” (nay thuộc
phường Bửu Long, TP. Biên Hòa).
Và theo mô tả của Đại Nam nhất thống chí, thì Văn miếu Trấn Biên được xây dựng
trên thế đất đẹp: Phía nam trơng ra sơng Phước Giang, phía bắc dựa vào núi Long
Sơn, là một nơi cảnh đẹp thanh tú, cỏ cây tươi tốt...Bên trong rường cột chạm trổ,
tinh xảo... Trong thành trăm hoa tươi tốt, có những cây tịng, cam qt, bưởi, hoa
sứ, mít, xồi, chuối và quả hồng xiêm đầy rẫy, sum sê, quả sai lại lớn....
Trước năm 1802, hằng năm, đích thân chúa Nguyễn Phúc Ánh đến Văn miếu Trấn
Biên để hành lễ hai lần vào mùa xuân và mùa thu. Nhưng từ khi chúa Nguyễn lên
ngơi ở Huế, thì quan tổng trấn thành Gia Định, thay mặt vua, cùng với trấn quan
Biên Hòa và quan đốc học đến hành lễ...
Tương tự Văn miếu Huế, bên cạnh có Quốc tử giám để giảng dạy học trò. ở Biên
Hòa, bên cạnh Văn miếu Trấn Biên là Tỉnh học (trường học tỉnh Biên Hòa). Trường
học lớn của cả tỉnh này mãi đến đời vua Minh Mạng mới dời về thôn Tân Lại (nay
thuộc phường Hịa Bình, Biên Hịa). Như vậy, ngồi vai trò vai trò thờ phụng, Văn
miếu Trấn Biên còn đóng vai trị như một trung tâm văn hóa, giáo dục của tỉnh Biên
Khuê Văn Các.
Văn miếu Trấn Biên có hai lần được trùng tu lớn: Lần trùng tu thứ nhất vào năm
ve chén và đồ phủ quỹ biên đậu đều chỉnh nhã tinh khiết" (theo Trịnh Hoài Đức -
Gia Định thành thơng chí).
Lần trùng tu thứ hai vào năm Tự Đức thứ 5 (Nhâm Tý, 1852). Sau khi hồn thành
văn miếu có qui mơ lớn hơn trước: "Văn miếu chính đường và tiền đường đều 5
gian, lại dựng thêm 2 dãy tả vu và hữu vu, mỗi dãy 5 gian, đền Khải Thánh, chính
đường và tiền đường đều 3 gian, một tòa cửa giữa 3 gian, một tòa cửa trước 1 gian,
một tòa kho đồ thờ 3 gian, một tòa Khuê Văn các 2 tầng, ba gian hai chái; phía
trước, biển "Đại Thành điện" đổi làm "Văn miếu điện" và "Khải Thánh điện" đổi làm
"Khải Thánh từ"
Bị phá bỏ
Năm 1861, quân Pháp tiến đánh Biên Hòa, sau 2 ngày giao chiến với quân Việt.
Khâm sai Nguyễn Bá Nghi rút quân về vùng rừng núi Phước Tuy, rồi ra Bình Thuận.
Tuần vũ Nguyễn Ðức Duy và Án sát Lê Khắc Cần cố cầm cự rồi cũng rút quân theo.
Ngày 17 tháng 12 năm 1861, quân Pháp chiếm được thành và đã cho phá bỏ Văn
miếu Trấn Biên, sau 146 năm tồn tại.
Khôi phục
Ngày 9 tháng 12 năm 1998, một cơng trình mới mang tên Văn miếu Trấn Biên được
khởi công khôi phục lại trên nền văn miếu cũ tại phường Bửu Long, TP.Biên Hòa,
tỉnh Đồng Nai.Cách trung tâm thành phố khoảng 3km, và gần Trung tâm Văn hóa
Du lịch Bửu Long trong phạm vi khoảng 2 ha, với số tiền đầu tư gần 20 tỷ đồng.
Cơng trình được khánh thành giai đoạn 1 vào ngày mùng 3 Tết Nhâm Ngọ (nhằm
ngày 14 tháng 2 năm 2002). Sau đó, trong dịp kỷ niệm 290 năm Văn miếu Trấn
Biên (1715 - 2005), nhiều hecta đất đã được giao thêm và giai đoạn 2 của cơng
trình tiếp tục được thực hiện...
Từ trên gác Khuê Văn Các nhìn được một phần Văn miếu Trấn Biên.
Nhà thờ chính xây dựng kiểu nhà ba gian hai chái, theo kiến trúc cổ, sơn son thếp
vàng, nền lát gạch tàu, trên các cột nhà treo đôi liễn đối, như:
Lớp lớp anh tài giang lục tỉnh.
Võ Trường Toản mở trường Gia Định,
Đời đời sĩ khí nối tam gia.
Ở gian giữa có bàn thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên tường có biểu tượng trống đồng
tượng trưng cho nền văn hóa Việt Nam và Quốc Tổ Hùng Vương.
Bên trái nhà là nơi thờ các danh nhân văn hóa Việt Nam như Chu Văn An, Nguyễn
Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Q Đơn,... bên phải thờ danh nhân đất Nam Bộ như
Võ Trường Toản, Nguyễn Đình Chiểu, Trịnh Hồi Đức, Ngơ Nhân Tịnh, Lê Quang
Định, Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Thông...
Trong gian thờ này, đặc biệt có trưng bày 18 kg đất và 18 lít nước mang về từ đền
Hùng, biểu trưng cho 18 đời vua Hùng, cội nguồn của dân tộc Việt.
Phía trước hai bên nhà thờ chính cịn có hai ngơi miếu, miếu bên trái thờ Tiên sư,
miếu bên phải thờ Tiền hiền-Hậu hiền.
<b>Câu 4. Trong quá trình đấu tranh chống ngoại xâm, giải phóng dân tộc dưới sự lãnh</b>
đạo của Đảng, ở Biên Hồ - Đồng Nai có nhiều sự kiện mở đầu cho các hoạt động
cách mạng tạo nên thắng lợi chung của đất nước. Đó là những sự kiện nào? Nêu
thời gian, ý nghĩa của từng sự kiện đó.
Di tích chiến thắng La Ngà
Di tích chiến thắng La Ngà trải dài trên 9km đoạn quốc lộ 20 từ cây số 104 đến 113
qua các xã Phú Ngọc Ngọc Định và Phú Hiệp của huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai.
Tấn công địch trên vùng Định Quán
Cầu La Ngà được xây mới cao hơn, đẹp hơn.đứng trên đỉnh cầu lộng gió nhìn về tả
ngạn sơng La Ngà một tượng đài cao hơn 20 mét sừng sững trên ngọn đồi Gió hiên
ngang giữa mây trời, soi bóng xuống dịng sơng. Đó là quần thể cơng viên tượng đài
chiến thắng La Ngà. Nơi ghi dấu chiến công hiển hách của Chi đội 10 Liên quân 17
và Trung đội Quốc vệ đội huyện Xuân Lộc vào ngày 1-3-1948.
Ngày giải phóng các địa phương trong tỉnh:
- Ngày 20-4-1975: giải phóng huyện Tân Phú, Định Quán.
- Ngày 21-4-1975: giải phóng huyện Long Khánh, Xuân Lộc.
- Ngày 28-4-1975: giải phóng huyện Thống Nhất.
- Ngày 29-4-1975: giải phóng huyện Long Thành, Nhơn Trạch.
- Ngày 30-4-1975: giải phóng thành phố Biên Hòa, huyện Vĩnh Cửu.
Đầu tháng 12-1947, một phân đội trinh sát đặc La Ngà - Đồng Nai, đủ cho 1.000
quân ăn trong một tuần - Giải quyết được vấn đề khó khăn về lương thực theo yêu
cầu của ban chỉ huy Chi đội 10.
Đầu tháng 12-1947, một phân đội trinh sát đặc biệt (nguyên là ban công tác liên
thôn IX do Đỗ Thanh Tùng phụ trách) cùng cán bộ địa phương lên đường đi La Ngà.
Sau nhiều ngày trinh sát, Ban chỉ huy Chi đội 10 quyết định chọn trận địa phục kích
từ ki-lơ-mét 104 (cách đồn La Ngà 3 ki-lơ-mét về phía Sài Gịn) đến ki-lơ-mét 113
(cách đồn Định Qn 2 ki-lơ-mét về phía Đà Lạt). Đây là một trận địa vừa thuận lợi
cho việc phục kích và vận động bất ngờ từ trên cao đánh xuống mặt đường vừa có
sơng Đồng Nai ở phía tây là hào chắn thiên nhiên bảo đảm cho bộ đội ta rút lui an
toàn sau trận đánh.
Công tác chuẩn bị cho trận đánh được ráo riết thực hiện ngay từ đầu năm 1948. Rút
kinh nghiệm trận Đồng Xồi, binh cơng xưởng sản xuất mìn Bazomin với lượng
thuốc nhiều hơn, đủ sức phá hủy xe thiết giáp của địch. Các cán bộ, chiến sĩ của
Huyện đội Xn Lộc đã lặn lội về những bn sóc hẻo lánh vận động đồng bào dân
tộc thiểu số góp từng lon gạo, trái bắp. Cơng nhân các đồn điền cao su cũng tìm
mọi cách vượt qua sự kiểm sốt gắt gao của địch để gom góp, vận chuyển gạo đến
khu vực tập kết hậu cần. Phân đội trinh sát đặc biệt của Chi đội 10 phát hiện khoảng
15 mẫu lúa rẫy đã oằn bông của đồng bào dân tộc Mạ, nhưng khơng ai chăm sóc
(có lẽ đồng bào đã bị quân Pháp lùa vào các khu tập trung hoặc đã di chuyển vào
vùng sâu), các chiến sĩ tổ chức đánh bắt cá trèng, cá lăng ở suối Sa Sả và vàm sông
La Ngà, xẻ phơi khô dự trữ vài ngày. Với 15 mẫu lúa thu hoạch được của Phân đội
trinh sát đặc biệt và gạo và cá khô ở ven suối Sa Sả và vàm ngã ba sông La Ngà -
Đồng Nai, đủ cho 1.000 quân ăn trong một tuần - Giải quyết được vấn đề khó khăn
về lương thực theo yêu cầu của ban chỉ huy Chi đội 10.
Ban chỉ huy Chi đội 10 Biên Hòa quyết định sẽ chặn đánh đoàn xe trên nhằm phá
tan luận điệu xuyên tạc của địch về cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Việc chuẩn
bị được tiến hành khẩn trương, đoạn đường từ cầu La Ngà đến Định Quán được
Đúng theo kế hoạch, 15g ngày 1-3-1948, đoàn xe địch lọt vào trận địa phục kích
của ta. Trong gần 1 giờ chiến đấu, Chi đội 10 Biên Hòa và Đại đội liên quân 17 đã
tiêu diệt được 59 xe các loại, 150 lính và 25 sĩ quan Pháp, trong đó có Đại tá Patruit,
Tham mưu phó quân viễn chinh Pháp ở Đơng Dương; Đại tá Sérigné, Lữ đồn
trưởng Lữ đoàn 13 quân lê dương Pháp... Ngay khi kết thúc trận đánh, ta đã tiến
hành giáo dục, giải thích rõ tính chất cuộc kháng chiến cho tù binh và những người
Pháp dân sự, chăm sóc cho thương binh, cung cấp lương thực và thả họ vào sáng
hôm sau.
Trong một hướng tấn công khác vào Tổng kho Long Bình, tiểu đồn 2 đặc cơng U1
đột nhập vào cao điểm 53, dùng mìn cho nổ hủy diệt 127 kho chứa bom của
địch.Quân giải phóng không tiến đánh được một số mục tiêu theo kế hoạch như
Tiểu khu Biên Hòa, Tòa Hành chánh tỉnh, Ty Cảnh sát Biên Hòa. Tại xã Tân Thành,
lực lượng vũ tráng đánh chiếm công sở xã diệt đội dân vệ thu 24 súng nhưng không
triển khai tấn công vào nội ơ Biên Hịa được. Ở một số địa bàn nội ô và xã ngoại ô
thị xã Biên Hòa, các cơ sở mật treo cờ Mặt trận, rải truyền đơn kêu gọi nhân dân
nhưng không phát động được quần chúng nổi dậy .Tham gia chiến dịch xuân Mậu
Thân, mặt trận thị xã Biên Hòa đã loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 5.000 quân địch,
phá hủy và làm hư hại 120 máy bay, 127 kho bom của địch. Trước tình hình khó
khăn của chiến trường, sáng ngày 02 tháng 02 năm 1968 (mùng 3 Tết Mậu Thân),
Bộ Chỉ huy Mặt trận Biên Hòa cho lệnh rút quân ra ngoài địa bàn thị xã để bảo toàn
lực lượng và chuẩn bị cho những kế hoạch trong tình hình.
Chiến thắng Xuân Lộc
Một trong những chiến thắng oanh liệt của Quân sử Việt Nam Cộng Hòa là chiến
thắng Xuân Lộc. Chiến thắng này làm thế giới kinh ngạc và khâm phục. Oan khiên
Đầu tháng Tư 1975, sau khi Quân khu I và II gần như bị địch chiếm lần lượt từng
tỉnh một, Phan Rang và Xuân Lộc trở thành cửa ngõ để Cộng Sản Bắc Việt tiến vào
Saigon trên hai quốc lộ 1 và 20. Thị xã Xuân Lộc thuộc tỉnh Long Khánh là vùng núi
thấp đồi cao, rừng thưa với các đồn điền cao su.. Long Khánh nằm ở vị trí chiến lược
quan trọng vì nằm trên giao điểm hai quốc lộ 1 và 20. Đồng thời Xuân Lộc lại nằm
chặn trên đường giao liên giữa chiến khu C và D của Việt Cộng, với các mật khu của
chúng như Cù Mi, Xuyên Mộc, Mây Tào, Đất Đỏ của tỉnh Phước Tuy.
Như mặt trận Ban Mê Thuột trước đó, CSBV ln dùng chiến thuật biển người để tấn
công các cứ điểm của VNCH. Ở mặt trận Xuân Lộc CSBV tung vào chiến trường
Quân đoàn 4 gồm ba Sư đoàn 6, 7 và 341 cùng các lực lượng pháo binh, chiến xa,
phịng khơng hùng hậu và các đơn vị của Quân khu 7. Mặt trận này do Thiếu tướng
CS Hoàng Cầm là Tư lệnh, và Thiếu tướng Hồng Thế Hiệp là Chính uỷ. Cộng quân
đồng loạt mở cuộc tấn công từ 3 phòng tuyến : ngã Ba Dầu Giây, Thị xã Xn Lộc
và Gia Rai.
Về phía Việt Nam Cộng Hịa có Sư Đồn 18 Bộ Binh (Chuẩn Tướng Lê Minh Đảo, sau
được vinh thăng lên Thiếu tướng, là Tư lệnh), gồm các Trung đoàn 43 (Đại Tá Lê
Xuân Hiếu ), 48 (Trung Tá Trần Minh Công) và 52 (Đại Tá Ngô Kỳ Dũng), cùng các
lực lượng Địa phương quân Nghĩa quân. Sau đó các đơn vị tăng phái cho Xn Lộc
gồm có Tiểu Đồn 82 Biệt Động Quân, Lữ Đoàn 1 Dù (Đại Tá Nguyễn Văn Đỉnh Lữ
đoàn Trưởng và Trung Tá Lê Hồng Lữ đoàn Phó) gồm các Tiểu đồn 1, 2, 8, 9 và
Tiểu đồn 3 Pháo Binh Dù. Phần khơng yểm do Sư đồn 3 Khơng Qn từ Cần Thơ
đãm nhiệm. Tất cả các lực lượng trên đặt dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tướng Lê
Minh Đảo, Đại Tá Lê Xuân Mai Tư lệnh Phó SĐ18BB, Đại Tá Biệt Động Quân Phạm
Văn Phúc là Tỉnh trưởng Long Khánh.
Các đơn vị được bố trí như sau :
- Thị xã Xuân Lộc do Trung đoàn 43/SĐ18BB, Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân và các
Tiểu đoàn Địa phương quân bảo vệ.
- Mặt núi Chứa Chan, Gia Rai do Trung đoàn 48/SĐ18BB trấn giữ.
- Ngã Ba Dầu Giây: do Trung đoàn 52/SĐ18BB và một Thiết đoàn Chiến xa trấn giữ.
Tờ mờ sáng ngày 9/4, CSBV pháo kích vào Xuân Lộc với hơn ba ngàn pháo đủ loại
khiến dân lành vô tội chết và bị thương vô số. Đến 8:00 giờ pháo ngưng, Cộng quân
tấn công vào thị xã nhưng gặp sức kháng cự mãnh liệt của Trung đoàn 43 và lực
lượng Địa phương quân, nên đành phải chém vè bỏ tại chổ hơn trăm xác VC và
nhiều xe tăng T-45, PT-76 bị bắn cháy bởi hỏa tiển chống chiến xa M-72 và Không
quân oanh tạc.Sang ngày 10/4, CSBV dùng hai Sư đoàn 2 và 6 và lực lượng chiến xa
ào ạt tấn công khắp bốn mặt vào Xuân Lộc. Quân trú phòng VNCH chống trả ác liệt,
hai bên đánh từng ngôi nhà, từng con đường góc phố. Nhiều phịng tuyến có khi bị
mất và lấy lại nhiều lần. Các phi tuần phản lực F-5 yểm trợ quân bạn bên dưới hữu
hiệu. Cộng quân tổn thất nặng nề sau nhiều ngày giao tranh, khiến sau này trong
hồi ký Đại Thắng Mùa Xuân, Văn Tiến Dũng phải thú nhận.
Đến ngày 14/4, Lữ đoàn 1 Dù và Tiểu đoàn 3 Pháo Binh Dù được tăng cường cho
mặt trận Xuân Lộc, chưa được nghĩ sau khi rút từ miền Trung về. Cả hai Sư đồn 3
và 4 Khơng qn tận dụng tất cả khoảng gần 100 trực thăng hiện có để chuyển
quân Dù vào Xuân Lộc. Các đại bác Pháo đội Dù được Chinook thả quanh Bộ Chỉ
Huy Hành quân Dù đóng gần Bơ Tư Lệnh SD18BB. Hai Tiểu đồn Dù nhảy thẳng
trên trên tập trung chuẩn bị tấn công Bộ Tư Lệnh đầu địch đánh chiếm Bảo Định
trên quốc lộ 1, nơi hai Trung đồn địch thuộc Cơng trường 6 đang SD18BB. Đồng
thời một Tiểu đoàn Dù khác được trực thăng thả xuống khu vườn cây của cố Thống
tướng Lê Văn Tỵ Và phần còn lại được thả vào Xuân Lộc giải vây cho lực lượng Địa
phương quân Nghĩa quân và Bộ Chỉ Huy Tiểu khu Long Khánh.
Từ ngày 12 đến 14/4, Cộng quân mở cuộc tấn cơng mạnh vào Trung đồn 52 tại
Ngã Ba Dầu Giây bằng tăng công vượt trội của CSBV, phòng tuyến của Trung lộ 1 từ
Kiệm tràn ngập.
chiến trở nên vô cùng pháo hùng hậu và biển người. Với Chiến đồn 52 (do Đại Tá
Ngơ Kỳ Dũng chỉ huy), gồm Trung đoàn 52 và Địa phương quân Tiểu khu Kiệm Tân,
Long Khánh với Quân đoàn 4 CSBV, kể cả Sư đồn 341 vừa từ Thanh Hóa vào, do
Tướng Trần Văn Trà trực tiếp chỉ huy thay sức tấn Tân đến ấp Phan Bội Châu lần
lượt bị Chiều ngày 15/4 cuộc đoàn 52 SD18BB trên quốc ác liệt ngay tại xã Dầu
Giây, ngã ba quốc lộ 1 và 20 giữa Tướng Hoàng Cầm, sau khi Tướng Hồng Cầm
"nướng" qúa nhiều qn mà khơng chiếm được Xuân Lộc. Trong trận chiến long trời
lỡ đất này, mỗi người lính QLVNCH đã phải chống chọi với 10 quân Bắc Việt với tăng
pháo hùng hậu yểm trợ Chiến đoàn 52 bị thiệt hại nặng, thiết giáp pháo binh và
binh lính bị tổn thất nặng nề. Khi rút, quân ta chỉ còn vỏn vẹn 200 người.
từ phi trường Tân Sơn Nhất chở 2 quả bom Daisy Cutter 15,000 lbs thả xuống Ngã
Ba Dầu Giây, vùng tập trung quân Bắc Việt sau khi Chiến đoàn 52 tan rã, khiến gần
10,000 quân Bắc Việt cùng tăng pháo đang di chuyển trên quốc lộ 20 bị xóa sạch.
Được biết bom Daisy Cutter là loại bom khổng lồ, cân nặng 15,000 lbs, có kích thước
to như chiếc vận tải cơ C130. Bom này được dùng để khai hoang, mở bãi đáp cho
cấp Sư đoàn trong bất cứ địa thế nào và tầm sát hại với đường kính 5 miles.
Ngay sau khi QLVNCH sử dụng bom Daisy Cutter (lần đầu và cũng là lần cuối cùng),
Hà Nội tố cáo Hoa Kỳ xử dụng bom nguyên tử trên chiến trường Việt Nam. Nhưng
việc này đã làm chậm bước tiến của quân CSBV trong thời gian ngắn.
Sau đó, vì khơng nuốt được Xn Lộc cộng với tổn thất nặng nề, các đơn vị chủ lực
Cộng quân bỏ Xuân Lộc, dùng quốc lộ 20 tiến về Biên Hịa. Nhận định tình hình với
Biên Hịa sẽ là mặt trận kế tiếp, ngày 20/4 Tướng Nguyễn Văn Toàn cho lệnh bỏ
Long Khánh, rút Sư Đoàn 18 Bộ Binh rút về Biên Hòa. Để rút quân, các lực lượng
Qua cuộc chiến tại Xuân Lộc có thể nói đây là một trong những trận chiến đẫm máu
nhất của chiến tranh Việt Nam. Qua 12 ngày giao tranh ác liệt phòng tuyến Xuân
Lộc vẫn đứng vững, bằng xương máu của anh em Sư đoàn 18 Bộ Binh, Lữ đoàn 1
Dù, Biệt Động Quân, Thiết Giáp, Pháo Binh, Không Quân và các lực lượng Địa
phương quân Nghĩa quân Tiểu khu. Người lính QLVNCH khơng khuất phục trước
biển người, mưa pháo, tiếng gầm rú T-54 cày xé quê hương. Người lính trong gian
nguy vẫn bình tĩnh cầm M-72 đứng chờ xe tăng VC đến thật gần nhả đạn. Chiến
thắng này đã khiến cho các nhà báo ký gỉa ngoại quốc dù có thành kiến cũng phải
kinh ngạc, Tướng Cộng Sản phải khâm phục, nhìn nhận thất bại.
Và đây cũng là chiến thắng sau cùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trước khi bị
bức tử ngày 30 tháng Tư năm 1975.
<b>Câu 5. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc từ sau ngày miền Nam hoàn </b>
tồn giải phóng 30/4/1975; tỉnh Đồng Nai đã tạo nhiều thành tích ấn tượng về văn
hóa – lịch sử. Nêu ít nhất 5 cơng trình tiêu biểu và thời gian, ý nghĩa của các cơng
trình ấy.
Phố huyện Phước Chính, trơng ra sơng Phước Long, đền đài rộng rãi, tráng lệ với hai
Hội quán Phước Châu và Quảng Đông...”. Châu Đại Phố vốn là thương cảng Cù lao
C
Hiện nay, trên địa bàn Biên Hòa có nhiều ngơi chùa vốn được tạo dựng khá sớm,
trong đó có chùa Đại Giác tọa lạc ở vùng Cù lao Phố (nay thuộc xã Hiệp Hòa). Đây
là một trong những cơ sở tín ngưỡng được liệt hạng vào danh mục di tích lịch sử
cấp quốc gia. Kiến trúc chính hiện tồn của di tích theo lối chữ nhị và đã trải qua
nhiều lần trùng tu. Kiểu thức kiến trúc mặt tiền với lầu trống, lầu chng nhơ cao.
Phần chánh điện có khơng gian thống rộng với sự bài trí của một tập hợp tượng
thờ đa dạng. Đặc biệt, ở điện thờ chính có tượng Phật lớn so với các chùa trên địa
bàn Đồng Nai. Nội thất kiến trúc có nhiều bức hoành phi, câu đối. Nhà sư Thành
Đẳng phái Lâm Tê đời 34 được xem là người khai sơn ngôi chùa này.
còn nữa bởi những kẻ coi trọng sự tham lam hơn lòng thành chốn cửa thiền lấy
mất. Ngày nay, một tấm biển với nội dung của công chúa tặng ngày trước treo ở di
tích chỉ là “bản sao” như gợi nhớ về một người thuộc dịng Hồng gia cơng đức cho
chùa. Tương truyền, di tích chùa Đại Giác cịn gắn với chuyện tình cảm đầy sắc thái
của một phụ nữ xuất thân từ Hồng gia nhà Nguyễn. Chuyện kể thì dài nhưng
chung quy ở cái cách xử sự đầy cảm động của những người trong cuộc. Nhà sư
Thiệt Thành là người tài đức từng được vua Gia Long triệu ra kinh đô làm Tăng
cang chùa Thiên Mụ. Một phụ nữ hồng gia cảm phục rồi đem lịng u mến nhà
sư. Dù chính thân đã đạt được sự uyên thâm trong đạo pháp nhưng nhà sư vẫn lo
tránh những sắc trần có thể làm day dứt tâm cang trước sợi dây luyến ái mà người
phụ nữ đeo đuổi. Nhà sư từ biệt nơi kinh thành trở về Gia Định và sau đó là Biên
Hịa, nhập thất tại chùa Đại Giác. Trong một lần vào Gia Định rồi đến Biên Hòa với
chủ tâm gặp cho được nhà sư, Hồng cơ nhà Nguyễn đã quỳ gối, nài nỉ trước tịnh
thất của chùa. Nhiều lần như thế với sự nài nỉ của Hồng cơ nhìn thấy bàn tay của
Đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh cịn gọi là đình Bình Kính tọa lạc bên tả ngạn sơng Đồng
Nai, xưa kia thuộc ấp Bình Kính, thơn Bình Hồnh, tổng Trấn Biên, nay là ấp Nhị
Hòa, xã Hiệp Hòa, TP. Biên Hòa, đã được Bộ VH - TT - TT&DL xếp hạng là di tích
lịch sử cấp quốc gia (Quyết định số 457-QĐ ngày 25-3-1991). Đền thờ Nguyễn Hữu
Cảnh được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ XVIII, ban đầu ngơi đền có qui mơ
nhỏ, vách làm bằng ván, mái ngói âm dương, cách ngôi đền hiện tại khoảng 400m
về hướng Nam. Các tư liệu cho biết: ngôi đền được xây dựng lại lần đầu tiên vào
năm Tự Đức thứ tư (1851); đến năm 1923, đền được tái thiết lại ở địa điểm hiện
nay. Nguyễn Hữu Cảnh sinh vào năm 1650 tại Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh
Thanh Hóa trong một gia đình có nhiều bậc danh tướng đương triều. Ông là người
văn võ song tồn, lập được nhiều chiến cơng lớn và được chúa Nguyễn tin yêu,
Phía trước mỗi phần mộ đều có bia đá, khắc chữ Hán; chung quanh trang trí bởi các
đường hồi văn, biểu tượng âm dương, phía dưới đắp nổi dạng chân quỳ. Nội dung
các bia ở hai phần mộ Trịnh Hoài Đức nêu vắn tắt các danh, chức, phẩm hàm mà
Trịnh Hoài Đức được ban tặng, cùng người vợ của ơng; đồng thời có ghi cụ thể thời
gian là tháng 11 năm Ất Dậu, con cái là Trịnh Thiên Lễ Nhiên, Trịnh Thiên Nhiên
Bảo, Trịnh Thiên Bảo cùng lập bia.
Trịnh Hoài Đức sinh năm 1765 (Ất Dậu). Ơng cịn có tên là An, tự Chỉ Sơn, hiệu là
Cấn Trai. Tổ tiên ông là người Phúc Kiến, Trung Hoa, nối đời làm quan. Đến đời ông
nội Trịnh Hoài Đức, nhà Mãn Thanh nổi lên thay nhà Minh, vì bất hợp tác với tân
triều, gia đình ơng sang cư ngụ ở Việt Nam. Thân sinh Trịnh Hồi Đức là Trịnh
Khánh. Ơng nổi tiếng ham học, giỏi về thư pháp và có tiếng là cao cờ. Trịnh Khánh
kết duyên với cô gái Việt. Trịnh Hồi Đức mồ cơi cha từ khi 10 tuổi. Để tránh loạn
lạc, mẹ ông từ Qui Nhơn dời nhà đến vùng Phiên Trấn lập nghiệp. Tại đây, Trịnh
Hoài Đức được mẹ cho đến thụ giáo thầy Võ Tường Toản, một nhà nho thuần hậu,
đạo cao đức trọng nổi tiếng thời bấy giờ. Trịnh Hoài Đức chăm học, kết bạn với Lê
Quang Định, Ngô Nhơn Tĩnh. Cả ba người sau này trở thành những vì sao lấp lánh
trời Nam, được mệnh danh là Gia Định Tam gia. Năm 1788, Nguyễn Ánh mở khoa
thi ở Gia Định, cả ba ơng ra ứng thí và đỗ đạt. Trịnh Hoài Đức được bổ nhiệm và
lần lượt giữ chức Hàn Lâm viện Chế cáo, Điền Tuấn sứ huyện Tân Bình. Năm 1793,
ơng được sung chức Thị giảng Đơng cung (Hồng tử Cảnh) và dần được thăng lên
Tham tri Hộ bộ, coi việc quân lương. Vào năm 1802, Trịnh Hoài Đức được thăng
Thượng thư Hộ bộ cùng Ngô Nhơn Tĩnh, Huỳnh Ngọc Uẩn đi sứ Trung Hoa. Năm
1805, Trịnh Hoài Đức nhậm chức Hiệp lưu trấn Gia Định rồi Hiệp tổng trấn vào năm
1808. Tháng 12 năm 1813, Trịnh Hoài Đức từ cương vị Thượng thư Lễ bộ được
thăng làm Thượng thư Lại bộ. Năm 1816, Trịnh Hoài Đức lại được giữ chức Hiệp
tổng trấn Gia Định. Khi Nguyễn Ánh mất, Minh Mạng lên thay vào năm 1820, Trịnh
Hoài Đức được vua triệu về kinh phong làm Phó Tổng tài ở Quốc sử quán, rồi thăng
Hiệp biện Đại học sĩ, trật Tòng nhất phẩm, lãnh Thượng thư Lại bộ, kiêm lãnh
Thượng thư Binh bộ. Trịnh Hoài Đức với kiến thức sâu rộng, đức độ khiến kẻ sĩ
dân. Về phương diện văn hố, Trịnh Hồi Đức là nhà thơ, nhà viết sử lỗi lạc hàng
đầu của thời Nguyễn Trung hưng. Trịnh Hoài Đức để lại cho hậu thế một kho tàng
trước tác đồ sộ gồm thơ văn và các cơng trình nghiên cứu như: Gia định thành
thơng chí, Cấn Trai thi tập... Cơng trình khảo cứu Gia Định thành thơng chí là bộ địa
lý học – lịch sử giá trị trong kho tàng thư tịch cổ của nước ta. Bộ sách này ghi lại
đầy đủ nhất, toàn diện nhất diện mạo xứ Đồng Nai – Gia Định trong thời kỳ khai
phá, lập nghiệp của cư dân Việt. Lăng mộ Trịnh Hoài Đức đã được Bộ Văn hố -
Thơng tin - Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích lịch sử theo Quyết định số
1539/QĐ, ngày 27 - 12 -1990. Những thế hệ con dân xứ Biên Hoà - Đồng Nai ln
biết ơn và tự hào về Trịnh Hồi Đức, một tài năng lớn, một nhân cách lớn đã góp
phần đặt nền móng cho một vùng hào khí Đồng Nai – văn hóa Đồng Nai.
Đình Tân Lân
Đình Tân Lân, xưa kia thuộc thôn Tân Lân, huyện Phước Chánh, dinh Trấn Biên,
nay là phường Hồ Bình, thành phố Biên Hồ, tỉnh Đồng Nai. Đình toạ lạc giữa vùng
dân cư trên đường Nguyễn Văn Trị, mặt tiền hướng ra dịng sơng Đồng Nai lộng gió,
cách trụ sở Uỷ ban nhân dân tỉnh 500m về hướng tây bắc. Từ khi xây dựng, nhân
dân đã lấy tên gọi của thôn là Tân Lân (Xóm Mới) để đặt cho đình. Trải qua bao
thăng trầm của lịch sử, tên địa phương nhiều lần thay đổi nhưng tên đình vẫn tồn
tại cùng tháng năm. Tương truyền, ngun thủy đình Tân Lân là ngơi miếu nhỏ ở
thành Kèn do dân làng dựng lên từ thời Minh Mạng (1820 -1840) để tỏ lòng ngưỡng
75,5m2<sub>, bộ khung vì bằng gỗ, trên các xà ngang chạm khắc đề tài dơi, đào, hoa, </sub>
lá... biểu tượng cho sự phước thọ, trường tồn. Trên nóc trang trí đề tài “Lưỡng long
tranh châu nhật”, “Lý ngư hoá long”... biểu tượng cho sự thịnh vượng, như ý. Mặt
tiền mái đình là cả một cơng trình nghệ thuật đặc sắc tơ điểm cho nền trời xanh
thoáng đãng. Hằng trăm tượng người, vật bằng gốm sứ men xanh thể hiện các đề
tài cổ điển phương Đông một cách sinh động, tài hoa. Khó có ai ngờ rằng, gần một
trăm năm qua, những “Bát tiên q hải”, “Quan Cơng phị nhị tẩu”, những chuyện
tích thời chiến quốc, nhật nguyệt, lân phụng... sống động trên mái ngói, thi gan với
nắng mưa mà vẫn nguyên vẹn sắc màu và đường nét. Phần chánh điện chiếm diện
tích 487,5m2<sub>. Tơn nghiêm nhất là gian giữa với những hàng cột gỗ lim to dị thường, </sub>
với tượng thần uy nghiêm ngự trên ngai sơn son thếp vàng, với những cặp chim trĩ,
loan, phượng... bằng đồng đứng chầu trong tư thế duyên dáng và trang nghiêm.
Trước bàn thờ thần là bàn La liệt, tiếp đến là bàn hội đồng nội. Song song với bàn
La liệt và bàn hội đồng nội là hai bộ bát bửu bằng đồng. Hai gian bên thờ tả và hữu
ban. Dọc tường tả hữu có các bệ thờ Thái Giám, Hậu Hiền, Bạch Mã và Tiền Hiền.
Tồn bộ khung vì được làm bằng gỗ tốt, có cột chống ở giữa kiểu bình nước, được
lắp ghép với kỹ thuật mộng chốt và gắn dầu rái đảm bảo độ bền vững cao. Hậu
cung có diện tích 120m2<sub> được chia thành ba gian, chính giữa thờ Tiên sư, hai bên </sub>
thờ Tiền thứ Việt Nam và Tiền thứ Trung Hoa, được đặt trên bệ thờ bằng xi măng
lót gạch men xanh. Ngồi ra, sau đình cịn có khu nhà bếp nối liền với hậu cung,
kiến trúc đơn giản, là nơi nấu ăn của đình.
<b>Câu 6. Anh/ chị/ em tâm đắc điều gì hay một vấn đề nào đó trong những giá trị </b>
văn hóa, lịch sử của vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai. Hãy viết cảm nghĩ của bản thân
về điều tâm đắc đó.
Đến đây xứ ở lạ người
Con chim kêu phải sợ, con cá vùng phải kinh.