Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

su bien doi cac hinh thuc cuoi hoi trong hon nhan viet nam xua va nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.37 KB, 19 trang )

MỞ ĐẦU
Từ xa xưa, hôn nhân đã được coi là một vấn đề trọng đại trong cuộc đời
của mỗi người khi trưởng thành "tậu trâu, lấy vợ, làm nhà", đó là sự gắn kết giữa
hai con người lại với nhau để xây dựng một gia đình mới ấm no hạnh phúc….
Để hai người có thể chính thức trở thành vợ, thành chồng thì việc cưới hỏi được
xem là một hình thức vô cùng quan trọng nhằm công bố,thông báo cho họ hàng,
bạn bè, láng giềng biết việc kết hôn và chung vui với đơi trẻ cùng gia đình. Lễ
cưới gồm nhiều thủ tục được ơng bà ta coi trọng, vì vậy mà có nhiều thủ tục cịn
có nhiều bất cập. Cho tới ngày nay, lễ cưới vẫn là không thể thiếu khi hai người
tiến tới hôn nhân, nhưng do đất nước có nhiều biến chuyển, hịa mình với q
trình hội nhập với các nước bên ngoài, đặc biệt là sự du nhập của văn hóa
phương Tây khiến cho người ta có tư tưởng cởi mở, thoải mái hơn trước kia. Vì
vậy mà các thủ tục trong lễ cưới đã được đơn giản hóa đi nhiều mà vẫn khơng
làm giảm đi ý nghĩa thiêng liêng, trọng đại của ngày cưới.bên cạnh những nét
đẹp của phong tục cưới hỏi vẫn được gìn giữ thì hiện nay đã có những biến đổi
tiêu cực có thể làm mất đi những nét đẹp văn hóa truyền thống trong phong tục
này của người Việt. Vì vậy tôi đã quyết định lựa chọn vấn đề nghiên cứu :" sự
biến đổi các hình thức cưới hỏi trong hơn nhân Việt Nam xưa và nay " với mong
muốn là đưa ra được chi tiết những biến đổi trong hình thức cưới hỏi, nêu ra
được những nét đẹp và những gì cịn hạn chế trong hình thức cưới hỏi, đưa ra
phương hướng của vấn đề.

Page 1


NỘI DUNG
1. Tổng quan tài liệu
Đã có rất nhiều bài viết nói về sự khác nhau giữa hình thức cưới hỏi xưa và
nay, tuy nhiên lại khơng có nhiều bài nghiên cứu về vấn đề này. Chính vì vậy mà
bài làm chủ yếu tham khảo từ một số bài viết trên các trang mạng điện tử vì
những nghiên cứu chính thức chưa có nhiều.


Tuy vậy, qua đó chúng ta vẫn có thể hình dung một cách dễ dàng về những
hình thức cưới hỏi xưa và nay có sự khác nhau như thế nào và ý nghĩa của
những hình thức này qua một số bài viết của Nguyễn Thanh Phong với bài
“phong tục cưới xưa và nay” trên trang web của Cục Văn hóa cơ sở, bài viết của
tác giả Ngơ Phú ở mục KẾT NỐI XƯA & NAY báo Pháp luật số 44
( 23/7/2012 ) và bài viết “lễ cưới hỏi xưa và nay” trên trang web cuộc sống
việt…
Bài viết của tác giả Nguyễn Thanh Phong đã chỉ ra những khó khăn, phiền
hà gây tốn kém trong việc xây dựng hạnh phúc cho con cái trong giai đoạn xưa
và ngày nay lấy ví dụ điển hình ở nhiều nơi trong nước. Bài viết được bố cục
theo sự phát triển của dịng lịch sử từ xa xưa tới từng thời kì từ trước, sau cách
mạng tháng Tám, trong giai đoạn 1957-1958 tới khi hịa bình thống nhất (1975)
và ngày nay. Tác giả đã chỉ ra những biến đổi trong hình thức cưới xin và chủ
yếu đề cập tới những hình thức gây phiền hà, tốn kém trong việc dựng vợ gả
chồng cho con cái mình của nhiều gia đình mà chủ yếu là “ tình trạng một số cán
bộ, Đảng viên có chức, có quyền từ trên xuống dưới chưa thật sự gương mẫu
chấp hành Chỉ thị, Nghị quyết của cấp trên. Vẫn cịn tình trạng “vụ lợi” trong
việc cưới. Họ mời tràn lan tất cả các đại diện cơ quan, Ban, Ngành, đoàn thể và
bạn bè người thân đến chúc mừng.” trong giai đoạn hiện nay, gây ra nhiều lời
bàn tán không hay và suy nghĩ tiêu cực về lễ cưới-ngày lễ thiêng liêng của
những đơi vợ chồng trẻ.
Cịn với bài viết của tác giả Ngơ Phú, chúng ta có thể hình dung ra được sự
thay đổi của hình thức cưới xin từ xưa tới nay, những hình thức cưới xin, các thủ
Page 2


tục rườm rà gây phiền hà đã được cắt giảm đi cho phù hợp với lối sống hiện đại
ngày nay mà vẫn đảm bảo tính nguyên vẹn và thiêng liêng của lễ cưới Việt Nam,
cùng với đó tác giả đi giải thích một số hình thức được thực hiện trong ngày
cưới từ xưa mà ngày nay người ta vẫn còn lưu giữ như thủ tục mẹ chồng đón

con dâu hay “vì sao mẹ đẻ cơ dâu khơng tiễn con về nhà chồng?”
Một bài so sánh khác trên trang Cuộc sống Việt đã chia sẻ đó là những nghi
thức cưới hỏi xưa và nay được tác giả lấy ví dụ điển hình tại Hà Nội như một
minh chứng sinh động và chân thực về nghi thức cưới hỏi và sự biến đổi so với
trước kia của người dân ở đây.
Như vậy, chỉ với một vài bài viết các tác giả đã chỉ ra được những biến đổi
của hình thức cưới hỏi trong hôn nhân của người Việt từ xưa tới nay. Tuy nhiên,
các bài viết mới chỉ đề cập tới sự biến đổi trong một vài khía cạnh khác nhau mà
chưa đưa ra những lí giải cho sự thay đổi đó. Chính vì vậy mà bài nghiên cứu
này sẽ làm rõ hơn “sự biến đổi các hình thức cưới hỏi trong hôn nhân ở Việt
Nam xưa và nay”
2. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu tư liệu, phân tích tổng hợp các cơng trình liên
quan của các tác giả đi trước.
Phương pháp phỏng vấn sâu.
Câu hỏi phỏng vấn:
Bạn thấy hôn nhân hiện nay có sự thay đổi so với trước kia khơng? Nếu có
thì thay đổi như thế nào?
Theo bạn ngun nhân nào dẫn đến sự biến đổi đó? Theo bạn những biến
đổi trong hơn nhân hiện nay có những điểm tích cực và hạn chế như thế nào?
Đối tượng phỏng vấn: tập trung phỏng vấn những người đã kết hôn.
Tiến hành phỏng vấn tại công viên Cầu Giấy( 1 số địa điểm khác: quanh tổ
dân phố, tại nhà,...)
Phương pháp quan sát: kết hợp với phương pháp phỏng vấn sâu

Page 3


3. Những kết quả chính thu được.
3.1 Một số khái niệm cơ bản

Trước hết, để thấy được sự biến đổi trong hình thức cưới hỏi thì phải hiểu
những khái niệm quan trọng về vấn đề này như “hôn nhân” và “lễ cưới” là gì?
Dưới đây là những khái niệm mà bài làm xin được chỉ ra.
3.1.1 Hôn nhân
Hôn nhân là sự kết hợp đặc biệt giữa một nam và một nữ dựa trên nguyên
tắc bình đẳng, tiến bộ, một vợ một chồng nhằm xây dựng gia đình hịa thuận
,hạnh phúc và bền vững. Hôn nhân được khởi đầu bằng một sự kiện pháp lý là
kết hôn và kết thúc bằng một sự kiện pháp lý là li hôn (hoặc một trong hai người
chết). Trước đây, hôn nhân của đôi trai gái chủ yếu là do cha mẹ sắp đặt dựa trên
những cơ sở về đạo đức, môn đăng hộ đối về tuổi, nhà trai muốn chọn vợ cho
con thì xem chỗ nào môn đăng hộ đối, tuổi không xung khắc nhau mới mượn
người mối. Mối lái nói với cha mẹ người con gái nếu họ bằng long gả thì nhà
trai mới đem trầu cau đến dạm. Quan niệm “môn đăng hộ đối” được dựa theo
nguyên tắc địa vị xã hội và điều kiện kinh tế của nhà gái có thể thấp hơn nhà trai
nhưng khơng có chuyện ngược lại.
Tuổi tác cũng được xem là một tiêu chuẩn quan trọng (tuổi tác bố mẹ cơ
dâu chú rể) vì khi quan hệ thơng gia đã được xác lập thì sẽ thay đổi cách xưng
hơ giữa hai gia đình và tộc họ. Nếu như cách biệt tuổi q lớn thì người ta cũng
khơng làm thơng gia với nhau. Ngồi những tiêu chí trên thì người ta cịn chú
trọng đến tình trạng sức khỏe của gia đình, anh em trong gia đình, vấn đề dòng
họ như thế nào?
Các tiêu chuẩn này được đúc kết lại trong quan niệm “lấy vợ xem tông, lấy
chồng xem giống”. Hợp tuổi là tiêu chuẩn quan trọng thứ hai sau ‘môn đăng hộ
đối” trong việc kén rể, chọn dâu của các cụ ngày xưa. Việc xem tuổi ở đây
không phải là sự chênh lệch tuổi tác giữa hai người mà quan trọng là tuổi cầm
tinh con gì ở mỗi người tính theo hệ can chi của âm lịch (12 con giáp- xem có
Page 4


hợp nhau khơng, ví dụ nếu chồng tuổi chuột, vợ tuổi mèo thì họ sợ sau này “mèo

vồ chuột” người chồng sẽ bị vợ lấn át,…). Hơn nữa, nếu tuổi hai người hợp
nhau thì đồng nghĩa với việc gia đình hịa thuận, thậm chí ảnh hưởng tới đường
con cái, tính mạng của nhau… Quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, con
cái phải nghe theo sự sắp đặt của bố mẹ từ ngày xưa dường như đã trở thành nếp
suy nghĩ ở trong đầu con cái chính vì vậy mà hầu hết các cuộc hôn nhân ngày
xưa được áp đặt theo hình thức này mà khơng nhận được sự phản kháng nào từ
con cái dù cho có những cuộc hôn nhân mà cô dâu cho tới ngày cưới mới biết
mặt chồng mình. Chỉ có một số gia đình tại thành phố con cái được học tập và
sống trong môi trường hiện đại hơn so với nơng thơn thì có những đơi trẻ tự tìm
được người chồng, người vợ cho mình nhưng phải thơng qua sự đồng ý của cha
mẹ. Ngày nay, việc kết hôn của con cái chủ yếu là do đơi trẻ tự tìm hiểu kĩ càng
sau đó mới đưa về ra mắt bố mẹ và xin cưới. Tuy vậy, việc nghe theo sự sắp xếp
của cha mẹ vẫn cịn nhưng khơng cịn khắt khe như trước bởi cha mẹ sắp xếp
nhưng phải có sự vui vẻ chấp thuận của con cái khi cuộc hơn nhân đó mới
thành…
3.1.2. Lễ cưới
Lễ cưới hay đám cưới là một phong tục văn hóa trong hơn nhân nhằm
thơng báo rộng rãi về sự chấp nhận của xã hội và các bên thành hôn về cuộc hôn
nhân. Với ý nghĩa này, lễ cưới cịn được gọi là lễ thành hơn. Trước đây, người
Việt gọi lễ này là lễ rước dâu. Ngày nay, trong ngôn từ của đời sống thường
ngày người ta gọi là lễ cưới, hơn lễ. Đây là hình thức liên hoan mừng hạnh phúc
cơ dâu chú rể và hai gia đình. Đây là nghi lễ được xã hội quan tâm và thường chỉ
được tổ chức sau khi đã được chính quyền cấp giấy chứng nhận đăng kí kết hơn.
( theo từ điển Bách khoa toàn thư). Trong tâm thức người Việt thì lễ cưới có giá
trị cao hơn cả giấy chứng nhận kết hơn. Bởi lễ cưới là hình thức cơng bố, ra mắt,
tất cả những người xung quanh như họ hàng, làng xóm, bạn bè, cả cộng đồng
đều chứng kiến, minh chứng cho cuộc hôn nhân này và chỉ thông qua lễ cưới
người ta mới biết và công nhận đôi trẻ đã là vợ chồng. Cịn trong giấy đăng kí
Page 5



kết hơn thì chỉ có đơi trẻ và chính quyền là người chứng kiến, những người xung
quanh(họ hàng, làng xóm, bạn bè) không biết đến. Lễ cưới từ xưa tới nay chỉ
được tiến hành khi đã được xem xét kĩ ngày giờ sao cho phải là “ngày lành,
tháng tốt” có như vậy thì lễ cưới mới diễn ra thuận lợi và quan trọng hơn cả là
cuộc sống về sau của cơ dâu, chú rể mới may mắn, bình n và hạnh phúc… Họ
nhà trai sẽ phải chuẩn bị đầy đủ lễ vật (bánh phu thê, rượu, trầu câu, trái cây ) và
sang nhà gái đúng ngày giờ đã xem. Trong lễ cưới Việt Nam, thơng thường sẽ có
một bữa tiệc tổ chức tại gia đình(nhà hàng) để mời họ hàng, bạn bè tới chung
vui. Những người tới chung vui sẽ đem tặng các đồ mừng đám cưới hoặc là tiền
mừng(chủ yếu).
3.2. Lí thuyết áp dụng
Để giải thích cho nguyên nhân sự biến đổi của hôn nhân ở Việt Nam, bài
làm sẽ áp dụng lý thuyết để giải thích cho sự biến đổi này.
3.2.1. Lý thuyết trao đổi xã hội
Nguyên tắc của thuyết trao đổi là con người từ chối những hành vi phải chi
phí (trả giá) và tìm kiếm những thiết chế trong đó phần thưởng nhiều hơn chi
phí. Con người đã chọn phương án có hiệu quả nhất trên cơ sở nhận thức phần
thưởng và chi phí.Theo StevenL.Nock, thuyết này tập trung vào xem xét vấn đề
cho và nhận trong quá trình tương tác. Theo quan điểm của lý thuyết này, các cá
nhân hành động tuân theo nguyên tắc trao đổi các giá trị vật chất, tinh thần, sự
ủng hộ, tán thưởng, danh sự. Nói tóm lại, lý thuyết này cho rằng, con người ln
hành động một cách có chủ đích, có suy nghĩ để lựa chọn và sử dụng các nguồn
lực một cách duy lý nhằm đạt được kết quả tối đa và chi phí tối thiểu. Hành
động có xu hướng lặp lại nếu nó từng được thưởng trong q khứ, ngược lại
khơng có xu hướng lặp lại những gì được phát hiện khơng có phần thưởng. Tuy
nhiên, trong nghiên cứu này, việc áp dụng các định đề cũng có phần hạn chế,
định đề được áp dụng để giải thích đó là sự lựa chọn giữa phần thưởng và chi
phí. “Một điểm đáng chú ý là con người ln có xu hướng nhân bội giá trị của
kết quảhành động với khả năng hiện thực hóa hành động đó. Có nghĩa là con

Page 6


người sẽ quyết định lựa chọn một hành động nào đấy ngay cả khi giá trị của nó
thấp nhưng được bù lại, họ chọn hành động đó vì tính khả thi của nó rất cao” (tr
366, Lịch sử và lý thuyết xã hội học, Lê Ngọc Hùng).
3.2.2. Áp dụng lý thuyết trao đổi xã hội để lí giải sự chuyển biến của
hình thức hơn nhân ở Việt Nam.
Thuyết trao đổi xã hội cho rằng Cá nhân ln ln có sự tính tốn giữa
phần thưởng và chi phí. Mỗi một cá nhân khi lựa chọn một hành động ln có
sự tính tốn giữa chi phí mình bỏ ra và phần thưởng mình đạt được. Họ ln
hướng đến việc thực hiện hành động sao cho đạt được phần thưởng tối đa và chi
phí tối thiểu. Bởi vậy, trước khi đưa ra quyết định về một thủ tục nào đó hay hủy
bỏ nó người ta phải tính tốn kĩ xem những gì mà họ sẽ nhận được.
Sự tính tốn của các cụ ngày xưa với ngày nay có sự khác nhau cũng bởi
mơi trường sống của hai thời đại là khác nhau. Một bên chịu ảnh hưởng sâu sắc
của Nho giáo, bởi một hệ thống các thủ tục nghi lễ nên việc áp dụng nhiều thủ
tục khác nhau là cần thiết, đúng với lễ giáo được coi là chuẩn mực thì ngày nay,
sự du nhập của các nền văn hóa phương Tây khiến con người có tư tưởng, suy
nghĩ thối mái hơn, chịu sự hịa nhập của một số nền văn hóa mới nhanh gọn
hơn, tiện lợi hơn, và cũng bởi nền kinh tế thì trường người ta đua nhau lao vào
làm ăn kinh tế, vốn thời gian dành cho các phong tục rườm rà như trước kia
khơng cịn nhiều và hơn hết là nó khơng cịn phù hợp nên dần dần những gì
khơng cịn phù hợp với cuộc sống hiện đại sẽ được cắt giảm nhưng vẫn dựa trên
những tiêu chí đánh giá, những giá trị chuẩn mực của người Việt mà tuy có cắt
giảm những thủ tục rườm rà nhưng giá trị của ngày cưới vẫn được giữ nguyên,
nó vẫn mang ý nghĩa thiêng liêng, trọng đại nhưng ngày càng văn minh hơn, ít
tốn kém hơn.Người Việt chịu ảnh hưởng khá sâu sắc từ Nho giáo nên bị chi phối
rất nhiều bởi các hình thức lễ nghi rườm ra thậm chí là rắc rối.
Theo phong tục xưa, việc làm đầu tiên trước hơn nhân của một đơi trai gái

nào đó là lễ vấn danh. Lễ vấn danh thực chất là việc nhà trai đến nhà gái để hỏi
tuổi cô dâu tương lai rồi nhờ thầy xem xét xem có hợp tuổi chú rể không. Tác

Page 7


giả Ngô Phú cho biết, theo quan điểm lạc hậu thời xưa ở nhiều vùng nông thôn
các bé gái từ khi sinh ra tới khi trở thành thiếu nữ vẫn chưa được đặt tên bởi
quan niệm lạc hậu “trọng nam khinh nữ” của người xưa, “sau này làm con người
khác nên không cần vào sổ họ, sổ làng, chẳng đi đâu q lũy tre làng nên khơng
cần thiết phải có tên”, "con gái là con người ta". Chính vì vậy mà những cái tên
của các bé gái ngày xưa mà ngày nay chúng ta thường được kể lại thường
thường chỉ là cái Hĩm, cái Chĩnh… một nguyên nhân các bé gái không được đặt
tên tử tế nữa là do khi về nhà chồng họ sẽ được gọi theo tên chồng hoặc tên con.
Các ông bố bà mẹ không đặt tên con vì cái suy nghĩ như vậy đã ăn vào họ từ
thời các cụ ngày xưa, theo quan điểm Nho giáo Phong kiến, việc đặt tên con gái
là không cần thiết bởi có đặt hay khơng thì cũng khơng quan trọng vì con gái
khơng phải con mình, đã khơng có tên trong gia phả họ nhà mình, khi về nhà
chồng lại được gọi theo tên chồng, vậy cớ gì phải mất thời gian, suy nghĩ đặt
một cái tên mà chẳng được sự dụng. Vì vậy mà nhiều gia đình lựa chọn cách gọi
tên con gái bằng những cái tên phổ biến, dễ nhớ, những cái tên chung cho rất
nhiều bé gái giai đoạn này. Có như vậy mới xảy ra chuyện có nhữngngười khơng
biết mình trong hơn thú tên là gì. Ngày nay, từ khi lọt lịng, đứa trẻ đã được bố
mẹ đặt cho một cái tên đước viết trong giấy khai sinh, bởi hòa với lối sống hiện
đại những hủ tục, quan niệm xưa kia, quan niệm “trọng nam khinh nữ” đã được
đẩy lùi đáng kể, người con gái dần có vị thế đáng kể trong xã hội, chính vì vậy
cha mẹ rất quan tâm tới người con gái. Vì sự thay đổi ấy nên lễ vấn danh đã
được chuyển thành “dạm ngõ”, là dịp để nhà trai biết mặt cơ dâu tương lai.
Về tục thách cưới, vì người xưa cho rằng con gái được bố mẹ nuôi dưỡng
từ nhỏ cho tới khi trưởng thành, giờ lại gả con cho nhà người ta thì phải thách

giá để nhà trai thấy được giá trị của đứa con của mình. Bố mẹ mất cơng chăm lo,
ni dưỡng từ khi lọt lịng, khi lớn lên không giúp đỡ bố mẹ được nhiều việc
vậy nên các gia đình thường tính tốn rất kĩ xem họ sẽ thách cưới như thế nào
sao cho xứng với giá trị của đứa con của mình, để bố mẹ được nhận lại “phần
thưởng” nào đó so với cơng sức mà mình bỏ ra. Những thứ mà nhà gái yêu cầu
như vải vóc, quần áo, rượu, bánh, trầu cau, lợn, gà,… Bên cạnh những “phần
Page 8


thưởng” cịn có sự “trừng phạt”, đó là những gì mà con người không mong đợi.
Khi nhà gái thách cưới quá cao khiến nhà trai phải chạy ngược chạy xuôi lo cho
đủ lễ thách cưới rồi sau đó “vợ chồng son tha hồ “kéo cày trả nợ”” (theo tác giả
Ngô Phú). Việc này khiến cho nhiều đám cưới ngay từ khi thách cưới đã khiến
nghĩa vợ chồng, tình thơng gia bị sứt mẻ, là mầm móng cho nhiều mâu thuẫn về
sau. Ngày nay, tục thách cưới đã được giản tiện đi nhiều, khơng cịn khắt khe
như trước nữa, vì tất cả các bố mẹ đều quan trọng hơn là sự hạnh phúc của con
cái nên việc “thách cưới” chỉ mang giá trị tinh thần chứ không nặng về vật chất
như trước kia. Tục lệ này vẫn còn tới giờ mặc dù nó khơng mang ý nghĩa nhiều
như trước kia bởi người dân muốn giữ những nét truyền thống trong lễ cưới.
"Tôi thấy giờ thách cưới cũng đơn giản hơn rồi,"ăn" cho có lệ thơi chứ
quan trọng gì đâu...".
(PVS, nữ, nhân viên)
Thời xưa, chưa có đăng kí kết hơn, chưa có hơn thú thì khoản “nạp cheo” là
để thay thế cho những giấy tờ đó. Tức là nhà trai sẽ phải nộp cho làng xã bên
gái, kể cả đôi trai gái ấy ở cùng làng, cùng xã thì vẫn phải “nạp cheo”. Khoản
tiền ấy gần như tiền thuế nhà trai nộp để được công nhận trở thành rể trong làng
cô gái. Phong tục này có rất nhiều ý nghĩa, tuy nhiên do sự nhũng nhiễu của đám
hương lí trong làng xã nên ý nghĩa của nó đã bị suy giảm đi nhiều. Ngày nay
phong tục này khơng cịn tồn tại nữa, để được cơng nhận thì đơi trẻ chỉ cần ra
UBND phường, xã đăng kí mà khơng phải mất bất kì khoản phí nào. Tức là về

phía pháp luật khi đơi nam nữ có giấy đăng kí kết hơn họ sẽ được pháp luật công
nhận.
" bây giờ cứ giấy trắng mực đen mà đối chiếu thơi, có cái giấy đăng kí kết
hôn cũng tốt, sau này chắc nhiều việc cũng phải dùng tới nó đấy"
(PVS, nam, cơng nhân)
Đăng kí kết hơn trước đám cưới chia theo thời gian kết hôn

Page 9


Đ
Thời gian kết hơn
KKH
Trước
1976trước
1976
1986
đám
cưới
S
%
S
%
L
L
L
C

0


0

0

0

1987-1996

Sau 1996

S

S

%

1

1

L
1

ó

1,
1

K
hơng


5
7

T
ổng

%

1
00

5
7

9
9

1
00

1
00

9
9

8
8


1
00

98
,9

8
9

,9
5
2
10

0

9
8,1

5
3

1
00

(Nguồn:Bùi Thị Hương Trầm. 2008. Phong tục cưới hỏi (Nghiên cứu tại Tiền
Giang))
Thế nhưng “ quan niệm chung của tất cả các cặp đôi vẫn là kết hôn phải
được sự đồng ý của hai bên gia đình và thơng báo tới họ hàng và bạn bè”
( Truyền thống và hiện đại trong lễ cưới ở Việt Nam, trên trang marry.vn). Như

vậy, dù không phải “nạp cheo” mà chỉ cần đăng kí kết hơn là được cơng nhận trở
thành vợ chồng nhưng ngày nay giới trẻ vẫn mong muốn phải có sự đồng ý của
cha mẹ bởi họ nhận thấy rằng cuộc sống sau này của mình có hạnh phúc hay
khơng thì phải có sự chấp thuận từ phía gia đình thì cuộc sống mới hạnh phúc
lâu dài được. Giữa “chi phí” bỏ ra và “phần thưởng” nhận được giới trẻ đã cân
nhắc rất kĩ khi đưa ra quyết định ai sẽ là người bạn đời của mình sau này. Về
trang phục, trong lễ cưới ngày xưa “chàng rể mặc áo rộng xanh, bịt khăn đen, có
che lộng. Cịn nàng dâu cũng mặc áo rộng, đội nón thúng, cũng có lộng che” (lễ
cưới hỏi xưa và nay, trang Cuộc sống Việt). Cụ thể hơn nữa, các chàng rể mặc
áo thụng bằng gấm hay the màu lam, quần trắng ống sớ, búi tóc, chit khăn nhiều
Page 10


màu lam” ( Truyền thống và hiện đại trong lễ cưới ở Việt Nam,
marry.vn).“Trong đám cưới ngày nay, cô dâu chú rể mặc trang phục theo kiểu
phương Tây. Cô dâu mặc sorie trắng, chú rể mặc vest.Bộ váy cưới qua thời gian
cũng được cách tân vô cùng hiện đại và đem lại sự thoải mái cho các cô dâu.”
(marry.vn). Sự thay đổi trên cho thấy ngày nay người ta đã đón nhận phong cách
ăn mặc trong lễ cưới về trang phục của cô dâu theo phương Tây, bởi họ thấy
rằng, những trang phục này phù hợp hơn với cuộc sống năng động ngày nay,
vừa thoải mái lại đẹp mắt mà có nhiều kiểu dáng để các cơ dâu có thể lựa chọn
cho riêng mình.
"Đồ cưới bây giờ nhiều mà đẹp chứ, cô dâu được chọn lựa, tư vấn đủ kiểu
mà nói chung là trang phục thì mỗi cái có cái đẹp riêng của nó chứ...."
(PVS, nữ, cán bộ nghỉ hưu)
Trước khi đón dâu, cơ dâu cùng chú rể đến trước bàn thờ gia tiên của nhà
gái để khấu đầu làm lễ, niệm xin tổ tiên chấp nhận từ nay nên vợ nên chồng, phù
hộ cho trăm năm hạnh phúc. Khi bước ra cửa để về nhà chồng, cô dâu, chú rể
phải lễ tạ ông bà, cha mẹ của cô dâu. Thời xưa cả đôi tân hôn phải lạy hai lạy
nhưng ngày nay chỉ cần cúi đầu cung kính, thưa gửi có trước có sau đàng hồng.

Có thể thấy, so với lễ cưới ngày xưa thì lễ cưới ngày nay vẫn vậy chỉ có điều nó
được cắt bớt một số thủ tục rườm ra khơng phù hợp thay vào đó là những hình
thức đơn giản, nhanh gọn hơn nhiều, tránh bị cho là phiền phức khi mà ngày nay
mọi người ai cũng mong muốn nhanh chóng bởi họ cho rằng mình cịn có rất
nhiều thứ để lo, nhiều việc để làm. Hơn nữa, việc cắt giảm một số thủ tục không
phù hợp với hiện nay sẽ giúp tiết kiệm chi phí tối thiểu mà họ phải bỏ ra cho
đám cưới.
Một thủ tục quan trọng trong ngày cưới đó là thủ tục mẹ chồng đón con
dâu. Theo tác giả Ngơ Phú việc mẹ chồng ra đón con dâu có ý nghĩa rất hay.
Thời xưa, khi cơ gái về làm dâu cịn hồn toàn xa lạ bỡ ngỡ, chưa biết đâu là
buồng ngủ, đâu là phịng khách, đâu là bếp, vì vậy mẹ chồng niềm nở ra đón con
dâu dắt vào nhà là lẽ phải. Mới bước vào nhà chồng đã được tổ tiên, ông bà, cha
Page 11


mẹ chồng ban phước lộc dồi dào như nước và quan tiền chính là biểu tượng vốn
liếng của riêng mà mẹ chồng trao cho. Tuy nhiên ở một số địa phương khi con
dâu vừa vào đến thì mẹ chồng cầm chiếc bình vơi tạm lánh sang hàng xóm ít
phút. Tức là mẹ chồng đã xác định vai trò, trách nhiệm của con dâu sẽ về làm
chủ, mẹ chồng sẵn sang trao quyền trong nhà cho con dâu nhưng trao quyền chứ
khơng phải đoạt quyền vì việc mẹ chồng cầm chiếc bình vơi đi vì ý nghĩa thời ấy
bình vơi là tượng trưng cho bà chúa trong gia đình. Ngày nay, hầu hết mẹ chồng
đềuchọn phong tục lánh mặt khi con dâu con dâu bước chân vào nhà, khơng có
bình vơi thì mang theo hộp đựng nữ trang (cũng tương tự như chiếc bình vơi),
điều này tượng trưng cho quyền hành thật sự trong gia đình phải thuộc về mẹ
chồng. Có thể nói, dù trải qua bao thời gian, nhiều phong tục từ xưa tới nay vẫn
cịn gìn giữ gần như nguyên vẹn, bởi nhiều phong tục đã được ông bà ta đúc kết
từ lâu, hơn nữa tới ngày nay nó cũng khơng ảnh hưởng gì nhiều tới phong cách
sống của mọi người, người mẹ chồng vẫn có quyền hành cao trong nhà mặc dù
mối quan hệ mẹ chồng-nàng dâu ngày nay đã thoải mái hơn nhiều và hơn nữa,

truyền thống của người Việt ta là sự kính trọng người bề trên nên dù cho cuộc
sống có hịa nhập, thay đổi thế nào đi chăng nữa những người làm con vẫn phải
hiếu thảo, kính trọng, vâng lời bậc làm cha, làm mẹ.
Một điểm cần phải nhắc đến nữa là theo quan niệm ngày xưa, mẹ đẻ không
tiễn con về nhà chồng. phong tục này xuất phát từ việc ngày xưa, hình thức hôn
nhân là cưỡng ép, “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, thực ra nhiều gia đình người
cha quyết định mọi việc người mẹ chỉ biết tuân theo vì thế có nhiều trường hợp
người con gái khơng muốn nhưng vẫn phải nghe theo, người mẹ thấy con buồn
tủi vì bị ép buộc trong ngày vu quy mà cũng không thể làm gì được nên cũng
khóc theo con. Mà người ta quan niệm, ngày cưới là 1 ngày vui nhất của cuộc
đời, nếu khóc lóc, than thở thì sẽ khơng may mắn, sẽ xui xẻo, vì thế mà thành
phong tục khơng cho mẹ đi tiễn con gái về nhà chồng. Ngày nay, hơn nhân tự do
hơn, con cái tự tìm hiểu rồi kết hơn dựa trên tình u đơi lứa, cha mẹ chỉ tham
gia góp ý, hướng dẫn. Cùng với đó là sự thuận tiện của các phương tiện giao

Page 12


thơng nên người con có thể về thăm bố mẹ bất cứ lúc nào dù ở xa đến mấy.
Chính những điều đó mà nhiều địa phương đã bỏ qua tục này.
Q: Nhà bác có mấy a chị ạ, anh chị đã lập gia đình rồi chứ ạ?
H:Ừ,nhà bác có 2 anh chị thôi
Q: Thế lúc chị nhà bác đi lấy chồng bác có đưa dâu khơng?
H: Khơng, người ta bảo phải kiêng mà.
Q: Thế bác đã thấy mẹ đưa con gái về nhà chồng ở đâu chưa ạ?
H: Ừ, bây giờ cũng có rồi đấy nhưng ít lắm...
(PVS,nữ, giáo viên về hưu)
Một hình thức quan trọng trong lễ cưới đó là khi tổ chức lễ thành hôn xong,
đôi tân hôn phải quay lại nhà gái để làm lễ lại mặt tạ ơn “sinh thành dưỡng dục”
của bố mẹ vợ (lễ lại mặt). Ngày xưa, khi quay trở lại đôi tân hôn bắt buộc phải

mang theo lễ vật để tạ ơn gia tiên ông bà, cha mẹ, đi chào họ hàng thân nhân bên
nhà gái. Ngày nay trong trường hợp nhà gái ở xa xơi thì nhiều đơi tân hơn sẽ
được miễn lễ lại mặt. Có thể nói, phong tục này chính là tiền đề để hai gia đình
ngồi lại với nhau khiến tình thơng gia thêm gắn chặt và mở rộng, trao đổi kinh
nghiệm về việc tổ chức hôn lễ và bàn bạc về trách nhiệm của đôi bên trong việc
tác thành cuộc sống cho đơi trẻ trong tương lai.
Nói tóm lại, sự biến đổi một số hình thức trong hơn nhân ở gia đình Việt
Nam phụ thuộc vào nhiều yếu tố, đặc biệt là phong cách sống.Trong thời đại
mới ngày nay, sự du nhập của nền văn hóa phương Tây đã khiến cách nhìn nhận
các vấn đề xưa kia cởi mở hơn cùng với sự phát triển của nền kinh tế nên người
ta cũng thoải mái hơn trong nhiều lĩnh vực, cộng với đó là sự tất bật về mặt thời
gian nên nhiều thủ tục rườm rà trong ngày cưới xưa kia cũng được cắt giảm, tuy
nhiên nó vẫn giữ được những nét truyền thống xưa kia của người Việt, khơng hề
bị suy giảm đi. Những điều đó có được là do ngày nay, cá nhân biết lựa chọn
hành động nào mà anh ta nhận thức đầy đủ về nó nhất. Khi đó, anh ta sẽ tính
tốn đến hiệu quả của hành động để tìm được lợi ích tối đa. Và ở đây, khi các
phong tục rườm rà được giảm thiểu, lễ cưới tiến hành nhanh gọn hơn mà vẫn

Page 13


mang ý nghĩa thiêng liêng của nó, sự phiền hà giảm bớt giúp các cá nhân thoải
mái hơn rất nhiều…
3.3 Xu hướng của vấn đề trong tương lai
Ngày nay, quá trình hội nhập của nền kinh tế thị trường khiến người ta tiếp
nhận những luồng tư tưởng mới từ bên ngồi nhanh hơn và trên hết, mọi người
khơng cịn bị ép buộc trong một khuôn khổ lễ giáo như trước kia nữa. Các cá
nhân khi ra ngồi xã hội có thể làm quen, kết bạn với nhiều đối tượng thông qua
nhiều hình thức khác nhau, yêu nhau rồi cưới… nhưng trước hết đều có sự góp ý
từ phía gia đình. Hiện nay, ở mỗi địa phương khác nhau lại có một cách tổ chức

lễ cưới khác nhau hay trong chính gia đình, xuất phát từ phía đơi trẻ. Có những
đám cưới gây phiền hà, tốn kém, lãng phí mà người dân đã gọi là “vụ lợi”. Có
nơi, một số cán bộ có chức, có quyền đã lợi dụng chức vụ, quyền hành cá nhân
bày đặt tiệc cưới cho con mình đến vài ngày, mời rất nhiều người đến dự ( trong
đó có rất nhiều người dưới quyền) đến “chúc mừng hạnh phúc”. Như tác giả
Nguyễn Thanh Phong (Phong tục cưới xưa và nay) đã nhận xét “ Đây là hình
thức cấp dưới “hối lộ” cấp trên để lợi dụng lẫn nhau".Và tác giả cũng kể ra một
thực tế là đã có một vị Trưởng phịng “chính sách” ở một huyện, có con gái lấy
chồng đã tổ chức ăn uống linh đình tới 3 ngày liền, mời khách từ cấp tỉnh cuống
cấp huyện và xã tới “mừng hạnh phúc”, mà báo Nhân dân số ra ngày 07/01/2001
đã nêu trong một bài thơ châm biếm… Một ví dụ điển hình cũng được tác giả
nêu gia về ý đồ có tính “vụ lợi”, cách đây hơn chục năm, ở làng An Phú, xã
Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình có một gia đình tổ chức lễ cưới
vợ cho con trai, đã mời cả làng tới ăn cỗ cưới. Vì biết được ý đồ “vụ lợi”, dân
làng đã rủ nhau khồng đến, do đó, gia đình này phải đào hố để “chơn cỗ”. Đó là
mặt tiêu cực của hình thức cưới hỏi ngày nay, bởi nhiều người đã lợi dụng ngày
trọng đại của con cái mình là một dịp để “thu lời”.
"Tơi thấy giờ đám cưới người ta mời khách khứa đồng nghiệp là chủ yếu,
tổ chức to lắm chứ không như ngày xưa toàn người dân người làng với nhau"
(PVS, nữ, nội trợ)
Page 14


" Ui "trả nợ" ấy mà, tốn kém lắm, lương chỉ lo đi ăn cỗ thôi!!"
(PVS, nam, công nhân)
Điều này đã làm ảnh hưởng rất nhiều tới ngày lễ tốt đẹp của đơi trẻ, khiến
khơng ít người cảm thấy lễ cưới trở nên phiền hà và tốn kém. Tuy vậy, sau khi
Bộ Văn hóa – Thơng tin (nay là Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch) có thơng tư
hướng dẫn của các cấp các ngành về việc cưới hỏi theo nếp sống văn minh, lành
mạnh, cùng với phong trào xây dựng gia đình văn hóa, làng văn hóa thì phong

trào cưới hỏi đã có nhiều tiến bộ. Có rất nhiều đôi trai gái đã thực hiện phong
trào cưới hỏi theo nếp sống văn minh này bằng cách đến trụ sở UBND xã làm
thủ tục đăng kí kết hơn. Khi tổ chức thành hơn, họ mời đại diện Đồn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh ở cơ sở, tổ chức thành hôn với sự tham dự của bà
con, cô bác trong thơn xóm, họ hang nội tộc. Lễ cưới chỉ có trầu cau, bánh kẹo,
khơng có thuốc lá. Thậm chí khơng nhận phong bì “chúc mừng hạnh phúc”…
Như vậy, xu hướng trong tương lai của các hình thức cưới hỏi ở Việt Nam khơng
thể nói là sẽ ngày càng đơn giản, văn minh hơn hồn tồn, đó sẽ là vấn đề thời
gian và phụ thuộc vào cách quản lí của các cơ quan có chức năng, nếu khơng
làm chặt từ trên xuống. Nếu như việc cưới hỏi mang tính “vụ lợi” càng diễn ra
phổ biến thì ý nghĩa thiêng liêng của ngày cưới sẽ bị bóp méo đi đối với các thế
hệ sau, khơng cịn giữ được nét truyền thống như trước kia và ngược lại, nếu
hình thức cưới hỏi theo lối sống văn minh, hiện đại mới được diễn ra ngày càng
phổ biến, đơn giản hóa thì sẽ góp phần quan trọng trong việc giảm tình trạng “vụ
lợi”, “thừa cơ” để hối lộ cấp trên. Dù ngày nay hình thức cưới hỏi đã đơn giản
hơn nhiều so với trước kia nhưng cũngkhơng thể nói hình thức cưới hỏi như
trước kia là lạc hậu, phiền hà. Mà đó là nét đẹp trong văn hóa của dân tộc ta,
chẳng phải những người nước ngồi rất có hứng thú với hình thức cưới hỏi của
nước ta đó sao? Đó là vì hình thức cưới hỏi của nước ta có điểm khác biệt, có
nét riêng so với hình thức tổ chức cưới hỏi của họ. “điều này thể hiện giá trị tinh
thần của đám cưới truyền thống chúng ta. Giữ một lễ cưới đúng nghĩa: vừa phù
hợp với cuộc sống hiện đại, vừa giữ được những nét đẹp trong văn hóa truyền
Page 15


thống Việt Nam là một điều rất cần chú trọng cho các tân lang, tân nương ngày
nay.” (marry.vn).

Page 16



4. Kết luận
Như vậy, bài làm đã đề cập và lí giải các lí do có sự khác nhau trong hình
thức cưới hỏi của đám cưới xưa và nay thơng qua lý thuyết trao đổi để thấy rõ sự
thay đổi, giản tiện của các hình thức cưới hỏi của đời sống hiện đại mới. Nhằm
phù hợp hơn với sự du nhập của các luồng tư tưởng văn hóa mới ngày nay từ
các nước bên ngoài đặc biệt là từ phương Tây. Bài viết cũng chỉ ra xu hướng
phát triển của vấn đề trong tương lai, nó khơng chỉ phát triển theo một đường
thẳng mà chúng ta có thể vạch sẵn mà sẽ biến đổi theo những chiều hướng khác
nhau phụ thuộc vào nhận thức của mỗi cá nhân, cách tiếp cận vấn đề cũng như
cách quản lí, tuyên truyền lối sống văn minh trong đó có hình thức cưới hỏi văn
minh lành mạnh,…đặc biệt, phải cho người dân thấy, dù làm đám cưới đơn giản,
tiết kiệm nhưng vẫn không làm mất đi giá trị truyền thống, ý nghĩa thiêng liêng,
nét riêng của văn hóa Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế cũng như trong chính
tiềm thức của mọi người dân Đất Việt.

Page 17


Page 18


Danh mục tài liệu tham khảo:
Lê Ngọc Hùng, Lịch sử và lý thuyết xã hội học
Nguyễn Thanh Phong, Phong tục cưới xưa và nay, trang web Cục văn hóa
cơ sở.
/>name=News&opcase=detailsnews&mid=922&mcid=339&sub=&menuid=77
8
Ngơ Phú, bài viết trên báo Pháp luật số 44 ( 23/7/2012), mục “kết nối xưa
và nay”

Lê Thái Thị Băng Tâm, Xã hội học gia đình, 2012
Bài viết “Lễ cưới hỏi xưa và nay”, nguồn ItaExpress, trên trang báo
CuocsongViet.com.vn

/>
act=detail&mabv=22441&/Le-Cuoi-Hoi-Xua-va-Nay.csv
Truyền thống và hiện đại trong lễ cưới ở Việt Nam, marry.vn
/>Bảo Thắng, Những điều nên biết về phong tục Việt Nam, NXB.Văn hóaThơng tin
Bùi Thị Hương Trầm. 2008. Phong tục cưới hỏi (Nghiên cứu tại Tiền
Giang). Trong sách: "Gia đình nơng thơn Việt Nam trong chuyển đổi" do Trịnh
Duy Luân, Helle Rydstrom, Wil Burghoorn (chủ biên). Nxb Khoa học Xã hội.

Page 19



×