Website: Email : Tel (: 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ khi thực hiện đường lối đổi mới kinh tế năm 1986, nền kinh tế
Việt Nam đã có một sự chuyển mình đáng kể. Việc chuyển đổi từ nền kinh tế
tập trung sang nền kinh tế thị trường đã làm thay đổi nhận thức về tầm quan
trọng của lĩnh vực dịch vụ trong nền kinh tế. Và cùng với những thành tựu về
kinh tế nói chung, khu vực dịch vụ đã có những bước tăng trưởng vượt bậc
trong vòng 20 năm qua.
Nhìn chung, dịch vụ có bước tăng trưởng cả về quy mô, ngành nghề, thị
trường và đạt được nhiều tiến bộ về hiệu quả, kết quả với sự tham gia của
nhiều thành phần kinh tế. Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng trên
7,5%/năm; giá trị tăng thêm khoảng 7%/năm, riêng năm 2005 giá trị tăng
thêm đạt 8,5% tức là cao hơn mức tăng trưởng của GDP( 8,4%).
Lĩnh vực dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ thương mại đóng góp tỷ trọng
ngày càng lớn tổng thu nhập của quốc gia cũng như doanh thu của mỗi doanh
nghiệp. Hơn nữa, trong cơ chế mới dịch vụ là một khu vực đầy tiềm năng phát
triển, vì vậy khu vực này ngày càng thu hút được sự quan tâm, đầu tư của các
nhà kinh doanh.
Trước thềm WTO, Chính phủ đã xoá bỏ nhiều rào cản thương mại và
hoàn thiện dần nhiều cơ chế, chính sách, luật để tạo điều kiện cho nền kinh tế
hội nhập sâu, phát triển mạnh mẽ hơn nữa. Tiêu biểu là sự ra đời của luật
Thương mại và luật này sẽ được áp dụng từ 1/1/2006 đã thể hiện sự quan tâm
và nhận thức đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong lĩnh vực thương mại và
Đề tài: Phát triển các hình thức dịch vụ thương mại ở Việt Nam hiện nay
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
dịch vụ thương mại. Bởi phát triển dịch vụ thương mại còn có tác dụng hỗ trợ
và tạo điều kiện cho các ngành khác trong nền kinh tế phát triển.
Hiện nay, lĩnh vực dịch vụ hoạt động rất nhộn nhịp, bởi quy mô ngày
càng lớn, các thành phần kinh tế tham gia ngày càng đa dạng và các hình thức
thì ngày càng phong phú hơn. Vấn đề đặt ra là phát triển các hình thức dịch vụ
này đúng hướng cho phù hợp với thể chế kinh tế của nước ta và theo kịp xu
thế của thời đại. Nhận thức được điều này em quyết định chọn đề tài :”Phát
triển các hình thức dịch vụ thương mại ở Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu.
Để hoàn thành đề án nay em xin chân thành cám ơn sự giúp đỡ và
hướng dẫn tận tình của Tiến sỹ Nguyễn Thị Xuân Hương.
Hà Nội, tháng 4/2006.
CHƯƠNG I
Đề tài: Phát triển các hình thức dịch vụ thương mại ở Việt Nam hiện nay
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DỊCH VỤ TRONG
KINH DOANH THƯƠNG MẠI.
I.Dịch vụ và vai trò của dịch vụ trong kinh doanh
thương mại.
1. Khái quát về dịch vụ và sản phẩm dịch vụ.
a. Khát quát về dịch vụ.
Xã hội loài người tính đến nay đã trải qua năm hình thái kinh tế xã hội,
bắt đầu từ thời kỳ công xã nguyên thuỷ, rồi đến thời kỳ chiếm hữu nô lệ, thời
kỳ phong kiến, thời kỳ tư bản chủ nghĩa và hiện nay là thời kỳ xã hội chủ
nghĩa. Và dễ thấy rằng, cùng với chiều dài phát triển của lịch sử thì các ngành
kinh tế trong xã hội cũng phát triển theo với khối lượng hàng hoá ngày càng
phong phú và đa dạng hơn.
Để tồn tại trong một nền kinh tế thị trường đầy biến động như hiện nay,
buộc các doanh nghiệp phải khai thác tối đa nhu cầu của khách hàng cũng như
tìm mọi cách đáp ứng tốt nhất các nhu cầu đó. Và chưa khi nào lĩnh vực dịch
vụ thương mại lại có sự phát triển mạnh mẽ như hiện nay, doanh thu từ hoạt
động dịch vụ đã đem lại nguồn lợi nhuận rất lớn cho những doanh nghiệp nào
biết khai thác thị trường này và điều này đã biến dịch vụ thành một khu vực
kinh tế năng động và hoạt động hiệu quả hiện nay. Bên cạnh những ngành
dịch vụ truyền thống đã được biết đến thì ngày càng xuất hiện nhiều ngành
dịch vụ mới.
Vậy dịch vụ là gì?
Dịch vụ là một khái niệm đã xuất hiện từ lâu và đã trở nên phổ biến
trong nền kinh tế thị trường. Trong phân ngành kinh tế quốc dân ở Việt Nam
Đề tài: Phát triển các hình thức dịch vụ thương mại ở Việt Nam hiện nay
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
cũng như thế giới người ta chia ra làm ba nhóm ngành lớn là nông nghiệp,
công nghiệp và dịch vụ. Thế nhưng cho đến nay, khái niệm về dịch vụ vẫn
chưa được hiểu thống nhất và do đó có nhiều khái niệm khác nhau, nhưng
chưa có khái niệm nào được chấp nhận toàn cầu. Điều đó cũng thể hiện sự
phức tạp của lĩnh vực này. Chính sự đa dạng và phức tạp của hoạt động dịch
vụ cộng với sự phát triển phong phú, chưa được định hình rõ nét làm cho việc
định nghĩa dịch vụ trở nên khó khăn, phức tạp và khó thống nhất. Về định
nghĩa dịch vụ thì hiện nay có nhiều cách tiếp cận khác nhau, dưới đây là một
số định nghĩa tiêu biểu:
Theo Philip Kotler định nghĩa thì Dịch vụ là một giải pháp hay lợi ích
mà một bên có thể cung ứng cho bên kia, chủ yếu là vô hình và không dẫn đến
chuyển quyền sở hữu, việc thực hiện dịch vụ có thể gắn liền hoặc không gắn
liền với sản phẩm vật chất.
Theo định nghĩa này thì chúng ta đã được cung ứng sản phẩm dịch vụ
khi chúng ta đi xem phim, sửa xe máy, đi du lịch, đi cắt tóc hay đi xem các
buổi biểu diễn của các ca sĩ chuyên nghiệp… Cách định nghĩa này cho phép
chúng ta hiểu rõ hơn về sản phẩm dịch vụ trong việc so sánh nó với các sản
phẩm vật chất khác. Ngoài ra, còn có một cách định nghĩa khác về dịch vụ, đó
là quan điểm do Các Mác đưa ra, ông cho rằng: Dịch vụ là con đẻ của nền sản
xuất hàng hoá và khi nền sản xuất hàng hoá phát triển mạnh, đòi hỏi một sự
lưu thông trôi chảy, thông suốt và liên tục để thoả mãn các nhu cầu ngày càng
cao của con người thì dịch vụ phát triển.
Vậy là dưới một góc độ khác, Các Mác đã cho chúng ta thấy sự ra đời
của dịch vụ, bắt nguồn từ sản xuất hàng hoá và sự phát triển của nó gắn chặt
với sự phát triển của nền kinh tế” khi nền sản xuất hàng hoá phát triển mạnh
… thì dịch vụ phát triển”.
Đề tài: Phát triển các hình thức dịch vụ thương mại ở Việt Nam hiện nay
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Tiến sỹ Lê Thiền Hạ (Viện Nghiên cứu Thương mại) đưa ra định nghĩa
sau về dịch vụ: Dịch vụ là khái niệm để chỉ các ngành kinh tế mà quá trình
sản xuất của nó không tạo ra hàng hoá thông thường nhưng lại tạo ra dịch vụ
(hàng hoá đặc biệt) bằng cách đáp ứng nhu cầu của con người (cho người
khác) ngoài nhu cầu về hàng hoá do nông nghiệp và công nghiệp cung cấp.
Hiện nay, khi mà ngành dịch vụ thể hiện vai trò ngày càng quan trọng
trong nền kinh tế thì lại càng có nhiều quan niệm khác nhau về dịch vụ dưới
nhiều góc độ khác nhau. Sau đây chúng ta sẽ xem xét dịch vụ theo lý thuyết
kinh tế học. Theo lý thuyết này thì dịch vụ là một loại sản phẩm kinh tế nhưng
không phải là vật phẩm, mà là công việc của con người dưới hình thái lao động
thể lực, kiến thức, kỹ năng chuyên nghiệp, khả năng tổ chức và thương mại.
Ngoài ra, ta còn có thể hiểu về dịch vụ theo một cách chung nhất như
sau:
Theo nghĩa rộng thì lĩnh vực dịch vụ được coi là lĩnh vực kinh tế thứ ba
trong nền kinh tế, tức là các hoạt động dịch vu bao gồm toàn bộ các hoạt động
kinh tế nằm ngoài hai ngành công nghiệp và nông nghiệp. Ở nước ta, GDP
không được tính theo cách này tức là GDP của nước ta không bao gồm giá trị
của ngành xây dựng. Điều này khác hẳn với cách tính GDP ở các nước phát
triển, họ tính GDP theo cách hiểu này vì vậy tỉ trọng dịch vụ của họ đã cao lại
càng cao hơn, thường chiếm tới trên 60 % GDP hoặc GNP.
Còn theo nghĩa hẹp, dịch vụ là những hoạt động hỗ trợ cho quá trình
kinh doanh (bao gồm các hỗ trợ trước, trong và sau khi bán), là phần mềm của
sản phẩm được cung ứng cho khách hàng.
b. Những đặc điểm của sản phẩm dịch vụ.
Đề tài: Phát triển các hình thức dịch vụ thương mại ở Việt Nam hiện nay
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Về cơ bản có những sự khác biệt rất lớn giữa sản phẩm dịch vụ và sản
phẩm vật chất, chính sự khác biệt này sẽ ảnh hưởng quyết định đến việc xây
dựng các chiến lược marketing cũng như việc tuyển chọn nhân viên của các
nhà kinh doanh hoạt động trong lĩnh vực này.
-Tính vô hình hay phi vật chất: Dễ thấy tất cả các sản phẩm dịch vụ đều
vô hình, do vậy người ta không thể biết được chất lượng của dịch vụ trước khi
tiêu dùng chúng. Không những thế ngay cả chất lượng của dịch vụ cũng rất
khó đánh giá, vì nó chịu nhiều tác động của các yếu tố khác nhau như người
bán, người mua và cả thời điểm mua bán dịch vụ đó. Do vậy, để giảm bớt tính
không chắc chắn khi tiêu dùng dịch vụ, người mua thường tham khảo ý kiến
của những người đã tiêu dùng dịch vụ, hay họ có thể căn cứ vào địa điểm,
nhân viên, trang thiết bị, thông tin, biểu tượng hay giá cả. Do vậy, tính vô
hình của sản phẩm dịch vụ ảnh hưởng lớn đến việc tuyển chọn nhân viên cũng
như việc hoạch định chiến lược marketing của doanh nghiệp. Nhân viên làm
dịch vụ không những phải giỏi chuyên môn nghiệp vụ mà còn phải có khả
năng nhạy bén với thị trường, và hơn hết là phải làm cho khách hàng tin tưởng
vào chất lượng của sản phẩm dịch vụ do doanh nghiệp cung cấp, không những
thế họ còn có thể làm tăng chất lượng của sản phẩm dịch vụ.
Mặt khác, vì là sản phẩm vô hình nên nó có sự khác biệt rất lớn về chi
phí so với các sản phẩm vật chất, do vậy cơ sở để đánh giá chất lượng cũng
như tính toán giá thành của dịch vụ là rất khó.
-Tính không thể tách rời ra khỏi nguồn gốc: Tức là các sản phẩm dịch
vụ có quá trình sản xuất và tiêu thụ diễn ra đồng thời. Do vậy, khác với sản
phẩm vật chất, sản xuất xong mới tiêu thụ được mà ở sản phẩm dịch vụ quá
trình này phải diễn ra đồng thời. Dịch vụ không thể tách rời ra khỏi nguồn gốc
của nó cho dù đó là người hay máy móc. Đây cũng là một điểm hạn chế của
Đề tài: Phát triển các hình thức dịch vụ thương mại ở Việt Nam hiện nay
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ, vì vậy cần có những quan điểm chiến lược
khắc phục sự hạn chế này, ví dụ như nhân viên cung ứng dịch vụ có thể học
cách làm việc với những nhóm đông khách hàng, nhà cung ứng có thể tìm
cách làm giảm thời gian cung ứng dịch vụ hoặc mở rộng mạng lưới phân phối
bằng cách đào tạo nhiều người cung ứng dịch vụ hơn.
-Tính không ổn định và khó xác định chất lượng: Thực ra đây là vấn
đề chúng ta thường gặp phải đối với rất nhiều sản phẩm, song với sản phẩm
dịch vụ thì đặc điểm này biểu hiện rõ nét hơn cả. Vì chất lượng dịch vụ dao
động trong một khoảng rất rộng, nó còn tuỳ thuộc vào hoàn cảnh tạo ra dịch
vụ, ví dụ như nhân viên, thời gian và địa điểm cung ứng dịch vụ. Đơn giản
như trường hợp đối với một người thợ cắt tóc, anh ta không thể đảm bảo cắt
tóc cho tất cả mọi người đều đẹp như nhau bởi điều đó phụ thuộc vào khả
năng của anh ta, phụ thuộc vào tâm trạng của anh ta lúc cắt tóc cũng như phụ
thuộc vào cảm nhận của từng khách hàng …
-Tính không lưu giữ được: Dịch vụ không thể được cất trữ trong kho
để làm phần đệm cho sự thay đổi nhu cầu thị trường như các sản phẩm vật
chất khác. Chính vì vậy sản phẩm dịch vụ tuy không mất chi phí bảo quản
trong kho nhưng bên cạnh đó đặc điểm này còn gây nên nhiều hạn chế khác.
Sẽ không có gì đáng nói nếu nhu cầu về dịch vụ ổn định và dự đoán đựơc
chính xác nhưng nếu nhu cầu dịch vụ thay đổi thất thường thì doanh nghiệp
kịnh doanh dịch vụ sẽ gặp khó khăn rất lớn về khả năng huy động cơ sở vật
chất kỹ thuật và nhân lực. Do vậy, các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ cần
xây dựng kế hoạch vè nhu cầu thị trường thật chính xác để có các phương án
thích hợp khi nhu cầu thị trường thay đổi hoặc tăng cao. Giống như trong đợt
tết vừa qua hãng Hàng không Việt Nam đã phải thực hiện hàng loạt chuyến
Đề tài: Phát triển các hình thức dịch vụ thương mại ở Việt Nam hiện nay
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
bay không tải từ miền Nam ra miền Bắc, bởi nhu cầu đi một chiều từ miền
Bắc vào miền Nam sau tết tăng quá cao.
Tất cả các đặc điểm trên đã tạo nên những nét đặc thù cho các doanh
nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ. Nếu như trong tiêu chí kinh doanh
của mình các doanh nghiệp sản xuất cần 4Ps gồm Product, Price, Place,
Promotion thì doanh nghiệp dịch vụ cần tới 5Ps , gồm cả bốn chữ P ở trên
cộng với chữ P thứ năm đó là People (con người). Điều này càng cho thấy rõ
tầm quan trọng của nhân tố con người trong lĩnh vực dịch vụ và nó cũng cho
thấy vấn đề này đã nhận được sự quan tâm đúng mức từ phía nhà quản trị
doanh nghiệp.
2.Vai trò của dịch vụ thương mại.
Như Các Mác đã định nghĩa thì dịch vụ là “con đẻ của nền sản xuất
hàng hoá” và khi sản xuất hàng hoá phát triển thì dịch vụ phát triển theo. Ngày
nay, khi nền sản xuất hàng hoá đã chuyển sang nền kinh tế thị trường thì dịch
vụ và các hình thức của nó cũng phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau vô
cùng phong phú. Điều đó thể hiện ảnh hưởng của hoạt động dịch vụ ngày càng
lớn trong cả đời sống và trong kinh doanh. Như vậy, dịch vụ chính là các loại
hình hoạt động có mục đích nhằm phục vụ cho các nhu cầu của dân cư, hoặc
trợ giúp, hoàn thiện, tiếp tục quá trình sản xuất kinh doanh. Tất nhiên mục
đích của hoạt động dịch vụ là để thu lợi nhuận thông qua việc thoả mãn nhu
cầu khách hàng.
Dịch vụ thương mại chỉ là một nhánh của hoạt động dịch vụ. Dịch vụ
thương mại bao gồm tất cả các hoạt động nhằm hỗ trợ cho quá trình kinh
doanh của doanh nghiệp, bao gồm hỗ trợ trước, trong và sau khi bán, có thể đi
kèm sản phẩm hoặc không.
Đề tài: Phát triển các hình thức dịch vụ thương mại ở Việt Nam hiện nay
8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Trong các doanh nghiệp sản xuất bên cạnh quy trình công nghệ đã có
theo thiết kế ban đầu đã xuất hiện thêm nhiều hoạt động phụ trợ để thúc đẩy
quá trình tiêu thụ và tạo thương hiệu cho sản phẩm. Đó chính là các loại hình
dịch vụ của người sản xuất như bao gói, ghép đồng bộ, quảng cáo sản phẩm,
cung cấp phụ tùng hay đến tận nơi để lắp đặt sản phẩm…Tuy nhiên hiện nay
khi chuyển sang cơ chế thị trường các doanh nghiệp sản xuất thường có xu
hướng chuyển một hoặc toàn bộ số hoạt động dịch vụ trên cho các doanh
nghiệp thương mại. Do vậy, doanh nghiệp thương mại ngoài việc bán hàng
còn thực hiện quá trình tiếp tục sản xuất trong khâu lưu thông và sự chuyên
môn hoá này ngày càng tỏ ra hiệu quả. Chính điều này đã tạo nên một xu
hướng dịch vụ tập trung trong khâu lưu thông. Và dịch vụ thương mại ngày
càng có cơ hội phát triển song song với sự phát triển nhanh chóng của nền sản
xuất vật chất.
Vậy dịch vụ thương mại có vai trò rất lớn đối với các đơn vị sản xuất
vật chất, ngoài ra thực hiện tốt hoạt động dịch vụ còn giúp cho các doanh
nghiệp thúc đẩy đựơc hoạt động bán hàng diễn ra nhanh hơn do rút ngắn thời
gian ra quyết định của khách hàng. Vì vậy, nó giúp đẩy nhanh tốc độ lưu
chuyển hàng hóa tiển tệ, kinh doanh đạt hiệu quả cao hơn xét cả ở tầm vĩ mô
và vi mô. Ngoài ra, đẩy nhanh hoạt động dịch vụ thương mại còn giúp doanh
nghiệp tạo được rào chắn vững chắc ngăn cản sự xâm nhập của đối thủ cạnh
tranh vào khu vực thị trường của mình, giúp việc phát triển thị trường cho các
doanh nghiệp và giữ thị trường này phát triển ổn định. Dịch vụ ngày càng
chiếm vị trí trọng yếu trong từng nền kinh tế quốc dân và là yếu tố quan trọng
đóng góp vào mức tăng trưởng của kinh tế thế giới. Năm 2001 ngành dịch vụ
đã tạo nên 72% GDP cho các nước phát triển và gần 52% GDP cho các nước
đang phát triển. Nhà nước ta hiện nay đang có nhiều chủ trương chính sách
nhằm phát triển khu vực dịch vụ, để khu vực này sẽ tạo động lực cho các khu
Đề tài: Phát triển các hình thức dịch vụ thương mại ở Việt Nam hiện nay
9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
vực khác, tạo bước nhảy vọt về phát triển kinh tế trong thời kỳ tới. Điều này
cũng cho thấy tầm quan trọng rất lớn của lĩnh vực dịch vụ đối với nền kinh tế
quốc dân. Ngành dịch vụ phát triển khá nhanh và thu hút nhiều lao động trong
xã hội, tuy nhiên theo đánh giá lao động nước ta hoạt động trong lĩnh vực dịch
vụ chỉ chiếm 25%. Hiện nay sức ép mỗi năm Việt Nam cần tạo ra khoảng 1.7
triệu việc làm mới, nhưng ngành nông nghiệp và công nghiệp mỗi năm chỉ tạo
ra tối đa khoảng 1.1 triệu việc làm nên áp lực tăng trưởng của ngành dịch vụ là
rất lớn. Ngoài ra, ngành dịch vụ hay dịch vụ thương mại ohát triển còn có tác
dụng là tạo ra môi trường phát triển tốt cho các ngành khác trong nền kinh tế,
bởi hiện tại chi phí dịch vụ viễn thông, vận chuyển …của nước ta vẫn còn cao
so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
II. Các loại hình dịch vụ thương mại và các nhân tố ảnh
hưởng đến dịch vụ thương mại.
Cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hóa thì dịch vụ thương mại
cũng phát triển rất đa dạng, phong phú cả về quy mô và hình thức. Nó xuất
hiện ở tất cả các khâu của quá trình tiêu thụ sản phẩm, cả trước, trong và sau
khi bán hàng. Trước khi bán hàng, đó là quá trình dịch vụ thương mại làm
công việc chuẩn bị thị trường tiêu thụ, khuyếch trương thanh thế gây sự chú ý
của khách hàng. Còn dịch vụ trong khi bán hàng nhằm chứng minh sự hiện
hữu của doanh nghiệp với khách hàng, thể hiện sự tôn trọng với khách hàng
cũng như xây dựng niềm tin với khách hàng, khẳng định chất lượng và giá trị
của sản phẩm đã cung cấp. Dịch vụ sau khi bán hàng nhằm tái tạo nhu cầu cho
khách, bảo vệ thương hiệu cho sản phẩm cũng như các dịch vụ chăm sóc
khách hàng, đây chính là khâu giữ khách hàng và biến họ trở thành khách
hàng trung thành cho doanh nghiệp của mình. Sau đây là một số loại hình dịch
vụ thương mại chủ yếu thường gặp.
Đề tài: Phát triển các hình thức dịch vụ thương mại ở Việt Nam hiện nay
10
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
a.Dịch vụ trong lĩnh vực lưu thông bổ sung (mang tính sản xuất).
-Bán hàng và vận chuyển hàng theo yêu cầu của khách: Đây là những
hoạt động bình thường của một doanh nghiệp thương mại, song ở Việt Nam
hoạt động vận chuyển hàng vẫn chưa được chú trọng nhiều, nó chưa tạo ra
nguồn thu chủ yếu cho doanh nghiệp như ở các nước phát triển mà chủ yếu
chỉ là cung cấp dịch vụ vận chuyển hỗ trợ quá trình bán hàng của doanh
nghiệp mình. Điều này ngược hẳn so với ở các nước phát triển, hình thức dịch
vụ bán và vận chuyển hàng theo yêu cầu của khách rất phát triển tạo ra nguồn
thu chủ yếu tới 80% doanh thu cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực này.
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh là một
đơn vị hạch toán độc lập, tự tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh của mình.
Do vậy, trong nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì hoạt
động bán hàng khâu quan trọng mấu chốt nhất. Bởi chỉ có bán được hàng thì
doanh nghiệp mới có thể thu hồi được vốn kinh doanh, thực hiện các mục tiêu
kinh doanh và tiếp tục mở rộng sản xuất kinh doanh.
Dịch vụ này của doanh nghiệp thương mại sẽ tạo nên sự chuyên môn
hoá cao trong sản xuất và cung ứng dịch vụ. Nó giúp cho doanh nghiệp sử
dụng hợp lý sức lao động cũng như phương tiện vận tải, góp phần làm giảm
chi phí lưu thông do chuyên môn hoá cao và tác phong chuyên nghiệp trong
hoạt động dịch vụ. Thực hiện hoạt động này doanh nghiệp cung ứng dịch vụ
cũng có thể thực hiện công tác nghiên cứu thị trường.
-Chuẩn bị hàng hoá trước khi bán và đưa vào sử dụng: Đây là khâu
hậu cần trong hoạt động thương mại bởi có rất nhiều sản phẩm trước khi đưa
vào sử dụng hay bán thì phải qua giai đoạn chuẩn bị cho thích dụng với nhu
cầu tiêu dùng. Ví dụ, với một số loại rau quả cao cấp trước khi đưa ra thị
Đề tài: Phát triển các hình thức dịch vụ thương mại ở Việt Nam hiện nay
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
trường thì người sản xuất hoặc doanh nghiệp thương mại phải đóng gói và cân
sẵn.
Dịch vụ này cho phép tiết kiệm trong tiêu dùng do hàng hóa đã được
chuẩn bị cho phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng nên tiết kiệm thời gian
và công sức của khách hàng, hơn nữa năng suất lao động cũng được nâng cao,
góp phần hạ giá thành, giúp cho vận chuyển và thanh quyết toán được đơn
giản hơn.
-Dịch vụ kỹ thuật khách hàng: Đây là dịch vụ giới thiệu hàng, hướng
dẫn khách hàng mua và bảo dưỡng máy móc thiết bị…
Dịch vụ này góp phần tạo sự tin tưởng cho khách hàng vào sản phẩm mà
doanh nghiệp kinh doanh thông qua chế độ bảo hành, bảo dưỡng…Thực hiện
tốt hoạt động này doanh nghiệp không chỉ tăng doanh thu mà doanh số bán
hàng cũng tăng lên. Dịch vụ này ở nước ta đang ngày càng được chú trọng và
đầu tư trong các doanh nghiệp thương mại, nó góp phần làm thay đổi diện
mạo của nền thương mại nước nhà, làm tăng tính chuyên nghiệp của hoạt
động thương mại và bán hàng.
-Dịch vụ cho thuê máy móc thiết bị : Hình thức dịch vụ này chỉ thích
hợp với các cơ quan nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, thiết kế, xây dựng thi
công…Ở các cơ quan này cần dùng đến nhiều loại máy móc, thiết bị có giá trị
cao nhưng thời gian sử dụng lại ít nên họ thường sử dụng dịch vụ này. Hiện
nay ở nước ta xuất hiện một hình thức cho thuê tài sản máy móc dưới dạng
cho thuê tài chính. Dịch vụ này mới được triển khai hoạt động ở nước ta
nhưng tỏ ra rất khả quan và đem lại hiệu quả kinh tế cao. Về cơ bản ta có thể
hiểu là: Cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng trung, dài hạn thông qua
việc cho thuê máy móc thiết bị và các động sản khác. Các công ty cho thuê tài
chính sẽ mua hàng, tài sản theo yêu cầu của doanh nghiệp thuê và sở hữu đối
Đề tài: Phát triển các hình thức dịch vụ thương mại ở Việt Nam hiện nay
12
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
với tài sản cho thuê trong suốt thời hạn thuê. Bên thuê phải trả vốn gốc và lãi
thuê trong suốt thời gian thuê theo hợp đồng. Khi hết hạn thuê, doanh nghiệp
thuê tài chính được chuyển quyền sở hữu đối với tài sản đã thuê.
-Dịch vụ giao nhận hàng: Dịch vụ này có sự khác biệt rất lớn so với
dịch vụ vận chuyển hàng theo yêu cầu của khách, nếu dịch vụ giao nhận hàng
là dịch vụ kèm theo của bán hàng thì dịch vụ này là một loại hình dịch vụ độc
lập. Trong đó, người cung cấp dịch vụ chỉ chịu trách nhiệm nhận hàng từ
người gửi rồi tổ chức vận chuyển, lưu kho, làm các thủ tục giấy tờ và các dịch
vụ khác có liên quan để giao hàng cho người nhận theo sự uỷ thác của chủ
hàng, của người vận tải (của khách hàng).
Hiện nay ở Việt Nam đã xuất hiện hệ thống dịch vụ logistics, tuy mới
xuất hiện nhưng nó đã thể hiện ưu thế vượt trội hơn so với các dịch vụ vận tảỉ
thông thường. Có khá nhiều cách hiểu về dịch vụ này, nhưng theo cách tiếp
cận của Hội đồng quản lý Logistics (The Council of Logistics Management
CLM in the USA), khái niệm này được hiểu như sau: Logistics là một bộ phận
của dây chuyền cung ứng, tiến hành lập ra kế hoạch, thực hiện và kiểm soát
công việc chu chuyển và lưu kho hàng hoá, cùng các dịch vụ và thông tin có
liên quan từ địa điểm xuất phát (0) đến nơi tiêu dùng (D) một cách hiệu quả
nhằm đáp ứng những yêu cầu của khách hàng. Cách định nghĩa khái niệm
“Logistics” như vậy hiện nay được tiếp nhận một cách rộng rãi, bởi vì với
cách tiếp cận này đã liên kết chặt chẽ nhiều lĩnh vực của Logistics với thị
trường, mà điều quan trọng nhất là đã thừa nhận khách hàng là “thượng đế”.
Trước đây, muốn vận chuyển hàng hoá đi từ nước này sang nước khác
để bán thì những hàng hoá này phải qua tay người vận tải và nhiều phương
thức vận tải khác nhau. Do vậy, xác suất rủi ro mất mát đối với hàng hoá là rất
lớn, người gửi hàng phải ký nhiều hợp đồng vận tải riêng biệt đối với từng
Đề tài: Phát triển các hình thức dịch vụ thương mại ở Việt Nam hiện nay
13
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
người vận tải thực sự, trách nhiệm của mỗi người vận tải theo đó chỉ giới hạn
trong chặng đường, hay dịch vụ do anh ta đảm nhiệm mà thôi. Cách mạng
container hoá trong vận tải vào những năm 60, 70 của thế kỷ XX đã đảm bảo
độ an toàn và độ tin cậy trong vận chuyển hàng hoá, đây chính là tiền đề cho
việc vận chuyển hàng hoá đa phương thức. Do yêu cầu của thực tế, khách
hàng cần một tổ chức có thể thực hiện toàn bộ các công đoạn để tiết kiệm chi
phí, tối thiểu hoá hao phí thời gian, từ đó nâng cao lợi nhuận. Những người
thực hiện dịch vụ này không chỉ làm giao nhận mà còn làm luôn cả công tác
lưu kho, dán nhãn hiệu, đóng gói bao bì, bảo hiểm cho chủ hàng nữa.
Ngày nay, dịch vụ logistics được thực hiện với sự chuyên môn hoá rất
cao, đó là do các công ty giao nhận kho vận đã nhận thức được rằng: chi phí
của hoạt động lập kế hoạch, sắp xếp và chuẩn bị mọi mặt cho hàng hóa để sẵn
sàng chuyên chở và chi phí vận chuyển đơn thuần có mối quan hệ chặt chẽ,
tác động với nhau trên nhiều khía cạnh. Nếu biết công nghệ tin học để tổ chức
tốt và chặt chẽ các khâu này, thì giá thành hàng hoá sẽ giảm đáng kể, do vậy
năng lực cạnh tranh được nâng cao. Vì vậy, logistics không phải là một dịch
vụ đơn lẻ (do vậy thuật ngữ này luôn ở dạng số nhiều Logistics, dù là danh từ
hay động từ không bao giờ người ta viết Logistic). Logistics luôn là một chuỗi
các dịch vụ về giao nhận hàng hoá như: làm các thủ tục giấy tờ, tổ chức vận
tải, bao bì đóng gói, ghi nhãn hiệu, lưu kho lưu bãi, phân phát hàng hoá tới các
địa chỉ khác nhau, chuẩn bị cho hàng hóa luôn trong sẵn sàng nếu có yêu cầu
của khách.
Từ sự phân tích ở trên ta dễ nhận thấy rằng dịch vụ logistics thực chất là
sự phát triển ở giai đoạn cao của các khâu dịch vụ giao nhận kho vận, trên cơ
sở tận dụng các ưu điểm của công nghệ tin học để điều phối hàng hoá từ khâu
tiền sản xuất tới tận tay người tiêu dùng. Do ưu điểm của dịch vụ này đối với
Đề tài: Phát triển các hình thức dịch vụ thương mại ở Việt Nam hiện nay
14
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nền kinh tế cũng như đời sống xã hội mà ngày càng có nhiều công ty dịch vụ
logistics ra đời cũng như có các công ty hoạt động trong lĩnh vực giao nhận
kho vận đổi tên thành công ty cung cấp dịch vụ Logistics.
Tóm lại, để hiểu rõ hơn về dịch vụ Logistics ta có thể hiểu như sau:
Dịch vụ logistics (hay dịch vụ tiếp vận) là dịch vụ thương mại. Theo đó, người
làm dịch vụ này, trên cơ sở sự uỷ thác của chủ hàng, người vận tải, hoặc làm
dịch vụ tiếp vận khác (gọi chung là khách hàng) tổ chức thực hiện một hoặc
một số, hoặc tất cả các công việc về vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm các thủ
tục hải quan, lập các chứng từ và làm các dịch vụ khác có liên quan tới hàng
hoá, kể cả đóng gói bao bì, ghi mã số mã hiệu và phân phối hàng hoá trong
quá trình từ khâu sản xuất đến tay người tiêu dùng cuối cùng.
b. Dịch vụ trong lĩnh vực lưu thông thuần tuý ( thương mại thuần tuý).
-Chào hàng: Đây là hình thức dịch vụ mà các doanh nghiệp thương mại
thực hiện thông qua việc tổ chức các điểm bán hàng hoá trực tiếp cho khách
hàng hoặc tổ chức một đội ngũ nhân viên chuyên đi chào hàng giới thiệu sản
phẩm. Hình thức chào hàng thì có nhiều song mục đích chào hàng thì chỉ có
một, đó là tạo sự biết đến của khách hàng với sản phẩm của doanh nghiệp, sau
đó là sự ưu thích và khuyến khích sự tiêu dùng hàng hoá này của khách hàng.
Chào hàng có vị trí rất quan trọng trong hoạt động chiêu thị của doanh
nghiệp vì nó sử dụng lực lượng lao động nhàn rỗi hiện nay trong các doanh
nghiệp thương mại, của xã hội nói chung. Và nó góp phần đưa hàng hoá tới
gần nơi tiêu dùng, không những thế so với các hoạt động chiêu thị khác hoạt
động này có chi phí thấp hơn nhưng hiệu quả đạt được lại rất cao. Tuy nhiên,
để chào hàng có hiệu quả cao thì nhân viên chào hàng phải được đào tạo bài
bản và đạt hiệu quả cao trong hoạt động chiêu thị.
Đề tài: Phát triển các hình thức dịch vụ thương mại ở Việt Nam hiện nay
15
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
-Dịch vụ quảng cáo: Quảng cáo là hoạt động tuyên truyền giới thiệu về
hàng hoá thông qua các phương tiện khác nhau trong khoảng thời gian và
không gian nhất định.
Trong kinh doanh hiện nay, không chỉ có sự cạnh tranh bằng sản phẩm
mà còn có sự cạnh tranh bằng quảng cáo. Điều đó cho thấy hoạt động quảng
cáo đạt hiệu quả rất cao và là phương tiện hữu hiệu để các doanh nghiệp đạt
được các mục tiêu kinh doanh của mình.
Quảng cáo được thực hiện thông qua nhiều hình thức khác nhau nhưng
chủ yếu là qua báo chí, đài phát thanh, vô tuyến truyền hình, áp phích, tờ rơi
hay thông qua bao bì nhãn mác của hàng hoá, thậm chí là thông qua đường
bưu điện. .. đây là các hình thức quảng cáo bên trong mạng lưới thương mại.
Ngoài ra, còn có các hình thức quảng cáo bên ngoài mạng lưới thương
mại như thông qua biển đề tên cơ sở kinh doanh (biển quảng cáo), tủ kính
quảng cáo, bày hàng ở nơi bán, quảng cáo qua người bán hàng…
Tuỳ theo hàng hoá kinh doanh và loại hình doanh nghiệp, mà các doanh
nghiệp quyết định sử dụng loại quảng cáo nào cho đạt hiệu quả. Như đối với
doanh nghiệp sản xuất thì sử dụng các hình thức quảng cáo bên trong mạng
lưới thương mại là quan trọng và đem lại hiệu quả cao, nó góp phần nâng cao
doanh số bán, đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Còn đối với các doanh
nghiệp thương mại thì các hình thức quảng cáo bên ngoài mạng lưới thương
mại lại được đầu tư và đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn.
-Hội chợ, triển lãm thương mại:
Theo luật Thương mại thì “Hội chợ, triển lãm thương mại là hoạt động
xúc tiến thương mại được thực hiện tập trung trong một thời gian dài và tại
một thời điểm nhất định để thương nhân trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch
Đề tài: Phát triển các hình thức dịch vụ thương mại ở Việt Nam hiện nay
16
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
vụ nhắm mục đích thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội giao kết hợp đồng mua bán hàng
hoá, hợp đồng dịch vụ”.
Đây thường là hoạt động diễn ra thường niên, nó giúp cho các nhà sản
xuất, nhà thương mại quảng cáo hàng hoá, thăm dò thị trường, ký kết hợp
đồng kinh tế… Hội chợ rất thích hợp đối với các loại hàng hóa mới và hàng
hoá bị ứ đọng.
Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội thì các hội chợ, triển lãm đã từng
bước thu hút được sự quan tâm của người tiêu dùng, sự đầu tư của các nhà sản
xuất, các doanh nghiệp. Và nó trở thành phương tiện giúp các nhà sản xuất
giới thiệu quảng bá sản phẩm, ký kết hợp đồng kinh tế với các doanh nghiệp
trong nước cũng như với các doanh nghiệp nước ngoài. Với ý nghĩa đó, hội
chợ triển lãm không đơn thuần là sự kiện xúc tiến thương mại, mà còn là cơ
hội để xúc tiến quảng bá thu hút đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam.
-Dịch vụ tư vấn, ghép mối: Đây là hoạt động do các doanh nghiệp
thương mại hay các doanh nghiệp kinh doanh lớn mở ra để ghép mối hợp lý
giữa người sản xuất với người tiêu dùng trên cơ sở sự hiểu biết về thị trường
cũng như khả năng, nhu cầu của cả hai bên.
Sản phẩm dịch vụ tư vấn, ghép mối là sản phẩm hỗ trợ cho quá trình
kinh doanh của doanh nghiệp, vì là sản phẩm dịch vụ nên nó có đầy đủ các
đặc trưng như tính không lưu giữ được, tính khó đánh giá chất lượng…nhưng
khác với các dịch vụ khác, dịch vụ này có tầm quan trọng và ảnh hưởng lớn
đối với khách hàng. Bởi dịch vụ này có thể giúp cho một doanh nghiệp phát
triển mạnh mẽ, nhưng cũng có thể tạo ra bước đi sai lầm khiến cho doanh
nghiệp đi tới chỗ phá sản, kinh doanh thua lỗ, giảm hiệu quả hoạt động…Do
vậy, các doanh nghiệp khi sử dụng dịch vụ này thường rất thận trọng. Chính
điều này đã đặt ra yêu cầu rất cao cho chất lượng dịch vụ tư vấn, ghép mối.
Đề tài: Phát triển các hình thức dịch vụ thương mại ở Việt Nam hiện nay
17
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Đây là điều lý giải tại sao các doanh nghiệp Việt Nam thường có xu hướng sử
dụng các dịch vụ tư vấn nước ngoài hơn là sử dụng dịch vụ của các nhà cung
cấp trong nước. Điều này đỏi hỏi các doanh nghiệp trong nước cần cố gắng
hơn nữa trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ và đào tạo đội ngũ nhân viên
tư vấn để đáp ứng các nhu cầu của khách hàng.
-Dịch vụ giám định hàng hóa: Đây là hoạt động dịch vụ thương mại,
do một tổ chức giám định độc lập thực hiện để xác định tình trạng thực tế của
hàng hoá theo yêu cầu của các bên.
Giám định hàng hoá bao gồm giám định về số lượng, chất lượng, quy
cách bao bì, giá trị hàng hoá, vệ sinh an toàn và các yêu cầu khác…
Đề tài: Phát triển các hình thức dịch vụ thương mại ở Việt Nam hiện nay
18
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
I.Sự phát triển thương mại Việt Nam trong thời gian qua
Thương mại Việt Nam đã có truyền thống và lịch sử hình thành từ lâu,
nó luôn gắn liền với những cuộc đấu tranh oanh liệt giành độc lập, tự do,
thống nhất Tổ quốcvà xây dựng CNXH. Quá trình này cũng gắn liền với quá
trình dựng nước của dân tộc trong suốt mấy ngàn năm lịch sử, đó là quá trình
xây dựng và phát triển nền kinh tế nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc
hậu, kém phát triển, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp trở thành một nền kinh tế
năng động, hoạt động hiệu quả theo cơ chế thị trường.
Trong lịch sử dân tộc thì mầm mống của thương mại đó là các hoạt
động trao đổi hàng hoá đã xuất hiện từ thời các vua Hùng dựng nước. Nó tồn
tại và gắn liền với nền văn hoá nông nghiệp qua các thời kỳ Bắc thuộc, thời kỳ
Đại Việt và thời kỳ Tây thuộc. Thời kỳ phong kiến, nền kinh tế nước ta là một
nền kinh tế tự cấp tự túc, hoạt động thương mại nhỏ bé và phân tán. Triều đình
không những giữ độc quyền trong hoạt động ngoại thương mà còn giữ độc
quyền trong nội thương trong việc buôn bán một số mặt hàng như sắt, đồng,
thiếc, chì, diêm…
Qua nhiều thế kỷ, đến thế kỷ thứ XVII, XVIII, XIX thương mại trong
nước đã có bước phát triển hơn nhờ sự phát triển của sản xuất hàng hoá và
hoạt động ngoại thương, quan hệ hàng hoá tiền tệ đã phát triển thêm một
bước.
Đề tài: Phát triển các hình thức dịch vụ thương mại ở Việt Nam hiện nay
19
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Từ năm 1862, thực dân Pháp nhảy vào xâm chiếm nước ta, biến nước ta
thành một nước thuộc địa của chúng. Thương mại nước ta kể từ đó trở thành
thương mại của một nước nửa thuộc địa, nửa phong kiến. Từ đó, các công ty
của Pháp đã nắm độc quyền trong cả ngoại thương và nội thương. Dưới chế
độ này, Việt Nam trở thành một vùng đất trù phú mà thực dân Pháp tha hồ
khai thác và bóc lột, thương mại trong giai đoạn này kém phát triển về cả quy
mô, mặt hàng và thị trường.
Từ năm 1890 đến năm 1939, khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ,
ba nước Đông Dương trong đó chủ yếu là Việt Nam đã xuất khẩu 57,8 triệu
tấn gạo; 397 ngàn tấn cao su; 28 triệu tấn than. Hai mặt hàng gạo và cao su
chiếm tới 70 đến 80% kim ngạch xuất khẩu, hàng thủ công nghiệp chiếm tỷ
trọng không đáng kể. Hàng nhập khẩu chủ yếu là hàng tiêu dùng và một số
nguyên liệu như xăng dầu, bông, vải, máy móc, thiết bị (nhưng số lượng rất ít)
…Thực dân Pháp còn ban hành luật Đồng hoá thuế quan (trước năm 1939) và
Thuế quan tự trị (sau năm 1939) nhằm có lợi cho chúng.
Từ sau Cách Mạng tháng Tám năm 1945, tình hình đất nước có nhiều
thay đổi quan trọng, mà mốc son đáng nhớ nhất đó là việc Nhà nước Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hoà chính thức ra đời. Nhưng độc lập chưa được bao lâu
thì Pháp quay trở lại xâm lược Việt Nam, rồi đế quốc Mỹ lại hất cẳng Pháp để
chen chân vào nước ta.
Vì vậy, trong suốt giai đoạn từ 1945 đến 1954 thương mại Việt Nam bị
tách ra làm hai, một là vùng tự do hai là vùng địch tạm chiếm. Và tất nhiên thị
trường vùng địch tạm chiếm bị thu hẹp trong những thành phố và thị trấn lớn
ở các đầu mối giao thông do đế quốc Mỹ và Pháp trực tiếp kiểm soát thông
qua các công ty của chúng. Ngành dịch vụ là ngành phát triển nhất trong khu
vực này do nó thoả mãn nhu cầu của bọn đế quốc, tay sai và một phần dân cư
Đề tài: Phát triển các hình thức dịch vụ thương mại ở Việt Nam hiện nay
20
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
đô thị. Ngược lại hẳn với vùng bị tạm chiếm, thương mại vùng tự do lại có
những tính chất khác hẳn. Đó là do nó hướng vào phục vụ và thoả mãn những
nhu cầu của dân cư và kháng chiến. Tất nhiên thương mại đều do Nhà nước
quản lý và điều hành. Nhà nước đã thực hiện việc cải tạo hệ thống tư thương,
tư sản thương nghiệp. Hệ thống phân phối của Nhà nước do các cơ sở quốc
doanh đảm nhận phát triển nhanh chóng, phát huy tác dụng chủ đạo trên thị
trường tự do phục vụ đắc lực cho kháng chiến và cho sự nghiệp Cách mạng
Dân tộc Dân chủ. Song, khi miền Bắc hoàn thành cuộc Cách mạng này,
chuyển sang Cách mạng XHCN, thị trường vùng tự do và vùng tạm chiếm hợp
thành một thị trường thống nhất thì thương nghiệp quốc doanh chưa phát huy
hết vai trò của mình và mới chỉ chiếm 18,1% tổng ngạch bán buôn và 19,2%
tổng ngạch bán lẻ. Về ngoại thương thì do điều kiện chiến tranh và điều kiện
lịch sử nên trong giai đoạn này chúng ta chỉ có quan hệ thương mại với một số
quốc gia XHCN và khối lượng hàng hóa buôn bán cũng rất hạn chế.
Sang đến thời kỳ 1954-1975, đất nước bị chia cắt làm hai miền và có
hai chế độ chính trị khác nhau nên thương mại cũng phát triển theo hai hướng
khác nhau. Trong thời kỳ này, miền Bắc thực hiện cơ chế quản lý kế hoạch tập
trung cao độ để huy động sức người , sức của cho cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước. Còn miền Nam, các hoạt động thương mại dịch vụ phát triển theo
cơ chế thị trường và chỉ tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn. Ở miền Bắc
mọi hoạt động kinh tế đều chịu sự chi phối của kế hoạch của Nhà nước Thời
kỳ này Đảng và Nhà nước đã chủ trương chấn chỉnh thương nghiệp, tài chính
để xây dựng nền móng cho thương nghiệp XHCN nhằm phục vụ tốt cho đời
sống của nhân dân.
Sang đến năm 1975, trong hoàn cảnh đất nước đã hoàn toàn độc lập, hai
miền được thống nhất cùng phát triển theo định hướng XHCN hoạt động
Đề tài: Phát triển các hình thức dịch vụ thương mại ở Việt Nam hiện nay
21
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thương mại có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển song cũng tồn tại nhiều
khó khăn, thách thức cần phải vượt qua. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà
nước đã để ra nhiều biện pháp để khôi phục và phát triển kinh tế trong đó có
hoạt động thương mại. Tuy nhiên, việc Nhà nước can thiệp quá sâu vào những
hoạt động kinh tế lại tạo ra những kết quả ngược lại, đó là sản xuất hàng hoá
kém phát triển, động lực trong kinh doanh bị triệt tiêu. Hơn nữa, việc thực thi
cơ chế kế hoạch hoá tập trung một cách quá mức khiến nó trở lên quan liêu và
gây ra nhiều tác dụng tiêu cực lên nền kinh tế.Và cao điểm là các cuộc khủng
khoảng kinh tế xã hội xảy ra gay gắt, lạm phát lên đến ba con số như năm
1986 lạm phát là 774,7% và chủ trương điều chỉnh tổng giá năm 1985 không
thành công khiến nền kinh tế nước ta đối mặt với những thách thức nghiêm
trọng. Trước tình hình đó, Đại hội lần thứ VI của Đảng đã thẳng thắn chỉ ra
những thiếu sót:
-“Sản xuất có tăng, nhưng tăng chậm so với khả năng sẵn có và công
sức bỏ ra, so với yêu cầu nhanh chóng ổn định đời sống của nhân dân…
-Lưu thông không thông suốt, phân phối rối ren, vật giá tăng tác động
tiêu cực đến sản xuất, đời sống và xã hội.
-Những mất cân đối lớn trong nền kinh tế giữa cung và cầu về lương
thực, thực phẩm, năng lượng, nguyên liệu, vận tải… giữa thu và chi, xuất khẩu
và nhập khẩu chưa được thu hẹp, có mặt còn gay gắt hơn…”
Thực tế trên đã đặt ra yêu cầu cấp bách là làm thế nào để đổi mới nền
kinh tế nói chung và lĩnh vực thương mại nói riêng một cách hiệu quả và tích
cực. Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành TW Đảng tại Đại hội đã nêu rõ: Sử
dụng hợp lý quan hệ hàng hoá tiền tệ, “sản xuất phải gắn với thị trường, mọi
hoạt động phải so sánh chi phí với hiệu quả, các đơn vị kinh tế phải tự bù đắp
chi phí, có lãi để sản xuất mở rộng”. Xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao
Đề tài: Phát triển các hình thức dịch vụ thương mại ở Việt Nam hiện nay
22
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
cấp, xây dựng nền kinh tế mới phù hợp với quy luật khách quan và trình độ
phát triển của nền kinh tế.
Đến nay, công cuộc đổi mới đã thực hiện được 20 năm nền kinh tế nước
ta đã có những bước chuyển vững chắc và đạt được nhiều thành tựu quan
trọng trên nhiều lĩnh vực. Sự đổi mới đã làm thay đổi hẳn bộ mặt của đất nước
và những quan niệm đánh giá của bạn bè nước ngoài về chúng ta.
Trong lĩnh vực thương mại, 20 năm qua là những chặng đường đầy biến
động và có nhiều đổi mới, thể hiện rõ nét nhất trên ba lĩnh vực : thị trường nội
địa, xuất khẩu và hội nhập kinh tế quốc tế.
a, Về thị trường nội địa:
-Về cơ bản đã xoá bỏ cơ chế lưu thông cũ chuyển sang cơ chế thị
trường lưu thông mới, khắc phục tình trạng “ngăn sông, cấm chợ” như trước,
hình thành thị trường thống nhất, khá ổn định và thông suốt trong cả nước.
Với chính sách tự do hoá thương mại, tự do hoá hoạt động lưu thông đã
làm cho hàng hóa đựơc giao lưu thông suốt giữa các vùng miền trong cả nước,
góp phần khai thác tiềm năng thế mạnh của từng vùng trong cả nước và dần
dần đã hình thành ra nhiều cấp độ thị trường. Thị trường thành thị là nơi có
các hình thức thương mại văn minh hiện đại, phát triển tương đối nhanh so với
các thị trường khác. Nó trở thành đầu mối giao lưu phân luồng bán buôn và là
các trung tâm thương mại trong từng vùng. Thị trường nông thôn từng bước
phát triển và mở rộng với sự đa dạng cùa loại hình thương nhân thuộc các
thành phần kinh tế, đáp ứng nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng địa phương.
Khẳng định chính sách tự do lưu thông trong khuôn khổ pháp luật, Nhà
nước đã ban hành các Nghị Định về tổ chức lại công tác quản lý thị trường
chống đầu cơ và buôn lậu như NĐ 35/CP ngày 25/4/4994; quy định về hàng
Đề tài: Phát triển các hình thức dịch vụ thương mại ở Việt Nam hiện nay
23
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hoá và dịch vụ cấm kinh doanh, hàng hoá và dịch vụ kinh doanh có điều kiện
ở thị trường trong nước là NĐ 02/CP ngày 5/01/1995; ngày 3/1/1996 Nhà
nước ban hành Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
thương mại, dịch vụ ( NĐ 01/CP)…
-Hàng hóa và dịch vụ ngày càng phong phú về chủng loại đa dạng về
kiều dáng và đặc biệt là chất lượng ngày càng được nâng cao, đáp ứng được
nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Hàng hoá cung ứng trên thị trường tăng trưởng ở mức cao trên 10% một
năm và ngày càng phong phú về chủng loại, quy cách, chất lượng ngày càng
đựơc nâng cao hơn. Điều này góp phần quan trọng vào việc giữ vững các cân
đối lớn trong nền kinh tế, từng bước ổn định đời sống nhân dân. Nếu năm
1985 chỉ tiêu tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng xã hội chỉ đạt
620 tỷ đồng thì đến năm 1990 đạt 19 nghìn tỷ đồng, năm 1995 đạt 121 nghìn
tỷ đồng, năm 2000 đạt 219 nghìn tỷ đồng và năm 2005 đạt 335.383 tỉ đồng,
tương đương 20,93 tỉ USD, nhìn chung chỉ tiêu này có mức tăng trưởng đều
đặn trên 10% một năm.
Cơ cấu chủng loại hàng hóa có sự biến đổi theo hướng tiến bộ, tỷ trọng
hàng công nghiệp tăng, tỷ trọng hàng lương thực thực phẩm giảm, tỷ trọng
dịch vụ có xu hướng tăng dần.
-Lạm phát được kiềm chế, chỉ số giá tiêu dùng tăng ở mức hợp lý đã tạo
điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội.
Nhờ việc thực hiện cơ chế một giá và việc mua bán bình thường vật tư
hàng hoá đã làm giảm mạnh nạn đầu cơ, tích trữ hàng hoá và các nhu cầu giả
tạo trong nền kinh tế. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng bình quân hàng tháng
của xã hội năm 1986 là 20%, đến năm 2001 chỉ còn 1%, năm 2004 chỉ còn
Đề tài: Phát triển các hình thức dịch vụ thương mại ở Việt Nam hiện nay
24
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
0,79% và năm 2005 tăng 0,7%. Giá cả hàng hóa được đảm bảo tương đối ổn
định, nhu cầu các mặt hàng thiết yếu được đảm bảo đầy đủ.
-Từng bứơc hình thành các kênh lưu thông của một số mặt hàng chủ
yếu. Cùng với sự phát triền của nền kinh tế, nhu cầu của người dân sử dụng
các loại hình phân phối hiện đại ngày càng cao, điều này dẫn đến sự thay đổi
trong cơ cấu các loại hình phân phối. Đó là việc người dân, nhất là tại các
thành phố lớn có xu hướng lựa chọn những hình thức phân phôi mới hiện đại
trong tiêu dùng như sử dụng hệ thống siêu thị, trung tâm thương mại… Bên
cạnh đó hệ thống bán buôn cũng từng bước được hình thành phù hợp với yêu
cầu của thực tiễn.
-Kết cấu hạ tầng thương mại ngày càng phát triển theo hướng văn minh
hiện đại. Như năm 1996 cả nước có gần 5 nghìn chợ thì đến cuối năm 2004
tăng lên 8.751 chợ, và đến năm 2005 thì có tới 9.063 chợ với sự đa dạng về
loại hình kinh doanh và phương pháp quản lý, trong đó có những chợ chuyên
doanh, chợ nông sản và chợ đầu mối. Các hình thức trung tâm thương mại,
siêu thị và các cửa hàng tự phục vụ có xu hướng tăng nhanh nhất là tại khu
vực thành thị và các trung tâm kinh tế. Tính đến năm 1997 thì cả nước có rất ít
siêu thị nhưng chỉ 8 năm sau đó, tức là năm 2004 thì ở 21 tỉnh thành phố có
tới 691 trung tâm thương mại, cửa hàng tự chọn và siêu thị. Tính đến thời
điểm hiện nay cả nước có trên 200 siêu thị, 30 trung tâm thương mại, khoảng
1.000 cửa hàng tự chọn.
-Đa dạng hoá các thành phần kinh tế tham gia thị trường. Mặc dù các
hình thức phân phối theo hướng văn minh hiện đại ngày càng phát triển và mở
rộng, song theo thói quen từ xưa thì đa phần người Việt Nam vẫn thích mua
sắm tại các khu chợ ngoài trời hơn. Chính vì vậy, hình thức mua bán tại các
khu chợ truyền thống vẫn là hình thức rất phổ biến và khu vực kinh tế tư nhân,
Đề tài: Phát triển các hình thức dịch vụ thương mại ở Việt Nam hiện nay
25