Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Cảm nghĩ về chuyến đi thực tế Hải Dương – Bắc Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (73.06 KB, 10 trang )

Cảm nghĩ về chuyến đi thực tế
Hải Dương – Bắc Ninh
Bắc Ninh đã từng là trung tâm chính trị, văn hóa thương mại khá phồn
thịnh của người Việt từ thế kỉ thứ 2 đến thế kỉ thứ 10. Đồng thời Kinh Bắc còn là
vùng đát đạo phật sớm thâm nhập ngay từ những thế kỉ đầu công nguyên. Đến
đời nhà Lí, phật giáo đã đạt tới độ cực thịnh. Nhiều chùa tháp xây dựng và ngày
nay trở thành di tíchkiến trúc văn hóa của cả nước. Cũng chính vì vậy chùa Bút
Tháp và chùa Dâu ( Bắc Ninh) thu hút đơng đảo khách thập phương đến tham
quan, tìm hiêu về tơn giáo, tín ngưỡng .
Chùa Bút Tháp (Ninh Phúc tự) nằm ở bên đê sơng Đuống, thơn Bút Tháp,
xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành. Ngoài ra, nhân dân trong vùng cịn gọi là chùa
Nhạn Tháp. Trong chùa có tượng Bồ tát Quan Thế Âm thiên thủ thiên nhãn bằng
gỗ lớn nhất Việt Nam.
Đây là ngơi chùa có kiến trúc quy mơ hồn chỉnh nhất cịn lại ở Việt
Nam.Với những giá trị tiêu biểu về lịch sử và nghệ thuật, chùa Bút Tháp đã
được Bộ Văn Hóa Thơng Tin xếp hạng là di tích cấp quốc gia
Đây là một trong khơng nhiều ngơn chùa cổ, có quy mơ kiến trúc lớn của
Đồng bằng Bắc Bộ còn lại đến ngày nay. Chùa có kiến trúc độc đáo, bố cục hài
hịa giữa kiến trúc với mơi trường thiên nhiên. Tồn bộ kiến trúc chính của chùa
quay theo hướng Nam, một hướng truyền thống của người Việt. Đối với đạo
Phật hướng Nam là hướng của trí tuệ, của bát nhã.
Quần thể kiến trúc cịn giữ lại nhiều di tích của thế kỷ 17. Cụm kiến trúc
trung tâm ở Chùa Bút Tháp bao gồm 8 đơn nguyên chạy xong hành được bố trí
đăng đối trên một đường "Thần Đạo" và được bao bọc bởi hai dãy hành lang
chạy suốt dọc chùa ở hai bên, đó là tịa Tiền Đường Thượng Điện, cầu đá tịa
Thích Thiện Am Trung Đường, phủ thờ nhà Hậu Đường và hàng tháp đá. Sự bố
trí chặt chẽ ở khu vực trung tâm này thể hiện một nội dung tư tưởng về giáo lý
của đạo Phật. Phật điện của chùa gần như nguyên sơ của chùa cổ Việt Nam, gồm
1



10 nếp nhà nằm trên một trục dài hơn 100 m. Qua cửa Tam quan, đến gác
chuông hai tầng, tám mái.
Chùa chính với 3 dãy nhà Tiền đường - Thiên hương - Thượng điện tạo
thành chữ "cơng". Cách bố trí như vậy làm nổi bật điện thờ bên trong với các
pho tượng.Kiến trúc chùa vẫn dùng khung gỗ chịu lực nhưng nền bệ lan can
dùng đá rất phổ biến, trên có những hình động vật được khắc trơng sinh động và
độc đáo. Trang trí được thể hiện ở mọi nơi trên các chất liệu gỗ và đá, ở kiến
trúc và ở các đồ thờ. Đặc biệt trên lan can tòa Thượng Điện có 26 bức chạm
khắc đá, trên lan can cầu đá nối với Tịa Thích Thiện Am có 12 bức và ở lan can
quanh chân tháp Báo Nghiêm có 13 bức. Như vậy tổng cộng các bức trạm khắc
đá ở chùa Bút Tháp là 51 với những đề tài khác nhau, nhưng đều thống nhất với
nhau ở mặt chất liệu, phong cách và thống nhất về niên đại.
Hình ảnh chạm khắc ở đây sống động tươi vui hàm chứa ý nghĩa Phật đạo
và đặc biệt mang đậm nét tính chất nghệ thuật thiền. Các bức chạm đều tập trung
về đề tài thiên nhiên phong phú sinh động như Tứ Linh Quý.
Đáng chú ý nhất ở chùa là tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay nổi tiếng
do nhà điêu khắc họ Trương tạc năm 1656.
Đây được coi là một kiệt tác độc nhất vô nhị về tượng Phật và nghệ thuật
tạc tượng - nghệ thuật làm nổi bật triết lý nhà Phật bằng thứ ngơn ngữ tạo hình
hàm súc. Phật ngồi trên tồ sen hồng qua bệ tượng hình vng được trang trí
bằng những nét chạm khắc cổ với dáng hành đạo, thư thái, đôi mắt quảng đại
như bao quát cả khơng gian vũ trụ. Ở đây có nhiều mơ tip quen thuộc được trang
trí ở chùa Việt Nam như hoa lá, cây cảnh cùng các con vật - trong đó có rồng ngư với viên ngọc; lân với quả cầu; quạt hai vịng trịn, sóng nước, hoa sen,...
Bức kiệt tác làm lay động lòng người. thực sự đã tạo được ấn tượng trong
lòng mỗi du khách khi đến đây.
Tiếp đến, chúng tôi được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của tháp Báo Thiên.
Chùa có tháp Bảo Nghiêm thờ Hồ thượng Chuyết Chuyết, trông tháp
giống như cây bút khổng lồ vươn thẳng tới trời cao thanh vắng. Tháp cao 13,05
2



m, năm tầng với một phần đỉnh xây bằng đá xanh; ngoài tầng đáy rộng hơn, bốn
tầng trên gần giống nhau, rộng 2 m. Năm góc của 5 tầng có 5 quả chng nhỏ.
Lịng tháp có một khoang trịn đường kính 2,29 m. Ngồi kỹ thuật xây dựng đá,
phần bệ tượng được bao quanh bằng hai vòng tường cấu tạo bằng cột và lan can.
Riêng ở tầng dưới cùng của tồ tháp này có mười ba bức chạm đá với lấy đề tài
chủ yếu là các con thú. Tháp thể hiện tài ghép đá và nghệ thuật điêu khắc tuyệt
vời của người thợ Việt Nam xưa.
Đi tiếp vài km, chúng tôi đến với chùa Dâu, một ngôi chùa phật giáo có
tiếng tại đất Kinh Bắc. Ngơi chùa này đã để lại những dấu ấn đặc sắc và rõ nét
về tín ngưỡng thờ Phật tại Việt Nam. Tôi cảm nhận được những bước đi, quá
trình trưởng thành của con người Việt Nam, từ thuở khai sinh lập địa.
Chùa Dâu là nơi giao lưu của hai luồng văn hóa Phật giáo, từ Ấn Độ sang
và từ phương Bắc xuống, chủ yếu bằng đường thủy theo dịng sơng Dâu. Vào
buổi đầu Cơng Ngun, các tăng sỹ Ấn Độ, tiêu biểu là Khâu-đà-la đã tới đây
truyền bá đạo Phật đầu tiên. Cuối thế kỷ VI, nhà sư Tỳ-ni-đa-lưu-chi từ Trung
Quốc đến chùa này và lập nên một phái thiền ở Việt Nam. Chùa Dâu trở thành
trung tâm của phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi, nơi trụ trì của nhiều cao tăng Việt Nam, Ấn
Độ và Trung Quốc đến để nghiên cứu, biên soạn, phiên dịch kinh Phật, đào tạo
tăng ni.
Chùa Dâu ngày nay là kiến trúc tu sửa của thời Hậu Lê (thế kỷ 17-18).
Cũng giống như nhiều ngôi chùa cổ Việt Nam, chùa được xây dựng theo kiểu
“nội cơng ngoại quốc”. bốn dãy nhà liên thơng hình chữ nhất bao quanh ba ngơi
nhà chính: tiền đường, thiêu hương và thượng điện. Tiền đường của chùa Dâu
đặt tượng Hộ pháp, tám vị Kim Cương; gian thiêu hương đặt tượng Cửu Long,
hai bên có tượng các vị Diêm Vương, Tam Châu Thái tử, Mạc Đĩnh Chi.
Thượng Điện để tượng bà Dâu (Pháp Vân), Bà Đậu (Pháp vũ), hai bên tượng bà
Dâu là tượng Kim Đồng, Ngọc Nữ với khuôn mặt sống động trong tư thế của
một điệu múa cổ xưa, phía trước là một hộp gỗ trong đặt Thạch Quang Phật là
một khối đá. Các pho tượng Bồ tát, Tam thế, Đức ông, Thánh tăng được đặt ở

3


phần hậu điện phía sau chùa chính. Do chùa Đậu (Bắc Ninh) bị phá hủy, nên
tượng bà Đậu (Pháp Vũ) được đưa về thờ ở chùa Dâu. Ngoài ra, trong chùa cịn
có rất nhiều pho tượng như: tượng tổ sư Tỳ- ni-đa-lưu- chi, 18 vị La Hán,…
Chùa có tượng Bà Dâu, hay nữ thần Pháp Vân, uy nghi, trầm mặc, màu
đồng hun, cao gần 2 m được bày ở gian giữa. Tượng có gương mặt đẹp với nốt
ruồi to đậm giữa trán gợi liên tưởng tới những nàng vũ nữ Ấn Độ, tới quê hương
Tây Trúc. Ở hai bên là tượng Kim Đồng và Ngọc Nữ. Phía trước là một hộp gỗ
trong đặt Thạch Quang Phật là một khối đá, tương truyền là em út của Tứ Pháp.
Do chùa Đậu (Bắc Ninh) bị phá huỷ thời kháng chiến chống Pháp, nên
tượng Bà Đậu (Pháp Vũ) cũng được đưa về thờ ở chùa Dâu. Tượng Pháp Vũ với
những nét thuần Việt, đức độ, cao cả. Những tượng này đều có niên đại thế kỷ
18.
Bên trái của thượng điện có pho tượng thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi, tượng
được đặt trên một bệ gỗ hình sư tử đội tịa sen, có thể có niên đại thế kỷ 14.
Giữa sân chùa trải rộng là cây tháp Hòa Phong. Tháp xây bằng loại gạch cỡ
lớn ngày xưa, được nung thủ công tới độ có màu sẫm già của vại sành. Thời gian
đã lấy đi sáu tầng trên của tháp, nay chỉ còn ba tầng dưới, cao khoảng 17 m
nhưng vẫn uy nghi, vững chãi thế đứng ngàn năm. Mặt trước tầng 2 có gắn bảng
đá khắc chữ "Hịa Phong tháp". Chân tháp vng, mỗi cạnh gần 7 m. Tầng dưới
có 4 cửa vịm. Trong tháp, treo một quả chuông đồng đúc năm 1793 và một
chiếc khánh đúc năm 1817. Có 4 tượng Thiên Vương cao 1,6 m ở bốn góc.
Trước tháp, bên phải có tấm bia vng dựng năm 1738, bên trái có tượng một
con cừu đá dài 1,33 m, cao 0,8 m. Tượng này là dấu vết duy nhất cịn sót lại từ
thời nhà Hán.
Ngược dịng lịch sử, bóc trần từng lớp bụi thời gian ta mới thấy hết được
ý nghĩa và vẻ đẹp truyền thống của khu di tích văn hóa chùa Dâu. Tôi tin rằng cả
ngày hôm nay và mai sau viên ngọc quý đó sẽ mãi được trường tồn và bảo vệ

bởi những lớp người tiến bộ của xã hội chủ nghĩa. Để chùa Dâu xứng đáng với
tên gọi là một trung tâm phật giáo đầu tiên của nước ta. Niềm tự hào ấy không
4


chỉ của những người dân Kinh Bắc mà của cả dân tộc, của cả trang sử vẻ vang
trong nét đậm đà bản sắc quê hương.
Qua hai ngôi chùa nổi tiesng ở đất Kinh Bắc Việc đi chùa lễ Phật cầu
nguyện sự an lành là nhu cầu tâm linh chính đáng của mọi người có tín ngưỡng
đạo Phật. Nhưng đi lễ chùa, ngoài các lễ phẩm dâng cúng vốn xuất phát từ tâm
niệm tơn kính thì việc dùng tiền bỏ bừa bãi trên các bàn thờ, thậm chí quẳng lên,
nhét vào tay các tôn tượng, thắp hương tùy tiện… làm mất tính trang nghiêm
cần có của một khơng gian tâm linh, biểu hiện kiểu suy nghĩ “lấy bụng ta suy ra
bụng thánh hiền” ở một số người, nhiều nơi.
Cũng có một số người đã ăn mặc không phù hợp đến chùa; dẫn trẻ tham
quan, đi chùa cầu nguyện nhưng không hướng dẫn trẻ, để trẻ hiếu động leo trèo
lên cả tôn tượng Phật trước sự thờ ơ của phụ huynh, thậm chí có người cịn cổ
vũ trẻ về những hành vi như vậy... thì tránh sao khỏi chuyện đứa trẻ ấy lớn lên,
cũng sẽ lặp lại lỗi ấy, với những hành vi khơng đẹp nơi cửa thiền.
Có một số vị trụ trì đã có sự hướng dẫn người dân đi lễ chùa nhận thức và
thay đổi được hành vi đi lễ chùa theo tập tục không hợp với nhà Phật, nhưng
điều đáng tiếc là trường hợp đó chưa phổ biến. Qua mùa lễ hội đầu năm này,
hình ảnh phản cảm cũ vẫn tiếp diễn, thậm chí có chùa cịn lạm dụng lý thuyết
“tùy thuận chúng sinh” một cách dễ dãi, ngụy biện với tinh thần “tùy duyên”,
công khai những thông tin quy định về lễ “dâng sao giải hạn” xa lạ với giáo lý
đạo Phật, cả phí dâng lễ như ở chùa Một Cột (Hà Nội) mà dư luận rất quan tâm
trong tháng Giêng vừa qua, v.v…
Qua những mẩu chuyện như thế, chứng tỏ rằng “văn hóa đi chùa” ở một số
nơi đang có vấn đề. Trách nhiệm lớn hướng dẫn và điều chỉnh nhận thức, từ đó
dẫn đến thay đổi thói quen của người dân đến chùa ở một số nơi có hiện tượng

trên mà báo chí đã phản ánh, dư luận quan tâm, phần căn bản tùy thuộc ở các vị
trụ trì, cơ sở Giáo hội địa phương.
Nếu các vị trụ trì có chủ trương hoằng pháp đúng đắn, kiên nhẫn thực hiện
qua các hình thức: hướng dẫn, thơng báo, phổ biến báo chí Phật giáo, tài liệu in
5


ấn bài viết phù hợp của chư tôn đức Tăng Ni, tổ chức các buổi thuyết giảng…
thì chắc chắn theo thời gian, người đi chùa sẽ dần dần nhận thức đúng hơn về
tinh thần từ bi, và hiểu hơn nữa, rằng từ bi đúng nghĩa trong đạo Phật ln có
ánh sáng của trí tuệ chiếu soi. Nói cửa chùa là cửa từ bi khơng thơi là đang có
nhận thức phiến diện, tất nhiên ở đây không đề cập đến cách hiểu “sao cũng
được”.
Khu di tích Cơn Sơn - Kiếp thuộc địa bàn thị xã Chí Linh tỉnh Hải Dương..
Đây là nơi gắn liền với thân thế, sự nghiệp của các vị anh hùng dân tộcNguyễn
Trãi, Trần Hưng Đạo cùng với nhiều danh nhân văn hoá của dân tộc: Trần
Nguyên Đán, Pháp Loa, Huyền Quang… Điểm nhấn của khu di tích này là chùa
Côn Sơn và đền Kiếp Bạc
Chùa Côn Sơn hay cịn gọi là chùa Hun xưa là một cơng trình kiến trúc vĩ
đại gồm 385 pho tượng, từng là quần thể nguy nga với 83 gian, gạch đỏ, ngói để
men màu. Đến nay chùa vẫn giữ lại được những ngọn đá chạm cánh sen và một
số ngói mũi hài đời Trần. Chùa là nơi tu hành của Quốc sư Huyền Quang- vị tổ
thứ ba của Thiền Phái Trúc Lâm.Trước sân chùa có một cây cổ thụ 600 tuổi làm
tăng thêm vẻ trang nghiêm và uy nghi của chùa.
Đến chùa, chúng ta có dịp xem lại bút tích của vua Trần Duệ Tơng được
khắc trên tấm bia có ba chữ “Thanh Hư động”. Đây là một di sản quý giá nhất
của chùa. Bia được đạt trên lưng một con rùa. Kế bên là cũng là một di sản
không kém phần quan trọng của chùa là bia đá sáu mặt với tên gọi là Côn Sơn
Thiên Tư Phúc Tự.
Cách Chùa Côn Sơn khơng xa là di tích Kiếp Bạc. Xung quanh khu vực

đền là một thung lũng trù phú ba dãy núi Hồng hình tay ngai vói hai nhánh Nam
Tào và Bắc Đẩu. Cổng đền rất lớn, đồ sộ gồm ba cổng ra vào, trên cổng có khắc
bốn chữ “ Hưng thiên vơ cực”, dưới có năm chữ Trần Hưng Đạo Vương Từ.
Chẳng có nơi nào trên Đất nước này hội tụ đầy đủ tinh khí của Trời – Đất
như Cơn Sơn – Kiếp Bạc… Nơi nổi danh với những: Văn Nhân – Võ Kiệt nổi
danh trên cả nước và toàn thế giới như: Đức Chu Văn An được người đời ca
6


tụng là “ Vạn Thế Sư Biểu ” nghĩa là: Người thầy của muôn đời… hay Nguyễn
Trãi – Anh hung dân tộc – danh nhân văn hóa thế giới và trên cả là Đức Quốc
Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, người đã từng ba lần
đánh thắng giặc Ngun Mơng nổi tiếng hung ác trên tồn thế giới vào thế kỷ
thứ 13 và được ca tụng là một trong mười vị tướng danh tiếng nhất lịch sử quân
sự thế giới…. Côn Sơn – Kiếp Bạc không chỉ là nơi sản sinh ra các Văn Nhân –
Võ Kiệt mà cịn nổi danh là nơi có phơng cảnh đẹp tuyệt.
“ Cơn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai…. ”
Kiếp Bạc là tên ghép của hai làng Vạn Yên (làng Kiếp) và Dược Sơn (làng
Bạc). Nơi đây là thung lũng trù phú, xung quanh có dãy núi Rồng bao bọc tạo.
Vào thế kỷ 13, đây là nơi đóng quân và là phủ đệ của Trần Hưng Ðạo, người anh
hùng dân tộc, người chỉ huy quân sự tối cao trong cuộc kháng chiến chống quân
xâm lược Nguyên Mông.
Khu vực đền Kiếp Bạc là một thung lũng trù phú ba phía có dãy núi Rồng
bao bọc, một phía là Lục Đầu Giang. Núi tạo thành thế rồng chầu, hổ phục, sơng
tạo thành minh đường rộng rãi. Phía trước đền có cổng lớn có ba cửa ra vào
nguy nga, đồ sộ. Trên trán cổng mặt ngồi có bốn chữ "Hưng thiên vơ cực",
dưới có 5 chữ "Trần Hưng Đạo Vương từ".

7



8


9


10



×