Tải bản đầy đủ (.docx) (60 trang)

CƠ sở lý LUẬN về QUẢN lý dạy học môn NGỮ văn tại các TRƯỜNG TRUNG học cơ sở THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG lực NGÔN NGỮ CHO học SINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (342.73 KB, 60 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ DẠY HỌC MÔN NGỮ
VĂN TẠI CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ THEO
HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC NGÔN NGỮ CHO
HỌC SINH

Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu trong nước
Cơng trình nghiên cứu về hoạt động dạy học, hoạt
động dạy học theo định hướng phát triển NLHS
HĐDH có ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển của
giáo dục. Vì thế, ở nước ta có rất nhiều nhà sư phạm tiến
hành nghiên cứu một cách tồn diện các vấn đề về vị trí, vai
trị của việc tổ chức HĐDH, ý nghĩa của việc nâng cao chất
lượng dạy học, những ưu và nhược điểm của các hình thức
tổ chức dạy học hiện nay, bản chất của mối quan hệ giữa
hoạt động dạy và hoạt động học, vai trò của người dạy và
người học, việc đổi mới nội dung và phương pháp dạy học
như: Thái Duy Tuyên " Giáo dục học hiện đại", [52]; Phan
Trọng Ngọ, “Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà
trường” [31]. Các tác giả đã tiến hành nghiên cứu một cách
toàn diện các vấn đề về vị trí, vai trị của việc tổ chức
HĐDH, ý nghĩa của việc nâng cao chất lượng dạy học,
những ưu điểm và nhược điểm của hình thức dạy học trên


lớp, bản chất và mối quan hệ giữa hoạt động dạy và hoạt
động học, vai trò của người dạy và người học, việc đổi mới
nội dung cũng như cách thức tổ chức dạy học.
Tác giả Thái Duy Tuyên trong cuốn sách: “Phương
pháp dạy học truyền thống và đổi mới” [52] đã đề cập đến
nhiều vấn đề đổi mới phương pháp dạy học trong các nhà


trường hiện nay, vấn đề tái hiện và sáng tạo trong dạy học;
vai trò của hiệu trưởng về đổi mới phương pháp dạy học và
quản lý đổi mới phương pháp dạy học ở các nhà trường; về
sự cần thiết phải quản lý hoạt động đổi mới phương pháp
dạy học....
Nghiên cứu về vè tổ chức dạy học theo định hướng
phát triển NLHS các tác giả Đặng Quốc Bảo và Nguyễn Sỹ
Thu [4], dạy học theo định hướng phát triển NLHS là giúp
học sinh thấu hiểu “học để làm gì - Học cái gì” để có năng
lực đích thực; đồng thời bồi dưỡng cho học sinh cách “Học
hiệu quả” để có năng lực bền vững. Bên cạnh đấy, các tác
giả còn chỉ ra những năng lực tư duy nền tảng cần trang bị
cho học sinh trong quá trình dạy học.
Tác giả Nguyễn Cơng Khanh trong cơng trình: “Xây
dựng khung năng lực trong chương trình giáo dục phổ
thơng sau năm 2015” [22] cho rằng Đánh giá kết quả dạy


học theo cách tiếp cận năng lực là đánh giá theo chuẩn về
sản phẩm đầu ra nhưng sản phẩm đó không chỉ là kiến thức,
kỹ năng, mà chủ yếu là khả năng vận dụng kiến thức, kỹ
năng và thái độ cần có để thực hiện nhiệm vụ học tập đạt tới
một chuẩn nào đó.
Cơng trình nghiên cứu về quản lý hoạt động dạy học,
quản lý hoạt động dạy học theo định hướng phát triển NLHS
Các nhà khoa học như: Nguyễn Cảnh Toàn, Trần Kiểm,
Hồ Ngọc Đại, Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt, Đặng Quốc Bảo,
Bùi Minh Hiền, Nguyễn Ngọc Hợi, Nguyễn Ngọc Bảo, Phạm
Viết Vượng, Đặng Thành Hưng... trong các nghiên cứu của
mình, ở mức độ khác nhau đã đề cập đến hoạt động dạy học và

quản lý HĐDH.
Tác giả Trần Kiểm, trong cơng trình khoa học “Quản
lý giáo dục và trường học”, đã xác định: quản lý dạy học là
quản lý cả quá trình dạy của giáo viên và quá trình học của
học sinh; đây là hai quá trình thống nhất hữu cơ, biện chứng
với nhau.
Tác giả Nguyễn Phúc Châu, trong cuốn sách “Quản lý
nhà trường”, đã bàn về quản lý hoạt động dạy học. Tác giả đã
làm rõ những kiến thức chung về hoạt động dạy học và những
vấn đề về quản lý hoạt động dạy học. Khi đề cập về quản lý


hoạt động dạy học, tác giả đã làm rõ khái niệm quản lý hoạt
động dạy học; triển khai quản lý hoạt động dạy học; những nội
dung cơ bản của quản lý hoạt động dạy học; mối quan hệ giữa
dạy học và quản lý hoạt động dạy học.
Tác giả Phạm Viết Vượng nghiên cứu vấn đề trong
quá trình dạy học lấy học sinh làm trung tâm; tác giả Trần
Hồng Quân đề cập tới một số vấn đề đổi mới trong lĩnh vực
giáo dục và đào tạo.
Tác giả Nguyễn Ngọc Hợi, khi nghiên cứu về “Một số
biện pháp quản lý hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của
giáo viên”, đã chỉ rõ: Tùy theo các bậc học, trong từng nội
dung hoạt động chuyên mơn của giáo viên có thể có những
u cầu biện pháp khác nhau nhằm góp phần xây dựng và
nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo cán bộ quản lý giáo
dục giáo dục.
Tác giả Huỳnh Thị Kim Trang, với đề tài: “Thực trạng
về công tác quản lý việc dạy và học ở trường tiểu học của một
số Phòng GD&ĐT quận (huyện) tại thành phố Hồ Chí Minh’,

đã làm rõ cơ sở lý luận quản lý HĐDH ở trường tiểu học; đánh
giá thực trạng công tác quản lý HĐDH ở các trường tiểu học
và đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở


các trường tiểu học của một số Phòng GD&ĐT quận (huyện)
tại thành phố Hồ Chí Minh.
Tác giả Lê Tường Vân (2010), với đề tài luận văn thạc
sỹ quản lý giáo dục: “Quản lý hoạt động dạy học cho lớp
chất lượng cao tại trường trung học phổ thông dân lập
Nguyễn Siêu, Hà Nội”. Luận văn đã khái quát những vấn đề
cơ bản về quản lý hoạt động dạy học nói chung và quản lý
hoạt động dạy cho lớp chất lượng cao tại trường trung học
phổ thơng dân lập Nguyễn Siêu nói riêng. Đồng thời, đưa ra
những yêu cầu, giải pháp cơ bản quản lý hoạt động dạy cho
lớp chất lượng cao tại trường trung học phổ thông dân lập
Nguyễn Siêu.
Tác giả Ngơ Ngọc Cường (2012), với cơng trình khoa
học: “Đổi mới phương pháp dạy học ở trường trung học
theo định hướng phát triển năng lực người học”, Tạp chí
giáo dục và xã hội, số tháng 8 năm 2012. Bài viết đề cập
việc đổi mới PPDH đòi hỏi mỗi giáo viên xác định những
phương hướng phù hợp để cải tiến PPDH. Qua đó, đề ra
biện pháp đổi mới PPDH theo hướng cải tiến PPDH; kết
hợp PPDH truyền thống với PPDH hiện đại; vận dụng dạy
học theo tình huống.


Tác giả Lê Bá Ngọc (2013), với cơng trình khoa học:
“Vai trò và tầm quan trọng của đổi mới phương pháp dạy

học, thực trạng và định hướng việc đổi mới phương pháp
dạy học”, Tạp chí dạy và học ngày nay, số tháng 8 năm
2013. Đã khẳng định việc đổi mới PPDH là rất quan trọng
và cần thiết để nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo ở
nước ta hiện nay. Đổi mới PPDH địi hỏi người thầy ln
cập nhật thơng tin, nâng cao trình độ cơng nghệ thơng tin,
dạy học gắn phương tiện dạy học hiện đại.
Tác giả Hồ Sỹ (2013), với cơng trình: “Tìm hiểu về kiểm
tra đánh giá học sinh và đổi mới kiểm tra đánh giá theo
hướng tiếp cận năng lực”. Tác giả đã làm rõ các hình thức
kiểm tra, đánh giá hiện đại đã và đang được áp dụng ở các
nước có nền giáo dục tiến bộ trên thế giới. Trên cơ sở đó, tác
giả đánh giá những ưu, khuyết điểm, xác định phương hướng,
đề xuất biện pháp cho hoạt động dạy học, kiểm tra, đánh giá
giáo dục ở Việt Nam theo hướng tiếp cận năng lực người học.
Tô Thị Kim Sa (2016), với đề tài luận văn thạc sĩ “Quản
lý của hiệu trưởng trong đổi mới phương pháp dạy học ở các
trường trung học cơ sở huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội”,
đã nghiên cứu lý luận và thực tiễn đổi mới phương pháp dạy
học và quản lý của hiệu trưởng các trường THCS huyện


Thanh Oai, Thành phố Hà Nội, qua đó đề xuất các biện pháp
quản lý đổi mới PPDH.
Đối với môn Văn, cũng có nhiều chuyên gia nghiên
cứu đề cập đến một số phương diện của quản lý quá trình
dạy và học mơn văn sao cho hiệu quả cao nhất. Có thể kể
đến một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu như “Phương pháp
dạy học văn” của GS Phan Trọng Luận (Chủ biên). “Lý
luận văn học” của GS Hà Minh Đức (chủ biên), “Dạy học

văn ở trường phổ thông” PGS.TS Nguyễn Thị Thanh
Hương.
Các tài liệu trên dù mang tính khái quát hay chỉ đề cập
tới một khía cạnh nào đó trong quản lý giáo dục nói chung
và quản lý HĐDH nói riêng. Đó là những cơng trình có giá
trị về lý luận và thực tiễn, phù hợp với công việc của các tác
giả trong việc thực hiện chức trách của cán bộ quản lý giáo
dục, nhất là quản lý hoạt động dạy học ở bậc THCS, đồng
thời cũng giúp cho cán bộ quản lý giáo dục các trường
THCS khác tham khảo để vận dụng trong cơng tác quản lý
của mình.
Nghiên cứu nước ngồi
Thế kỷ XVII, ở phương Tây có nhiều nhà nghiên cứu về
quản lý, tiêu biểu như: Rober Owen (1717 - 1858), Chales


Baddage (1792 - 1871), F.Taylor (1856 - 1915) - người được
coi là “cha đẻ của thuyết quản lý khoa học”…. John Locke
(1632 - 1704) cũng đưa ra nguyên tắc giáo dục là: “Khơng
được nhồi nhét điều gì vào trí nhớ của trẻ mà vốn chúng
khơng thích thú. Thầy giáo cần khơi dậy ở trẻ lịng ham mê
say sưa, qua đó hướng trẻ đến với tri thức. Phải phát triển khả
năng độc lập suy nghĩ và chủ động trong học tập của trẻ” [dẫn
theo 31]. Sau đó, tới J.J. Rousseau (1712 -1778) cũng cho
rằng phải hướng HS tích cực tự giành kiến thức bằng cách
tìm hiểu, khám phá và sáng tạo.
Vào cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, khoa học giáo
dục đã thực sự có sự biến đổi cả về lượng và chất. Trên cơ sở
lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, các nhà nghiên cứu giáo
dục đã đi sâu nghiên cứu về vai trò và trách nhiệm của đội

ngũ cán bộ quản lý trong việc quản lý HĐDH trong nhà
trường. V.P. Xtrezicodin, Jaxapob đã nghiên cứu và đề ra một
số vấn đề quản lý của hiệu trưởng như vấn đề phân cơng
nhiệm vụ giữa Hiệu trưởng và phó hiệu trưởng. Các tác giả
đã thống nhất và khẳng định hiệu trưởng phải là người lãnh
đạo toàn diện và chịu trách nhiệm trong công tác quản lý nhà
trường.


Các nhà nghiên cứu giáo dục Xô Viết khẳng định: Kết
quả toàn bộ hoạt động quản lý của nhà trường phụ thuộc rất
nhiều vào việc tổ chức đúng đắn và hợp lý hoạt động giảng
dạy của đội ngũ giáo viên. Các tác giả: P.V.Zimin,
M.I.Konđakôp, N.I.Saxerđôtôp đi sâu nghiên cứu lãnh đạo
công tác giảng dạy, giáo dục trong nhà trường và xem đây
là khâu then chốt trong hoạt động quản lý của Hiệu trưởng.
Đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, ở Vương quốc Anh
đã có những nghiên cứu và triển khai thực hiện mơ hình
“Trường học hiệu quả” (Effective School). Trong đó thể
hiện các đặc trưng: tính chun nghiệp trong lãnh đạo; về
môi trường biết học hỏi; về sự tập trung vào dạy học và dạy
học có mục đích rõ ràng; về phát huy tính tích cực chủ chủ
thể.
V.A.

Xukhomlinxki,

P.V.Zimin,

M.I.Konđakop,


N.I.Saxerdotop đã đi sâu nghiên cứu công tác lãnh đạo hoạt
động giảng dạy, giáo dục trong nhà trường và xem đây là
khâu then chốt trong công tác quản lý của hiệu trưởng. Các
tác giả đều khẳng định: kết quả toàn bộ hoạt động quản lý
của nhà trường phụ thuộc rất nhiều vào việc tổ chức đúng
đắn và hợp lý hoạt động giảng dạy của đội ngũ giảng viên.
V.A.Xukhomlinxki rất chú trọng việc chỉ đạo hoạt
động dạy học, nhất là việc tổ chức dự giờ và phân tích sư


phạm bài dạy của giáo viên. Ông đã chỉ ra thực trạng yếu
kém của hoạt động dạy học. Từ đó ông đã đưa ra nhiều cách
phân tích sư phạm, đúc kết những bài học bổ ích cho giáo
viên trong hoạt động dạy học.
Trong thời đại ngày nay, vấn đề đặt ra là phải tập trung
nâng cao chất lượng dạy học, trước hết phải bắt đầu từ sự
quan tâm tạo ra điều kiện thuận lợi nhất để phát huy vai trò
của hai chủ thể là người dạy và người học. Chính vì vậy,
bên cạnh những nghiên cứu về giáo dục, trong thực tế đã có
nhiều trường quan tâm, nghiên cứu việc quản lý HĐDH để
tìm ra biện pháp quản lý phù hợp và hiệu quả nhất cho đơn
vị của mình.
Năm 2004, trường ĐH New Zealand đã xuất bản cẩm
nang “Quản lý và điều hành chất lượng giảng dạy tại các
trường đại học New Zealand”, trong đó nêu rõ các lĩnh vực và
khía cạnh cần thiết để quản lý và điều hành HĐDH, bao gồm:
làm rõ khái niệm chất lượng, xác định chiến lược đồng thời
nêu ra các chỉ báo của sự cải thiện chất lượng giảng dạy bằng
cách xem xét chất lượng đầu ra của số lượng sinh viên, sự

đánh giá của sinh viên, xem xét sự chỉ đạo và các chương
trình của các phịng ban, cải thiện chế độ khen thưởng cho
các khóa học, chương trình khuyến khích đem lại chất lượng


cho việc giảng dạy. Đặc biệt nhấn mạnh đến việc phải có một
cẩm nang kế hoạch cho HĐDH.
Năm 2001, Đại học California xuất bản cuốn “Sự
hướng dẫn cho sinh viên đại học và cho những hoạt động
dạy học của Ban giảng huấn”, trong đó cho rằng việc quản
lý chất lượng giảng dạy suy cho cùng cũng xuất phát từ
quan điểm “tất cả vì người học” nên các trường đại học
California đều xem việc quản lý các hoạt động trong trường
đại học cũng như quản lý hoạt động giảng dạy là thông qua
kết quả học tập của sinh viên. Công việc học tập và bản
thân sinh viên là trung tâm của mọi hoạt động của nhà
trường.
Hầu hết các nhà nghiên cứu giáo dục và thực tiễn hoạt
động giáo dục tại một số trường đều nêu cụ thể các khuynh
hướng giáo dục, sứ mạng của dạy và học đồng thời cũng chỉ
ra những cách thức quản lý một lớp học cũng như quản lý
HĐDH cho có hiệu quả để hồn thành mục tiêu chung.
Tác giả T.Makiguchi (Nhật Bản - vào nửa đầu thế kỷ
XX), đã nêu lên quá trình phát triển của giáo dục tương ứng
với nó là sự thay đổi vai trị của người thầy trong q trình
giáo dục, dạy học. Theo ông, dạy học phải hướng vào người
học, dạy học tích cực, biến q trình dạy học thành q trình
tự học.



Các khái niệm liên quan
Khái niệm quản lý
Quản lý là một thuật ngữ được tiếp cận dưới nhiều
bình diện khác nhau. Theo F.F. Aunpu: “Quản lý là một
khoa học và nghệ thuật tác động vào một hệ thống nhằm
mục tiêu biến đổi hệ thống đó” [14;(16)]. Từ điển Giáo dục
học Việt Nam: “Quản lý là hoạt động hay tác động có định
hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến
khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức
nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của
tổ chức” [54, tr.326]. Trong tác phẩm: “Khoa học tổ chức và
quản lý” của Trung tâm nghiên cứu khoa học tổ chức, quản
lý, chủ biên Đặng Quốc Bảo: “Quản lý là một nghệ thuật
đạt được mục tiêu đã đề ra thông qua việc điều khiển, phối
hợp, hướng dẫn, chỉ huy hoạt động của những người khác”
[3, tr.176].
Tuy cách diễn đạt khác nhau, song các khái niệm đều
có điểm chung quản lý là sự tác động, chỉ huy, điều khiển,
hướng dẫn các quá trình xã hội và các hoạt động của con
người để đạt được mục đích đề ra; trong đó, quản lý Nhà
trường là một bộ phận của quản lý giáo dục, bản chất của
quản lý trong Nhà trường là quản lý HĐDH và học tập, tức


là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng
thái khác để dần tiến tới mục tiêu GD&ĐT.
Khái niệm quản lý dạy học
Dạy học là hoạt động trung tâm của nhà trường. Mọi
hoạt động đa dạng và phức tạp của nhà trường đều hướng
vào hoạt động trung tâm đó. Vì vậy trọng tâm của việc quản

lý nhà trường là quản lý dạy học. Đó chính là quản lý hoạt
động lao động sư phạm của người thầy và hoạt động học
tập, rèn luyện của trò được diễn ra chủ yếu trong hoạt động
dạy học.
Quản lý nhà trường khác với quản lý xã hội, được qui
định với các đặc trưng riêng về lao động sư phạm của giáo
viên và quá trình tiếp thu của học sinh là cả quá trình dậy và
học, trong đó các thành viên của nhà trường vừa là chủ thể
vừa là đối tượng quản lý. Sản phẩm của các hoạt động trong
nhà trường là nhân cách, là kiến thức của người học, được
hình thành trong cả quá trình học tập tu dưỡng và phát triển.
Tác giả Phạm Viết Vượng, đã nhấn mạnh quản lý nhà
trường với trọng tâm là quản lý dạy học và cho rằng đây là
“hoạt động của cơ quan quản lý nhằm tập trung và tổ chức
các hoạt động của giáo viên, học sinh và các tổ chức giáo
dục khác, cũng như huy động tối đa các nguồn lực giáo dục


để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trong nhà
trường” [59, tr. 55].
Theo tác giả Đỗ Bích Ngọc “Quản lý quá trình dạy
học là một bộ phận cấu thành chủ yếu của toàn bộ hệ thống
quản lý quá trình giáo dục và đào tạo trong trường học. Quá
trình thực hiện các chức năng tổng hợp, phát triển nhân
cách, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài’’ [30, tr.41].
Như vậy, quản lý dạy học là một hoạt động quản lý với
tư cách là một hệ thống toàn vẹn, bao gồm quản lý các
thành tố cơ bản: mục đích, nhiệm vụ, nội dung dạy học,
thầy với hoạt động dạy, trò với hoạt động học, các phương

pháp và các phương tiện dạy học, các hình thức tổ chức dạy
học, phương thức kiểm tra đánh giá kết quả học tập. Đây là
quá trình là quá trình quản lý hoạt động sư phạm của người
thầy và hoạt động học tập rèn luyện của trị, để hình thành
và phát triển nhân cách học sinh.
Quản lý dạy học là quản lý một q trình sư phạm đặc
thù, nó tồn tại như là một hệ thống, bao gồm nhiều thành tố
cấu trúc như: mục đích, nhiệm vụ dạy học, nội dung dạy
học, PPDH và phương tiện dạy học, thầy với hoạt động dạy,
trò với hoạt động học tập và kiểm tra, đánh giá kết quả dạy -


học để điều chỉnh cho hiệu quả ngày càng tốt hơn hoạt động
dạy học
Khái niệm quản lý dạy học môn Ngữ văn
Dạy học môn Ngữ Văn ở các trường trung học cơ sở
“Văn học là nghệ thuật dùng ngôn ngữ và hình tượng
để thể hiện đời sống và xã hội con người” [13]. Như vậy tác
phẩm văn học là tác phẩm nghệ thuật dùng ngôn ngữ làm
công cụ để phản ánh mọi mặt của đời sống xã hội, con
người ở mọi thời đại. Văn học là một quá trình sáng tạo bao
gồm ba thành tốt: Nhà văn, tác phẩm và công chúng. Theo
tác giả Nguyễn Thị Thanh Hương “Một tác phẩm văn học
thành công là tác phẩm thể hiện được điều mà đông đảo
quần chúng độc giả mong đợi, thể hiện được cuộc sống lịch
sử, xã hội một cách khách quan, trung thực thông qua
những cảm nhận sâu sắc, mang tính triết lý nhân sinh, đạo
đức, thẩm mỹ... và thơng qua những khái quát nghệ thuật
độc đáo, đặc sắc của tác giả” [21]. Khrapchencô cho rằng
tác phẩm văn học bao giờ cũng là một chỉnh thể toàn vẹn, lý

tưởng, một sự thống nhất hài hoà đến mức độ tối đa của tất
cả các bộ phận tạo thành. Còn nhà lý luận McKây, trong
cuốn nghệ thuật của ngôn từ cho rằng, tác phẩm văn học
được coi là thông điệp thẩm mỹ đối với người tiếp nhận và


làm thay đổi tư tưởng, tình cảm, nhận thức của họ ở chừng
mực nhất định. Thơng điệp đó phải có cái mới, có vấn đề,
có cái độc đáo. Mơn Ngữ văn ở các trường THCS là bộ
mơn tìm hiểu, khám phá cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn
chương cả về nội dung và nghệ thuật. Môn Ngữ văn là một
mơn khoa học vừa có tính nghệ thuật ngơn từ vừa mang
tính chất một mơn học. Bộ mơn văn trong các trường THCS
khơng đồng nhất với văn học ngồi xã hơi.
Mơn Ngữ Văn ở các trường THCS có vai trị quan
trọng, giúp học sinh có những kiến thức phổ thơng cơ bản,
hiện đại, hệ thống về văn học và về tiếng việt bao gồm: Kiến
thức về những tác phẩm tiêu biểu cho các thể loại của văn
học Việt Nam và một số tác phẩm, đoạn trích của văn học
nước ngồi, những hiểu biết về lịch sử văn học và một số
kiến thức về lý luận văn học cần thiết. Những kiến thức khái
quát về giao tiếp, lịch sử tiếng việt và các phong cách ngôn
ngữ, những kiến thức về các kiểu văn bản, đặc biệt là văn
bản nghị luận (đặc điểm, cách tiếp nhận và tạo lập). Đồng
thời, hình thành phát triển các năng lực ngữ văn với yêu cầu
bậc trung học cơ sở, bao gồm: Năng lực sử dụng tiếng việt
thể hiện ở bốn kỹ năng cơ bản (đọc, viết, nghe, nói), năng
lực tiếp nhận văn học, cảm thụ thẩm mỹ, năng lực tự học.
Ngồi ra mơn Ngữ văn ở Trung học cơ sở còn giúp cho học



sinh có tình u tiếng việt, văn học văn hố, tình u gia
đình, thiên nhiên, đất nước, lịng tự hào dân tộc, ý thức tự
lập, tự cường, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, tinh thần dân chủ,
nhân văn, nâng cao ý thức trách nhiệm công dân, tinh thần
hữu nghị và hợp tác quốc tế, ý thức tôn trọng, phát huy các
giá trị văn hoá của dân tộc và nhân loại.
Dạy học mơn Ngữ văn là q trình có mục đích rõ
ràng, có tổ chức chặt chẽ, có chương trình, nội dung xác
định, có cơ sở vật chất kỹ thuật đảm bảo kết quả dạy học
theo mục tiêu xác định. Dấu hiệu nổi bật của dạy học môn
Ngữ văn là sự phối hợp thống nhất giữa hoạt động dạy và
hoạt động học. Đây là mối liên hệ sinh thành trong dạy học,
qui định sự vận động, phát triển của hoạt động dạy học.
Hoạt động dạy môn Ngữ Văn: Là hoạt động sư phạm
của GV nhằm trang bị kiến thức văn học đến HS. Đây là
hoạt động cơ bản, đặc thù của nhà trường trung học cơ sở
do vậy, quản lý các hoạt động dạy học cũng là nội dung
quản lý cơ bản, quan trọng hàng đầu của quản lý nhà
trường.
Hoạt động học tập mơn Ngữ Văn: Là hoạt động học
tập tích cực tự giác, sáng tạo của HS dưới sự chỉ đạo tổ
chức điều khiển của GV nhằm lĩnh hội kiến thức văn học
theo chương trình nội dung đã xác định.


Từ những vấn đề trên, chúng tôi quan niệm: Dạy học
mơn Ngữ văn là q trình có mục đích, có tổ chức, phối
hợp thống nhất giữa hoạt động của giáo viên và học sinh
nhằm trang bị kiến thức về ngôn ngữ, hình thành và phát

triển năng lực sử dụng tiếng Việt, tiếp nhận văn học, cảm
thụ thẩm mĩ và bồi dưỡng tinh thần, tinh cảm cho học sinh
phù hợp với sự phát triển của lứa tuổi, đáp ứng mục tiêu
yêu cầu của bậc học, môn học đề ra
Quản lý dạy học môn Ngữ Văn
Môn Ngữ Văn là một môn học xã hội trong chương
trình giáo dục ở bậc THCS. Chương trình mơn Văn học do
Bộ GD&ĐT qui định. Quản lý đổi mới dạy học môn Ngữ
Văn ở các trường THCS là sự cụ thể hóa quản lý hoạt động
dạy học vào một môn học cụ thể.
Từ những vấn đề trên, chúng tôi quan niệm, Quản dạy
học môn Ngữ Văn ở các trường trung học cơ sở là sự tác
động có mục đích, có kế hoạch của các chủ thể quản lý đến
quá trình tổ chức thực hiện hoạt động giảng dạy của giáo
viên, học tập của học sinh nhằm nâng cao chất lượng dạy
học môn ngữ văn đáp ứng mục tiêu, yêu cầu môn học, bậc
học đề ra
Một là, mục đích quản lý dạy học mơn Ngữ văn, nhằm
đảm bảo, giữ vững và không ngừng nâng cao chất lượng


giảng dạy môn Ngữ văn của GV, chất lượng học tập mơn
ngữ văn của học sinh, qua đó góp phần nâng cao chất lượng
dạy học ngữ văn ở các trường trung học cơ sở
Hai là, chủ thể quản lý dạy học môn Ngữ văn là cán
bộ quản lý Sở GD&ĐT, Phòng GD&ĐT; Cấp uỷ, Ban giám
hiệu các trường trung học cơ sở, các cơ quan chức năng
trong nhà trường, trực tiếp quan trọng nhất là tổ bộ môn
Ngữ văn và chính bản thân đội ngũ giáo viên, học sinh.
Ba là, đối tượng quản lý dạy học môn Ngữ văn là là

mục tiêu, nội dung chương tình, phương tiện dạy học, kiểm
tra đánh giá kết quả môn học, GV, HS, chịu sự tác động,
điều khiển của chủ thể quản lý. Như vậy, giáo viên và học
sinh vừa là chủ thể vừa là khách thể trong hệ thống quản lý.
Bốn là, nội dung quản lý là mục tiêu, nội dung chương
tình, phương tiện dạy học, kiểm tra đánh giá kết quả môn
học, GV, HS thực chất là quản lý sự biến đổi và thực hiện
tốt các thành tố của quá trình dạy học theo chiều hướng đi
lên. Đó là quản lý thực hiện tốt mục tiêu chương trình, nội
dung, kế hoạch dạy học; quản lý hoạt động dạy học của
giáo viên; quản lý hoạt động học tập của học sinh; quản lý
tốt các điều kiện bảo đảm cho HĐDH môn Ngữ văn. Đồng
thời quản lý tốt việc kiểm tra, đánh kết quả dạy học, góp
phần nâng cao chất lượng dạy học mơn ngữ văn, đạt được


mục đích quản lý của nhà trường đã xác định.
Năm là, phương pháp quản lý dạy học môn Ngữ văn
rất phong phú, đa dạng, bao gồm toàn bộ những cách thức,
biện pháp tác động, điều khiển của chủ thể quản lý đến đối
tượng quản lý bằng hệ thống công cụ, phương tiện nhằm đạt
được mục tiêu quản lý đã xác định. Việc xác định phương
pháp quản lý dạy học môn Ngữ văn phải đảm bảo tính khoa
học, thống nhất, khả thi, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ
của giáo viên, đặc điểm hoạt động học tập của học sinh,
tăng cường hiệu quả quản lý nhằm tạo ra sức mạnh tổng
hợp, trong đó phương pháp quản lý hành chính qn sự,
phương pháp giáo dục - tâm lý, phương pháp kích thích là
những phương pháp chủ đạo, được sử dụng phổ biến. Dạy
học mơn ngữ văn là hoạt động trí tuệ, hết sức căng thẳng,

do đó cần lựa chọn và sử dụng các phương pháp quản lý
phù hợp với đối tượng quản lý là con người mới mang lại
tác dụng, hiệu quả cao.
Sáu là, công cụ quản lý dạy học môn Ngữ văn đã và
đang sử dụng các công cụ chủ yếu như: Luật Giáo dục; Quy
chế hoạt động của các trường THCS; Đề án đổi mới chương
trình, sách giáo khoa phổ thơng; NQ TW8 khóa XI; NQ
ĐHXII; Nghị quyết Đại hội chi bộ các trường THCS, nhiệm
kỳ 2015- 2020; Kế hoạch điều hành dạy học của Sở


GD&ĐT, Phòng GD&ĐT; Cấp uỷ, Ban giám hiệu các
trường trung học cơ sở; các quy định về quản lý hành
chính...
Khái niệm năng lực ngôn ngữ
Ngữ văn là môn học được tích hợp từ ba phân mơn là
Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn (trước đó ba phân mơn này là
ba mơn độc lập, có SGK riêng) gồm hai phần ngữ và văn
gắn bó với nhau, bởi “ngơn ngữ là chất liệu làm nên văn
học và văn học chính là nghệ thuật của ngơn ngữ”. Là mơn
học tích hợp, nhưng về cơ bản nó vẫn là mơn học nghệ
thuật (Văn vẫn chiếm tỉ trọng lớn nhất), đồng thời nó lại là
mơn học thực hành (Tập làm văn được học bài bản và hệ
thống). Trên đại thể, có thể xem Ngữ văn là mơn học về cái
đẹp với hai khâu liên hồn: cảm thụ cái đẹp trong văn
chương (Văn), ngôn ngữ (Tiếng Việt) để tạo lập ra cái đẹp
trong văn bản nói và viết (Tập làm văn). Đó chính là sợi
dây liên kết gắn bó giữa mơn học nghệ thuật và mơn học
thực hành trong môn Ngữ văn với hai hoạt động chủ yếu:
đọc hiểu văn bản và tạo lập văn bản. Như vậy, với những

đặc trưng trên đây, môn Ngữ văn sẽ hình thành và phát triển
hai năng lực quan trọng cho thế hệ trẻ: năng lực văn học và
năng lực ngôn ngữ.


Khi nói một người có năng lực ngơn ngữ thì người đó
khơng chỉ giỏi tiếng mẹ đẻ mà cịn thành thạo cả tiếng nước
ngồi. Năng lực ngơn ngữ ở đây khơng bàn về những người
như thế mà chỉ nói đến năng lực ngôn ngữ thuộc tiếng mẹ
đẻ (tức tiếng Việt) của học sinh qua việc học môn Ngữ văn
trong trường phổ thơng.
Đã là học sinh Việt Nam thì học sinh nào cũng có tiềm
năng ngơn ngữ về tiếng Việt, ít hay nhiều tùy theo mơi
trường và hồn cảnh sống. Tiếp nối môn Tiếng Việt ở bậc
Tiểu học, môn Ngữ văn ở THCS được xem là môn học duy
nhất giúp cho thế hệ trẻ phát triển năng lực ngôn ngữ này.
Năng lực ngôn ngữ của học sinh trung học gồm ba
năng lực chủ yếu sau đây: năng lực làm chủ ngôn ngữ (tiếng
Việt); năng lực giao tiếp ngôn ngữ (tiếng mẹ đẻ) để giao
tiếp; năng lực sử dụng ngôn ngữ (tiếng Việt) để tạo lập văn
bản.
Năng lực làm chủ ngôn ngữ địi hỏi học sinh phải có
một vốn từ ngữ nhất định, hiểu và cảm nhận được sự giàu
đẹp của tiếng Việt, nắm được các quy tắc về từ ngữ, ngữ
pháp, chính tả để sử dụng tốt tiếng Việt.
Năng lực giao tiếp ngơn ngữ địi hỏi học sinh phải biết
sử dụng thuần thục tiếng mẹ đẻ (tiếng Việt) để giao tiếp


trong nhiều tình huống khác nhau với những đối tượng khác

nhau trong gia đình, nhà trường và xã hội.
Năng lực sử dụng ngôn ngữ để tạo lập văn bản là một
năng lực đặc trưng rất quan trọng của năng lực ngơn ngữ
trong nhà trường. Bởi mục đích cuối cùng của nó là để tạo
ra được những văn bản chuẩn mực và đẹp. Đó là những văn
bản nghị luận (gồm nghị luận chính trị xã hội và nghị luận
văn học), những văn bản nghệ thuật (kể chuyện, tả cảnh, tả
người) và những văn bản khác (viết báo, viết đơn, làm báo
cáo…).
Để tạo lập được các văn bản trên, học sinh phải biết
tạo lập ý, sắp xếp ý thành dàn bài, và viết thành bài văn
hồn chỉnh. Điều này khơng dễ chút nào, bởi trong thực tế
vẫn cịn có những sinh viên khi ra trường không viết nổi
một cái đơn xin việc!? Do đo việc bồi dưỡng và phát triển
năng lực ngôn ngữ cho học sinh ở bậc học THCS là hết sức
cần thiết. Và đó chính là vai trị và nhiệm vụ của môn Ngữ
văn.
Khái niệm phát triển năng lực ngôn ngữ của học
sinh
Nội dung mơn Ngữ văn mang tính tổng hợp, bao gồm
cả tri thức văn hoá, đạo đức, triết học,... liên quan tới nhiều
môn học và hoạt động giáo dục khác như Lịch sử, Địa lí,


Nghệ thuật, Giáo dục công dân, Ngoại ngữ, Tự nhiên và Xã
hội, Hoạt động trải nghiệm, Hoạt động trải nghiệm, hướng
nghiệp,... Môn Ngữ văn cũng liên quan mật thiết với cuộc
sống; giúp học sinh biết quan tâm, gắn bó hơn với đời sống
thường nhật, biết liên hệ và có kỹ năng giải quyết các vấn
đề nảy sinh trong thực tiễn. Thơng qua các văn bản ngơn từ

và những hình tượng nghệ thuật sinh động trong các tác
phẩm văn học, bằng hoạt động đọc, viết, nói và nghe, mơn
Ngữ văn có vai trị to lớn trong việc giúp học sinh hình
thành và phát triển những phẩm chất tốt đẹp cũng như các
năng lực cốt lõi để sống và làm việc hiệu quả, để học suốt
đời.
Năng lực ngôn ngữ của mỗi học sinh dựa trên cơ sở tư
chất, nhưng điều chủ yếu là năng lực hình thành, phát triển
và thể hiện trong hoạt động tích cực của học sinh dưới tác
động của rèn luyện, dạy học và giáo dục. Vì thế, cần tiếp
cận vấn đề phát triển năng lực ngôn ngữ theo cách tiếp cận
nhân cách. Việc hình thành và phát triển các phẩm chất
nhân cách là phương tiện có hiệu quả nhất để phát triển
năng lực ngôn ngữ của học sinh.
Cấu trúc của năng lực ngôn ngữ bao gồm các thành
phần cơ bản: tri thức về ngôn ngữ, kỹ năng sử dụng ngơn
ngữ và các điều kiện tâm lý. Vì thế, phát triển năng lực


ngôn ngữ của học sinh, trước hết là phát triển các thành
phần này. Nhưng bản thân tri thức ngôn ngữ, kỹ năng sử
dụng ngôn ngữ và các điều kiện tâm lý chưa phải là năng
lực ngơn ngữ. Muốn chuyển hóa chúng thành năng lực ngôn
ngữ, phải thông qua các hoạt động thực tiễn phong phú của
học sinh, từ vận dụng kiến thức, kỹ năng để hoàn thành các
nhiệm vụ học tập mơn Ngữ văn đến giải quyết các tình
huống đa dạng của cuộc sống... Bởi vậy, phát triển năng lực
ngôn ngữ của học sinh còn bao hàm phát triển khả năng
thực hành ngôn ngữ, vận dụng kiến thức; khả năng giải
quyết vấn đề của năng lực ngôn ngữ.

Phát triển năng lực ngôn ngữ là một trong 2 yêu cầu
đạt được (cùng với phát triển năng lực văn học) trong phát
triển năng lực đặc thù của học sinh thông qua dạy học môn
Ngữ văn. Phát triển năng lực ngôn ngữ với yêu cầu: phân
biệt được các loại văn bản văn học, văn bản nghị luận và
văn bản thông tin; đọc hiểu được cả nội dung tường minh
và nội dung hàm ẩn của các loại văn bản; viết được đoạn và
bài văn tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận, thuyết minh,
nhật dụng hồn chỉnh, mạch lạc, logic, đúng quy trình và có
kết hợp các phương thức biểu đạt; nói dễ hiểu, mạch lạc; có
thái độ tự tin, phù hợp với ngữ cảnh giao tiếp; nghe hiểu với
thái độ phù hợp.


×