Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (49.95 KB, 4 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
Tiếng lóng là một thực tế đầy sinh động mà hầu nhu bất kỳ ngơn ngữ nào cũng có, dù muốn hay
không. Văn hào Victor Hugo (1802-1885) từng chú ý sử dụng tiếng lóng trong tác phẩm Ngày cuối
cùng của một tử tù (Le dernier jour d'un condamné; 1828); thậm chí cịn dành hẳn cả quyển VII
trong phần thứ tu của bộ tiểu thuyết đồ sộ nổi tiếng Những nguời khốn khổ (Les Misérables; 1861) để
bàn riêng về tiếng lóng. Ðây là những nhận định của Victor Hugo: "Tiếng lóng là gì? Là quốc gia,
đồng thời là quốc âm; đó là sự đánh cắp duới hai hình thức: nhân dân và ngơn ngữ. Tiếng lóng vừa là
một hiện tuợng văn học vừa là một kết quả xã hội. Tiếng lóng, căn bản là gì? Là ngơn ngữ của tiếng
lóng khốn cùng. Mọi nghề, mọi nghiệp, có thể mọi ngẫu nhiên của hệ thống xã hội và hết thảy các
hình thức của trí tuệ, đều có tiếng lóng của nó. Về phuơng diện thuần túy văn học, nghiên cứu tiếng
lóng có thể kỳ thú hơn nhiều khoa học khác...".
Ngày nay, phần lớn giáo trình ngơn ngữ học đại cuơng, tiếng lóng là nội dung khơng thể thiếu đối với
chuyên đề từ vựng học. Trong các hội nghị, hội thảo khoa học - nhu hội nghị "Giữ gìn sự trong sáng
của tiếng Việt về mặt từ ngữ" đuợc tổ chức quy mô vào cuối tháng 10-1979, một số báo cáo nghiên
cứu về tiếng lóng đã thu hút sự quan tâm của nhiều nguời. Cho đến nay, tồn tại lắm định nghĩa, cách
phân loại và đánh giá khác nhau về tiếng lóng.
Tiếng lóng (Hán: lí ngữ; Pháp: argot, Anh: slang cant/jargon) đuợc Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn
ngữ học (1992) cắt nghĩa: "Cách nói một ngơn ngữ riêng trong một tầng lớp hoặc một nhóm nguời
nào đó, nhằm chỉ để cho trong nội bộ hiểu đuợc với nhau mà thôi". Từ điển Petit Larousse illustré
(1973) định nghĩa tiếng lóng: "Từ vựng riêng biệt của một nhóm, một nghề hoặc một giai tầng xã
hội". Hiện đại Hán ngữ từ điển xuất bản ở Bắc Kinh (Trung Quốc -1998) giải thích về li yu (lí ngữ);
"Những phuơng ngơn thơ tục hoặc luu hành hạn hẹp". Advanced learner's English dictionary (1993)
viết về tiếng lóng: "Các từ, cụm từ rất thân mật, khơng nghi thức, thuờng dùng trong lời nói, nhất là
giữa những nguời cùng một nhóm xã hội, làm việc cùng nhau và khơng đuợc xem là thích hợp cho
những bối cảnh nghi thức, cũng nhu chẳng thể sử dụng lâu dài". Qua loạt định nghĩa vắn gọn và phổ
thông ấy, một số yếu tố của tiếng lóng đã bộc lộ:
1. Ðây là loại khẩu ngữ đặc thù dùng để giao tiếp phi chính thức trong một phạm vi xã hội hạn chế.
Tuy nhiên, các từ điển vừa dẫn đã không phân biệt tiếng lóng với biệt ngữ và tiếng nghề nghiệp. Giáo
su Ðỗ Hữu Châu biên soạn Giáo trình Việt ngữ (Tập II: Từ hội học - NXB Giáo dục 1962) cho rằng:
"Tiếng lóng (argot des déclassés) bao gồm một số từ bí hiểm để che dấu tu tuởng của nguời nói,
khơng cho nhiều nguời ngồi tập đồn xã hội của mình biết". Cũng Giáo su Ðỗ Hữu Châu, qua giáo
trình Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt (NXB Giáo dục 1981), lại chỉ ra: "Tiếng lóng bao gồm các đơn vị
từ vựng thuộc loại thứ hai trong các biệt ngữ, tức là những tên gọi "chồng lên" trên những tên gọi
chính thức. Hiện tuợng tiếng lóng là phổ biến đối với mọi tập thể xã hội. Hầu nhu tất cả các tập thể xã
hội nào đã có cái gì chung về sinh hoạt hay về sản xuất, làm việc... thì đều có những tiếng lóng của
riêng mình. (...) Do nhiều động lực khác nhau, nhu do ý muốn "tự bộc lộ" cái vẻ riêng của tập thể
mình, do muốn gây đuợc những sự chú ý đặc biệt, muốn che giấu những điều mà những nguời ngồi
tập thể khơng nên biết, muốn biểu thị thái độ một cách mạnh mẽ... mà hằng ngày hằng giờ trong các
tập thể xã hội đều xuất hiện tiếng lóng. Những tiếng lóng này rất "phù du", không hệ thống, lẻ tẻ,
xuất hiện rồi mất ngay". Một số nhà nghiên cứu nhu Luu Vân Lăng (1960), Hồng Thị Châu (1989)...
liệt tiếng lóng vào loại khơng lấy gì làm tốt đẹp vì phạm vi luu hành "là trong đám nguời làm những
nghề bất luơng, bị xã hội ngăn cấm nhu bọn cờ bạc bịp, bọn ăn cắp, bọn buôn lậu". Sách Ngôn ngữ
học: khuynh huớng - lĩnh vực - khái niệm của nhiều tác giả (NXB Khoa học Xã hội 1994) còn khẳng
định: "Khác biệt ngữ, tiếng lóng có nghĩa xấu".
Một thực tế nữa: chua hẳn tiếng lóng "chỉ thuộc bọn nguời xấu", là "ngôn ngữ duới đáy xã hội". Giáo
su Ðỗ Hữu Châu từng nêu thí dụ về tiếng lóng của giới sinh viên một thời, nhu mẹ đốp nhằm trỏ các
nữ sinh đáo để, nhuận sắc có nghĩa là "đẹp một cách tuơi mát", ngỗng để chỉ điểm hai, gậy - điểm
1...
Tùy quan niệm rộng hẹp mà có những cách nhìn nhận khác nhau về tiếng lóng đối với cơng cuộc giữ
gìn sự trong sáng của tiếng Việt hiện nay.
Tiếng lóng với ngơn ngữ tồn dân
Tiếng lóng Việt Nam đã đuợc bao học giả trong lẫn ngoài nuớc chú ý nghiên cứu từ đầu thế kỷ 20.
Một trong những cơng trình đầu tiên về đề tài lý thú này là của J.N. Cheon, mang tiêu đề L'argot
anamite (Tiếng lóng Việt Nam) đăng trên tập san truờng Viễn Ðông Bác Cổ (BEFEO) từ năm 1905.
ỨNG HỊE NGUYỄN VĂN TỐ (1889-1947) từng có khảo luận L'argot anamite de Hanoi (Tiếng lóng Việt
Nam ở Hà Nội) công bố năm 1925. Nhiều chuyên gia về Việt ngữ học thời gian qua cũng dành công
sức nhất định để nghiền ngẫm về tiếng lóng. Ðến nay, tồn tại hai quan điểm trái nguợc nhau trong
việc nhìn nhận hiện tuợng ngơn ngữ đặc thù này.
Một quan điểm cho rằng tiếng lóng là hiện tuợng khơng lành mạnh trong ngơn ngữ, nó chỉ tồn tại ở
xã hội có giai cấp và mất dần đi, vì vậy phải triệt để chống tiếng lóng và kiên quyết gạt nó ra khỏi
ngơn ngữ văn hóa. Ðó là ý kiến của Nguyễn Văn Tu và Nguyễn Kim Thản... trình bày qua các ấn
phẩm Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại (NXB Ðại học và Trung học Chuyên nghiệp 1976) hoặc Tiếng
Việt trên đuờng phát triển (NXB Khoa học Xã hội 1982). Hãy đọc một đoạn trong tài liệu vừa dẫn đề
cập đến tiếng lóng; "...khơng có tác dụng tích cực, khơng làm giàu thêm ngơn ngữ tồn dân" (tr.188)
Quan điểm khác thì đề nghị chấp nhận những tiếng lóng tốt, tích cực, nhằm bổ sung cho ngơn ngữ
tồn dân. Ðó là ý kiến của Trịnh Liễn và Trần Văn Chánh... phát biểu trong hội nghị "Giữ gìn sự trong
sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ" đuợc tổ chức tại Hà Nội năm 1979. Ðồng quan điểm ấy, Nguyễn
Thiện Giáp soạn sách Từ vựng học tiếng Việt (NXB Ðại học và Trung học Chuyên nghiệp 1985) đã đặt
tiếng lóng trong mối quan hệ với toàn bộ lớp từ tiếng Việt rồi cho rằng: Chỉ nên lên án những tiếng
lóng "thơ tục"; cịn loạt tiếng lóng "khơng thơ tục: là tên gọi có hình ảnh của sự vật, hiện tuợng nào
đó thì có khả năng phổ biến và thâm nhập dần vào ngơn ngữ tồn dân. Sách này cịn chỉ ra rằng
tiếng lóng chính là một phuơng tiện tu từ học đuợc dùng để khắc họa tính cách và miêu tả hoàn cảnh
sống của nhân vật trong các tác phẩm văn học nghệ thuật. Ðây cũng chính là điều mà nhiều nhà
nghiên cứu về tu từ học (rhétorique) về phong cách học (stylistique), cũng nhu nhiều cây bút văn
chuơng, báo chí quan tâm tìm hiểu và vận dụng.
Học giả Nguyễn Hiến Lê rất có lý khi cho rằng một trong những đoạn hay nhất trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du chính là lời thoại độc địa phát ra từ miệng Tú Bà lúc mụ "Nổi tam bành mụ lên" truớc
Thúy Kiều:
Này này sự đã quả nhiên
Thôi đà cuớp sống chồng min đi rồi!
Bảo rằng đi dạo lấy nguời
Ðem về ruớc khách kiếm lời mà ăn
Tuồng vô nghĩa ở bất nhân
Buồn mình truớc đã tần mần thử chơi
Màu hồ đã mất đi rồi
Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma!
Con kia đã bán cho ta
Nhập gia phải cứ phép nhà tao đây
Lão kia có giở bài bây
Chẳng văng vào mặt mà mày lại nghe
Cớ sao chịu tốt một bề
Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao!
Tuơng tự nhu thế, nếu khơng tích lũy vốn tiếng lóng phong phú để sử dụng phù hợp, thì bao phóng
sự và tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng (1912-1939) làm sao cuốn hút độc giả. Từ thiên phóng sự Cạm
bẫy nguời viết năm 1933, nhà báo - nhà văn Vũ đã "đua ra ánh sáng" cả lô tiếng lóng tồn tại trong
giới cờ bạc bịp thời đó: mòng, mẻng, bắt, viên đạn, hòn đạn, của, lộ tẩy, cản, quýnh... Ðến các tác
phẩm Kỹ nghệ lấy Tây (1934), Số đỏ (1936), Làm đĩ (1936), Lục xì (1937)... thì Thiên Hu Vũ Trọng
Phụng trình thêm vơ số "ẩn ngữ giang hồ" mà cơng chúng bình thuờng bấy giờ khó biết nổi: chạy
làng, chánh, chúa, hao đào, ngày phiên, trô, xé giấy... Một tiểu thuyết nổi tiếng cũng vào giai đoạn ấy
là Bỉ vỏ của Nguyên hồng (1918-1982) đuợc xem đã chứa đựng một luợng lớn tiếng lóng, từ tiêu đề
Anh đây công tử khơng vịm.
Ngày mai kện rập biết mịm vào đâu?
Trong số tiếng lóng thời kỳ qua, giờ dây có bao nhiêu đơn vị từ vựng trở thành quen thuộc và đi vào
ngơn ngữ phổ thơng? Chắc chắn khơng ít. Giáo su Ðỗ Hữu Châu từng trung dãn cả loạt tiếng lóng
đuợc chấp nhận vào vốn từ ngữ chung: ba hoa, lộ tẩy, nguội điện, cổ lỗ sĩ, gạo, phe phẩy... Các tác
giả sách Tiếng Việt trên đuờng phát triển (sđd, tr.188) cũng ghi nhận những tiếng lóng đã hội nhập
vào ngơn ngữ tồn dân: quay cóp, móc ngoặc, phớt lờ... Tra cứu các từ điển tiếng Việt hiện đại,
chúng ta cịn phát hiện bao tiếng lóng từng hiện hữu trong quá khứ.
Tiếng Việt, cũng nhu các ngôn ngữ khác, luôn cần đuợc cộng đồng sử dụng cố gắng gìn giữ sự trong
sáng đồng thời với việc tích cực phát triển. Nói cách khác, phát triển vừa là ngun nhân, vừa là mục
đích trong cơng cuộc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Theo quy luật chung, phát triển mạnh nhất
luôn là từ vựng. Ðóng góp vào khía cạnh này, rõ ràng có tiếng lóng. Sau một thời gian tồn tại chính
thức, bất ổn định trong một phạm vi xã hội hạn hẹp, biết bao tiếng lóng sẽ khơng cịn là... tiếng lóng.
Hoặc chúng biến mất. Hoặc chúng trở thành đơn vị từ ngữ của toàn dân, đuợc mọi nguời sử dụng
rộng rãi, không chỉ tồn tại trong các tác phẩm văn chuơng báo chí, hoặc trên màn bạc, màn nhung,
mà cịn xuất hiện cả ở nhiều văn bản hành chính. Từ xì ke, xuất xứ bởi tiếng lóng scag, là một ví dụ.
Quanh một từ điển tiếng lóng
Nhu đã nói, tiếng lóng là một hiện tuợng ngơn ngữ học xã hội có vai trị đáng kể đối với vốn từ vựng
của toàn dân. Từ truớc tới nay, nhiều chuyên gia về Việt ngữ đã quan tâm nghiên cứu tiếng lóng,
song chỉ mới trình bày qua một vài chuơng đoạn trong các cơng trình liên quan đến từ vựng học, tu
từ học, phong cách học; hoặc mới chỉ dừng lại ở báo cáo khoa học - nhu của Trịnh Liễn và Trần Văn
Chánh năm 1979; hoặc mới giới hạn trong khuôn khổ bài báo - nhu bài Tiếng lóng trong giao thơng
vận tải của Chu Thị Thanh Tâm (Ngơn ngữ và đời sống, 1998). Cũng có vài sinh viên làm khóa luận
tốt nghiệp đại học với đề tài tiếng lóng, nhu Lê Lệnh Cáp (1989) hoặc Luơng Văn Thiện (1996). Tuy
Sách Tiếng lóng Việt Nam gồm 236 trang (khổ 13x19 cm) đuợc chia làm hai phần. Phần đầu là khảo
luận Ðặc điểm của tiếng lóng Việt Nam chiếm 39 trang (từ trang 9 đến 48). Phần cịn lại là Từ điển từ
ngữ lóng tiếng Việt. Do đó, xét về dung luợng, sách chính là pho từ điển tiếng lóng Việt Nam - một
cơng trình biên soạn rất hữu ích với nhiều nguời. Song le, nếu mua và sử dụng cuốn sách công cụ
này, bạn đọc ắt không tránh khỏi phân vân.
Ði vào nội dung từ điển tiếng lóng của Nguyễn Văn Khang, bạn đọc có hiểu biết ít nhiều về lĩnh vực
này ắt không tránh khỏi thất vọng vì cách biên soạn thiếu khoa học. Buồn cuời nhất là tồn tại khá lớn
tiếng lóng bị định nghĩa... sai! Trong một ý kiến ngắn đăng trên tờ Tuổi Trẻ chủ nhật 24-6-2001, Bùi
Cát đã sơ bộ chỉ ra chín đơn vị từ vựng mà từ điển này cắt nghĩa trật lất: khâu chẳng phải "cây vàng"
(lạng/luợng vàng); nhạc sến chua hẳn "nhạc buồn"; tài pán không phải "chủ chứa"; mắt trừu không
phải "bao cao su tránh thai"; hết xí qch khơng có nghĩa "hết tiền"; mặt rô (maquereau/ma cô) cũng
chua chắc "dân giang hồ, dao búa"; cịn bà già khơng phải chỉ mọi loại "máy bay cánh quạt".
Có thể trung dẫn thêm cả lơ tiếng lóng đã bị từ điển này định nghĩa hoặc chua đầy đủ, hoặc nhầm lẫn
đến mức... phi thực! Từ ái chẳng hạn, đâu chỉ là "con trai có tính cách, cử chỉ, điệu bộ rụt dè (sic!)
nhu con gái". Thế con gái cũng bị gọi ái thì sao? Chẳng qua, đấy là rút gọn cụm từ "ái nam ái nữ",
dùng để chỉ truờng hợp luỡng giới tính (bisexual), có khi cịn đuợc hiểu là đồng tính ái (homosexual).
Tiếng lóng đó cũng đồng nghĩa gai/ bóng / pê-đê / bê-đê (do chữ gay hoặc pédérastre, chỉ đồng tính
ái nam); chứ bê-đê không phải là "giật đồng hồ" (tr.65). Giới "xã hội đen" thuờng gọi hành động giật
đồng hồ bằng các tiếng lóng thổi đổng hoặc bốc hồ / múc hồ / tát hồ... Từ bắt dế cũng đâu chỉ có
nghĩa "chép tài liệu vào miếng giấy nhỏ quấn lại bằng con dế mang vào phòng thi" (tr.63) mà còn là
hành động nhặt tàn thuốc lá. Từ chặt hẻo chẳng phải chỉ mọi hình thức "chơi bài ăn tiền", mà là cách
gọi một lối chơi với bộ bài tây: tiến lên. Chứ đánh xì phé, binh xập xám... dù ăn tiền hay không, chẳng
ai gọi là chặt hẻo cả. Hàng tiền đạo có nghĩa dãy răng cửa, chứ nào phải "hàm răng hơi bị vẩu". Kết
mô-đen không chỉ "quan hệ yêu đuơng" mà nói chung là thích, là khối, là muốn. Mátximum đâu phải
Từ điển lại ghi sai chính tả khơng ít từ ngữ, điều khó chấp nhận đối với loại sách dùng để tra cứu. Thí
dụ nhu rụt dè (rụt rè), sui (xui/rủi) thấy mồ... Nhiều tiếng lóng bị ghi khơng đúng hình thức ngữ âm.
Chẳng hạn bá chảy (bá cháy / bá chấy), chè nghim (chè ghim), đam chuột (đâm chuột)... Từ chè
ghim vốn do nói lái từ "chìm ghe" mà có. Từ đâm chuột, tức đâm tí, nói lái chệch thành "đi tắm". Do
thiếu khảo sát kỹ về từ nguyên, đặc biệt là những tiếng lóng có nguồn gốc ngoại ngữ hoặc đuợc cấu
tạo bởi phuơng thức nói lái, nên soạn giả chua đua đuợc lời giải thích đúng, đủ và có sức thuyết phục.
Ðó là truờng hợp loạt từ đai, mo, xuya, bứt cỏ, chà đồ nhôm, hạ cờ tây...
Lại thấy ngồn ngộn trong từ điển bao đơn vị từ vựng lâu nay thuộc ngôn ngữ tồn dân, thậm chí đã
đi vào văn chuơng, ai ai cũng biết, cũng hiểu, cớ sao soạn giả xếp vào kho tiếng lóng? Nhu các từ
mây mua hoặc gò bồng đảo vốn là các điển cố mà bạn đọc quá quen thuộc qua thơ Nguyễn Du, Hồ
Xuân Huơng... Hoặc loạt từ ngữ bình thuờng, chẳng mang nghĩa đặc biệt và bí hiểm gì cả, nhu ấm
đầu, bà xã, bộ cánh, bộ đồ vía, của quý, gà mờ, keo (kiệt), bao (cao su), ô dù, phê, đã, quỹ đen, sa
luới, sâu mọt, tồ, trồng cây si, viêm màng túi, vuợt cạn, xe ôm... mà cho là tiếng lóng e chua thích
đáng.
Trong Việt ngữ hiện đại, tiếng lóng ngày càng có xu huớng phát triển mạnh, nhất là đối với giới trẻ ở
các đô thị, tạo nên hiện tuợng mà các nhà nghiên cứu gọi là ngôn ngữ đuờng phố (street language).
Hiểu biết và vận dụng tiếng lóng đạt mức độ cần thiết sẽ tạo nên những tác phẩm văn học, báo chí
giá trị và có sức hấp dẫn. Jacques Prévert (1900-1977) ở Pháp là một minh chứng sinh động: thơ của
ơng đầy rẫy tiếng lóng, có tập đuợc xuất bản tới hàng triệu cuốn. Ðó là "hiện tuợng thi ca" vơ tiền
khống hậu, khiến mọi nguời suy nghĩ. Ngay đến việc dịch thuật, với những văn bản nhất định, cũng
rất cần tiếng lóng. Tiểu thuyết The Godfather (Bố già) nổi tiếng của Mario Puzo đã đuợc nhiều nguời
dịch ra tiếng Việt, song bản chuyển ngữ của Ngọc Thứ Lang đuợc xem thành cơng nhờ biết tìm đuợc
nhiều tiếng lóng tuơng ứng.
Rõ ràng, khơng chỉ các cây bút viết lách, dịch thuật, mà nhiều ngành hoạt động khác (nhu kịch nghệ,
phim ảnh, giáo dục, từ thiện xã hội, cơng an...) đều cần có từ điển tiếng lóng. Ðơng đảo bạn đọc