Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết lịch sử hội thề của nguyễn quang thân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1008.54 KB, 86 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
----------------

NGÔ THỊ HỒNG VÂN

DIỄN NGÔN LỊCH SỬ
TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ HỘI THỀ
CỦA NGUYỄN QUANG THÂN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH SƯ PHẠM NGỮ VĂN

Đà Nẵng, tháng 05/2014


ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
----------------

DIỄN NGÔN LỊCH SỬ
TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ HỘI THỀ
CỦA NGUYỄN QUANG THÂN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH SƯ PHẠM NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học:
TS. Nguyễn Thanh Trường



Người thực hiện
NGÔ THỊ HỒNG VÂN

Đà Nẵng, tháng 05/2014


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng
dẫn của TS. Nguyễn Thanh Trường. Tôi xin chịu trách nhiệm về nội dung khoa học
của khóa luận này.
Đà Nẵng, ngày 15 tháng 05 năm 2014
Sinh viên thực hiện

Ngô Thị Hồng Vân


LỜI CẢM ƠN

Tơi xin trân trọng bày tỏ lịng cảm ơn chân thành đến thầy giáo Nguyễn
Thanh Trường - người đã nhiệt tình, chu đáo hướng dẫn tơi hồn thành khóa luận
này. Tơi xin cảm ơn các thầy cơ giáo trong khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm
Đà Nẵng đã chỉ bảo giúp đỡ tơi trong q trình thực hiện đề tài. Nhân dịp này, tôi
xin chân thành cảm ơn bạn bè và người thân đã ủng hộ, giúp đỡ tơi hồn thành khóa
luận này.
Mặc dù có nhiều cố gắng, song do trình độ cịn hạn chế nên khơng tránh khỏi
những thiếu sót, rất mong được sự đóng góp chân thành của thầy cô, bạn bè để đề
tài được hoàn thiện hơn.
Đà Nẵng, ngày 15 tháng 05 năm 2014

Sinh viên thực hiện

Ngô Thị Hồng Vân


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài .................................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ................................................................................... 2
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát ......................................................... 4
4. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 5
5. Bố cục khóa luận ................................................................................................. 5
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ DIỄN NGÔN VÀ DIỄN NGÔN LỊCH SỬ
TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ ........................................................................ 6
1.1. Diễn ngôn.......................................................................................................... 6
1.1.1. Quan niệm về diễn ngôn............................................................................. 6
1.1.2. Diễn ngôn trong văn học ............................................................................ 8
1.2. Diễn ngôn lịch sử ............................................................................................ 10
1.2.1. Diễn ngôn lịch sử trong khoa học lịch sử ................................................. 10
1.2.2. Diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết lịch sử .............................................. 12
1.3. Diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1975 .................... 15
1.3.1. Sự đổi mới hệ hình tư duy về lịch sử ....................................................... 15
1.3.2. Lịch sử được “nhào nặn” bằng các thủ pháp của khuynh hướng hậu hiện
đại ....................................................................................................................... 18
Chương 2: DIỄN NGÔN LỊCH SỬ TRONG TIỂU THUYẾT HỘI THỀ NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG .............................................................. 21
2.1. Hội thề và hình tượng con người cô đơn ........................................................ 21
2.2. Hội thề và mối quan hệ trầm kha của lịch sử: trí thức – võ biền .................... 27
2.3. Hội thề - sự “giải minh lịch sử” ...................................................................... 31
2.4. Hội thề và những bài học bang giao ............................................................... 35

Chương 3: DIỄN NGÔN LỊCH SỬ TRONG TIỂU THUYẾT HỘI THỀ NHÌN TỪ MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN ......................................... 41
3.1. Tổ chức kết cấu nghệ thuật ............................................................................. 41


3.1.1. Kết cấu tương phản – sự trỗi dậy quyết liệt của cảm thức đối thoại............... 41
3.1.2. Kết cấu đồng hiện – lối tư duy “phi lịch sử” ............................................ 44
3.2. Kĩ thuật xây dựng nhân vật ............................................................................. 47
3.2.1. Từ diện mạo đến tính cách ....................................................................... 47
3.2.2. Nhân vật được soi chiếu dưới nhiều điểm nhìn trong tương quan “đối
thoại” .................................................................................................................. 49
3.3. Không gian nghệ thuật .................................................................................... 52
3.3.1. Không gian dồn nén, căng chật ................................................................ 52
3.3.2. Không gian đời tư khép kín ...................................................................... 55
3.4. Thời gian nghệ thuật ....................................................................................... 58
3.4.1. Thời gian “nước rút” – thời khắc lịch sử “đắc địa”.................................. 58
3.4.2. “Đêm” – thời gian mang tính biểu tượng ................................................. 60
3.4.3. Thời gian tâm tưởng – sự phá vỡ quy luật tuyến tính .............................. 62
3.5. Ngơn ngữ nghệ thuật và giọng điệu ................................................................ 64
3.5.1. Ngôn ngữ miêu tả và ngôn ngữ đời thường ............................................. 65
3.5.2. Giọng đa thanh ......................................................................................... 68
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 73


1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Từ lĩnh vực ngơn ngữ, nghiên cứu diễn ngôn đã trở thành một vấn đề của lí
luận văn học được phát triển rầm rộ ở châu Âu từ những năm 60 của thế kỉ XX với
những tên tuổi tiêu biểu: M. Foucault, J. Derrida, R. Barthes, M. Bakhtin,… Nghiên

cứu diễn ngôn trong văn học không đơn thuần chỉ nghiên cứu trên bề mặt mà “độ
rơi” của nó chính là vấn đề ngồi và sau văn bản, hứa hẹn mở ra những chiều kích lí
giải và khám phá khác nhau từ nhiều góc độ.
Diễn ngơn lịch sử là diễn ngơn về một loại hình khoa học: khoa học lịch sử
với tất cả những đặc điểm và quy phạm của nó. Lâu nay do những đặc điểm riêng
của thời đại nên có sự giống nhau giữa diễn ngôn lịch sử trong khoa học lịch sử và
diễn ngơn lịch sử trong tiểu thuyết lịch sử. Do đó, cần có một cái nhìn biện chứng
và hệ thống về hai loại diễn ngôn này, đặc biệt là diễn ngôn tiểu thuyết lịch sử theo
đặc trưng thể loại.
Hơn nửa thế kỉ cầm bút, nhà văn Nguyễn Quang Thân đã tạo nên những dấu
ấn nhất định trong nền văn học hiện đại Việt Nam cũng như trong lòng các thế hệ
độc giả. Cùng với sự nở rộ của những tác phẩm văn học mang tính đối thoại lịch sử,
Hội thề của Nguyễn Quang Thân đã góp phần dựng nên bộ mặt mới cho tiểu thuyết
lịch sử Việt Nam đương đại. Ngay khi ra mắt độc giả, tác phẩm đã tạo nên những
làn sóng dư luận sơi nổi, thậm chí trái chiều, chứng tỏ sức cuốn hút mạnh mẽ đến từ
tác phẩm.
Với tất cả những lí do trên, chúng tơi chọn “Diễn ngôn lịch sử trong tiểu
thuyết lịch sử Hội thề của Nguyễn Quang Thân” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp
với hi vọng sẽ góp phần làm tường minh những phạm trù lí thuyết cơ bản về diễn
ngơn và ứng dụng nó vào việc tìm hiểu tiểu thuyết lịch sử của nhà văn Nguyễn
Quang Thân, nhằm chỉ ra những đặc điểm riêng về diễn ngôn của ông.


2
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
2.1. Về nhà văn Nguyễn Quang Thân
Là một nhà văn có nhiều đóng góp trên nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu
thuyết, kịch nên số lượng những bài phê bình và đánh giá về nhà văn Nguyễn
Quang Thân không hề hiếm, nhưng trong giới hạn khảo sát của đề tài, chúng tôi chỉ
điểm lại một số những bài viết, những ý kiến mà đề tài quan tâm. Có thể kể đến một

số bài viết sau đây: Nhà văn Nguyễn Quang Thân: Người khát sống (Hoài Nam)
[33], Nguyễn Quang Thân – người tôn thờ trách nhiệm nhà văn (Vũ Quốc Văn)
[50], Tiểu thuyết Hội thề của Nguyễn Quang Thân từ góc nhìn thể loại (Trịnh
Thanh Tùng) [48], Sự minh mẫn trong bóng tối (Gerard Lacroix) [12].
Những bài viết kể trên chủ yếu nhìn nhận nhà văn trên hai phương diện. Ở
phương diện con người cá nhân, Nguyễn Quang Thân được đánh giá là một con
người có khát vọng sống mãnh liệt và thường trực. Ở góc độ nhà văn, ông lại được
đề cao ở tinh thần trách nhiệm đối với văn chương và hơn thế nữa ông là một trong
những cây bút đi tiên phong trong công cuộc cách tân văn học – một sự cách tân
tồn diện và đúng nghĩa nhất.
Những nhận xét, phẩm bình thông qua các bài viết nêu trên đã đem đến
những hiểu biết nhất định làm nền tảng căn bản cho những nghiên cứu sâu hơn,
toàn diện và hệ thống hơn về nhà văn Nguyễn Quang Thân và những đứa con tinh
thần của ông.
2.2. Về tiểu thuyết lịch sử “Hội thề”
Xung quanh Hội thề là những cuộc tranh luận, phẩm bình sôi nổi tạo nên
những luồng dư luận trái chiều gây nhiều tranh cãi. Vì thế, có thể phân luồng dư
luận thành những hướng sau đây:
Thứ nhất, những bài viết có sự ghi nhận và đánh giá cao tiểu thuyết Hội thề,
có thể kể đến: Tiểu thuyết lịch sử: khơng phải là cuộc chơi của người trẻ (Thu An)
[1], Hội thề: Một cái nhìn giải minh lịch sử (Hồi Nam) [31], Hội thề: Khoảnh khắc
hạnh phúc của trí thức (Hồi Nam) [32], Hội thề và lịch sử (Lê Thành Nghị) [36],
Hình tượng nhân vật Lê Lợi trong tiểu thuyết lịch sử Hội thề của Nguyễn Quang


3
Thân (Nguyễn Văn Hùng) [22], Hội thề của Nguyễn Quang Thân đặt trong tương
quan so sánh với Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh (Nguyễn Thị Hương Quê)
[37], Đọc tiểu thuyết lịch sử Hội thề của Nguyễn Quang Thân (Văn Hồng) [21].
Nhìn chung, những bài viết kể trên chủ yếu đánh giá cao tác phẩm ở các

phương diện, như: bối cảnh câu chuyện, cảm hứng sáng tác, xây dựng hình tượng
nhân vật, khắc họa bi kịch thân phận và nỗi cơ đơn của người trí thức… Có thể dẫn
một số nhận xét như sau: Hoài Nam cho rằng: “Chọn “trúng” khoảnh khắc lịch sử
để mô tả và để triển khai ý tưởng của mình (…) là thành cơng cần được ghi nhận ở
tác phẩm Hội thề của nhà văn Nguyễn Quang Thân” [31]. Lê Thành Nghị đã có
những đánh giá khách quan trên tinh thần đề cao cuốn tiểu thuyết: “Hội thề là tiểu
thuyết lịch sử nhưng được viết với cảm hứng khám phá theo tinh thần mới của thời
đại (…) cái đẹp vẫn thường ẩn chứa đằng sau sự giản dị, dung dị. Về mặt này Hội
thề có sức chứa lớn hơn dung lượng câu chữ của nó. Và đó chính là một trong
những mặt đáng ghi nhận của tác phẩm” [36]…
Thứ hai, những bài viết tập hợp các ý kiến đánh giá trái chiều về tác phẩm.
Có thể kể đến: Kinh ngạc khi Hội nhà văn tôn vinh cuốn tiểu thuyết Hội thề của Từ
Quốc Hoài [20]; Trần Mạnh Hảo với Hội thề, tiểu thuyết lịch sử hay phản lịch sử?
[15], Không đọc kĩ Hội thề xin đừng “Chiêu tuyết” [16] và Hội thề của Nguyễn
Quang Thân [17]; ngồi ra cịn có các bài viết: Tranh luận quanh tiểu thuyết Hội
thề [35], Thử tìm hiểu nguyên nhân tác thành hiện tượng Hội thề [34] là tập hợp
nhiều ý kiến của nhiều tác giả khác nhau.
Tựu trung, các bài viết trên chủ yếu phê bình Hội thề ở phương diện giải
quyết mối quan hệ giữa sự thực và hư cấu lịch sử cũng như quan điểm lịch sử của
nhà văn trong cách nhìn nhận, đánh giá về các nhân vật lịch sử, đặc biệt những nhân
vật bên kia chiến tuyến. Có thể dẫn một số nhận xét như sau: Hà Văn Thùy cho rằng
Hội thề là “tác phẩm thiếu tính chân thực lịch sử của phương diện phản ánh không
chân thực tinh thần của một thời đại lịch sử” [35]. Cùng chung quan điểm, Trần
Mạnh Hảo nhận xét: “Nhà văn Nguyễn Quang Thân đã hư cấu những chi tiết phi
lịch sử” [35]. Trần Hồi Dương lại tỏ ra khơng đồng tình với Nguyễn Quang Thân


4
trong quan điểm và tư tưởng lịch sử, ông đánh giá: “về quan điểm lịch sử, về hình
tượng các nhân vật, đặc biệt là các nhân vật kẻ thù trong Hội thề khiến tôi rất ngỡ

ngàng” [35]…
Không cực đoan khi lựa chọn đứng về một trong hai phía dư luận, Phạm Viết
Đào tỏ ra tỉnh táo hơn khi đánh giá tiểu thuyết Hội thề trên cả hai phương diện: ưu –
khuyết với bài viết Đọc Hội thề của Nguyễn Quang Thân [9]. Xét về ưu điểm của
Hội Thề, ông viết: “Hội thề là cuốn tiểu thuyết có hồn cốt (…) Trong mặt bằng
chung của tiểu thuyết Việt Nam đương đại, Hội thề của Nguyễn Quang Thân, là
một cuốn tiểu thuyết dụng cơng, sờ chạm đến được những vấn đề có tầm, có những
đột phá và thu hút người đọc khơng dễ tính. Những mảng miếng, lớp lang cấu tứ
nên hồn cốt được sắp đặt bởi một tay nghề có hạng trong làng tiểu thuyết Việt
đương đại…”. Xét về hạn chế, ông thẳng thắn đưa ra quan điểm: cái bất cập của
Hội thề là do việc “chọn điểm rơi sai; đó cũng chính là chỗ yếu, chỗ hụt hơi của
Nguyễn Quang Thân khi xây dựng hình tượng nhân vật của hai tuyến nhân vật” [9].
Ngoài luận văn thạc sĩ của Trịnh Thanh Tùng với đề tài Tiểu thuyết Hội thề
của Nguyễn Quang Thân từ góc nhìn thể loại [48] đã phân tích, đánh giá cuốn tiểu
thuyết trên góc nhìn thể loại, thì qua những tài liệu bao qt được, chúng tơi nhận
thấy những nghiên cứu về tiểu thuyết Hội thề của nhà văn Nguyễn Quang Thân hầu
hết đều mang tính chất tản mạn với mục đích chủ yếu là bộc lộ những quan điểm,
nhận định, phẩm bình của cá nhân về những khía cạnh riêng biệt của tác phẩm một
cách đơn thuần, rất ít những cơng trình xem đây là một đối tượng nghiên cứu thực
sự. Chính vì lẽ đó, trên góc độ “diễn ngơn”, chúng tơi xem tiểu thuyết Hội thề của
nhà văn Nguyễn Quang Thân là một đối tượng nghiên cứu thực sự, với hi vọng góp
thêm một điểm nhìn mới cho việc nhận định tác phẩm.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề Diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết
lịch sử, tập trung trên các phương diện biểu hiện và phương thức tổ chức diễn ngôn.


5
3.2. Phạm vi khảo sát

Phạm vi khảo sát là tiểu thuyết lịch sử Hội thề của Nguyễn Quang Thân,
được ấn hành bởi Nhà xuất bản Phụ nữ, năm 2011.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp thống kê – phân loại
Phương pháp này giúp cho việc khảo sát và thống kê những đặc điểm về diễn
ngôn, diễn ngôn lịch sử cũng như diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết lịch sử Hội
thề, đồng thời phân loại những đặc điểm ấy làm cơ sở cho việc phân tích và lí giải
có hệ thống hơn.
4.2. Phương pháp phân tích – tổng hợp
Sử dụng phương pháp này, người viết vừa có thể phân tích vấn đề để đi vào
chi tiết lại vừa có thể nhìn nhận vấn đề một cách khái qt và tồn vẹn.
4.3. Phương pháp so sánh đối chiếu
Đây là phương pháp cần thiết và được chúng tôi sử dụng chủ yếu trong việc
đối chiếu và so sánh về đặc điểm của diễn ngôn lịch sử trong khoa học lịch sử và
diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết lịch sử, cũng như so sánh tiểu thuyết Hội thề với
các tiểu thuyết lịch sử khác trong tương quan đồng đại và lịch đại.
4.4. Phương pháp liên ngành
Sử dụng phương pháp này chúng tôi muốn mở rộng vấn đề trong sự giao
thoa, tương liên với các ngành khác ngồi ngành văn học nói chung và chun
ngành lí luận văn học nói riêng.
5. Bố cục khóa luận
Ngồi các phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, khóa luận
được triển khai trên 3 chương:
Chương 1: Khái quát về diễn ngôn và diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết lịch sử
Chương 2: Diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết Hội thề của Nguyễn Quang Thân
– nhìn từ phương diện nội dung
Chương 3: Diễn ngơn lịch sử trong tiểu thuyết Hội thề của Nguyễn Quang Thân
– nhìn từ một số phương thức thể hiện.



6
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ DIỄN NGÔN VÀ DIỄN NGÔN LỊCH SỬ
TRONG TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ
1.1. Diễn ngôn
1.1.1. Khái niệm về diễn ngôn
Diễn ngôn (discourse) là một khái niệm rất rộng, liên quan đến nhiều lĩnh
vực: văn hóa, triết học, ngôn ngữ và văn học. Nghiên cứu văn học, dù trực tiếp hay
gián tiếp, đều hướng đến mục đích là trả lời câu hỏi: Diễn ngơn là gì và diễn ngơn
trong văn bản có đặc điểm gì? Tùy theo khuynh hướng nghiên cứu mà ta nhận được
cách diễn giải khác nhau về khái niệm diễn ngôn. Tuy nhiên, dù diễn giải có khác
nhau đi nữa thì tựu trung, có thể khái quát thành 3 khuynh hướng tiêu biểu sau.
Khuynh hướng của các nhà ngôn ngữ học, trước hết là F.de Saussure, nghiên
cứu “ngôn ngữ ” trong sự đối sánh với “lời nói”. Theo Saussure, ngơn ngữ mang
tính cộng đồng, cịn lời nói mang tính cá nhân. Vì thế, ơng cho rằng ngôn ngữ là
một hệ thống trừu tượng, khái quát (có thể mã hóa bằng các kí hiệu), cịn lời nói
thuộc về một chủ thể phát ngơn nhất định, trong một tình huống nhất định. Cơng
trình Giáo trình ngơn ngữ học đại cương của F. de Sausure đặt dấu mốc quan trọng
trong việc nghiên cứu ngôn ngữ. Việc đối lập lời nói với ngơn ngữ làm cơ sở cho
việc phân biệt giữa discoure (diễn ngôn) và text (văn bản) cho các nhà nghiên cứu
đời sau. Thế nhưng quan niệm về ngôn ngữ của ông lại làm eo hẹp phạm vi nghĩa
của khái niệm diễn ngôn, bởi ông xem đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học là
ngôn ngữ mà bỏ qua phạm vi lời nói, một thành phần rất quan trọng của diễn ngôn.
Khuynh hướng của các nhà thi pháp học, đặc biệt là M. Bakhtin, lại mở rộng
khái niệm diễn ngơn ở bình diện văn hóa, lịch sử, xã hội. Bakhtin cho rằng ngôn
ngữ là một thực thể sống động, đa dạng, mang tính lịch sử, tính văn hóa nên khơng
thể chỉ đóng khung khái niệm diễn ngơn trong một phương diện cấu trúc văn bản.
Do đó, khái niệm diễn ngơn đã trở thành một bình diện trong việc nghiên cứu thi
pháp thể loại. Khái niệm diễn ngôn là cơ sở để ông xác lập luận điểm: lập trường
đối thoại, luận điểm có tính quyết định đến việc nghiên cứu thể loại văn học nói
chung và diễn ngơn nói riêng.



7
Tiếp thu quan điểm của M. Bakhtin, các nhà hậu cấu trúc (giải cấu trúc) như
Foucault, J. Derrida, R. Barthes,… đã mở rộng khái niệm diễn ngơn ra nhiều bình
diện của văn hóa xã hội, thậm chí họ xem diễn ngôn là một “quyền lực” quan trọng
trong việc thay đổi các thang bậc giá trị của nhân loại. Đặc biệt, tác giả Foucault đã
qui chiếu mọi hoạt động của con người vào hoạt động ngơn từ! Có nghĩa, mọi dạng
thức tồn tại của con người đều trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến ngơn ngữ. Vì
vậy ngơn ngữ bao giờ cũng hiện thực hóa dưới dạng những diễn ngơn khác nhau.
Con người sáng tạo ra diễn ngôn, và đến lượt nó, diễn ngơn thống trị lồi người.
Đây chính là khái niệm “quyền lực” của diễn ngôn, sức mạnh của diễn ngôn theo
quan niệm của Foucault (và cũng là điểm gặp gỡ giữa Foucault với M. Bakhtin).
Khuynh hướng của các nhà tự sự học, như Roland Barthes, Gérard Genette,
Tzvetan Todorov, lại xem văn bản là một dạng diễn ngôn. Truyện kể (récit) được
xem là một diễn ngôn - như quan điểm của Foucault. Diễn ngôn truyện kể được
xem xét ở các phương diện của ngơi kể, vai kể, các tình huống trần thuật và sắc
thái/ giọng điệu trần thuật, thời gian trần thuật,… Diễn ngôn trong văn bản được các
nhà tự sự học phân thành hai thành phần chính: Diễn ngôn của người trần thuật
truyện và Diễn ngôn của nhân vật. Văn bản truyện kể thực ra là hệ quả và sự tương
tác của hai thành phần này (chẳng hạn, tần suất trần thuật nhanh/ chậm, ngắn / dài,
ít/ nhiều khơng thể khơng liên quan đến vị trí của chủ thể diễn ngơn trong văn bản).
Như vậy có thể khẳng định, diễn ngôn là một khái niệm rất quan trọng trong
nghiên cứu khoa học. Dẫu có nhiều hướng tiếp cận diễn ngôn, song dựa trên những
nghiên cứu đi trước, chúng tôi hiểu diễn ngôn như sau: Diễn ngôn là một thuật ngữ
liên ngành (trong đó có văn học); là một đơn vị biểu đạt trên câu, nó nhờ đường
dẫn ngơn ngữ chuyển tải nội dung đời sống rộng lớn và trở thành các sự kiện; là sản
phẩm của hoạt động giao tiếp gắn liền với ngữ cảnh, thời đại, môi trường văn hóa –
xã hội đặc trưng. Nó tồn tại ngồi đường biên của ngơn ngữ, xâm lấn vào nhiều lĩnh
vực xã hội, dung chứa những khối lượng tri thức, lịch sử và thẩm thấu trong nó

những giá trị tư tưởng của thời đại.


8
Dưới đây, do mục đích của đề tài, khóa luận của chúng tôi tập trung vào một
loại diễn ngôn: diễn ngôn trong văn bản văn học.
1.1.2. Diễn ngôn trong văn học
Trong văn học, khái niệm diễn ngôn được hiểu “ là những quy tắc phát ngơn,
thường ẩn chìm trong vơ thức cộng đồng quy định lối nói, cái gì được nói và khơng
được nói của mỗi thời” [10, tr.473]. Diễn ngơn này có một số đặc điểm như sau:
Diễn ngơn văn học có tính lịch sử. Điều đó có nghĩa, mỗi cộng đồng trong
mỗi thời đại khác nhau sẽ có những qui định riêng về lối nói và ý thức nói. Thời đại
này, cộng đồng này được nói những gì, nói đến đâu và nói như thế nào, bằng hình
thức nào cũng đều chịu sự qui định, chi phối bởi các yếu tố thuộc về thể chế chính
trị, tư tưởng triết học, ý thức tơn giáo, lí tưởng thẩm mĩ thời đại… Do đó, tri thức,
cách nhìn nhận về thế giới của nó và do nó tạo ra sẽ bị thay đổi theo thời gian. Đây
chính là hệ quả của mối quan hệ giữa tri thức và quyền lực trong diễn. Chẳng hạn
như văn học thời Cơ-Đốc giáo ở phương Tây hay giai đoạn 30 – 45 ở Việt Nam, ý
thức hệ chính trị, tơn giáo ràng buộc q nghiêm ngặt tạo nên sức mạnh quyền lực
hữu hình và vơ hình chi phối đến ý thức sáng tác khiến người ta không dám đả động
đến giai cấp thống trị, hoặc muốn nói thì bắt buộc phải lựa chọn cách nói khác, có
thể là ẩn dưới lớp vỏ hình thức truyện ngụ ngôn như: “Con cáo và chùm nho”…
hoặc truyện về lồi vật như: “Dế mèn phiêu lưu kí” của Tơ Hồi…
Diễn ngơn văn học có tính qui chiếu. Qui chiếu trong diễn ngôn diễn ra trên
hai cấp độ. Cấp độ thứ nhất là mô phỏng hiện thực, tái tạo hiện thực bằng hệ thống
hình tượng. Cấp độ thứ hai là qui chiếu vào chính nó và các văn bản khác tạo nên
những kí mã thẩm mĩ của nhà văn và mở rộng khả năng liên văn bản cho tác phẩm.
Vì thế, đọc văn bản ở đây là đọc văn bản mở, đọc trong tính liên bản và tính đối
thoại của nó để nhận diện mã thẩm mĩ được nhà văn kí gửi trong đó.
Diễn ngơn văn học có tính hư cấu. Hư cấu là đặc tính sáng tạo của nghệ

thuật nói chung, văn học nói riêng. Tính hư cấu giúp diễn ngơn vừa có khả năng
biểu hiện chân lí cuộc sống lại vừa có khả năng thể hiện cá tính sáng tạo của chủ thể
sáng tác. Từ đó, nó tạo ra một thế giới khả hữu, cung cấp tri thức cũng như mở rộng


9
hiểu biết và quan niệm của chúng ta về thực tại. Do đó, “khơng có hư cấu thì khơng
thể và cũng khơng tồn tại được tính nghệ thuật” [14, tr.153].
Diễn ngơn văn học mang tính vơ thức tập thể. Đặc tính này cho ta hiểu diễn
ngơn ln bị chi phối bởi một thứ quyền lực ngầm trong vô thức tập thể đã được tri
thức hóa, ngơn ngữ hóa nhằm khách quan hóa cái chủ quan và lúc này các tri thức
được khách quan hóa sẽ tạo ra thẩm quyền chi phối và điều khiển chủ thể. Theo đó,
cá nhân chủ thể trong diễn ngôn khi phát ngôn cũng bị qui chiếu bởi một hệ thống
tri thức đã ngầm định/ sinh thành trong hệ hình của mọi chủ thể trong thời đại. Đây
chính là lí do diễn ngơn văn học ln mang trong mình tính vơ thức tập thể.
Diễn ngơn văn học được “lạ hóa”. Bản chất của hoạt động văn học là không
ngừng đổi mới và sáng tạo. Tuy nằm trong bộ khung tri thức của thời đại nhưng với
tính đặc thù vốn có, văn học ln có xu hướng vượt thốt, phá vỡ những khn khổ,
hướng tới những chân trời mới. Đây chính là lí do khiến diễn ngơn văn học được “lạ
hóa”. Lạ hóa để tìm những giá trị vượt thời đại, tìm kiếm những khung tri thức mới
– không lặp lại, không lệ thuộc một cách cứng nhắc các diễn ngơn đã tồn tại trước
đó. Chẳng hạn như Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Ngọc
Tư… Sở dĩ, họ trở thành những “hiện tượng văn học” là do họ sáng tác với ý thức
vượt thoát, nhờ đó khơng những họ ln cố gắng vươn lên trong nỗ lực tạo ra sự
khác biệt với các tác giả khác mà hơn thế nữa là khả năng làm mới chính mình, “lạ
hóa” chính bản thân chủ thể sáng tạo.
Diễn ngơn văn học mang tính phỏng nhại. Diễn ngơn văn học khơng chỉ có
khả năng dung chứa, hấp thụ trong nó các tổ chức diễn ngơn của các lĩnh vực khác
như: lịch sử, văn hóa, triết học… diễn ngơn văn học còn hướng tới nhận diện, phân
biệt và đối thoại với các diễn ngơn khác. Thuộc tính này đã dẫn tới tính chất phỏng

nhại của diễn ngơn văn học được biểu hiện trong từng giai đoạn. Chẳng hạn, giai
đoạn 45 – 75, diễn ngơn văn học được “chính trị hóa” do chịu sự chỉ đạo và chi phối
bởi tư tưởng cách mạng. Tuy nhiên, biểu hiện của tính phỏng nhại trong diễn ngôn
văn học khá phong phú: phỏng nhại về phong cách, thể loại, nội dung tư tưởng… Ví


10
dụ, ta có thể tìm thấy trong rất nhiều sáng tác truyện ngắn, tiểu thuyết của Nguyễn
Huy Thiệp có hiện tượng nhại phong cách của diễn ngôn thơ, ca dao, hị, vè…
Bên cạnh đó, việc tổ chức ngơn ngữ trong những loại hình, thể loại khác
nhau sẽ tạo nên những loại diễn ngôn khác nhau. Chẳng hạn như, diễn ngôn chính
trị sẽ khác với diễn ngơn khoa học, diễn ngơn văn học – nghệ thuật… Trong diễn
ngơn văn học thì diễn ngôn thơ sẽ khác với diễn ngôn tự sự, kịch. Và như thế, diễn
ngơn cũng có thể được hiểu như “phong cách ngơn ngữ”.
Tóm lại, diễn ngơn trong văn học là lối nói, là qui tắc phát ngơn được qui
định bởi đặc điểm thời đại. Đối với một hiện tượng văn học cụ thể, sự qui định ấy
kết hợp với cá tính sáng tạo của chủ thể sáng tạo sẽ tạo nên một diễn ngôn riêng biệt
của mỗi nhà văn. Rộng hơn nữa, đối với mỗi thời kì, giai đoạn văn học cụ thể sẽ có
những nét chung và những nét riêng khu biệt chúng với các thời kì, giai đoạn văn
học khác tạo thành phong cách thời đại. Và phong cách thời đại có thể nói chính là
diễn ngôn.
1.2. Diễn ngôn lịch sử
1.2.1. Diễn ngôn lịch sử trong khoa học lịch sử
Diễn ngôn lịch sử trong khoa học lịch sử hay cịn gọi là diễn ngơn khoa học
lịch sử là cách tổ chức ngôn từ, là những qui tắc phát ngôn trong bộ môn khoa học
về lịch sử (chính sử). Diễn ngơn này bao gồm một số đặc trưng sau:
Thứ nhất, nó phải đảm bảo tính chân thật lịch sử và tính khách quan, chính
xác của một bộ môn khoa học. Nghĩa là người viết sử phải trung thành với những sự
kiện lịch sử, không cho phép thêm hoặc bớt theo chủ ý cá nhân và đặc biệt là khơng
có quyền hư cấu lịch sử. Tính chính xác của diễn ngôn này thể hiện ở việc sử quan

tường thuật lại những sự kiện lịch sử như nó vốn có. Vì vậy, ta thường gọi cơng
việc của các sử quan là công việc “ghi chép” lịch sử, chứ không phải là viết sử hoặc
sáng tác lịch sử.
Thứ hai, mục đích cuối cùng của việc chép sử là để người đời sau biết được
người đời trước đã sống như thế nào, có những sự kiện nào đã diễn ra…. Do đó, để
tiện cho việc ghi nhớ, các sự kiện lịch sử phải được diễn đạt một cách vô cùng ngắn


11
gọn và rành mạch. Và để đảm bảo cho tính ngắn gọn thì người chép sử chỉ tập trung
vào sự kiện và bản chất của sự kiện, loại bỏ chi tiết và các tiểu tiết. Ví dụ, về sự
kiện hội thề Đông Quan, sử gia Ngô Sĩ Liên chép như sau: “Đinh Mùi 1427, mùa
đông tháng 10, ngày 22, vua cùng với tổng binh quan nước Minh là Thái tử Thái
bảo Thành Sơn hầu Vương Thông, Tham tướng Hữu đô đốc Mã Anh, Thái giám
Sơn Thọ và Mã Kỳ (…) họp thề ở phía Nam thành, hẹn đến ngày 12 tháng 12 thì
đem quân về nước. Bọn ấy lại sai người đem tờ xin trả lại đất đai của ta” [27,
tr.519]. Như vậy, tường thuật sự kiện này, người chép sử chỉ quan tâm đến thời
gian, địa điểm, thành phần tham dự hội thề và nội dung hội thề; những yếu tố khác
hồn tồn khơng được đề cập đến.
Thứ ba, nhân vật lịch sử trước hết phải là những con người có thật trong lịch
sử, như: Hồ Quý Ly, Trần Nghệ Tơng, Lý Chiêu Hồng, Trần Cảnh, Nguyễn Trãi,
Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Lê Chiêu Thống, Bảo Đại... Họ là những con người của sự
kiện, con người của chiến công hoặc là những “phạm nhân” của lịch sử. Các nhân
vật lịch sử xuất hiện gắn với những việc mà họ đã làm và sử quan chỉ quan tâm
những việc làm đó của họ có can dự vào tiến trình phát triển của lịch sử hay khơng.
Ngồi ra, tất cả các biểu hiện thuộc về đời sống tâm lí và thế giới nội tâm của họ
đều nằm ngoài phạm vi quan tâm của chính sử. Nói tóm lại, nhân vật lịch sử là
những con người của lịch sử.
Thứ tư, ngoài các lời bàn của sử quan được viết theo điểm nhìn sử quan dưới
một số sự kiện, thì điểm nhìn của diễn ngơn khoa học lịch sử là điểm nhìn bên

ngồi, khách quan, trung tính. Người chép sử tường thuật lại diễn biến lịch sử theo
ngơi thứ ba, đứng ngồi sự kiện, không can dự vào cũng như không bày tỏ thái độ
cá nhân trước những sự kiện ấy. Ví dụ như sự kiện Nghi Dân giết vua Lê Nhân
Tông và thái hậu Nguyễn Thị Anh để tiếm ngôi được Đại Việt sử kí tồn thư chép
như sau: “Kỷ Mão, năm thứ 6 [1459] (Minh Thiên Thuận thứ 3). Mùa đông, tháng
10, ngày mồng 3, Lạng Sơn vương Nghi Dân đêm bắc thang chia ba đường lên
thành cửa Đông, vào trong cung cấm. Vua và Tuyên Từ Hoàng thái hậu đều bị giết”


12
[27, tr.616]. Rõ ràng, ở đây, sử quan chỉ đơn thuần đóng vai trị là người tường
thuật sự việc mà hồn tồn khơng kèm theo thái độ, đánh giá.
Như vậy, diễn ngôn khoa học lịch sử là một loại diễn ngôn dùng trong
chuyên ngành khoa học lịch sử. Các đặc trưng của nó là nguyên tắc mà người chép
sử phải tuân thủ và ngược lại mọi hoạt động của người chép sử trong việc tạo lập
nên một văn bản lịch sử chính là việc tạo nên một loại diễn ngơn – diễn ngôn khoa
học lịch sử.
1.2.2. Diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết lịch sử
Theo quan niệm mới của lí luận văn học đương đại, mà đặc biệt là quan niệm
của giáo sư Trần Đình Sử và phó giáo sư – tiến sĩ Nguyễn Đăng Điệp trong Lịch sử
và văn hóa cái nhìn nghệ thuật Nguyễn Xn Khánh thì tiểu thuyết lịch sử thực chất
là diễn ngôn của các nhà văn về một thứ diễn ngơn trước đó thường được coi là
chính xác và đúng đắn. Hiểu như thế, “lịch sử (chính sử) thực chất cũng chỉ là một
thứ diễn ngôn… Tin vào sự thật lịch sử thực chất là tin vào sự ghi chép của văn bản,
tin vào một diễn ngôn” [10, tr.469]. Bởi lẽ, lịch sử xét đến cùng rốt cuộc cũng chỉ là
một cách ghi chép, một điểm nhìn, một lối tu từ, chỉ nhìn từ một khóc độ nào đấy
mà khơng phải là tồn bộ lịch sử.
Đứng trên quan niệm mới này, vấn đề “sự thật lịch sử” hay “tính chân thật
lịch sử” cũng đang được xét lại. Lâu nay, ta luôn tin rằng các văn bản lịch sử trong
sách giáo khoa hoặc những bộ sách sử chính thống là ghi chép chính xác tuyệt đối

những sự kiện đã diễn ra trong quá khứ. Và do đó, lịch sử được ghi chép trong dã
sử, huyền sử, lịch sử dịng tộc… là khơng đáng tin cậy, khơng có căn cứ. Chúng ta
q tin vào chính sử, xem nó là một hiện thực khách quan duy nhất, bất biến. Đó là
một sự “nhầm lẫn” (Trần Đình Sử). Bởi lẽ, cũng giống như các nhà viết tiểu thuyết
lịch sử, các nhà sử học cũng không bao giờ được tiếp xúc với sự thật lịch sử, vì nó
đã vĩnh viễn thuộc về quá khứ. Cái mà họ được tiếp xúc chỉ là sự ghi chép về nó mà
thơi, mà ghi chép thì ln mang tính chủ quan. Hơn nữa, nói điểm nhìn trần thuật
của chính sử là điểm nhìn khách quan cũng chưa hẳn đã chính xác. Bởi lẽ, khi chép
sử, các sử quan luôn luôn bị chi phối bởi ý thức hệ tư tưởng của giai cấp thống trị.


13
Ví dụ, việc Hồ Q Ly cướp ngơi nhà Trần, lập ra nhà Hồ, đứng trên lập trường
chính thống, sử sách cho đây là hành động thoán nghịch, Hồ Quý Ly bị xem là một
“phạm nhân” của lịch sử và nhà Hồ khơng được xem là một triều đại chính thức
trong lịch sử nước ta, cũng như Hồ Quý Ly chưa bao giờ được gọi là vua. Khơng
chỉ có vậy, khi chép sử các sử quan còn bị chi phối bởi tư tưởng của người chiến
thắng, kẻ bại trận dường như khơng có quyền viết sử và bị phán xét, đánh giá bởi
người chiến thắng. Hơn nữa, lịch sử thường đứng trên lập trường nhân dân để ngợi
ca, tôn vinh những anh hùng, những người có cơng với đất nước. Do đó, nói như
giáo sư Trần Đình Sử ““sự thật lịch sử” là một khái niệm ẩn dụ, mang tính chủ
quan” [10, tr.469].
Như vậy, diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết lịch sử hay cịn gọi là diễn ngơn
tiểu thuyết lịch sử là diễn ngôn của nhà văn về một diễn ngơn trước đó: diễn ngơn
khoa học lịch sử, gồm một số đặc điểm như sau.
Thứ nhất, nếu diễn ngôn khoa học lịch sử/ lịch sử quan tâm đến tính chân
thật lịch sử, trung thành với những sự kiện lịch sử thì diễn ngơn tiểu thuyết lịch sử
lại xem nhẹ vấn đề này, thậm chí cịn hồi nghi lịch sử. Do đó, các nhà văn thường
tìm cách đối thoại với lịch sử bằng cách đặt ra các giả thuyết, giả định về một tình
huống khác có thể xảy ra của những sự việc đã diễn ra. Bằng cách này, các cây bút

tiểu thuyết lịch sử “muốn nhào nặn lại chất liệu lịch sử để tạo ra gương mặt lịch sử
“thứ hai”” [5, tr.135]. Hơn nữa, do đặc trưng của thể loại tiểu thuyết nên nhà văn
hồn tồn có quyền hư cấu trong câu chuyện của mình. Và đơi khi, lịch sử chỉ là cái
cớ hay “cái đinh” (A. Dumas) để nhà văn treo câu chuyện của mình lên.
Thứ hai, nếu diễn ngôn khoa học lịch sử chỉ tập trung vào sự kiện, cốt lấy
bản chất mà lược bỏ chi tiết thì tiểu thuyết lịch sử lại nối dài chi tiết, dùng chi tiết
để vạch rõ bản chất. Tiểu thuyết lịch sử khơng có tham vọng hệ thống tồn bộ lịch
sử của một triều đại, một giai đoạn hay một thời đại. Điều mà nó quan tâm chỉ là
một số sự kiện, nhân vật, vấn đề lịch sử tiêu biểu có tác dụng trực tiếp trong việc tạo
dựng và bộc lộ chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Chẳng hạn như sự kiện “Hội thề
Đơng Quan”, nếu Đại Việt sử kí tồn thư chỉ tường thuật lại vỏn vẹn trong vịng hai


14
câu như đã trích dẫn ở trên thì Nguyễn Quang Thân trong Hội thề đã dành đến một
chương với 17 trang tiểu thuyết để miêu tả cảnh hội thề. Như vậy, có thể nói, những
khoảng trắng, khoảng mờ của lịch sử lại chính là mảnh đất màu mỡ đắc địa của tiểu
thuyết lịch sử.
Thứ ba, nếu nhân vật lịch sử là những con người của chiến công, con người
sự kiện thì nhân vật của tiểu thuyết lịch sử vừa là con người lịch sử lại vừa là con
người trải nghiệm. Con người lịch sử là con người có thật trong lịch sử còn con
người trải nghiệm tức là con người lịch sử được nhìn nhận thơng qua lăng kính đời
thường, nhân vật được khắc họa rõ nét bằng những chi tiết, tình tiết của tiểu thuyết.
Đặc biệt, các nhà văn thường chú trọng khai thác thế giới nội tâm của nhân vật, làm
cho nhân vật trở nên có cá tính, sinh động và tràn đầy sức sống như một cách “hồi
sinh các nhân vật lịch sử”. Chẳng hạn như trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly, nhà văn
Nguyễn Xuân Khánh đã tập trung miêu tả những giằng xé nội tâm của nhân vật Hồ
Quý Ly, đưa đến cho ta những cảm nhận mới mẻ về sự cô đơn của một con người đi
trước thời đại. Điều mà trong những cuốn sách sử ta khơng thể nào tìm thấy.
Khơng chỉ làm mới những nhân vật lịch sử mà tiểu thuyết lịch sử còn tạo

dựng nên những nhân vật mới, những nhân vật hư cấu, hồn tồn khơng có trong
lịch sử. Ví dụ như: Thanh Mai, Sử Văn Hoa, Phạm Sinh trong Hồ Quý Ly; mụ Lý,
người kĩ nữ được Thái Phúc cưu mang, Ngọc Nương trong Hội thề; cung nữ Ngạn
La, Từ Lộ trong Giàn Thiêu (Võ Thị Hảo)… Họ không phải là người của lịch sử
nhưng lại đóng vai trị là một mắc xích quan trọng trong tác phẩm do tác giả tạo
nên. Họ có thể là cơng cụ giúp cho việc bộc lộ tư tưởng của nhà văn nhưng có khi
họ lại chính là nhân vật trực tiếp mang tư tưởng, là người phát ngôn tư tưởng của
tác giả.
Thứ tư, nếu điểm nhìn trần thuật của khoa học lịch sử là điểm nhìn duy nhất,
điểm nhìn bên ngồi thì tiểu thuyết lịch sử lại có sự dịch chuyển, luân phiên điểm
nhìn, thậm chí là điểm nhìn bên trong, nhân vật đóng vai trị là người kể chuyện
xưng “tơi”. Chẳng hạn như Hồ Nguyên Trừng trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly là một
dạng nhân vật là người kể chuyện xưng tôi với điểm nhìn bên trong.


15
Viết về lịch sử nhưng khơng có nghĩa là phải dùng lớp vỏ hình thức cũ, các
nhà văn đã phát huy hết mọi tiềm năng của thể loại tiểu thuyết đương đại với nghệ
thuật trần thuật đa điểm nhìn. Khơng đứng bên ngoài sự kiện như người kể chuyện
sử quan, cũng khơng hồn tồn “nhập cuộc” như là một người trong cuộc kể lại câu
chuyện của chính mình, mà nhà văn xuất hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau. Có
khi, tác giả hóa thân vào nhân vật đóng vai trị là người kể chuyện ngôi thứ nhất,
xưng tôi với điểm nhìn bên trong. Có khi tác giả đứng bên ngồi câu chuyện, là
người kể chuyện ngôi thứ ba với điểm nhìn bên ngồi. Có khi lại trao điểm nhìn cho
các nhân vật, cũng có nghĩa là trao quyền phát ngơn cho nhân vật.
Có thể nói, với những đặc trưng riêng, diễn ngôn tiểu thuyêt lịch sử đã và
đang trở thành một trào lưu văn học mới thu hút được sự quan tâm của đông đảo
độc giả. Trong xu hướng nhận thức lại lịch sử hiện nay, diễn ngơn này có thể là một
trong những cơng cụ bổ ích giúp ta nhận diện lịch sử của một thời kì, bên cạnh các
nguồn khác như: chính sử, dã sử, huyền sử, lịch sử gia tộc…

1.3. Diễn ngôn lịch sử trong tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1975
1.3.1. Sự đổi mới hệ hình tư duy về lịch sử
Cơng cuộc đổi mới đất nước vào những năm cuối thập niên 90 của thế kỉ XX
đã đem đến cho nền văn học Việt Nam một bầu khơng khí mới tràn đầy tinh thần
dân chủ. Có thể nói, chưa bao giờ các cây bút được tắm mình trong bầu khơng khí
dân chủ dâng cao như lúc này. Vì thế, họ say sưa sáng tác, thỏa sức viết những điều
mà lâu nay vì nhiều lí do họ khơng có cơ hội bộc lộ trên những trang viết của mình.
Tinh thần dân chủ rộng mở đã cởi trói cho những quan điểm, định kiến, tư duy gị
bó, chật hẹp, ấu trĩ, tạo đà cho sự “tăng trưởng” mạnh mẽ của nền văn học về mọi
mặt. Hòa trong khí thế dân chủ ấy, người ta khơng ngừng trăn trở để thay đổi tư duy
văn học, làm nảy sinh nhu cầu “nhận thức lại” những điều xưa nay luôn được mặc
định “đúng”, kể cả địa hạt lịch sử - một tòa thánh thiêng liêng – vốn dĩ được cho là
“bất khả xâm phạm”. Và thể loại đi tiên phong trong phong trào đổi mới hệ hình tư
duy về lịch sử chính là tiểu thuyết lịch sử. Có thể thấy bước ngoặt trong sự thay đổi
tư duy về lịch sử thể hiện trên các phương diện sau đây.


16
Thứ nhất, lịch sử được nhìn nhận lại bằng cảm thức đối thoại. Cảm thức này
bắt nguồn từ “thái độ bất tín lịch sử - thứ lịch sử tại ngoại, mặc định” [5, tr.137]. Và
cũng chính nó là tiền đề tư tưởng chi phối và chỉ đạo toàn bộ hoạt động sáng tạo của
tiểu thuyết lịch sử đương đại. Hàng loạt tác phẩm viết theo thể loại này, bằng cảm
hứng này đã và đang gây được tiếng vang trong đời sống văn học như: Hồ Quý Ly
của Nguyễn Xuân Khánh; Giàn thiêu của Võ Thị Hảo; Sông Côn mùa lũ của
Nguyễn Mộng Giác; Thăng Long nổi giận, Vương triều sụp đổ, Bão táp cung đình,
Huyền Trân cơng chúa của Hồng Quốc Hải; Hội thề của Nguyễn Quang Thân…
chứng tỏ sự vận động của tiểu thuyết lịch sử đương đại là tất yếu và cần thiết.
Đối thoại với lịch sử, các nhà tiểu thuyết muốn xác lập tiếng nói riêng của
mình trong việc lật lại những vấn đề mà khoa học lịch sử cho rằng “đã xong”, đã có
thể nói lời kết cho nó. Với tư duy hậu hiện đại, con người khơng cịn đặt niềm tin

vào những điều được cho là bất biến, thậm chí người ta cịn phủ nhận thuyết “tuyệt
đối” bằng việc đưa ra thuyết “tương đối”. Với lịch sử cũng vậy, nên cần nhìn nhận
nó trong sự vận động liên tục chứ không phải là một cái gì đó bất biến, đơng cứng
và tĩnh tại. Các nhà văn – những người thức nhạy với tư duy dân chủ - họ khơng
“vừa lịng” với sự phán xét về lịch sử cũng như không tin vào những niềm tin xưa
cũ. Do đó, họ trăn trở đi tìm một lời giải hay đúng hơn là đưa ra những giả định có
thể có từ sự hấp thụ vốn tri thức lịch sử, văn hóa dân tộc, để từ đó xác lập vị thế
quan điểm, lập trường và tiếng nói cá nhân về lịch sử và tâm thức cộng đồng.
Có thể thấy rõ điều này qua tiểu thuyết Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh.
Với tác phẩm này, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã mời bạn đọc vào cùng một
trường đối thoại xung quanh nhân vật Hồ Q Ly. Ơng khơng phủ nhận đây là một
con người gian hùng, một kẻ thoán ngôi đoạt vị như sử sách lâu nay vẫn nhận định.
Điều ơng phủ nhận chính là lối tư duy một chiều, bảo thủ về lịch sử và các nhân vật
lịch sử - bằng cái nhìn “lưỡng lự”, “nước đơi” (Nguyễn Thị Bình) về tính phức tạp
biện chứng của đời sống con người. Và trong tương quan đối thoại, ông nhận thấy
rằng, Hồ Q Ly khơng hồn tồn là một “tội đồ” lịch sử, thậm chí xét trong chừng
mực nào đấy Hồ Quý Ly lại chính là một anh hùng dân tộc, một nhà cải cách đại tài.


17
Đối với nhà Trần, rõ ràng ông là một kẻ đại nghịch, phản trắc. Nhưng đối với đất
nước ta lúc ấy, một triều đại mục ruỗng đã đến thời mạc vận như nhà Trần là đáng
bị thay thế và sự canh tân đất nước lúc ấy là cần thiết hơn bao giờ hết. Hồ Quý Ly là
người nhìn thấy sự vận động tất yếu của lịch sử và đã đảm nhận sứ mệnh lịch sử
giao phó. Nhưng tiếc thay, những chính sách cải cách của ơng q tàn bạo nên ông
không được lòng dân, dẫn đến thất bại cũng là lẽ tất yếu. Nhà văn đã rất tỉnh táo khi
nhìn nhận về lịch sử và những mối quan hệ phức tạp của nó để từ đó phác họa chân
dung một Hồ Quý Ly cô đơn – nỗi cô đơn của một con người đi trước thời đại.
Với một chất liệu quen thuộc đã trở thành kinh nghiệm cộng đồng như lịch
sử thì nhân tố quyết định đến thành cơng của tác phẩm nằm ở khả năng làm mới

lịch sử của mỗi nhà văn. Đôi khi người đọc quan tâm đến một tác phẩm nào đấy
cũng chỉ vì muốn xem nhà văn đó đối thoại với lịch sử như thế nào.Và xét đến
cùng, độc giả hiện nay đọc tiểu thuyết lịch sử với mục đích chính là thử xem nhà
văn xử lí chất liệu cũ như thế nào, có gì mới lạ trong tư duy, quan niệm và cách
đánh giá về lịch sử của nhà văn ấy hay khơng. Do đó, đối thoại trở thành “phẩm
chất” đầu tiên của một tác phẩm tiểu thuyết lịch sử.
Thứ hai, lịch sử được nhìn nhận từ cảm hứng thế sự - đời tư. Có thể nói, văn
học sau 1975 với sự đổi mới trong tư duy về hiện thực và con người đã trả nền văn
học Việt Nam trở về đúng quỹ đạo vốn có của nó. Khơng cịn phải viết để phục vụ
cho lí tưởng cách mạng hay cổ vũ, động viên chiến đấu, các cây bút đương đại trở
về với “muôn mặt đời thường” như sự bùng vỡ tư tưởng cá nhân dồn nén bấy lâu
nay. Cảm hứng đạo đức – chính trị dần bị thay thế bằng cảm hứng thế sự - đời tư
với sự quan tâm trên hết cho số phận con người. Trên vai trò là một chất liệu nghệ
thuật, lịch sử cũng bắt đầu được nhìn nhận bằng cảm hứng ấy với sự mở rộng về hệ
thống chủ đề. Chủ đề của các tiểu thuyết lịch sử giờ đây không đơn thuần chỉ là
ngợi ca những tấm gương anh hùng dân tộc hay phê phán những kẻ có tội với lịch
sử… mà nó đã được mở rộng sang lãnh địa của tình u, hơn nhân, gia đình, khát
vọng tự do cá nhân, sự mâu thuẫn giữa con người trách nhiệm và con người cá
nhân, quan niệm về cách tân và bảo thủ, nỗi cô đơn và bi kịch thân phận…


18
Chính sự mở rộng chủ đề ấy đã làm cho lịch sử mang “khuôn mặt đời
thường”. Con người lịch sử bị đẩy vào giữa guồng quay thế sự khiến họ cũng phải
suy tư, trăn trở, giằng xé, đau đớn bởi những bi kịch cuộc đời. Vì thế, con người
lịch sử hiện lên trong tác phẩm là một nhân vật tiểu thuyết có cá tính và đời sống
nội tâm phong phú cần được khám phá. Bên cạnh đó, những vấn đề, những mối
quan hệ lịch sử giờ đây cũng được soi chiếu trong trường nhìn đa chiều như chính
sự phức tạp của đời sống con người, gợi ra nhiều chiều kích thức nhận mới mẻ khác
nhau về những vấn đề đã cũ. Và có lẽ, sức hấp dẫn của các tiểu thuyết lịch sử đương

đại nằm ở sự cách tân táo bạo trong việc lựa chọn chủ đề. Đọc một số tác phẩm
như: Bão táp cung đình, Hồ Quý Ly, Hội thề, Sông Côn mùa lũ … ta thấy hầu hết
các nhà văn đều quan tâm đến số phận con người trong biến cố thời đại. Với Hồ
Quý Ly, vấn đề ông đặt ra là quan niệm về cách tân và bảo thủ. Nguyễn Quang Thân
với Hội thề lại đề cập đến mối quan hệ trí thức – võ biền. Và đến Giàn thiêu của Võ
Thị Hảo thì chủ đề lịch sử rõ ràng đã hoàn toàn mờ nhạt bởi sự “lấn lướt” của các
chủ đề tiểu thuyết. Thực chất, Giàn thiêu chỉ ẩn dưới lớp vỏ lịch sử và Võ Thị Hảo
đã dùng lịch sử như một kênh truyền tải suy tư, chiêm nghiệm của cá nhân về thế
thái, nhân tình.
Như vậy, cảm thức đối thoại và cảm hứng thế sự - đời tư là những biểu hiện
chứng tỏ sự thay đổi hệ hình tư duy về lịch sử trong thể loại tiểu thuyết lịch sử
đương đại.
1.3.2. Lịch sử được “nhào nặn” bằng các thủ pháp của khuynh hướng hậu hiện
đại
Sau 1975, sự thay đổi về hệ hình tư duy lịch sử đã kéo theo sự chuyển biến
mạnh mẽ của tiểu thuyết lịch sử trong việc tìm hình thức biểu đạt tương ứng. Và sự
dịch chuyển của nền văn học đi theo khuynh hướng hậu hiện đại cũng đã kéo theo
sự xâm nhập của khuynh hướng này vào thể loại tiểu thuyết lịch sử. Với việc vận
dụng những thủ pháp nghệ thuật của khuynh hướng hậu hiện đại, các nhà văn muốn
tạo nên một sự đột phá trong cách tân nghệ thuật tiểu thuyết lịch sử.


19
Dưới điểm nhìn hậu hiện đại, Trần Đình Sử cho rằng: “Thay cho đại tự sử là
tiểu tự sự, thay cho đại lịch sử sẽ là tiểu lịch sử” [10, tr.475]. Như vậy, theo quan
niệm của lí luận hiện nay, lịch sử sẽ khơng cịn được xem như một mơ hình khép
kín, một hệ thống liên tục tĩnh tại mà lịch sử là những mảnh vỡ được ghép vào nhau
theo ý đồ của nhà văn. Và do đó, lịch sử khơng phải là một thứ gì đó q lớn lao và
xa vời, tại đó nó được hình dung như những mảng hiện thực vỡ vụn, chắp nối. Vì
thế, thủ pháp phân mảnh, lắp ghép tỏ ra đắc dụng trong việc giải cấu trúc, giải lịch

sử. Với tư duy hậu hiện đại cùng thói quen nhìn nhận cuộc sống từ những mảnh
hiện thực, các nhà tiểu thuyết đương đại nhận thấy không cần phải tái hiện lịch sử
theo lớp lang của những sự kiện được diễn tiến theo trình tự thời gian tuyến tính.
Mà điều họ quan tâm chính là bản thân những sự kiện, những vấn đề, những con
người lịch sử ấy nói lên điều gì. Do đó, đơi khi trong tác phẩm chúng được xây
dựng tách rời nhau, các chiều kích khơng – thời gian bị đảo lộn khiến mạch tự sự
tuyến tính bị phá vỡ hồn tồn. Có thể nói Giàn Thiêu của Võ Thị Hảo là một ví dụ
điển hình trong việc sử dụng thủ pháp lắp ghép, phân mảnh. Ở đây, Võ Thị Hảo
không phục dựng toàn bộ bức tranh lịch sử thời đại Lý Nhân Tông, Lý Thần Tông,
mà từ những chân dung thân phận con người trong vịng xốy cuộc đời như: Từ Lộ,
Nhuệ Anh, cung nữ Ngạn La, Lý Thần Tông… nhà văn muốn bạn đọc khám phá
lịch sử và thức nhận hiện tại thơng quan những mảnh ghép.
Để tăng tính đa thanh, đa điệu cho thể loại tiểu thuyết lịch sử và đồng thời
phát huy tinh thần dân chủ trong tư duy văn học, có thể thấy các cây bút tiểu thuyết
đương đại đang khơng ngừng gia tăng điểm nhìn trần thuật trong tác phẩm của mình
– một thủ pháp hậu hiện đại: kĩ thuật trần thuật đa điểm nhìn. Bằng cách này, nhà
văn khơng độc diễn trong vở kịch do mình tạo ra mà phân vai cho các nhân vật,
đồng nghĩa với việc trao điểm nhìn và quyền phát ngơn cho nhân vật. Ai trong vở
diễn cũng đều giữ một vai trị nhất định và có quyền nói lên tiếng nói cá nhân. Đơi
khi vai trị của tác giả trở nên mờ nhạt bởi sự “chủ động” của các nhân vật. Nhân
vật có khi “giành” quyền là người kể chuyện trong câu chuyện của chính mình.
Thậm chí họ cịn “tranh” quyền phán xét về các nhân vật khác từ tay tác giả. Đặc


×