Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

Đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng người chăm ở ninh thuận trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 127 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


TRẦN THU HƯƠNG

ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA CỘNG
ĐỒNG NGƯỜI CHĂM Ở NINH THUẬN TRONG
Q TRÌNH CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA

Chun ngành: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Mã số: 60.22.85

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
TS. TRẦN CHÍ MỸ

TP.HỒ CHÍ MINH - 2011


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU…………………………………………………………..1
Chương 1. ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN TRONG Q TRÌNH
CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA Ở VIỆT NAM………………8
1.1. Khái niệm đời sống văn hóa tinh thần…………………………………….8
1.1.1. Khái niệm văn hóa tinh thần ..................................................................... .8
1.1.2. Khái niệm đời sống văn hóa tinh thần .......................................................14
1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng đời sống văn hóa
tinh thần trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước……….....21
1.2.1. Đặc điểm cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay…………...21


1.2.2 Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng đời sống văn hóa tinh
thần trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước……………………30

Chương 2. XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA
CỘNG ĐỒNG NGƯỜI CHĂM Ở NINH THUẬN TRONG Q
TRÌNH CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA……………………...41
2.1. Khái qt về tỉnh Ninh Thuận và về đặc điểm đời sống văn hóa tinh
thần của cộng đồng người Chăm và cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Ninh Thuận………………………………………………………………..41
2.1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Ninh Thuận…....41
2.1.2.Đặc điểm đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng người Chăm ở

Ninh Thuận………………………………………………………………...41
2.1.3. Đặc điểm của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Ninh Thuận………………65
2.2. Thực trạng xây dựng đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng người
Chăm ở Ninh Thuận trong những năm qua, nguyên nhân và những vấn đề
đặt ra hiện nay…………………………………………………………………..70
2.2.1. Những thành tựu chủ yếu trong xây dựng đời sống văn hóa tinh thần của
cộng đồng người Chăm ở Ninh Thuận những năm qua…………………………..71


2.2.2. Những hạn chế trong xây dựng đời sống văn hóa tinh thần của cộng

đồng người Chăm ở Ninh Thuận những năm qua, nguyên nhân và những vấn
đề đặt ra hiện nay…………………………………………………………..82
2.3. Phương hướng và giải pháp xây dựng đời sống văn hóa tinh thần của
cộng đồng người Chăm ở Ninh Thuận trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa……………………………………………………………………………95
2.3.1. Phương hướng xây dựng đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng người
Chăm ở Ninh Thuận trong quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa……………..95

2.3.2. Những giải pháp xây dựng đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng người
Chăm ở Ninh Thuận trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay…...98

KẾT LUẬN………………………………………………………………106
PHỤ LỤC………………………………………………………………...110
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………..117


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, nội dung trong luận văn là cơng trình nghiên cứu độc
lập, trung thực của bản thân chưa từng được công bố trên bất kỳ một cơng
trình nào khác. Nếu có gì khơng đúng, tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm.
Thành phố, Hồ Chí Minh tháng 7/2011
Tác giả

TRẦN THU HƯƠNG


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đời sống văn hóa tinh thần tồn tại như một thành phần hữu cơ không
thể thiếu trong đời sống chung của xã hội. Là một bộ phận tất yếu hợp thành
chỉnh thể đời sống xã hội. Đó là mục tiêu cao đẹp, là hạnh phúc thật sự của
con người.
Trong thời đại ngày nay, bất cứ quốc gia nào muốn phát triển lâu bền phải
xác định, ngồi yếu tố vật chất, phải tìm những mục tiêu, động lực từ những
yếu tố tinh thần, yếu tố văn hóa. Phát triển văn hóa chính là quá trình tạo
nguồn lực con người, tạo nội lực cho sự phát triển và cũng là động lực vô

cùng quan trọng cho thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Mỗi dân tộc trong cộng đồng các
dân tộc Việt Nam đều có bản sắc văn hóa đặc trưng, có đời sống văn hóa
tinh thần đặc sắc góp phần làm phong phú thêm cho vườn hoa mn sắc của
nền văn hóa Việt Nam thống nhất mà đa dạng. Trong đó, có sự đóng góp
khơng nhỏ của dân tộc Chăm. Dân tộc Chăm là thành viên của đại gia đình
54 dân tộc ở Việt Nam, có nền văn hóa phát triển, mang đậm bản sắc dân
tộc. Dân tộc Chăm ở Việt Nam có số dân khơng lớn, cư trú ở các tỉnh từ
Trung Bộ đến Nam Bộ. Trong đó, Ninh Thuận là địa bàn mà người Chăm
sinh sống đông và lâu đời nhất. Chính nơi đây, là bề dày của q trình gắn
bó, xây dựng và phát triển của cộng đồng người Chăm với đời sống văn hóa
tinh thần đa dạng và phát triển.
Bước vào thời kỳ đổi mới, cộng đồng người Chăm ở Ninh Thuận vừa
tích cực xây dựng kinh tế, vừa ổn định tình hình xã hội. Họ nhạy bén với sự
phát triển của nền kinh tế thị trường và có vai trị quan trọng trong q trình
xây dựng, phát triển của tỉnh nhà. Sự nghiệp xây dựng đời sống văn hóa tinh


2

thần, theo Hồ Chí Minh: “ Là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ
kĩ, hư hỏng, để tạo ra những cái mạnh mẻ, tốt tươi, để giành lấy thắng lợi
trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân tổ chức và
giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân” [57,505].
Nghiên cứu đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng người Chăm ở
Ninh Thuận trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là một trong
những nhiệm vụ cấp bách hiện nay. Bởi, sau ngày Miền Bắc hoàn toàn giải
phóng (1954) và đặc biệt sau khi cả nước thống nhất cùng tiến lên xây dựng
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đời sống của các dân tộc ít
người trong đó có dân tộc Chăm bước đầu có sự thay đổi rõ nét theo chiều

hướng tăng trưởng và tiến bộ trong các lĩnh vực ( kinh tế, xã hội…).
Hiện nay, q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhu cầu chân chính
của mọi dân tộc. Qúa trình này đã tác động mạnh mẽ đến đời sống văn hóa
tinh thần của cả cộng đồng người Chăm nói chung và của dân tộc Chăm ở
Ninh Thuận nói riêng. Vấn đề thực tiễn đặt ra, đối với nhiệm vụ xây dựng
đời sống văn hóa tinh thần của người Chăm ở Ninh Thuận hiện nay là việc
nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ về đời sống văn hóa tinh thần thì chưa thể
nói đến việc xây dựnng nó một cách tự giác, chủ động và đương nhiên kết
quả đạt được sẽ khơng tương xứng, thậm chí trái ngược. Xây dựng đời sống
văn hóa tinh thần để tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, góp phần giữ
vững ổn định chính trị, đặc biệt là để xây dựng con người phát triển toàn
diện. Bởi, sự phát triển toàn diện con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực
quan trọng nhất của chủ nghĩa xã hội.
Làm thế nào, để đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng người Chăm
ở Ninh Thuận vừa phong phú, đa dạng mà thống nhất trong nền văn hóa Việt
Nam nói chung, lại vừa đảm bảo phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn hội
nhập và phát triển hiện nay. Xuất phát, từ thực trạng nêu trên, việc nghiên


3

cứu, tìm hiểu về đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng người Chăm ở
Ninh Thuận trong quá trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là một nhiệm vụ
cấp thiết hiện nay.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề văn hóa và đời sống văn hóa tinh thần từ lâu đã thu hút được sự
quan tâm, chú ý của Đảng, nhà nước và các nhà khoa học, đặc biệt là trong
những năm đổi mới vừa qua. Tiêu biểu cho q trình nghiên cứu này có
nhiều cơng trình như: “ Văn hóa và sự phát triển – vận dụng trong thực
thực tiễn” của TS. Nguyễn Hồng Sơn, Nxb .Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm

2004. Tác giả đã phân tích việc xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở nước
ta và những vấn đề thực tiễn đang đặt ra trước xu thế tồn cầu hóa. “ Đời
sống văn hóa các dân tộc thiểu số trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa” của GS, TS. Trần Văn Bính, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, năm 2006,
tác giả đã chỉ rõ những thành tựu, hạn chế trong đời sống văn hóa và xu
hướng phát triển văn hóa của các tộc người thiểu số ở nước ta. “ Những
thách thức của văn hóa Việt Nam trong q trình hội nhập kinh tế” của
Phạm Duy Biên, Nxb . Văn hóa – thơng tin và Viện văn hóa, Hà Nội, nănm
2006, tác giả đã phân tích sự phát triển của văn hóa Việt Nam trong q
trình hội nhập, từ đó nêu lên thực trạng và giải pháp để xây dựng nền văn
hóa mới. Ngồi ra, cịn có một số bài viết tiêu biểu như:
“ Về vị trí và vai trị của văn hóa trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở Việt Nam hiện nay” của Đặng Hữu Tồn, Tạp chí khoa học xã hội,
số 36(1998), “ Đời sống văn hóa tinh thần của xã hội và xây dựng đời sống
văn hóa tinh thần của xã hội Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội”, luận án tiến sĩ của Trần Khắc Việt, năm 1992,… Những cơng trình
trên đã đi sâu phân tích về vị trí, vai trị của việc xây dựng đời sống văn hóa
và đưa ra những yêu cầu, kiến nghị nhằm giữ gìn và phát huy những giá trị


4

văn hóa truyền thống của dân tộc trong q trình tồn cầu hóa kinh tế hiện
nay.
Nghiên cứu về văn hóa và đời sống văn hóa tinh thần của người Chăm ở
Việt Nam nói chung, ở Ninh Thuận nói riêng cũng đã có khá nhiều cơng
trình. Cơng trình “ Văn hóa Chăm” của nhóm tác giả Phan An, Phan Xuân
Biên, Phan Văn Dốp, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 1991, đã phác
thảo một bức tranh toàn cảnh về văn hóa Chăm với những đặc trưng phong
phú và đa dạng trong tiến trình phát triển của xã hội Chăm. Ngồi ra, cịn

một số cơng trình khác như:“ Vài suy nghĩ về văn hóa Chăm trong bối cảnh
văn hóa Việt Nam” của Nguyễn Xuân Nghĩa, Phan Văn Dốp, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội, năm 1987. “ Báo cáo 10 năm nghiên cứu văn hóa
Chăm” của Phú Văn Hẳn, Nxb. Viện khoa học xã hội vùng Nam Bộ
TP.HCM, năm 2008. “Văn hóa tổ chức cộng đồng của người Chăm ở Nam
Bộ”, luận văn Thạc sĩ của Võ Thị Mỹ, Nxb. Văn hóa học, năm 2008, “ Các
vấn đề văn hóa xã hội Chăm” của Inrasara (1999), Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà
Nội,…
Ninh Thuận là vùng đất có cộng đồng người Chăm sinh sống đơng nhất
nước. Vì vậy, cũng đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về cộng đồng người
Chăm ở đây. Tiêu biểu như: “ Ảnh hưởng của các yếu tố tộc người tới phát
triển kinh tế xã hội của dân tộc Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận” của
Nguyễn Thị Chính, Tạ Long, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2007,
“Văn hóa Chăm vấn đề bảo tồn, phát huy các giá trị của người Chăm ở
Ninh Thuận” luận văn Thạc sĩ triết học của Lê Thọ (năm 2006), Trường Đại
học khoa học xã hội – Nhân văn, Tp.HCM. “ Tín ngưỡng dân gian của
người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận” luận án Tiến sĩ của Vương Hoàng
Trù, Nxb. Viện khoa học xã hội tại Tp.HCM (năm 2003), “ Một số vấn đề cơ
bản về tín ngưỡng tơn giáo của đồng bào Chăm ở hai tỉnh Ninh Thuận, Bình


5

Thuận hiện nay ” của TS. Nguyễn Hồng Sơn, Nxb. Khoa học xã hội, năm
2007, “Nghi lễ vòng đời của người Chăm Ahier ở Ninh Thuận” của TS. Phan
Quốc Anh, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội, năm 2006, “Palei Chăm – những
vấn đề văn hóa” của TS. Thành Phần, hội thảo khoa học tại Ninh Thuận,
tháng 7- năm 2000,......
Như vậy có thể thấy, các cơng trình nghiên cứu nói trên, từ những góc
độ tiếp cận khác nhau, các tác giả đã luận giải khá sâu sắc, toàn diện cả

phương diện lý luận và thực tiễn về văn hóa và đời sống văn hóa tinh thần
của cộng đồng người Chăm nói chung, cộng đồng người Chăm ở Ninh
Thuận nói riêng. Nhưng cho đến nay, chưa có cơng trình khoa học độc lập
nào nghiên cứu chuyên biệt, trực tiếp và có hệ thống về đời sống văn hóa
tinh thần của cộng đồng người Chăm ở Ninh Thuận trong q trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trên cơ sở, tiếp thu, kế thừa những cơng trình của các tác giả nêu trên và
xuất phát từ thực trạng xây dựng đời sống văn hóa tinh thần của người
Chăm ở Ninh Thuận hiện nay, tác giả quyết định chọn vấn đề: “ Đời sống
văn hóa tinh thần của cộng đồng người Chăm ở Ninh Thuận trong q trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa” làm đề tài nghiên cứu và viết luận văn của
mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Trên cơ sở phân tích làm rõ một số vấn đề về đời sống văn hóa tinh thần
và xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở Việt Nam thời kỳ cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, thực trạng xây dựng đời sống văn hóa tinh thần
của cộng đồng người Chăm ở Ninh Thuận, luận văn đề xuất một số phương
hướng và giải pháp xây dựng đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng
người Chăm ở Ninh Thuận trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
hiện nay.


6

Với mục đích như vậy, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ cơ
bản sau:
Thứ nhất, phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về đời sống văn hóa
tinh thần và xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở Việt Nam thời kỳ cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa .
Thứ hai, phân tích thực trạng xây dựng đời sống văn hóa tinh thần của

cộng đồng người Chăm ở Ninh Thuận, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra
hiện nay.
Thứ ba, nêu lên một số giải pháp xây dựng đời sống văn hóa tinh thần
trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
4. Cơ sở lý luận – phương pháp nghiên cứu của luận văn
Để thực hiện mục đích – nhiệm vụ đã nêu của luận văn, tác giả dựa trên
cơ sở thế giới quan duy vật biện chứng – phương pháp luận biện chứng duy
vật của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam để nghiên cứu. Bên cạnh đó, luận văn cịn sử dụng
một số phương pháp như: phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích,
phương pháp lịch sử - logic, phương pháp hệ thống,…
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu : Đời sống văn hóa tinh thần của con người và xã
hội.
Phạm vi nghiên cứu: Đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng người
Chăm ở Ninh Thuận trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
6. Ý nghĩa khoa học – thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho việc nghiên
cứu, giảng dạy, học tập trong các chuyên ngành: chủ nghĩa xã hội khoa học,
dân tộc,….Đồng thời, luận văn có thể làm tư liệu tham khảo cho các cơ
quan, chức năng trong việc hoạch địch các chủ trương, chính sách để xây


7

dựng và phát triển đời sống văn hóa tinh thần ở Việt Nam. Đặc biệt, trong
việc tổ chức và xây dựng đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng người
Chăm ở Ninh Thuận ngày càng một tốt hơn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết

cấu gồm 2 chương, 5 tiết.


8

Chương 1
ĐỜI SỐNG VĂN HĨA TINH THẦN TRONG Q TRÌNH CƠNG
NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA Ở VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM ĐỜI SỐNG VĂN HĨA TINH THẦN

1.1.1. Khái niệm văn hóa tinh thần
Khái niệm văn hóa
Văn hóa là bộ phận quan trọng không thể tách rời trong đời sống của
con người và của xã hội. Vậy văn hóa là gì?, nội dung ra sao, nó biểu hiện
thế nào, là mối quan tâm của rất nhiều học giả trên thế giới. Chỉ riêng việc
định nghĩa thế nào là văn hóa cũng khó đi đến thống nhất. Đến nay, qua các
cơng trình của các học giả, các tuyên bố của các tổ chức trong và ngồi nước
đã có tới trên 400 định nghĩa về văn hóa.
Khái niệm văn hóa xuất hiện ở Đơng Á rất sớm. Theo Từ Hồng Hưng –
nhà nghiên cứu của Trung Quốc trong bài “ Tổng luận về văn hóa” thì từ “
văn hóa” là do người Nhật Bản vào cuối thế kỷ XIX đã chuyển dịch từ chữ “
cultura” của Phương Tây mà dẫn vào Nhật, sau đó mới truyền qua Trung
Quốc. Lưu Hướng (Thời Tây Hán, 206 TCN), là người đầu tiên đưa ra định
nghĩa về văn hóa. Trong sách Thuyết Uyển bài Chi Vũ, Ơng viết: “ Bậc
thánh nhân trị thiên hạ, trước dùng văn đức sau mới dùng vũ lực. Phàm
dùng vũ lực đối phó kẻ bất phục tùng, dùng văn hóa khơng thay đổi thì sau
đó chinh phạ ” [12, 49]. Ở đây, văn hóa hiểu như cách thức điều hành xã hội
bằng “ Văn trị” để “giáo hóa” con người, đối lập với việc dùng vũ lực.
“Văn trị” là dùng chế độ lễ nhạc điển chương, tức cái hay cái đẹp để giáo
dục và cảm hóa con người. Chung quy lại tại Á Đơng, trong đó có Việt

Nam, quan điểm trên tồn tại cho đến cuối thế kỉ XX.


9

Ở phương Tây, khái niệm văn hóa ra đời tương đối muộn, khoảng thế
kỷ XVII, bắt nguồn từ tiếng Latinh “ cultura ” có ý nghĩa là vun trồng, cày
xới, chăm bón đất đai để trồng trọt tạo ra sản phẩm phục vụ cho nhu cầu cần
thiết của con người. Về sau, từ “ cultura ” chuyển thành nuôi dưỡng, vun
trồng tinh thần, trí tuệ. Đó Là q trình giáo dục, bồi dưỡng tinh thần, trí tuệ
cho con người. Giữa thế kỷ XIX, các ngành khoa học như: nhân loại học, xã
hội học, dân tộc học,….phát triển mạnh ở Châu Âu, khái niệm văn hóa cũng
do đó mà có biến đổi, dần dần có hàm nghĩa hiện đại, hơn thế, ngày càng trở
thành thuật ngữ thường dùng của ngành khoa học xã hội.
Khái niệm hiện đại về văn hóa lần tiên được Edward Burnet Taylor,
nhà nhân chủng học người Anh định nghĩa trong cuốn “ Văn hóa nguyên
thủy” xuất bản tại London năm 1871. Theo đó, “ Văn hóa theo nghĩa rộng
nhất của nó, là tồn bộ phức thể, bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật,
đạo đức, luật pháp, phong tục và những khả năng tập quán khác nhau mà
con người có được với tư cách là một thành viên xã hội” [68, 13]. Về sau các
học giả phương Tây đã định nghĩa văn hóa trên nhiều góc độ khác nhau. Tại
hội nghị Venise năm 1970 về các chính sách văn hóa do Tổ chức Giáo dục,
Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc (UNESCO) đề xướng, người ta đã
đưa ra một khái niệm văn hóa theo nghĩa rộng được nhiều người trong giới
khoa học thừa nhận : “ Văn hóa khơng tự giới hạn trong các hoạt động nghệ
thuật mà bao gồm toàn bộ các hoạt động của con người, cho phép con người
tự định vị mình trong khơng gian và thời gian, tạo ra chìa khóa để giải thích
thế giới, khả năng giao lưu và sáng tạo”
[62, 22].
Tại Lễ phát động Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa tổ chức tại Pari

ngày 21/1/1998, Tổng giám đốc UNESCO - Federieo Mayor đã đưa định
nghĩa văn hóa rằng: “ Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo


10

trong quá khứ và hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình
thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và các thị hiếu – những
yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc ”[68,23] . Với ý nghĩa đó,
văn hóa có mặt trong bất cứ hoạt động hoạt động nào của con người, dù đó
là hoạt động sản xuất vật chất sản xuất tinh thần, hay trong quan hệ giao tiếp
ứng xử xã hội, trong thái độ đối với tự nhiên.
Trong quan niệm của C.Mác và Ăngghen thì bản thân con người ln
chứa đựng và sáng tạo văn hóa, văn hóa là sản phẩm hoạt động của con
người trong mối quan hệ tương tác với tự nhiên và xã hội. Ngày nay, đã có
rất nhiều định nghĩa về văn hóa. Trong đó, khái niệm văn hóa của UNESCO
hướng vào cái cơ bản nhất và cũng là cái chung tốt đẹp của mọi nền văn hóa
là xu hướng hồn thiện và tôn vinh con người.
Ở Việt Nam, nhận thức nội dung khái niệm văn hóa là một q trình.
Căn cứ vào nghĩa gốc của từ “ Culture” trong tiếng la – tinh, G.S Vũ Khiêu,
nhà văn hóa học Việt Nam, cho rằng: “ Văn hóa thể hiện trình độ được vun
trồng của con người, của xã hội. Văn hóa là trạng thái con người ngày càng
tách khỏi thế giới động vật, ngày càng xóa bỏ những đặc tính của động vật,
để khẳng định những đặc tính của con người”[48,8]. Chủ tịch Hồ Chí Minh,
trên cơ sở kế thừa sâu sắc truyền thống của dân tộc và sự chắt lọc tinh hoa
văn hóa của nhân loại đã đưa ra một định nghĩa rằng: “ Vì lẽ sinh tồn cũng
như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn
ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tơn giáo, văn hóa nghệ thuật,
những cơng cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn , ở và các phương thức
sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là

sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà
lồi người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và địi hỏi
của sự sinh tồn” [58,431].


11

Từ khi Việt Nam hưởng ứng Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa do
UNESCO phát động, khái niệm văn hóa thực sự được nhận thức lại với đầy
đủ nội dung ngữ nghĩa của nó. Nhiều học giả đi sâu nghiên cứu nội dung cơ
bản của khái niệm văn hóa. Trần Ngọc Thêm trong cuốn "Tìm về bản sắc
văn hóa Việt Nam" ( năm 1997), đưa ra một định nghĩa như sau: “ Văn hóa
là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất- tinh thần do con người sáng tạo
và tích lũy qua q trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con
người với môi trường tự nhiên- xã hội của mình” [79]. Theo đó, văn hóa
được tác giả tiếp cận theo nghĩa rộng nhất bao gồm cả giá trị vật chất – tinh
thần được hình thành từ khi con người biết sáng tạo nghĩa là hình thành cùng
với sự hình thành lồi người.
Qua một số định nghĩa vừa dẫn, nhận thấy cốt lõi của văn hóa là hệ
thống các giá trị vật chất – tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình
con người làm nên lịch sử của mình, là cái mà dựa vào đó từng dân tộc
khẳng định bản sắc của mình. Tuy tiếp cận văn hóa ở những góc độ khác
nhau, nhưng nhìn chung, những nội dung căn cốt nhất của khái niệm văn hóa
được nhiều tác giả đề cập bao gồm những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, văn hóa là cái đặc hữu của con người, do con người và vì
con người. Con người sáng tạo ra những giá trị văn hóa đồng thời con người
lớn lên với những giá trị văn hóa của mình.
Thứ hai, văn hóa phải là cái mang giá trị. Gía trị nói ở đây là căn cứ
vào “ Ý nghĩa con người, ý nghĩa xã hội và văn hóa” của những sự vật hiện
tượng nhất định trong hiện thực. Điều đó, cũng có nghĩa là chất lượng sự vật

và hiện tượng, tức là tính chất và mức độ hữu ích của chúng để đáp ứng nhu
cầu phát triển nhất của con người và xã hội trong từng giai đoạn lịch sử cụ
thể. G.S Vũ Khiêu viết: “ Chúng ta quan niệm giá trị là những thành tựu của
con người góp vào sự đi lên của lịch sử xã hội, phục vụ cho lợi ích và hạnh


12

phúc của con người” [48,8]. Những gì trái với lợi ích và tiến bộ xã hội, gây
thiệt hại cho lợi ích và hạnh phúc của con người thì khơng được coi là giá
trị, là văn hóa. Xét về bản chất, văn hóa chỉ có bổ dưỡng đối với con người,
làm tăng trưởng cái đúng, cái tốt, cái đẹp nơi con người. Cái độc hại đối với
con người, cái hạ thấp và làm xấu con người khơng phải là văn hóa mà là
phản văn hóa.
Thứ ba, cái chốt nhất của văn hóa là nó phải được kết tinh nơi con
người, ở tính cách, ở phẩm chất thể hiện trong hoạt động và quan hệ con
người. Cái đúng, cái tốt, cái đẹp trong hoạt động sản xuất, thể thao, giao
tiếp,.. là văn hóa. Cái đúng, cái tốt, cái đẹp trong quan hệ cha con, vợ chồng,
thầy trị,…là văn hóa.
Thứ tư, văn hóa là hệ thống các biểu trưng do một cộng đồng xây
dựng nên: ngôn ngữ, chữ viết, phong tục, tập quán, lối sống, tôn giáo, đạo
đức, thẩm mỹ, pháp luật ( biểu trưng hóa tình cảm, khát vọng, mục đích, lý
tưởng…)
Văn hóa là sự phát huy các năng lực bản chất người của con người,
được thể hiện ra trong các hoạt động và quan hệ con người. Với góc độ tiếp
cận của đề tài, tôi tán thành và sử dụng định nghĩa về văn hóa sau đây: Văn
hóa là tồn bộ những giá trị do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch
sử bằng lao động của mình trên cả hai lĩnh vực sản xuất vật chất và sản xuất
tinh thần.
Khái niệm văn hóa tinh thần

C.Mác và Ăngghen trong khi nghiên cứu sự vận động và phát triển
của xã hội lồi người đã khái qt tồn bộ các hình thức hoạt động của xã
hội thành hai lĩnh vực hoạt động cơ bản là sản xuất vật chất – sản xuất tinh
thần. Theo đó, có thể quan niệm rằng văn hóa vật chất gắn liền với sản xuất
vật chất, chủ yếu được hình thành phát triển từ sản xuất vật chất. Còn văn


13

hóa tinh thần gắn với sản xuất tinh thần, chủ yếu được hình thành và phát
triển từ sản xuất tinh thần. Nếu văn hóa vật chất, trong tính cụ thể của nó thể
hiện trình độ chiếm lĩnh và khai thác những vật thể trong tự nhiên thì văn
hóa tinh thần nói lên sự phong phú bên trong của ý thức, là trình độ phát
triển của bản thân con người.
Trong cuốn “ Văn hóa và đời sống xã hội ”, tác giả Thanh Lê khẳng
định: “ Văn hóa tinh thần là tất cả những hình thái của đời sống tinh thần của
một xã hội nhất định. Đó là trình độ mà xã hội đã đạt được về các mặt: giáo
dục, khoa học, nghệ thuật, triết lý, luân lý,….”[54,12].
Văn hóa tinh thần là tổng hợp những giá trị của đời sống tinh thần bao
gồm khoa học và mức độ áp dụng các thành tựu của khoa học vào sản xuất
và sinh hoạt, là trình độ học vấn, giáo dục, nghệ thuật, các chuẩn mực đạo
đức của các thành viên trong xã hội, trình độ phát triển những nhu cầu của
con người. Văn hóa tinh thần được “ trầm tích” trong các hình thức vật thể,
nó là bảo vật, là chiếc nơi cất trữ tất cả những giá trị tinh thần của con người
từ trước đến nay. Khi định nghĩa về văn hóa tinh thần cũng đã xuất hiện
những cách hiểu khác nhau. Từ điển triết học của Liên Xô ( cũ), định nghĩa
văn hóa tinh thần là văn hóa hiểu theo nghĩa hẹp là “ tồn bộ những hình
thức của đời sống tinh thần của xã hội”. Trong từ điển chủ nghĩa cộng sản
khoa học của Liên Xô( cũ) tại mục “Văn hóa cộng sản chủ nghĩa” có giải
thích văn hóa tinh thần bao hàm “ lĩnh vực sản xuất tinh thần” ( nhận thức,

đạo đức, giáo dục, khai hóa).
Tổng hợp từ những quan niệm trên có thể định nghĩa : Văn hóa tinh
thần là tổng thể những giá trị tinh thần do con người sáng tạo ra bằng lao
động của mình trên lĩnh vực sản xuất tinh thần.


14

1.1.2.Khái niệm đời sống văn hóa tinh thần
C.Mác viết:“ Cuộc sống là gì nếu khơng phải là hoạt động sống”
[59,233]. Nói đến đời sống là nói đến “ sinh hoạt”, nói đến “ hoạt động
sống”. " Theo nghĩa rộng đời sống là khái niệm chỉ toàn thể những hiện
tượng sinh sản, trưởng thành và chuyển hóa đang xảy ra trong cơ chế sinh
vật từ xuất hiện đến diệt vong. Theo nghĩa hẹp, đời sống là khái niệm chỉ
hoạt động nhất định của xã hội, của cá nhân hay cộng đồng ( đời sống vật
chất, đời sống tinh thần, đời sống khoa học....)"[86,132].
Đời sống theo cách tiếp cận như trên có thể khái quát thành hai lĩnh
vực cơ bản: đời sống vật chất và đời sống tinh thần. Nói đến đời sống vật
chất của xã hội là chúng ta đề cập đến vấn đề ăn, ở, mặc, đi lại,...của con
người, còn đề cập đến đời sống tinh thần, người ta thường nói đến học vấn,
trình độ dân trí, lối sống, lối ứng xử, khoa học, giáo dục, đạo đức, nghệ
thuật, tư tưởng, sinh hoạt tín ngưỡng và tơn giáo. Đời sống vật chất và đời
sống tinh thần nằm trong một thể thống nhất của đời sống xã hội. "Đời sống
tinh thần được xây dựng và nâng cao bao giờ cũng dựa trên nền tảng đời
sống vật chất và khơng có đời sống vật chất nào của con người lại không
tiềm ẩn và chịu sự tác động tích cực của đời sống tinh thần" [85,132]. " Khi
nói đến đời sống văn hóa tinh thần người ta thường nhấn mạnh đến một lĩnh
vực đặc thù của xã hội và quá trình tái sản xuất ra các gía trị văn hóa cũng
như sự tổng hợp hóa các hoạt động tinh thần của xã hội như hoạt động tư
tưởng, khoa học, giáo dục, nghệ thuật, sinh hoạt tín ngưỡng, phát thanh,

truyền hình, báo chí, thể dục thể thao"[85, 132].
Đời sống văn hóa tinh thần khơng phải là một cơ cấu tĩnh tại, một hệ
thống đóng kín, nằm im của những giá trị loại biệt mà là một tổng thể đang
vận động của các giá trị tinh thần được thực hiện và thể hiện thông qua hoạt
động tinh thần của con người.


15

Đời sống văn hóa tinh thần là phạm trù phản ánh một lĩnh vực đặc thù
của đời sống xã hội, một lĩnh vực thể hiện đầy đủ nhất hoạt động sáng tạo,
độc đáo của con người, sự phong phú toàn diện những năng lực bản chất của
con người (trí tuệ, lao động sáng tạo- phát minh, tình thương, nhân văn,
nhân ái, nhân đạo, nhân nghĩa, năng lực thẩm mỹ,…) " [85,132 -134].
Chỉ trong hoạt động văn hóa tổng thể, các giá trị tinh thần được tạo ra,
được vận hành và thấm sâu vào từng con người, từng cộng đồng làm nền và
định hướng cho thế ứng xử của họ - thể hiện ở tâm hồn, đạo lý, lối sống,
hành vi, thị hiếu,… của cá nhân và cộng đồng hướng tới cái đúng, cái tốt, cái
đẹp trong quan hệ với mình, với môi trường xã hội và môi trường tự nhiên
mới có đời sống văn hóa tinh thần. Chuẩn mực của sự hình thành và phát
triển của đời sống văn hóa tinh thần là sự gia tăng giá trị của con người thể
hiện trong mọi hoạt động và quan hệ thực tiễn phong phú và đa dạng của nó.
Do đó, tiêu chí căn bản để xem xét và đánh giá đời sống văn hóa tinh thần
của một con người hay một cộng đồng là trình độ được vun trồng của con
người, là sự phát triển về các mặt chân, thiện, mỹ của mọi hoạt động và quan
hệ của con người hay cộng đồng đó.
Đời sống văn hóa tinh thần bao quát các lĩnh vực hoạt động cơ bản: tư
tưởng, phong tục tập quán, nghệ thuật, khoa học, giáo dục, tín ngưỡng tơn
giáo. Mỗi lĩnh vực có mục đích, nhiệm vụ, chức năng riêng nhưng có quan
hệ mật thiết với nhau.

Thứ nhất, hoạt động tư tưởng nhằm hình thành thế giới quan khoa học
- hệ thống các quan điểm về thế giới tự nhiên, xã hội và quy luật vận động
và phát triển của chúng, về các con đường nhận thức và cải tạo thế giới ấy.
Thế giới quan khoa học được coi là “ cốt lõi” của văn hóa, bởi thế giới quan
khoa học không chỉ bao gồm các tri thức, nhận thức, quan niệm mà cịn có
cả tình cảm, niềm tin. Chính tình cảm, niềm tin đã hình thành, phát triển


16

củng cố cơ sở của tri thức là nguồn gốc của tính tích cực của cá nhân, của
cộng đồng. Do vậy, thế giới quan khoa học có vai trị quyết định hướng hoạt
động và quan hệ của từng người, của từng cộng đồng đối với thế giới xung
quanh, làm kim chỉ nam cho hành động và quan hệ đó phù hợp với quy luật
phát triển của thực tại, thúc đẩy thêm sự phát triển đó. Để đảm bảo cho đời
sống văn hóa tinh thần được phát triển đúng hướng có gốc rễ vững chắc, bền
lâu và có chất lượng thực sự thì hoạt động tư tưởng phải là hoạt động chỉ
đạo, qui định trình độ và phẩm chất của đời sống văn hóa tinh thần.
Hoạt động tư tưởng với tư cách là một lĩnh vực đời sống văn hóa tinh
thần có nhiệm vụ đem lại được những tri thức đúng đắn, củng cố được niềm
tin, rèn luyện được ý chí cách mạng và tinh thần lạc quan trước tiền đồ đất
nước.
Thứ hai, phong tục, tập quán là toàn bộ những thói quen của con
người đã được hành thành trong quá trình lịch sử và ổn định thành nếp, được
cộng đồng thừa nhận và tự giác thực hiện, được lưu truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác, tạo nên tính tương đối thống nhất của cộng đồng. Phong
tục không mang tính cố định và bắt buộc như nghi lễ, nghi thức.
Hệ thống các phong tục tập quán liên quan đến vòng đời của con
người như phong tục về sinh đẻ, trưởng thành, cưới xin, mừng thọ và lên
lão, phong tục cúng giỗ. Phong tục là một bộ phận của văn hóa, có vai trị

quan trọng trong việc hình thành truyền thống của một dân tộc, địa phương.
Phong tục được tuân thủ theo quy định của luật tục hay hương ước. Cùng
với sự phát triển của xã hội, một số phong tục khơng cịn phù hợp với thời
đại mới, bị đào thải, trong khi một số phong tục mới được hình thành.
Tập quán là những phương thức ứng xử và hành động đã định hình
quen thuộc và đã thành nếp trong lối sống, trong lao động ở một cá nhân,
một cộng đồng. Tập quán gần gũi và thói quen ở chỗ nó mang tính tĩnh tại,


17

bền lâu, khó thay đổi. " Trong những tình huống nhất định tập quán biểu
hiện như hành vi mang tính tự động hóa. Tập qn hoặc xuất hiện và định
hình một cách tự phát hoặc hình thành và ổn định thông qua sự rèn luyện và
là kết quả của quá trình giáo dục có định hướng" [ 45,342].
Phong tục, tập quán là những tục lệ, thói quen đã thành nếp, ăn sâu
vào đời sống xã hội, được mọi người công nhận và làm theo.
Thứ ba, hoạt động nghệ thuật là hoạt động sáng tạo các giá trị nghệ
thuật nhằm đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của con người. Là lĩnh vực hoạt động
có tính chất đặc trưng nhất, mang tính thẩm mỹ cao nhất trong các hoạt động
sáng tạo tinh thần và đồng thời cũng có tính giáo dục, cảm hóa mạnh mẽ
nhất đối với con người. Mục đích của nghệ thuật là đem đến cho con người
cái đẹp. Thông qua cái đẹp, nghệ thuật bồi dưỡng cho con người về trí tuệ,
đạo đức, tâm hồn và lối sống có nhân cách đẹp. Nghệ thuật từ lâu đã được
thừa nhận là một loại hình sắc bén nhất, có hình ảnh sâu xa và bền vững
nhất trong việc hun đúc nhận thức và tình cảm con người. Nghệ thuật bao
gồm những bộ môn: văn học, sân khấu điển ảnh, âm nhạc, hội họa…chúng
lấy chất liệu từ cuộc sống phong phú, sinh động trên mọi lĩnh vực hoạt động
của con người và xã hội.
Có thể nói, hoạt động nghệ thuật cũng là một nhịp cầu – một “ nhịp

cầu đặc biệt” để giúp cuộc sống con người và xã hội từ thế hệ này sang thế
hệ khác, hướng tới cái đẹp, cái cao quí cả trong tâm hồn lẫn thể chất. Nghệ
thuật thu hút sự chú ý không chỉ của một số người nhất định như các lĩnh
vực khác mà là của mọi người. Tính phổ biến của nghệ thuật tạo cho nó khả
năng kết dính, thống nhất con người lại với nhau trong cái đẹp, cổ vũ cho cái
đẹp và phấn đấu vì cái đẹp dù cho họ là ai thuộc diện sống nào và ở đâu trên
trái đất này. Thông qua hoạt động nghệ thuật, con người đến với nó cịn là
để thỏa mãn những sở thích cá nhân hay đi tìm những niềm vui, giải tỏa


18

những mệt mỏi sau thời gian lao động căng thẳng. Nhu cầu giải trí ( hiểu
theo nghĩa tích cực ) thì khơng những có ý nghĩa bù đắp lại sức lao động đã
mất đi mà còn phát triển những năng khiếu nghệ thuật tiềm năng, bẩm sinh ở
mỗi con người. Chức năng giải trí của nghệ thuật khơng tách rời chức năng
giáo dục, nhằm hoàn thiện con người, phát huy sự sáng tạo của mỗi cá nhân.
Thứ tư, lĩnh vực hoạt động giáo dục là chức năng bao trùm của văn
hóa. Nói đến giáo dục là nói đến việc định hướng xã hội, định hướng lý
tưởng, đạo đức và hành vi của con người vào điều hay lẽ phải, theo đúng
chuẩn mực của xã hội. Cũng vì lẽ đó, mà tính giai cấp, tính dân tộc của văn
hóa chủ yếu được thể hiện ở đây .
Vai trò, chức năng của hoạt động giáo dục rất quan trọng, nó nhằm
trang bị cho con người những tri thức của tất cả các lĩnh vực khoa học tự
nhiên, kỹ thuật, xã hội và nhân văn , giúp con người có được những phẩm
chất và năng lực cần thiết để sáng tạo những giá trị mới cho cuộc sống, trong
đó có giá trị tinh thần. Đồng thời, nó chính là nhịp cầu để chuyển tải khối
lượng kiến thức càng ngày lớn của nhân loại từ thế hệ này sang thế hệ khác,
từ thời đại này sang thời đại khác nhằm phục vụ cho chính cuộc sống của
con người và xã hội.

Mục đích của giáo dục là nhằm : “ Biến tất cả những giá trị văn hóa
của nhân loại, của dân tộc thành hệ giá trị của từng con người, tức là trở
thành công cụ tâm lý để sống, học tập, lao động và dùng các cơng cụ đó để
sáng tạo ra giá trị cho đời” [44,83].
Giáo dục là một cơ chế đặc biệt thơng qua đó văn hóa được bảo tồn
và phát triển, là con đường, là phương thức cơ bản, trực tiếp nhất để làm
tăng giá trị con người – giá trị “ gốc” làm nảy nở những giá trị mới. Chính vì
vậy, hoạt động giáo dục được tơn vinh là : “ Sáng tạo ra những con người
sáng tạo”. Hoạt động giáo dục được thể hiện rất đa dạng, phong phú bao


19

gồm giáo dục gia đình, trong nhà trường và xã hội. Lợi ích giáo dục có tính “
lan tỏa” nhờ đó mà tất cả các lĩnh vực khác của đời sống văn hóa tinh thần
được thừa hưởng những phẩm chất và năng lực của người được giáo dục,
được đào tạo. Lợi ích do giáo dục khơng phải có ngay lập tức mà trong
tương lai gần hoặc xa, không chỉ cho người được giáo dục mà cho toàn xã
hội cũng như cả nhân loại.
Thứ năm, hoạt động khoa học là hoạt động sáng tạo và phổ biến tri
thức cần thiết cho con người và xã hội, đáp ứng yêu cầu chinh phục tự nhiên,
cải tạo xã hội và hoàn thiện con người theo hướng chân, thiện, mỹ. Khoa học
bản thân nó là một bộ phận cấu thành hữu cơ của văn hóa. Đồng thời, sự
hiểu biết do khoa học đem lại giúp con người phân định đúng sai, tốt xấu, lợi
hại, phải trái, nên chăng trong quan hệ của mình với thiên nhiên, với xã hội,
tức là với người khác, và với chính mình để điều chỉnh hành vi của bản thân
nhằm đạt tới cái đúng, cái tốt, cái đẹp.
Hoạt động khoa học - công nghệ là công cụ đắc lực để đổi mới quản
lý, đổi mới công nghệ, đưa lực lượng sản xuất lên trình độ phát triển mới, có
năng suất, chất lượng hiệu quả cao nhằm hiện đại hóa đất nước. Nâng cao

dân trí, đào tạo nguồn lực, bồi dưỡng nhân tài, giáo dục thế giới quan khoa
học, phát triển trí tuệ và năng lực sáng tạo của con người.
Thứ sáu, lĩnh vực hoạt động tín ngưỡng tơn giáo là hoạt động hướng về
một thế giới siêu nghiệm với niềm tin tuyệt đối, sự trơng cậy và tình cảm
u mến đối với thế giới siêu nghiệm đó. Hoạt động tín ngưỡng tơn giáo đáp
ứng nhu cầu tinh thần cho một bộ phận quần chúng trong điều kiện mà
những nguồn gốc kinh tế - xã hội, tâm lý, nhận thức cho sự nảy sinh và tồn
tại của tôn giáo chưa mất đi. Về mặt thế giới quan, đây là hoạt động thể hiện
niềm tin và nhận thức duy tâm phản khoa học về thế giới của những người
có đạo. Nhưng, về mặt nhân sinh quan, về mặt đạo đức thì trong tính nguyên


20

sơ và căn bản của nó, tơn giáo đều thể hiện khát vọng muôn thuở của con
người là vươn tới cái đúng, cái tốt, cái đẹp, vươn tới tình thương, lẽ phải và
sự công bằng trong mọi mặt đời sống, hoạt động và quan hệ con người.
Thực tiễn cuộc sống xưa và nay cho thấy, niềm tin tôn giáo- một niềm
tin tuy khơng thể chứng minh nhưng có ảnh hưởng chi phối mạnh mẽ, sâu
sắc đến lẽ sống, đạo đức và lối sống của người theo đạo. Tình cảm tơn giáo,
dù là tôn giáo lớn hay nhỏ, quốc tế hay quốc gia ( loại trừ những người lạm
dụng tôn giáo vì mục đích xấu) thì cũng đều là nhằm giải thốt con người.
Sự giải thốt đó, tất nhiên tùy theo từng tôn giáo, từng điều kiện lịch sử mà
mang những hình thức khác nhau nhưng đều thể hiện khát vọng muôn thuở
của con người là vươn tới cái đúng, cái tốt, cái đẹp, vươn tới tình thương lẽ
phải.
Hệ thống luân lý, đạo đức mà tôn giáo tạo ra được trong q trình
hình thành và phát triển của nó, đương nhiên mang dấu ấn lịch sử và giai cấp
nhưng đều có điểm tương đồng, xuyên suốt từ Đông sang Tây, từ cổ chí kim
là hướng tới chân, thiện, mỹ - hệ giá trị phổ quát của mọi nền văn hóa.

Trong hệ giá trị đó, mỗi tơn giáo bằng cách riêng của mình đã định hướng
những tiêu chí, những qui tắc tinh thần và khuyên con người đạt tới . Đối
với những người tin đạo, tơn giáo có thể giáo dục đạo đức, bồi dưỡng tố chất
tốt đẹp, đối với xã hội, tơn giáo có sức ngưng tụ rất lớn, những điều mà tôn
giáo nhấn mạnh như không lừa dối, trộm cướp, quan tâm đến người khác,
quan tâm đến gia đình,… cũng là nhân tố duy trì xã hội. Và quan điểm mác
xít cũng thừa nhận rằng tín ngưỡng, tơn giáo là sản phẩm lịch sử của đời
sống xã hội, ý nghĩa văn hóa của nó được thể hiện thơng qua sự tu dưỡng về
đạo đức gắn với hoạt động " tốt đời, đẹp đạo".


21

Từ những phân tích về khái niệm, về phạm vi bao quát đời sống văn
hóa tinh thần như trên, có thể quan niệm:
Đời sống văn hóa tinh thần là tổng hòa sống động các hoạt động tư
tưởng, phong tục tập qn, nghệ thuật, giáo dục, khoa học, tín ngưỡng tơn
giáo. Từ đó, các giá trị tinh thần được tạo ra và thấm sâu vào từng con
người, từng cộng đồng, trở thành yếu tố khăng khít của tồn bộ cuộc sống,
hoạt động và quan hệ con người, đáp ứng nhu cầu giá trị tinh thần ngày
càng tăng của mọi thành viên trong xã hội.
1.2. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ XÂY DỰNG
ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN TRONG Q TRÌNH CƠNG NGHIỆP
HĨA, HIỆN ĐẠI HĨA ĐẤT NƯỚC

1.2.1. Đặc điểm cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay

Khái niệm cơng nghiệp hóa
Cụm từ cơng nghiệp hóa được đề cập ở đây đã gắn bó với sự phát
triển của nhiều quốc gia trên thế giới. Đó là quy luật phát triển đánh dấu sự

chuyển đổi nền kinh tế từ sản xuất thủ công lạc hậu, nghèo nàn sang nền sản
xuất công nghiệp phát triển. Trải qua suốt thời kì của văn minh nơng nghiệp
đã tạo nên bước tiến vượt bậc của lịch sử lồi người nhưng đó mới chỉ là
cách khai thác thiên nhiên một cách thụ động bằng lao động cơ bắp. Đến khi
phong trào Phục Hưng diễn ra gắn với sự phát triển của khoa học kỹ thuật
làm cơ sở cho chủ nghĩa tư bản ra đời, từ đó chuyển dần từ sản xuất thủ cơng
lên sản xuất cơng nghiệp cơ khí vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Khi
phương thức sản xuất thay đổi thì bộ mặt xã hội cũng thay đổi theo, xuất
hiện cùng với các nhà máy khổng lồ là những đơ thị lớn, hiện đại sản xuất
hàng hóa, giao thơng vận tải…phát triển nhanh chóng mạnh mẽ chính là q
trình cơng nghiệp hóa.


×