Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

Câu hỏi trong tiếng tày.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 132 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
––––––––––––––––––



VŨ HUYỀN NHUNG





CÂU HỎI TRONG TIẾNG TÀY


Chuyên ngành: NGÔN NGỮ HỌC
Mã số: 60.22.01




LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ




Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. TẠ VĂN THÔNG









Thái Nguyên, năm 2010
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chƣa từng đƣợc ai công bố
trong bất kì công trình nào khác.


Tác giả luận văn




Vũ Huyền Nhung

















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 0
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI ........................................................................... 1
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ ................................................................................ 2
2.1. Các nghiên cứu về hành vi hỏi và câu hỏi trong ngôn ngữ học ở
nƣớc ngoài và ngôn ngữ học ở Việt Nam................................................ 2
2.2. Các nghiên cứu về tiếng Tày và câu hỏi tiếng Tày ........................... 5
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU ........................................ 6
3.1. Mục đích nghiên cứu ....................................................................... 6
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................... 6
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ........................................ 7
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu ...................................................................... 7
4.2. Phạm vi nghiên cứu ......................................................................... 7
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........................................................... 8
6. ĐÓNG GÓP MỚI ................................................................................... 9
6.1. Về mặt lí luận .................................................................................. 9
6.2. Về mặt thực tiễn .............................................................................. 9
7. CẤU TRÖC LUẬN VĂN ...................................................................... 9
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ....................................... 10

1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN............................................................................... 10
1.1.1.Những vấn đề liên quan đến câu hỏi ............................................ 10
1.1.1.1. Câu và sự phân loại câu theo mục đích phát ngôn ............... 10
1.1.1.2. Mối quan hệ giữa câu hỏi và câu trả lời................................ 11
1.1.2. Lí thuyết hội thoại ....................................................................... 14
1.1.2.1. Sự trao lời, trao đáp và tƣơng tác trong hội thoại ................. 14
1.1.2.2. Các quy tắc trong hội thoại .................................................. 17
1.1.2.3. Nguyên tắc cộng tác hội thoại .............................................. 17
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1.1.3. Lí thuyết về hành vi ngôn ngữ .................................................... 19
1.1.3.1. Khái niệm về hành vi ngôn ngữ ........................................... 19
1.1.3.2. Điều kiện sử dụng hành vi ngôn ngữ .................................... 20
1.1.3.3. Sự phân loại các hành vi ngôn ngữ ....................................... 22
1.2. NGƢỜI TÀY VÀ TIẾNG TÀY Ở VIỆT NAM ................................. 23
1.2.1. Khái quát về ngƣời Tày ở Việt Nam ........................................... 23
1.2.2. Tình hình sử dụng ngôn ngữ ở ngƣời Tày và một số đặc điểm của
tiếng Tày .............................................................................................. 25
1.2.2.1. ............................................................................................. 25
1.2.2.2. Một số đặc điểm của tiếng Tày ............................................ 27
1.2.2.3. Chữ viết ............................................................................... 37
CHƢƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM CÂU HỎI TIẾNG TÀY ..................................... 40
2.1. CÁC PHƢƠNG TIỆN CHỦ YẾU TRONG CẤU TẠO CÂU HỎI
TIẾNG TÀY ............................................................................................ 40
2.1.1. Dùng các từ ngữ nghi vấn chuyên biệt ...................................... 40
2.1.2. Dùng từ ngữ phủ định ............................................................... 52
2.1.3. Dùng các từ ngữ biểu thị tình thái ở cuối câu .............................. 54
2.1.4. Lặp lại từ ngữ chỉ tiêu điểm hỏi kèm từ ngữ phủ định, hoặc những
từ chỉ sự lựa chọn xen vào giữa ............................................................ 58
2.2. CÂU HỎI TIẾNG TÀY XÉT VỀ MẶT NGỮ NGHĨA - NGỮ DỤNG... 61

2.2.1. Câu hỏi đích thực ........................................................................ 61
2.2.1.1. Câu hỏi lựa chọn .................................................................. 62
2.2.1.2. Câu hỏi không lựa chọn ....................................................... 70
2.2.2. Câu hỏi không đích thực ............................................................. 72
2.2.2.1. Câu hỏi có giá trị cầu khiến .................................................. 74
2.2.2.2. Câu hỏi có giá trị biểu cảm................................................... 77
2.2.2.3. Hỏi - khẳng định .................................................................. 84
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2.2.2.4. Hỏi - phủ định ...................................................................... 85
CHƢƠNG 3: CÂU HỎI TRONG CÁC TRUYỆN NGẮN CỦA “TUYỂN
TẬP NÔNG VIẾT TOẠI” ............................................................................ 90
3.1. NÔNG VIẾT TOẠI VÀ “TUYỂN TẬP NÔNG VIẾT TOẠI” .......... 90
3.2. ĐẶC ĐIỂM CỦA CÂU HỎI TRONG CÁC TRUYỆN NGẮN CỦA
“TUYỂN TẬP NÔNG VIẾT TOẠI” ........................................................ 92
3.2.1. Đặc điểm về hình thức ................................................................ 92
3.2.2. Cách sử dụng câu hỏi trong các truyện ngắn của Nông Viết Toại ..... 97
3.2.2.1. Dựa vào kết quả thống kê và khảo sát .................................. 97
3.2.2.2. Câu hỏi trong các truyện ngắn tiếng Tày của Nông Viết Toại
xét trên bình diện hoạt động giao tiếp ............................................... 97
3.2.2.3. Câu hỏi trong truyện ngắn tiếng Tày của Nông Viết Toại xét
trên bình diện hành vi ngôn ngữ ..................................................... 104
3.3. VAI TRÕ CỦA CÂU HỎI TRONG CÁC TRUYỆN NGẮN CỦA
NÔNG VIẾT TOẠI ................................................................................ 108
3.3.1. .................................................................................................. 108
3.3.2. Khắc họa hình tƣợng nhân vật .................................................. 109
3.3.3. Tạo nên nét riêng trong phong cách của một nhà văn miền núi viết
về miền núi ......................................................................................... 112
KẾT LUẬN ................................................................................................ 116
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 118


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
MỞ ĐẦU

1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
- Trong giao tiếp bằng ngôn ngữ, hỏi là một dạng hành vi ngôn ngữ
phổ biến, một thành tố tham gia thƣờng xuyên vào các cấu trúc hội thoại.
Mặt khác, nhờ sự tác động của ngữ cảnh và thông qua những sự chuyển
hóa khác nhau mà câu hỏi có thể thực hiện nhiều chức năng giao tiếp,
những hành vi tại lời rất đa dạng. Do đó, nghiên cứu về câu hỏi trong
tiếng Tày sẽ góp phần vào việc miêu tả các dạng lời nói trong hội thoại,
sự hình thành những kĩ năng giao tiếp bằng ngôn ngữ. Đồng thời, điều đó
có thể góp phần đẩy mạnh và hoàn thiện việc nghiên cứu câu theo mục
đích nói năng trong nghiên cứu ngữ pháp nói chung cũng nhƣ tìm hiểu về
các hành vi ngôn ngữ trong ngữ dụng học.
- Cũng nhƣ ở các ngôn ngữ khác, trong tiếng Tày hỏi là hành vi rất phổ
biến. Ngƣời Tày sử dụng câu hỏi cũng không chỉ với mục đích hỏi, để thỏa
mãn nhu cầu hiểu biết mà qua đó còn bộc lộ tƣ tƣởng, tình cảm, thái độ, sự
đánh giá của mình đối với ngƣời nghe và sự vật hiện tƣợng đƣợc nói tới.
Nghiên cứu về câu hỏi tiếng Tày và cách thức sử dụng câu hỏi trong tiếng
Tày có thể giúp chúng ta thấy đƣợc phần nào những nét đặc sắc trong văn hóa
giao tiếp, cách ứng xử của ngƣời Tày qua lời ăn tiếng nói của họ.
- Hiện nay, Đảng và Nhà nƣớc ta rất quan tâm đến phát triển văn hóa và
giáo dục ở các vùng dân tộc thiểu số, trong đó có giáo dục ngôn ngữ. Việc
nghiên cứu ngôn ngữ của các dân tộc này đã và đang thu hút đƣợc nhiều sự
chú ý của các nhà khoa học, đã có nhiều công trình có giá trị. Tuy nhiên, việc
đi sâu tìm hiểu ngôn ngữ Tày, đặc biệt về câu hỏi tiếng Tày lại chƣa đƣợc
quan tâm đúng mức. Thiết nghĩ, tìm hiểu về câu hỏi tiếng Tày là một việc làm

hữu ích góp phần thực hiện những yêu cầu đã và đang đặt ra đối với ngôn ngữ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
và văn hóa Tày, cũng nhƣ đối với việc giáo dục tiếng Tày ở vùng đồng bào
Tày hiện nay.
Vì những lí do trên, đề tài “Câu hỏi trong tiếng Tày” đƣợc chọn làm
hƣớng nghiên cứu trong luận văn này.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
2.1. Các nghiên cứu về hành vi hỏi và câu hỏi trong ngôn ngữ học ở
nƣớc ngoài và ngôn ngữ học ở Việt Nam
2.1.1. Nhƣ đã nói ở trên, hỏi với hình thức thể hiện và tính mục đích của
nó, là một đối tƣợng đƣợc chú ý đặc biệt trong nghiên cứu ngôn ngữ học.
Theo V.A. Xmirnov và V.K. Phin thì: “Cần xếp hỏi vào số những khái niệm
có ý nghĩa chung đối với toàn bộ khoa học và văn hóa. Việc nghiên cứu nó có
ý nghĩa cả trên quan điểm nhận thức luận và quan điểm sử dụng vào các mục
đích khác” (Trích theo Lê Đông [16; 3]).
Thực tế nghiên cứu ngôn ngữ cho thấy, khi nghiên cứu về hành vi hỏi và
câu hỏi, phần lớn các nhà khoa học đã tập trung miêu tả câu hỏi về mặt hình
thức, các thành phần, mô hình cấu trúc, các phƣơng tiện sử dụng để tạo nên
các loại câu hỏi khác nhau. Việc nghiên cứu câu hỏi gắn với các hoạt động
giao tiếp cụ thể với các mục đích trong các hoàn cảnh giao tiếp khác nhau còn
hạn chế.
Thời gian gần đây, cùng với sự phát triển của ngữ nghĩa - ngữ dụng
học, các nhà khoa học đã chú ý hơn đến mục đích giao tiếp, đến mối quan
hệ giữa ngữ nghĩa - ngữ dụng, đến các nhân tố cơ bản tác động đến các
hành vi ngôn ngữ trong đó có hành vi hỏi. Tiêu biểu là các công trình của
J.L. Austin (1962), của J.R. Searle (1975). Đặc biệt, trong tác phẩm của
mình, J.R. Searle đã chỉ ra 12 kiểu loại khác nhau khi phân loại các hành

vi ở lời. Theo ông, một hành vi hỏi đƣợc đánh giá là có hiệu quả phải thỏa
mãn 4 điều kiện cụ thể là:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
- Điều kiện mệnh đề
- Điều kiện chuẩn bị
- Điều kiện chân thành
- Điều kiện căn bản.
Theo J.R. Searle thì những điều kiện đó đƣợc coi nhƣ là quy tắc để
thực hiện hành vi hỏi. Tuy tác giả mới chỉ nghiên cứu về hành vi hỏi một cách
chung chung đồng thời với các hành vi ngôn ngữ khác, chƣa đi sâu tìm hiểu
một cách riêng biệt, chi tiết về hành vi hỏi, song kết quả nghiên cứu này có
thể đƣợc xem là cơ sở cho các nghiên cứu về sau.
2.1.2. Ở Việt Nam, ngành ngôn ngữ học cũng đã đạt đƣợc một số thành
tựu về câu hỏi, hành vi hỏi. Đã có một số nghiên cứu về câu hỏi ở nhiều góc
độ khác nhau. Có thể kể đến các công trình đáng chú ý nhƣ:
1. Hoàng Trọng Phiến, Ngữ pháp tiếng Việt - câu, Nxb Đại học và trung
học chuyên nghiệp, H., 1980.
2. Nguyễn Thị Thìn, Câu nghi vấn tiếng Việt, một số kiểu câu nghi vấn
không dùng để hỏi, Luận án PTS khoa học Ngữ văn, H., 1994.
3. Nguyễn Thị Lƣơng, Tiểu từ tình thái dứt câu dùng để hỏi với việc biểu
thị các hành vi ngôn ngữ, Luận án PTS khoa học Ngữ văn, H., 1996.
4. Lê Đông, Ngữ nghĩa - Ngữ dụng câu hỏi chính danh, Luận án PTS
khoa học Ngữ văn, H., 1996.
5. Nguyễn Đăng Sửu, Câu hỏi tiếng Anh trong sự đối chiếu với tiếng
Việt, Luận án TS Ngữ văn, H., 2002.
6. Lê Anh Xuân, Câu trả lời gián tiếp có nghĩa hàm ẩn cho câu hỏi
chính danh, Luận án TS Ngữ văn, H., 2004.

...
Ngoài các công trình nghiên cứu trên, còn có thể kể đến một số bài tạp
chí, một số khóa luận tốt nghiệp đại học nhƣ:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
- Câu trả lời và câu đáp của câu hỏi, Lê Đông, Ngôn ngữ (số phụ), 1985.
- Cách tổ chức câu hỏi trong tiếng Kơ ho, Tạ Văn Thông, Trong:
Những vấn đề ngôn ngữ học về các ngôn ngữ Phƣơng Đông, Viện Ngôn
ngữ học., 1985.
- Thử tìm hiểu phát ngôn hỏi và phát ngôn trả lời trong sự tương tác
lẫn nhau giữa chúng trên bình diện giao tiếp, Nguyễn Chí Hòa, Ngôn ngữ
số 1, 1993.
- Vai trò của thông tin tiền giả định trong cấu trúc ngữ nghĩa - ngữ dụng
của câu hỏi, Lê Đông, Ngôn ngữ số 2, 1994.
- Một vài đặc điểm chung của câu nghi vấn (qua ngôn liệu một số ngôn
ngữ), Nguyễn Đăng Sửu, Kỉ yếu hội thảo Ngữ học trẻ, 1998.
- Một số tiểu từ tình thái đứng cuối câu dùng để hỏi, Nguyễn Thị Tuyết
Mai, những vấn đề ngôn ngữ học, Kỉ yếu hội nghị khoa học 2001, Viện Ngôn
ngữ học.
- Giá trị ngữ nghĩa - ngữ dụng của câu hỏi trong truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan, Hà Thị Văn, Khóa luận tốt nghiệp, Khoa Ngôn ngữ học (Đại học
khoa học xã hội và nhân văn), 2004.
- Câu hỏi trong truyện ngắn Nam Cao, Nguyễn Thị Hồng Nhung,
khóa luận tốt nghiệp, Khoa Ngôn ngữ học (Đại học Khoa học xã hội và
nhân văn), 2005.
. . . . .
Có thể thấy rằng thời gian qua ở Việt Nam, việc nghiên cứu câu hỏi chủ
yếu trên ngữ liệu tiếng Việt. Câu hỏi tiếng Việt đã dành đƣợc nhiều sự chú ý

của các nhà nghiên cứu và cũng đã có những tìm tòi đáng ghi nhận ở tất cả
các mặt hình thức, ngữ nghĩa và ngữ dụng. Việc nghiên cứu câu hỏi trong
ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số chƣa đƣợc quan tâm đúng mức.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
2.2. Các nghiên cứu về tiếng Tày và câu hỏi tiếng Tày
Là ngôn ngữ của một dân tộc có số ngƣời lớn thứ hai ở Việt Nam (Theo
thống kê năm 1999, ngƣời Tày ở Việt Nam có đến gần một triệu rƣỡi ngƣời),
tiếng Tày đã thu hút đƣợc sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Có thể kể
đến một số công trình về tiếng Tày đƣợc công bố nhƣ sau:
1. Nguyễn Hàm Dƣơng, Các chức năng xã hội của tiếng Tày - Nùng, T/c
Ngôn ngữ số 1, H., 1970.
2. Hoàng Văn Ma, Lục Văn Pảo, Hoàng Chí, Ngữ pháp tiếng Tày - Nùng,
Nxb Khoa học xã hội, H., 1971.
3. Nguyễn Minh Thuyết, Lƣơng Bèn, Nguyễn Văn Chiến, Góp ý về việc
cải tiến chữ Tày - Nùng, T/c Ngôn ngữ số 2, H., 1971.
4. Đoàn Thiện Thuật, Hệ thống ngữ âm tiếng Tày - Nùng, Trong: Tìm
hiểu ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam - T1, Viện Ngôn ngữ học,
H., 1972.
5. Cung Văn Lƣợc, Chữ Nôm Tày qua so sánh với chữ Hán và chữ Việt
Nôm, Luận án PTS khoa học Ngữ văn, H., 1992.
6. Lƣơng Bèn, Tình hình phát triển của chữ Tày - Nùng, Trong: Những
vấn đề chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam, Nxb KHXH, H., 1993.
7. Hoàng Văn Ma, Vấn đề tiếng và chữ Tày - Nùng, Trong: Những vấn
đề chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam, Nxb KHXH, H., 1993.
8. Hoàng Văn Ma, Mông Kí Slay và các tác giả khác, Nghiên cứu ngôn
ngữ các dân tộc ở Việt Nam, Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn Quốc
gia, Viện Ngôn ngữ học, H., 1994

9. Nguyễn Thị Lƣơng, Tiếng Tày ở Na Hang, Khóa luận tốt nghiệp Đại
học Tổng hợp, H., 1994.
10. Hoàng văn Ma, Loại từ trong tiếng Tày - Nùng, Trong: Ngôn ngữ
dân tộc thiểu số ở Việt Nam - Một số vấn đề về quan hệ cội nguồn và loại
hình học, Nxb KHXH, H., 2002

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
11. Hoàng Văn Ma, Lục Văn Pảo, Từ điển Việt - Tày - Nùng”, “Từ điển
Tày - Nùng - Việt, Nxb Từ điển bách khoa, H., 2005.
12. Lƣơng Bèn (chủ biên), Slon phuối Tày (dùng cho cán bộ công tác tại
vùng dân tộc), TN., 2007.
.......
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã tập trung chú ý đến một
số khía cạnh cụ thể của tiếng Tày nhƣ: nguồn gốc lịch sử, vị trí của tiếng Tày
và Nùng, mối quan hệ giữa tiếng Tày - Nùng với nhau và với tiếng Việt, chức
năng xã hội của tiếng Tày, hệ thống chữ viết, các quy tắc chính tả và ngữ
pháp của tiếng Tày - Nùng, giới thiệu khái quát tiếng Tày - Nùng về: ngữ âm,
từ vựng, ngữ pháp…
Có thể thấy, nhìn chung trong ngôn ngữ học Việt Nam, hành vi hỏi và
câu hỏi đã trở thành đối tƣợng quan tâm ngày càng sâu sắc hơn của nhiều nhà
khoa học. Tuy nhiên, cho đến nay chƣa có một công trình nào xem xét riêng
về câu hỏi trong tiếng Tày. Có thể nói đây là một mảnh đất chƣa có ngƣời
khai phá. Đó vừa là khó khăn nhƣng cũng có thể xem là thuận lợi cho việc
thực hiện đề tài “Câu hỏi trong tiếng Tày” này.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn có mục đích miêu tả và chỉ ra các đặc điểm câu hỏi tiếng Tày
về các mặt: hình thức cấu tạo, các đặc điểm ngữ nghĩa - ngữ dụng.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác định những cơ sở lí luận và thực tiễn phục vụ cho việc nghiên
cứu: sự phân định câu theo mục đích phát ngôn; lí thuyết hội thoại; lí
thuyết về hành vi ngôn ngữ; hành vi hỏi và câu hỏi; các đặc điểm chung
của tiếng Tày…

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
- Thu thập các dạng câu hỏi qua lời ăn tiếng nói tiếng Tày trong hoạt
động giao tiếp, các văn bản viết bằng tiếng Tày.
- Miêu tả câu hỏi tiếng Tày về mặt hình thức, ngữ nghĩa và một số điểm
đáng chú ý dƣới góc nhìn ngữ dụng học.
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là các câu hỏi tiếng Tày xuất hiện trong
các văn bản nói và viết bằng tiếng Tày, chủ yếu là qua lời nói sinh động trong
giao tiếp hàng ngày của ngƣời Tày (ở các huyện Hà Quảng, Hòa An, Thạch
An thuộc tỉnh Cao Bằng). Và qua một số truyện ngắn trong tuyển tập của nhà
văn ngƣời Tày Nông Viết Toại. Đó là các truyện ngắn:
1. Boỏng tàng tập éo
2. Hăn phi
3. Ngần muộc
4. Cái pửt
5. Chài vệ quốc đoàn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn sẽ chỉ tập trung nghiên cứu hai khía cạnh chính đối với câu hỏi
tiếng Tày nhƣ sau:
- Câu hỏi xét về mặt hình thức, tức là các phƣơng tiện đƣợc sử dụng để
cấu tạo nên câu hỏi tiếng Tày.

- Câu hỏi xét về mặt ngữ nghĩa - ngữ dụng, tức là sự sử dụng câu hỏi
tiếng Tày trong những hoàn cảnh khác nhau, nhằm thể hiện các ý đồ giao tiếp
khác nhau của ngƣời nói.
- Đối với các truyện ngắn trog “Tuyển tập Nông Viết Toại” luận văn sẽ
tập chung miêu tả một số đặc điểm chính trong câu hỏi ở các tác phẩm này,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
trên cơ sở đó chỉ ra một số vai trò dễ nhận thấy qua việc sử dụng câu hỏi của
nhà văn.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện đề tài này, luận văn áp dụng những phƣơng pháp nghiên
cứu chủ yếu sau:
- Phƣơng pháp ngôn ngữ học điền dã:
Trong việc thu thập tƣ liệu câu hỏi tiếng Tày, phƣơng pháp này cần sử
dụng khi tìm hiểu, nghe, ghi trực tiếp các cứ liệu ngôn ngữ trong sinh hoạt
hàng ngày của ngƣời Tày ở một số địa phƣơng thuộc tỉnh Cao Bằng. Các chủ
thể phát ngôn các câu này có thể thuộc nhiều độ tuổi khác nhau, giới tính khác
nhau, có trình độ, nghề nghiệp khác nhau. Nội dung phát ngôn có thể liên
quan đến các chủ đề đa dạng thuộc đời sống, trong các mối quan hệ gia đình,
bạn bè, đồng nghiệp..., trong các hoàn cảnh giao tiếp khác nhau.
- Phƣơng pháp thống kê phân loại:
Căn cứ vào ngữ liệu về câu hỏi tiếng Tày đƣợc thu thập trong các tác
phẩm văn học cụ thể, tác giả sẽ tiến hành thống kê các dạng câu hỏi tiếng Tày
đã đƣợc sử dụng, phục vụ cho các mục đích nghiên cứu trong luận văn.
- Phƣơng pháp miêu tả (với các thủ pháp phân tích, tổng hợp):
Trên cơ sở thống kê, phân loại, luận văn tiến hành phân tích, tổng hợp
các câu hỏi và các phƣơng tiện sử dụng trong tạo lập câu hỏi tiếng Tày, chỉ ra
các đặc điểm của câu hỏi tiếng Tày và các quy tắc của chúng trong cấu tạo và

cách dùng
Mặt khác, để phục vụ cho yêu cầu nghiên cứu mặt ngữ nghĩa - ngữ dụng
đối với câu hỏi tiếng Tày, luận văn còn chú ý phân tích đánh giá các hoàn
cảnh giao tiếp trong đó nảy sinh hành vi hỏi, chỉ ra một số nhân tố văn hóa
của ngƣời Tày có ảnh hƣởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hành vi hỏi (vai giao
tiếp, phép lịch sự, chiến lƣợc giao tiếp, cách lập luận…).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
6. ĐÓNG GÓP MỚI
6.1. Về mặt lí luận
- Nghiên cứu câu hỏi trong tiếng Tày nhằm miêu tả một dạng sử dụng
ngôn ngữ trong thực hành kĩ năng giao tiếp bằng một ngôn ngữ cụ thể, vì vậy
có thể góp tƣ liệu và cách nhìn nhận đối với việc nghiên cứu các kiểu câu theo
mục đích phát ngôn. Đồng thời, việc nghiên cứu này có thể còn hƣớng đến
làm sáng tỏ một số vấn đề có ý nghĩa lí thuyết của Ngữ dụng học: hành vi
ngôn ngữ, các nét nghĩa tình thái. . .
- Việc nghiên cứu câu hỏi tiếng Tày còn có thể có ý nghĩa trong việc chỉ
ra một số nét đặc trƣng trong văn hóa, đặc biệt trong quan niệm về cƣ xử của
ngƣời Tày thể hiện qua hành vi ngôn ngữ phổ biến là hỏi.
6.2. Về mặt thực tiễn
Kết quả của luận văn có thể đƣợc sử dụng trong việc biên soạn các sách
giáo khoa, các sách mô tả ngữ pháp tiếng Tày, giúp cho việc dạy và học tiếng
Tày có hiệu quả hơn, làm tài liệu tham khảo cho giáo viên, học sinh và những
ai quan tâm đến ngôn ngữ và văn hóa Tày. Đây cũng có thể xem nhƣ một cơ
sở cho những nghiên cứu tiếp theo về tiếng Tày.
7. CẤU TRÖC LUẬN VĂN
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Phụ lục luận văn gồm ba chƣơng nhƣ sau:
Chƣơng 1- Cơ sở lí luận và thực tiễn

Chƣơng 2- Đặc điểm câu hỏi tiếng Tày
Chƣơng 3 - Câu hỏi trong các truyện ngắn của “Tuyển tập Nông Viết Toại”
Trong phần phụ lục gồm có:
- Trang bìa của “Tuyển tập Nông Viết Toại” và một số trang chính văn
của tuyển tập.
- Một số hình ảnh về cuộc sống, sinh hoạt văn hóa của ngƣời Tày.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1.1.Những vấn đề liên quan đến câu hỏi
1.1.1.1. Câu và sự phân loại câu theo mục đích phát ngôn
Trong hệ thống các đơn vị ngôn từ làm thành ngôn bản, câu là đơn vị
ngôn ngữ nhỏ nhất có chức năng thông báo, có cấu tạo ngữ pháp nhất định
với một ngữ điệu mang một ý nghĩa tƣơng đối trọn vẹn, giúp biểu thị một
nhận định và có thể kèm thái độ của ngƣời nói hoặc biểu thị thái độ tình cảm
của ngƣời nói.
Câu có thể đƣợc xem xét dƣới nhiều bình diện khác nhau: không chỉ ở
bình diện cấu trúc thuần túy, mà cả ở mặt ngữ nghĩa và mặt sử dụng. Theo
cấu trúc cú pháp, câu có thể đƣợc phân loại thành các kiểu: câu đơn và câu
phức. Theo truyền thống câu đơn có thể đƣợc phân biệt thành câu đơn bình
thƣờng, câu một thành phần và câu đặc biệt: câu phức có thể phân biệt thành
câu ghép đẳng lập, câu ghép chính phụ. Trong nội bộ câu ghép có thể đƣợc
phân biệt nhỏ hơn nữa. Ngoài ra, còn có sự phân biệt: câu đơn, câu phức và
câu ghép. Xét về mặt mục đích phát ngôn câu có thể đƣợc chia thành bốn loại
sau: Câu tƣờng thuật (câu kể), câu cầu khiến (câu mệnh lệnh), câu cảm thán

(câu cảm) và câu hỏi (câu nghi vấn).
- Câu tường thuật: là câu dùng để miêu tả về một sự tình hoặc nêu một
nhận định, một phán đoán ..., nhằm thông báo về những hiện thực khách
quan, hoặc thể hiện những nhận định, đánh giá của ngƣời nói về một sự việc
hiện tƣợng nào đó. Câu tƣờng thuật có ngữ điệu bình thƣờng và hạ thấp dần ở
cuối câu. Trong văn bản viết, cuối câu thƣờng dùng dấu chấm. Câu tƣờng
thuật có thể đƣợc phân loại thành câu khẳng định và câu phủ định.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
- Câu cầu khiến: là câu dùng để yêu cầu ngƣời nghe thực hiện yêu cầu
đƣợc nêu trong câu. Nó chứa đựng ý muốn, nguyện vọng hay mệnh lệnh của
ngƣời nói đối với ngƣời nghe. Câu cầu khiến thƣờng có chứa những từ ngữ
cầu khiến nhƣ: hãy, đừng, chớ, đi, thôi, nào... và ngữ điệu cầu khiến. Khi viết
câu cầu khiến thƣờng kết thúc bằng dấu chấm cảm.
- Câu cảm thán: là câu dùng để trực tiếp bộc lộ cảm xúc. Loại câu này
xuất hiện chủ yếu trong khẩu ngữ hay trong lời thoại của nhân vật ở các tác
phẩm văn chƣơng. Câu cảm thán thƣờng chứa đựng các từ cảm thán nhƣ: ôi,
chao ôi, ồ, ô hay, trời ơi, ái... hoặc những từ biểu hiện mức độ của cảm xúc,
mức độ đánh giá nhƣ: thật, quá, lắm, ghê, cực kì... Câu cảm thán thƣờng
mang ngữ điệu cảm thán và thƣờng có cấu tạo của một câu đặc biệt. Khi viết
câu cảm thán thƣờng đƣợc kết thúc bằng dấu chấm cảm
- Câu hỏi (câu nghi vấn): là một loại câu thuộc phạm trù phân chia câu
theo thực tại hoá, cụ thể là phạm trù theo khả năng. Các sự kiện làm biểu vật
cho câu là khả năng hoặc phi hiện thực.
Vd: Chị ăn cơm chưa?
Cái biểu vật trong câu trả lời của câu hỏi trên tồn tại ở dạng khả năng và
phi hiện thực. Nội dung câu hỏi cần làm nổi rõ "cái không rõ" mà câu trả lời
hƣớng đến

1.1.1.2. Mối quan hệ giữa câu hỏi và câu trả lời
Hỏi và trả lời có mỗi quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. “Đây là mối
quan hệ cơ bản nhất quy định bản chất bên trong của bản thân các câu hỏi
và là nơi bộc lộ rõ nét nhất những đặc điểm ngữ nghĩa - ngữ dụng của các
câu hỏi nói chung cũng nhƣ từng loại câu hỏi nói riêng.” (Dẫn theo Lê
Đông, [16, 15]).
Trong giao tiếp, hỏi và trả lời là hai mặt thống nhất, biện chứng lẫn nhau.
Hỏi là nguyên nhân nảy sinh câu trả lời. Ngƣợc lại, trả lời là đích hƣớng tới

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
của câu hỏi. Mục đích mà câu trả lời và câu hỏi cùng hƣớng đến là làm sáng
tỏ, sáng rõ cái chƣa biết, chƣa rõ.
Để đạt đƣợc mục đích trên, theo Lê Đông giữa câu trả lời và câu hỏi phải
có sự tƣơng hợp trên các phƣơng diện sau:
a. Sự tƣơng hợp về hiệu lực ở lời (hay sự tƣơng hợp về khung tình thái
mục đích phát ngôn)
Ngữ nghĩa học hiện đại, xét theo quan điểm của Ch. Bally thì trong
cấu trúc ý nghĩa của câu có hai thành tố cơ bản là: Modus (tình thái hiển
ngôn và ngầm ẩn) tƣơng ứng với dictum (nội dung mệnh đề). Khung tình
thái về hiệu lực tại lời thƣờng đƣợc trình diễn bằng cấu trúc gồm một số
thành tố cơ bản nhƣ:
- Ngƣời nói, gắn với hành động nói năng nhƣ một số đặc trƣng cơ bản
của nó, đóng vai trò là chủ thể tình thái. Tính tình thái đƣợc xác lập theo quan
điểm của ngƣời nói. Nó phản ánh vị trí của ngƣời nói với tính cách là chủ thể
của hành vi phát ngôn, và là một biểu hiện về sự có mặt của ngƣời nói trong
câu, cho dù cái tôi chủ thể đó có một hình thức biểu hiện tƣờng minh hay
ngầm ẩn (Benvenist, dẫn theo Lê Đông [16,17]).
- Thái độ đánh giá của ngƣời nói đóng vai trò là những vị từ tình thái

trong khung tình thái mục đích phát ngôn. Các vị từ này có thể là những sự
đánh giá khác nhau của bản thân ngƣời nói đối với nội dung thông báo.
Cũng có thể là kiểu tác động đến đối tƣợng giao tiếp gắn với ý đồ, mục
đích phát ngôn.
- Đối tƣợng giao tiếp - ngƣời đối thoại và nội dung mệnh đề đóng vai trò
là những đối tƣợng của sự tác động hay đánh giá tình thái.
b. Sự tƣơng hợp về nội dung mệnh đề
Nội dung mệnh đề của câu hỏi và câu trả lời tƣơng ứng với nhau theo
quy luật là cả ngƣời hỏi và ngƣời nghe cùng hƣớng một sự tình duy nhất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
ngoài hiện thực với những thành tố hoàn cảnh đồng nhất, đƣợc nối kết với
nhau bằng những quan hệ đồng nhất, và cùng đƣợc đặt trong hệ quy chiếu về
không gian, thời gian...đồng nhất nhƣ là tiêu chuẩn cho tính xác định của nội
dung mệnh đề, tiêu chuẩn để định vị và nhận diện các sự kiện, các quá trình
đƣợc nói tới. Nói đúng ra, khi hỏi ngƣời hỏi đã tự xác định và đồng thời ấn
định luôn cho ngƣời trả lời toàn bộ hệ tọa độ đó. Và ngƣợc lại, ngƣời trả lời
buộc phải chấp nhận toàn bộ những điều kiện ấy để đảm bảo cho những thông
tin mà anh ta cung cấp là những thông tin ngƣời hỏi cần.
Nhƣ vậy, sự tƣơng hợp về nội dung mệnh đề của câu hỏi và câu trả
lời có thể đƣợc thể hiện một cách hiển ngôn hoặc ngầm ẩn tùy mục đích
giao tiếp cụ thể.
c. Sự tƣơng hợp về cấu trúc thông báo
Câu hỏi ngoài việc thể hiện nhu cầu nhận thức của con ngƣời còn ngầm
chỉ ra cho ngƣời đối thoại biết đƣợc những đặc điểm trong nhu cầu nhận thức
của ngƣời hỏi. Chẳng hạn nhƣ: những gì ngƣời hỏi đã biết, những gì chƣa biết
và đâu là trọng tâm cần biết. Ngƣời đối thoại chỉ thực sự đáp ứng đƣợc nhu
cầu khi họ có chung những tri thức đã biết và cùng muốn hƣớng tới làm sáng

tỏ những điều mà ngƣời hỏi đang cần. Chính câu hỏi đã quy định trƣớc cách
tổ chức và phân bố thông tin trong câu trả lời tƣơng ứng.
d. Sự tƣơng hợp về tiền giả định
Mỗi quan hệ thống nhất, chặt chẽ giữa câu hỏi và trả lời cũng đƣợc thể
hiện rõ thông qua sự tƣơng hợp về tiền giả định.
Tiền giả định là yếu tố tạo nên cái chỉnh thể ngữ nghĩa của câu hỏi. Đồng
thời còn là yếu tố tạo nên tính thống nhất về logic - ngữ nghĩa giữa câu hỏi và
câu trả lời. Chấp nhận tiền giả định chứa trong câu hỏi là một điều kiện để mở
rộng đối thoại và đảm bảo sự tƣơng hợp về hiệu lực tại lời. Đây chính là một
tiêu chuẩn nội dung của câu trả lời.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
1.1.2. Lí thuyết hội thoại
1.1.2.1. Sự trao lời, trao đáp và tương tác trong hội thoại
Hội thoại: là hình thức giao tiếp thƣờng xuyên, phổ biến của ngôn ngữ.
Nó cũng là hình thức cơ sở của mọi hoạt động ngôn ngữ khác. Trong bất kì
một cuộc hội thoại nào cũng bao gồm ba vận động chủ yếu: trao lời, trao đáp
và tƣơng tác.
Trao lời: là vận động mà ngƣời nói (SP1) nói ra và hƣớng lời nói của
mình vào phía ngƣời nhận (SP2), cốt để nhận biết đƣợc lời đƣợc nói ra đó là
dành cho SP2. Trong một cuộc song thoại, việc xác định SP2 là đơn giản. Tuy
nhiên trong những cuộc đa thoại cần phải xác định ngƣời nghe đích thực đối
với lƣợt lời đó. Thông thƣờng SP1 và SP2 là hai ngƣời khác nhau, trừ trƣờng
hợp độc thoại. Tuy vậy, ngay cả trong trƣờng hợp độc thoại ở ngƣời nói có sự
phân đôi nhân cách (còn gọi là sự phân thân): nhân cách nghe và nhân cách
nói. Đó vừa là SP1 vừa là SP2, khi hoạt động theo nhân cách SP1 hay SP2 tự
mình “biến thành” hai nhân vật khác nhau.
Để có đƣợc lời trao, sự có mặt của SP1 là tất yếu. Điều đó thể hiện ở

cách xƣng hô ngôi thứ nhất, ở thái độ, sự hiểu biết, ở quan điểm của SP1
trong nội dung của lƣợt lời trao. Mặt khác, tình thế giao tiếp trao lời cũng
ngầm ẩn rằng ngƣời nhận SP2 cũng có mặt trong lƣợt lời của SP1 qua những
yếu tố tƣờng minh nhƣ những lời kêu gọi, chỉ định, những lời thƣa gửi và
cách xƣng gọi đối với ngôi thứ hai, qua những yếu tố hàm ẩn nhƣ những tiền
giả định giao tiếp, những hiểu biết mà SP1 và SP2 đã có chung, ở hứng thú
hoặc tâm trạng của SP2 đối với đề tài giao tiếp, ở tâm lí giao tiếp của SP2
đƣợc SP1 nhận biết trƣớc khi trao lời. Trong hội thoại, SP1 luôn bị SP2 theo
dõi các hành vi ngôn ngữ và phản ứng lại nếu không phù hợp. Do đó, SP1
phải "lấn trước" vào SP2, phải dự kiến trƣớc, hình dung đƣợc hình ảnh tinh
thần của SP2 về các mặt tâm lí, tình cảm, sở thích... Phải dự đoán đƣợc hiệu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
quả lƣợt lời của mình, phải dự kiến trƣớc phản ứng của SP2 để vạch kế hoạch,
định hành động nhằm có thể "áp đặt" điều mình muốn nói đối với SP2.
Trao đáp: Phát ngôn sẽ trở thành hội thoại khi SP2 nói ra lời đáp lại
lời của SP1. Trong một cuộc thoại bình thƣờng và suôn sẻ, quá trình lần
lƣợt thay đổi vai nói - nghe giữa các nhân vật giao tiếp sẽ diễn ra liên tục.
Chúng ta đều biết diễn ngôn là sản phẩm của các hành vi ngôn ngữ và tất
cả các hành vi ngôn ngữ đều đòi hỏi có sự hồi đáp. Điều này không chỉ
đúng với các hành động nhƣ: hỏi (trả lời), chào (đáp lại), cầu khiến (nhận
hay không nhận lệnh)... mà còn có thể thực hiện cho những hành vi không
tƣơng thích với hành vi dẫn nhập. Ngay cả những hành vi tự thân không
đòi hỏi sự hồi đáp nhƣ hành vi cảm thán, chào, thì vẫn cần đƣợc hồi đáp có
thể bằng nhiều hình thức khác nhau. Tất nhiên có những diễn ngôn mà
ngƣời nghe không thể hồi đáp đƣợc nhƣ những diễn ngôn viết, những diễn
ngôn trong những cuộc hội thoại mà ngƣời nghe không đƣơng diện, hoặc
những cuộc hội thoại mặt đối mặt mà ngƣời nghe không đƣợc quyền hồi

đáp. Nhƣng nhƣ đã nói đây chỉ là sự loại trừ sự hồi đáp mang tính lâm thời.
Trong chiều sâu những diễn ngôn này vẫn cần đến sự hồi đáp hiển ngôn
hoặc không hiển ngôn ở ngƣời tiếp nhận.
Tương tác: Trong hội thoại, các nhân vật hội thoại ảnh hƣởng lẫn nhau,
tác động qua lại với nhau và có thể làm biến đổi nhau. Trƣớc cuộc hội thoại,
giữa các nhân vật giao tiếp có sự khác biệt, thậm chí đối lập, trái ngƣợc nhau
về các mặt nào đó. Nếu không có sự khác biệt này thì giao tiếp thành ra thừa.
Trong hội thoại và qua hội thoại những khác biệt này giảm dần và mất đi hoặc
mở rộng ra căng lên thành xung đột. Nhân vật hội thoại cũng là nhân vật liên
tƣơng tác. Họ có thể tác động qua lại bằng mọi phƣơng tiện đặc biệt là bằng
ngôn ngữ. Liên tƣơng tác trong hội thoại trƣớc hết là sự tƣơng tác giữa các
lƣợt lời của SP1 và SP2... Nhƣ vậy lƣợt lời vừa là cái chịu tác động vừa là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
phƣơng tiện mà SP1, SP2 sử dụng để gây ra tác động đối với lời nói và qua
lời nói tác động đến tâm sinh lí của nhau.
Hội thoại có thể ở hai cực: điều hoà nhịp nhàng, hoặc hỗn độn. Trong các
cuộc đối thoại đều phải có sự hoà phối các hoạt động của các đối tác về mọi
mặt. Sự hoà phối này nếu hoàn hảo thì hội thoại sẽ nghiêng về cực thứ nhất,
nếu không tốt thì hội thoại sẽ nghiêng về cực thứ hai. Trong quá trình hoà
phối, mỗi nhân vật phải tự hoà phối, tức là tự mình điều chỉnh hành động, thái
độ, lƣợt lời của mình theo từng bƣớc của đối thoại, để khớp với những biến
đổi của đối tác và của tình huống diễn ra. Vì con ngƣời là sinh vật có ý thức
và ý chí, nên sự tự hoà phối không phải là bị động mà chủ động, chủ định.
Giữa các nhân vật tƣơng tác có sự liên hoà phối, nghĩa là có sự phối hợp
trong quá trình tự hoà phối của từng nhân vật. Sự liên hoà phối có thể theo
trục nối tiếp hoặc trục đồng thời. Theo trục nối tiếp, nhân vật này biến đổi
cách ứng xử của mình sau khi đối tác đã thực hiện một biến đổi nào đấy. Sự

liên hoà phối có thể đồng thời diễn ra khi cả hai cùng thực hiện sự tự hoà
phối. Tóm lại, sự tƣơng tác vào lƣợt lời và bằng lƣợt lời trong hội thoại đƣợc
thể hiện thông qua vận động liên hoà phối.
Ba vận động trao lời, trao đáp, tƣơng tác là ba vận động đƣợc xem là đặc
trƣng cho một cuộc thoại. Trong đó, hai vận động đầu do từng đối tác thực
hiện nhằm phối hợp với nhau thành vận động thứ ba. Bằng vận động trao lời
và trao đáp, các nhân vật thoại sẽ tự hoà phối để thực hiện sự liên hoà phốt -
cốt lõi của vận động tƣơng tác. Sự liên hoà phối khiến cho một cuộc hội thoại
là một hoạt động đặc biệt của con ngƣời. Do tƣơng tác là tác động chủ yếu
trong hội thoại, nên ngữ dụng học nghiên cứu về hội thoại còn đƣợc gọi là
ngữ dụng học về sự tƣơng tác. Quy tắc cấu trúc và chức năng trong hội thoại
đều do ba vận động trên, nhƣng chủ yếu là từ tƣơng tác mà có.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
1.1.2.2. Các quy tắc trong hội thoại
Hội thoại diễn tiến theo các quy tắc nhất định. Nguyên tắc chủ yếu chi
phối các quy tắc hội thoại là nguyên tắc cộng tác hội thoại còn gọi là “nguyên
tắc hợp tác”. Từ nguyên tắc chung này, các quy tắc hội thoại ràng buộc các
bên tham gia hội thoại theo một hệ thống quyền lợi và trách nhiệm.
Nhà ngôn ngữ học ngƣời Pháp, tác giả C.K. Orrecchimi đã chia quy tắc
hội thoại thành ba nhóm:
Thứ nhất, các quy tắc điều hành sự luân phiên lƣợt lời.
Thứ hai, các quy tắc chi phối cấu trúc của hội thoại.
Thứ ba, các quy tắc chi phối quan hệ liên cá nhân trong hội thoại.
1.1.2.3. Nguyên tắc cộng tác hội thoại
H.P.Grice là ngƣời đầu tiên khởi xƣớng nguyên tắc cộng tác hội thoại và
cũng là ngƣời phát triển, bổ sung nguyên tắc này. Nội dung của nguyên tắc
cộng tác hội thoại đƣợc ông phát biểu nhƣ sau:

"Hãy làm cho phần đóng góp của anh, chị (vào cuộc hội thoại) đúng như
nó được đòi hỏi ở giai đoạn nào (của cuộc hội thoại) mà nó xuất hiện phù
hợp đích hay phương hướng của một cuộc hội thoại mà anh, chị đã chấp
nhận tham gia vào” (Dẫn theo Đỗ Hữu Châu [9, 229]). Nguyên tắc cộng tác
hội thoại trên đƣợc Grice diễn giải ra thành bốn phƣơng châm nhỏ:
a. Phƣơng châm về lƣợng, với hai yêu cầu:
- Hãy làm cho phần đóng góp của anh có lƣợng tin đúng nhƣ đòi hỏi của
đích cuộc hội thoại.
- Đừng làm cho đóng góp của anh lớn hơn yêu cầu mà nó đòi hỏi.
b. Phƣơng châm về chất, với sự phát biểu tổng quát:
Hãy cố gắng làm cho phần đóng góp của anh là đúng, đặc biệt là:
- Đừng nói điều gì mà anh tin rằng không đúng
- Đừng nói điều gì mà anh không có đủ bằng chứng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
c. Phƣơng châm quan hệ (còn gọi là phƣơng châm quan yếu), với yêu cầu:
- Hãy nói những điều có liên quan đến hội thoại
4. Phƣơng châm cách thức, với yêu cầu:
- Tránh lối nói tối nghĩa
- Tránh lối nói mập mờ
- Hãy nói ngắn gọn
- Hãy nói có trật tự.
Ngoài các phƣơng châm trên, khi giao tiếp các bên tham gia còn phải chú
ý đến phƣơng châm lịch sự và khiêm tốn.
Các phƣơng châm nói trên đúng cho những cuộc hội thoại chân thực,
trong đó các bên tham gia thực sự muốn làm cho cuộc thoại đạt hiệu quả một
cách rõ ràng, trực tiếp. Nếu đƣợc nhƣ vậy, cuộc hội thoại sẽ đạt đƣợc tính
cộng tác giữa các bên tham gia, đạt đƣợc tính quan yếu, khi những điều đƣợc

nói ra luôn luôn bám sát vấn đề đƣợc đƣa ra trò chuyện, đạt đƣợc tính chân
thành, có nghĩa là các bên mong muốn chân thành nó sẽ thành công, đạt yêu
cầu về lượng tin và đạt yêu cầu triệt để, có nghĩa có nghĩa là những điều các
bên cho rằng cần phải biết thì đƣợc biết hết, những gì cần giải quyết thì giải
quyết xong.
Ngoài những điều vừa nói trên, trong giao tiếp còn cần chú ý đến khả
năng nguyên tắc hội thoại có thể bị phá vỡ qua câu trả lời. Điều đó đƣợc hình
dung nhƣ sau:
Một cuộc hội thoại đạt đƣợc tính năng động khi ngƣời tiếp nhận trả lời
trực tiếp. Với những câu trả lời gián tiếp thì nguyên tắc cộng tác hội thoại có
thể bị phá vỡ, vì khi đó ngƣời trả lời đã vi phạm nguyên tắc cộng tác hội
thoại. Tuỳ vào từng trƣờng hợp mà câu trả lời gián tiếp có thể vi phạm một,
một số hay tất cả các phƣơng châm của nguyên tắc cộng tác hội thoại. Ví dụ:
SP1: Kì này bạn học bao lâu ?

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
SP2: Toàn những học phần dài và khó, tuần nào cũng học liên tục vậy
mà đến giờ vẫn chưa xong một nửa.
Câu trả lời của câu hỏi vừa nêu đã vi phạm phƣơng châm về lƣợng.
Ngƣời trả lời đã nói nhiều hơn những yêu cầu về ngƣời hỏi muốn biết.
Hoặc ví dụ :
SP1: Cậu về rồi à ? Ổn không?
SP2: Đừng có hỏi nhiều đau đầu lắm rồi, toàn những việc không đâu!
Nhƣ vậy, có thể thấy ngƣời trả lời cùng một lúc đã vi phạm nhiều
phƣơng châm hội thoại : phƣơng châm về chất, phƣơng châm về lƣợng và
phƣơng châm lịch sự. Những cặp thoại vi phạm những phƣơng châm nhƣ
vậy là nguyên nhân dẫn tới những cuộc hội thoại bất hoà. Trong giao tiếp,
sự vi phạm nguyên tắc cộng tác hội thoại có khi ngẫu nhiên nhƣng cũng có

thể là do chủ ý của ngƣời tham gia hội thoại. Theo một số nhà nghiên cứu
thì đó là "chiến thuật giao tiếp". Khi đó ngƣời ta dùng ngôn ngữ làm công
cụ thể hiện một ý nghĩa khác. Tƣơng tự nhƣ vậy, sự vi phạm nguyên tắc
cộng tác hội thoại của các câu trả lời gián tiếp cũng thƣờng không phải là
ngẫu nhiên. Nó luôn kèm theo nghĩa hàm ẩn mà ngƣời trả lời có chủ định
truyền tới ngƣời hỏi.
1.1.3. Lí thuyết về hành vi ngôn ngữ
1.1.3.1. Khái niệm về hành vi ngôn ngữ
Theo F.de.Sausure, giữa ngôn ngữ và lời nói có sự phân biệt rõ rệt và
triệt để. Quan điểm này đã thống trị, chi phối các nghiên cứu về ngôn ngữ học
trong một thời gian dài. Mãi đến những năm 60 của thế kỉ XX với các công
trình của J.L.Austin (1962), của J.Searle (1969) quan hệ giữa ngôn ngữ và lời
nói mới đƣợc nhìn nhận một cách đúng đắn và đầy đủ hơn. J.L.Austin và
J.Searle là những ngƣời đầu tiên đề xuất lí thuyết về hành vi ngôn ngữ
(HVNN). Theo các các tác giả này, ngôn ngữ không chỉ đƣợc dùng để thông

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

20
báo hay miêu tả một cái gì đó, mà quan trọng hơn là đƣợc dùng để "làm cái gì
đó", để thể hiện các hành động. Các hành động đƣợc thể hiện qua lời nói đƣợc
gọi là hành động ngôn từ (hay hành vi ngôn ngữ - HVNN).
Ở Việt Nam, từ những năm đầu thập kỉ 90 của thế kỉ XX, các nhà ngôn
ngữ học Việt Nam đã quan tâm tìm hiểu về vấn đề này, trên cơ sở ghi nhận ý
kiến của những chuyên gia Ngữ dụng học và vận dụng nghiên cứu những biểu
hiện của hành vi ngôn ngữ trong thực tế tiếng Việt, tác giả Đỗ Hữu Châu cho
rằng : "Khi chúng ta nói năng là chúng ta hành động, chúng ta thực hiện một
hoạt động mà phương tiện là ngôn ngữ" [9, tr.88]. Cùng quan điểm nhƣ vậy
Nguyễn Đức Dân phát biểu : "Khi thực hiện một phát ngôn trong một tình
huống giao tiếp cụ thể, qua cung cách phát ngôn và cấu trúc của nó người nói

đã thực hiện những HVNN nhất định và người nghe cảm nhận được điều này"
[12, tr.220].
1.1.3.2. Điều kiện sử dụng hành vi ngôn ngữ
Theo J.L.Austin, một hành vi ngôn ngữ đƣợc thực hiện trong một cuộc
giao tiếp khi một ngƣời nói (hoặc viết) SP1 phát ra một phát ngôn U cho
ngƣời nghe (ngƣời đọc) SP2 trong ngữ cảnh C. Ông đã chỉ ra ba loại HVNN
lớn đó là: hành vi ngôn ngữ tạo lời, hành vi ngôn ngữ mượn lời và hành vi
ngôn ngữ ở lời.
Hành vi tạo lời sử dụng các yếu tố ngôn ngữ nhƣ ngữ âm, từ, các kiểu kết
hợp từ ... để tạo ra một phát ngôn.
Hành vi ngôn ngữ mƣợn lời mƣợn các phƣơng tiện ngôn ngữ, chính xác
là mƣợn các phát ngôn để tạo ra một hiệu quả ngoài ngôn ngữ nào đó ở ngƣời
nghe, hoặc ở chính bản thân ngƣời nói. Ví dụ: phát ngôn Đến phim rồi đấy!
có thể gây ra những hiệu quả khác nhau ở những đối tƣợng khác nhau. Ngƣời
đang làm việc thì khó chịu vì bị ồn và có thể không tiếp tục làm đƣợc, ngƣời
đang đợi xem phim thì sẽ rất háo hức, vui mừng, ngƣời không quan tâm sẽ tỏ

×