Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Hồ chí minh với vấn đề dân tộc trong cách mạng việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 123 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------

VŨ THÙY TRANG

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỚI
VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRONG
CÁCH MẠNG VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2011


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------

VŨ THÙY TRANG

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỚI
VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRONG
CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Chuyên ngành: CNXH KH
Mã số:60.22.85

Người hướng dẫn khoa học:
TS. NGUYỄN SINH KẾ


TP. HỒ CHÍ MINH – 2011


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các tài liệu, kết quả nêu trong luận văn này là trung thực và chưa
từng được ai cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.

Người thực hiện

Vũ Thùy Trang


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
Chương 1: BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC
1.1.BỐI CẢNH LỊCH SỬ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC ............................................................. 9
1.1.1. Tình hình thế giới cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX ........................ 9
1.1.2. Bối cảnh xã hội Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX ..... 11
1.1.3. Các phong trào đấu tranh vì mục tiêu giải phóng dân tộc cuối thế
kỷ XIX, đầu thế kỷ XX ........................................................................ 17
1.2. TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN
ĐỀ DÂN TỘC...................................................................................... 23
1.2.1. Truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam với việc hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc. ................................... 23
1.2.2. Ảnh hưởng của Nho giáo và văn hóa phương Tây dẫn đến việc

hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc ............................ 26
1.2.3. Ảnh hưởng của “Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của
Lênin đối với sự hình thành con đường cách mạng Hồ Chí Minh ......... 31

Chương 2: NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRONG CÁCH MẠNG VIỆT NAM
2.1.TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC ......................... 38
2.1.1.Quyền dân tộc ..................................................................................... 39
2.1.2.Mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp .................................................. 47


2.1.3.Quan điểm về mối quan hệ giữa dân tộc Việt Nam với các dân tộc
khác trên thế giới .................................................................................. 56
2.2.GIẢI QUYẾT VẤN ĐẾ DÂN TỘC TRONG CÁCH MẠNG VIỆT
NAM .................................................................................................... 64
2.2.1.Tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ...................................... 64
2.2.2.Tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội nhằm giải phóng xã hội, giải
phóng con người................................................................................... 69
2.2.3.Thực hiện quyền bình đẳng dân tộc và xây dựng khối đại đoàn kết
các dân tộc Việt Nam ........................................................................... 78
2.2.4.Đoàn kết thương yêu người Việt Nam sống ở nước ngoài và thân
thiện với người nước ngoài sống ở Việt Nam ....................................... 84
2.3.GIÁ TRỊ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC ........................................................... 88
2.3.1.Tư tưởng Hồ Chí Minh bổ sung và làm phong phú thêm lý luận
của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề dân tộc ......................................... 88
2.3.2.Giá trị thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc ở
Việt Nam .............................................................................................. 96
2.3.3.Giá trị định hướng của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
đối với sự phát triển của đất nước trong tương lai............................... 104

KẾT LUẬN .............................................................................................. 110
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 113


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một trong những quốc gia đa dân tộc, trải qua mấy nghìn
năm dựng nước và giữ nước, các dân tộc ln kề vai sát cánh gắn bó máu thịt
bên nhau trong đấu tranh chống ngoại xâm, chống thiên tai địch họa và xây
dựng đất nước. Các dân tộc nước ta là một cộng đồng thống nhất trong đa
dạng: cư trú xen kẽ và phân tán trên mọi vùng miền với cơ cấu dân số và trình
độ phát triển kinh tế - xã hội khơng đồng đều; bản sắc văn hóa từng dân tộc
tạo nên sự đa dạng phong phú của nền văn hiến Việt Nam. Tính thống nhất đó
được thể hiện qua khối đại đoàn kết dân tộc trong cộng đồng đại gia đình các
dân tộc Việt Nam, đồn kết để cùng nhau đấu tranh dựng nước và giữ nước.
Lịch sử của dân tộc Việt Nam là lịch sử của quá trình đấu tranh dựng
nước và giữ nước hết sức hào hùng và oanh liệt. Tự bản thân quá trình lịch sử
vẻ vang đó đã là một bằng chứng sống động chứng minh dân tộc Việt Nam là
một dân tộc anh hùng bất khuất. Trong lịch sử thế giới, hiếm có dân tộc nào
phải nhiều lần chống lại những kẻ thù xâm lược hùng mạnh nhất qua các thời
đại như dân tộc Việt Nam. Những thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống
Tần, chống Nguyên Mông, chống thực dân Pháp, phát xít Nhật, đế quốc Mỹ là
những bằng chứng hào hùng khẳng định điều đó. Làm thế nào để giữ vững
được chủ quyền và độc lập dân tộc, chấn hưng và phát triển đất nước, nhân
dân Việt Nam khơng có con đường nào khác là phải biết phát huy sức mạnh
của truyền thống yêu nước và đại đoàn kết dân tộc, vận dụng sáng tạo nhiều
hình thức đấu tranh trên mọi lĩnh vực. Trong đó việc phát huy sức mạnh của
truyền thống yêu nước và đại đoàn kết dân tộc luôn được chú trọng và được

sử dụng như là một vũ khí đặc biệt, cả trong thời chiến lẫn thời bình, cả trong


2

chiến tranh chống ngoại xâm cũng như trong quá trình xây dựng và phát triển
đất nước. Như theo lời dạy của Bác Hồ “Dân tộc Việt Nam là một, đất nước
Việt Nam là một, sơng có thể cạn, núi có thể mịn, song chân lý đó khơng bao
giờ thay đổi”. [50,246]
Đầu thế kỷ XX, Hồ Chí Minh với hành trang văn hóa truyền thống dân
tộc, là người nhận thức được xu thế khách quan của lịch sử, đã đưa cách mạng
Việt Nam đi vào hướng phát triển chung và tất yếu của xã hội lồi người, đó
chính là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người đi theo
con đường cách mạng vô sản, hướng tới xã hội chủ nghĩa. Con đường cách
mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã trở thành
ngọn đuốc soi đường, góp phần to lớn vào việc phát huy sức mạnh toàn dân
tộc với sức mạnh thời đại, là nhân tố quyết định sự hoàn thành cách mạng giải
phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Ngày nay, nước ta đang trong tiến trình hội nhập với thế giới, mở ra
nhiều vận hội mới, nhưng cũng gặp không ít những khó khăn thử thách,
những nguy cơ khó lường bởi sự chống phá của các thế lực thù địch trong và
ngồi nước. Vì vậy, giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam trở
thành nhiệm vụ xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta trên suốt con đường
cách mạng hướng tới mục tiêu xã hội chủ nghĩa vì dân tộc – con người. Để
thực hiện thắng lợi con đường cách mạng Việt Nam đòi hỏi phải nhận thức và
vận dụng đúng đắn, sáng tạo di sản tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc khơng chỉ giúp chúng ta
nâng cao nhận thức tồn diện và sâu sắc hơn tư tưởng của Người, mà còn góp
phần tìm hiểu, khai thác những luận cứ khoa học để tiếp tục hoàn thiện cơ sở
lý luận và thực tiễn cho việc giải quyết vấn đề dân tộc của Đảng, Nhà nước và

nhân dân ta trong giai đoạn hiện nay. Mong muốn góp phần của mình vào tiến
trình ấy, tác giả mạnh dạn chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh với vấn đề dân


3

tộc trong cách mạng Việt Nam” làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành chủ nghĩa
xã hội khoa học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc là một bộ phận quan trọng
trong toàn bộ hệ thống tư tưởng của Người về những vấn đề cơ bản trong cách
mạng Việt Nam. Cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã
trở thành kim chỉ nam, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cho mọi đường lối; chính sách
của Đảng và Nhà nước ta trong giải quyết vấn đề dân tộc ở nước ta.
Từ nhận thức sâu sắc những giá trị khoa học và thực tiễn của tư tưởng
Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, và thông qua những chủ trương của Đảng,
của Nhà nước, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học được công bố,
nhiều bài viết được đăng trên báo, tạp chí đề cập đến tư tưởng của Người về
vấn đề dân tộc.
Sau đây là một số cơng trình tiêu biểu như:
“Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc”
của tác giả Nguyễn Thế Thắng, Nxb. Lao động, Hà Nội, 1999. Trong tác
phẩm này tác giả đề cập đến những quan điểm cơ bản về vấn đề dân tộc của
chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh như: Quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin về sự hình thành dân tộc; Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn
đề dân tộc; Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề dân tộc.
Tác giả Nguyễn Đình Thuận với tác phẩm “Sự hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc (1911-1945)”. Trong tác phẩm
này, tác giả trình bày những nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc; Sự hình thành tư tưởng Hồ Chí

Minh về cách mạng giải phóng dân tộc và những giá trị lý luận và thực tiễn
của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.


4

Năm 1997, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 107 ngày sinh của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia đã cho ra mắt cơng trình: “Tư
tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam” do Đại tướng Võ
Nguyên Giáp làm chủ biên. Đây là cơng trình nghiên cứu của nhiều nhà khoa
học thuộc nhiều ngành khoa học tham gia nghiên cứu, là chương trình khoa
học và cơng nghệ cấp nhà nước KX.02 có mã số KX.02.01. Qua nội dung tác
phẩm, các tác giả đã giới thiệu một cách có hệ thống những luận điểm sáng
tạo lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về đường lối và phương pháp, về chiến
lược và sách lược cách mạng, về tổ chức các lực lượng cách mạng…
Năm 2004, thời điểm quan trọng thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần
thứ IX, tác giả Bùi Đình Phong đã cho ra đời cuốn sách “Giải phóng dân tộc
và đổi mới dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh”. Tác phẩm gồm một số luận
văn nghiên cứu, phần lớn đã được cơng bố trên các tạp chí chun ngành và
các kỷ yếu hội thảo ở trung ương. Tác phẩm trình bày những luận điểm chủ
yếu như: Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào tình
hình thực tế ở Việt Nam; Người đã kế thừa và phát huy chủ nghĩa yêu nước,
truyền thống văn hóa của dân tộc và tinh hoa văn hóa của nhân loại; Lý luận
của Người về cách mạng giải phóng dân tộc gắn kết chặt chẽ cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở một nước thuộc địa và phụ thuộc. Qua đó, tác giả nêu bật
những giá trị sâu sắc tư tưởng của Người đối với cách mạng Việt Nam và thế
giới.
“Mối quan hệ biện chứng giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
trong tư tưởng Hồ Chí Minh” là tác phẩm của tác giả Nguyễn Bá Linh, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009. Qua tác phẩm, tác giả trình bày sự vận dụng

sáng tạo đường lối của Quốc tế Cộng sản trong cách mạng Việt Nam; Mối
quan hệ biện chứng giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; Độc lập dân tộc


5

và chủ nghĩa xã hội – Chân lý của thời đại và một số khía cạnh khác liên quan
đến tư tưởng này của Người.
Trong thời gian gần dây, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh nói
chung và nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh liên quan đến vấn đề dân tộc nói
riêng tiếp tục được nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu lớn, cịn có những tác phẩm, những bài
viết có giá trị về tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc được đăng trên các
báo và tạp chí như:
“Vấn đề dân tộc, giai cấp và tồn nhân loại” của tác giả Vũ Hiền, Ngô
Mạnh Lân, Nxb. Chính trị quốc gia, 1995.
“Về con đường giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh” của tác giả Trịnh
Nhu, Vũ Dương Ninh, Nxb. Chính trị quốc gia, 1996.
“Hồ Chí Minh với chiến lược đoàn kết quốc tế trong cách mạng giải
phóng dân tộc” của tác giả Lê Văn Yên, Nxb. Quân đội nhân dân, 1998.
“Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc giải quyết vấn đề dân tộc dân chủ
trong cách mạng Việt Nam (1930-1954)” của TS. Chu Đức Tính, Nxb. Chính
trị quốc gia, 2001.
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và sự vận dụng của
Đảng ta trong cơng cuộc đổi mới”, tác giả Đồn Minh Duệ, tạp chí Triết học,
số 1, 2007.
“Quán triệt tư tưởng đại đồn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong sự nghiệp xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, tác giả Trần
Hậu, Tạp chí Lịch sử đảng, số 6, 1992.
Trên báo Sài Gịn giải phóng số ra ngày 20/05/1996 có đăng bài của

Hội thảo khoa học “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc ở Việt Nam”


6

Cơng trình nghiên cứu “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và
cách mạng giải phóng dân tộc” đăng trên báo Sài Gịn giải phóng ngày
9/8/1996.
Nhìn chung, việc nghiên cứu vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí
Minh đã và đang được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, nhiều
nhà trí thức với số lượng cơng trình, bài viết phong phú, chứa đựng nhiều tư
tưởng có giá trị sâu sắc mang lại nhiều thành tựu to lớn, trở thành những tài
liệu quý phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu và phát triển tư tưởng của
Người trong điều kiện mới ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, chưa có cơng trình
khoa học nào nghiên cứu sâu về lý luận nhất là dưới góc độ nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác – Lênin, đặc biệt là dưới góc độ chủ nghĩa xã hội khoa học về vấn
đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Do đó, với lịng ham mê nghiên cứu,
học hỏi, trên cơ sở kế thừa những cơng trình đã có trước đó, tác giả luận văn
mong muốn góp phần làm sáng tỏ hơn nữa và trình bày một cách có hệ thống
những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc trong
cách mạng Việt Nam, góp phần khẳng định những giá trị tư tưởng của Người
đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1.Mục đích của luận văn
Mục đích của luận văn là góp phần làm sáng tỏ nguồn gốc, nội dung tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam và ý nghĩa
của nó đối với cơng cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Xuất phát từ việc xác định mục đích nêu trên, tác giả luận văn tập trung

giải quyết những nhiệm vụ sau:


7

- Trình bày bối cảnh lịch sử và tiền đề hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề dân tộc.
- Phân tích những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn
đề dân tộc.
- Làm rõ giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn
đề dân tộc trong cơng cuộc đổi mới hiện nay, từ đó đưa ra giá trị
định hướng của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc đối với sự
phát triển của đất nước trong tương lai.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở thế giới quan và phương pháp
luận của triết học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc.
- Phương pháp nghiên cứu:
Từ cơ sở lý luận trên, để hoàn thành mục đích, nhiệm vụ của luận
văn, tác giả cịn sử dụng tổng hợp một số phương pháp cụ thể như: phân tích
và tổng hợp, logic và lịch sử, phương pháp so sánh … để nghiên cứu và trình
bày luận văn.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
5.1.Ý nghĩa lý luận
Về lý luận, trên cơ sở trình bày có hệ thống những nội dung cơ bản về
vấn đề dân tộc của Hồ Chí Minh, khẳng định những giá trị và ý nghĩa tư
tưởng của Người, luận văn góp phần làm sâu sắc thêm tư tưởng về vấn đề dân
tộc của Hồ Chí Minh nói riêng và tư tưởng của Người nói chung.
5.2.Ý nghĩa thực tiễn
Những kết quả mà luận văn đạt được có thể dùng làm tài liệu tham khảo

trong việc học tập của sinh viên về môn tư tưởng Hồ Chí Minh trong các
trường đại học và cao đẳng.


8

6. Kết cấu của luận văn
Luận văn được trình bày bao gồm: ngoài phần Mở đầu, Kết luận, danh
mục Tài liệu tham khảo thì nội dung Luận văn được kết cấu làm 2 chương, 5
tiết.


9

Chương 1
BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC

1.1.BỐI CẢNH LỊCH SỬ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC
1.1.1. Tình hình thế giới cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, lịch sử thế giới có nhiều chuyển biến
to lớn, chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn tự do cạnh tranh chuyển dần lên giai
đoạn độc quyền của chủ nghĩa đế quốc. Thời lỳ này diễn ra vào 30 năm cuối
của thế kỷ XIX và hoàn thành vào thời điểm trước Chiến tranh thế giới lần thứ
nhất.
Chủ nghĩa đế quốc đã được xác lập ở hầu hết các nước tư bản phát triển
châu Âu và bắc Mỹ. Ở châu Á, Nhật Bản sau khi hoàn thành việc xây dựng
chủ nghĩa tư bản qua 30 năm duy tân thời Minh Trị cũng nhanh chóng chuyển
lên giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Đặc điểm chủ yếu của chủ nghĩa đế quốc ở

các nước là sự tập trung sản xuất tư bản; là vai trị của các cơng ty độc quyền
chi phối tồn bộ đời sống kinh tế, chính trị, xã hội các nước; là việc các cường
quốc tư bản đã hoàn thành việc phân chia thuộc địa và nảy sinh mâu thuẫn
giữa các nước đế quốc già và trẻ. Cuộc đấu tranh để chia lại thuộc địa là một
nguyên nhân chủ yếu dẫn tới Chiến tranh thế giới lần thứ nhất.
Đến cuối thế kỷ XIX, việc bình định về quân sự và sự hình thành các đế
quốc, các thuộc địa về cơ bản đã hoàn thành. Nhiều nước ở châu Á, châu Phi
và khu vực Mỹ la-tinh đã trở thành thuộc địa và phụ thuộc. Các nước đế quốc
áp đặt ách áp bức thực dân dưới các hình thức khác nhau ở hầu hết các nước
phương Đông. Đặc điểm chủ yếu của hệ thống thuộc địa đế quốc chủ nghĩa là
việc phá hủy mọi tiềm năng, truyền thống của các nước vốn có nền kinh tế


10

kém phát triển, biến các nước này phải lệ thuộc vào chủ nghĩa đế quốc. Nét
chung của cơ cấu kinh tế - xã hội của tất cả các nước thuộc địa và phụ thuộc là
sự bóc lột phong kiến cũ được duy trì và chồng lên nó là chế độ bóc lột tư bản
chủ nghĩa. Bên cạnh các giai cấp cơ bản trước kia – nông dân và phong kiến –
đã xuất hiện các giai cấp mới của xã hội thuộc địa – công nhân và tư sản (dân
tộc và mại bản). Bất chấp giai cấp phong kiến thống trị ở các nước bị thực dân
xâm chiếm đã nhanh chóng đầu hàng, làm tay sai cho chúng, nhân dân các
nước đó vẫn tiếp tục đấu tranh mạnh mẽ để giải phóng dân tộc. Trong tình
hình chung lúc bấy giờ, giai cấp tư sản dân tộc vẫn nắm giữ ngọn cờ đấu tranh
giải phóng dân tộc, tuy giai cấp tư sản dân tộc ở châu Âu, châu Mỹ đã phản
bội lý tưởng “Tự do”, “Bình đẳng”, “Bác ái” của cha ơng họ từ những thế kỷ
XVII, XVIII trước đó.
Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, cuộc đấu tranh của giai
cấp công nhân ngày càng mạnh mẽ, dù bị đàn áp, khủng bố khốc liệt sau khi
Công xã Pari bị đàn áp đẫm máu năm 1871. Phong trào công nhân và cộng

sản quốc tế nhanh chóng được phục hồi. Các chính đảng của giai cấp cơng
nhân lần lược ra đời, lãnh đạo phong trào đấu tranh và tiến hành thành lập
Quốc tế thứ hai. Các phong trào công nhân quốc tế đã tiến tới đỉnh cao, cụ thể
là cuộc bãi công của công nhân Chicagô ngày 1/5/1886 và cuộc Cách mạng
Nga 1905 – 1907. Chủ nghĩa Mác, sau gần nửa thế kỷ đấu tranh chống hệ tư
tưởng tư sản và các trào lưu phản bội dưới mọi hình thức, mọi màu sắc đã
khẳng định vị trí của mình trong cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân để lật
đổ chủ nghĩa tư bản và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện mới của
lịch sử, Lênin đã kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mác trong giai đoạn đế quốc
chủ nghĩa.
Từ các cuộc đấu tranh sôi nổi của công nhân các nước tư bản vào cuối
thế kỷ XIX, Cách mạng 1905 – 1907 ở Nga, phong trào giải phóng dân tộc ở


11

châu Á, châu Phi và nhất là “sự thức tỉnh châu Á” vào đầu thế kỷ XIX đã dẫn
tới một cao trào mới của cách mạng thế giới với đỉnh cao là thắng lợi của
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917.
Cách mạng Tháng mười Nga năm 1917 đã lật đổ nhà nước tư sản, thiết
lập chính quyền Xơ-Viết cách mạng, mở ra thời kỳ mới trong lịch sử loài
người - thời kỳ hiện đại. Trong điều kiện lịch sử mới của xã hội loài người từ
đầu thế kỷ XX, đặc biệt từ sau cách mạng Tháng Mười Nga 1917, V.I. Lênin
đã nêu một luận điểm mới khi phát triển học thuyết của C.Mác. Đó là nguyên
lý về việc giải phóng các dân tộc thuộc địa cần có sự đồn kết giữa vô sản và
nhân dân bị áp bức tất cả các nước. Nếu từ giữa thế kỷ XIX về trước, vấn đề
dân tộc gắn với chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản đứng đầu cuộc đấu tranh giải
phóng nhân dân bị chế độ phong kiến thống trị, thì từ cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX, vấn đề dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội. Lịch sử đã trao cho giai cấp
công nhân sứ mệnh lãnh đạo nhân dân các nước bị áp bức đấu tranh để thoát

khỏi ách thống trị của giai cấp tư sản.
Năm 1919, V.L. Lênin thành lập Quốc tế III – một tổ chức quốc tế của
phong trào cách mạng thế giới – đã đóng góp vai trị quan trọng trong việc
thúc đẩy sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đấu tranh
chống chủ nghĩa tư bản và những trào lưu phi mácxít. Sự ra đời của Quốc tế
III và ảnh hưởng lớn lao của cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại đã cổ vũ và
tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển mạnh mẽ các phong trào yêu nước và
phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam.
1.1.2. Bối cảnh xã hội Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX
Dân tộc Việt Nam có lịch sử dựng nước và giữ nước lâu đời. Với truyền
thống anh hùng, bất khuất, đồn kết một lịng, dân tộc ta đã từng đánh thắng
nhiều kẻ thù xâm lược lớn mạnh để giữ vững nền độc lập dân tộc và toàn vẹn
lãnh thổ.


12

Đến cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây trong đó có đế quốc
Pháp đã nhịm ngó hịng xâm lược nước ta, mở đầu bằng việc khai thông buôn
bán và truyền giáo. Năm 1858, thực dân Pháp dùng vũ lực xâm chiếm nước ta,
đúng vào lúc chế độ phong kiến Việt Nam đã cực kỳ thối nát. Với việc thực
dân Pháp xâm lược và thống trị Việt Nam, tính chất xã hội Việt Nam đã thay
đổi. Lúc này, Việt Nam khơng cịn là xã hội phong kiến như trước, mà là xã
hội thuộc địa, nửa phong kiến. Thực dân Pháp, với bản chất của một tên đế
quốc thực dân đã triệt để lợi dụng nhà nước phong kiến bản xứ để làm sao bóc
lột nhiều nhất, nhanh nhất mà lại phải đầu tư ít nhất.
Ngay sau khi đã cơ bản kết thúc giai đoạn vũ trang xâm lược, bọn tư
bản thực dân Pháp thi hành chính sách khai thác thuộc địa, độc quyền về kinh
tế, chuyên chế về chính trị, biến Việt Nam vốn là nước phong kiến thành nước
thuộc địa, nửa phong kiến, dẫn đến những biến đổi to lớn trong đời sống kinh

tế - xã hội.
Về kinh tế
Sau khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, nhân dân Việt Nam
đã anh dũng đứng lên chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, nhưng do thái độ bạc nhược,
đầu hàng của triều đình phong kiến nhà Nguyễn nên phong trào kháng chiến
thất bại, đất nước rơi vào tay thực dân Pháp. Sau khi triều đình nhà Nguyễn
đầu hàng, thực dân Pháp tiến hành bình định các vùng và đi vào khai thác
thuộc địa với quy mô lớn. Trước tiên Pháp thành lập ngân hàng Đông Dương,
phát hành tiền và quản lý tiền tệ ở Đông Dương. Thực dân Pháp ở Việt Nam
cấu kết với các công ty tư bản trên đất Pháp để tác động vào nền kinh tế nước
ta.
Ở lĩnh vực công nghiệp, công nghiệp khai khoáng được đặt lên hàng
đầu. Các mỏ than, thiếc, kẽm, bạc, đồng, vàng, sắt được ra sức khai thác sử
dụng sức lao động rẻ mạt của người bản xứ.


13

Trên lĩnh vực nông nghiệp, giới tư bản Pháp thực hiện chính sách cướp
đất lập đồn điền. Để thực hiện âm mưu cướp đất lập đồn điền, thực dân Pháp
đã áp dụng nhiều chính sách khuyến khích, miễn giảm thuế đối với địa chủ,
quan cai trị người Pháp và trên thực tế đã biến đất đai của nông dân Việt Nam
thành bổng lộc của chúng, đẩy những người nông dân suốt đời chân lấm tay
bùn ra khỏi quyền sử dụng ruộng đất do cha ông truyền lại, biến thành kẻ lang
thang thất nghiệp, hoặc phải quay lại làm thuê trên chính mảnh đất của mình.
Thực dân Pháp cịn kết hợp linh hoạt hình thức bóc lột địa tơ phong kiến với
địa tơ tư bản chủ nghĩa, kìm hãm nơng nghiệp Việt Nam trong vịng trì trệ,
dựa vào lao động thủ cơng là chính, tiền cơng th mướn rất thấp.
Về thương nghiệp, thực dân Pháp nắm độc quyền về ngoại thương, ưu
đãi đặc biệt về thuế cho những hàng hóa từ Việt Nam sang Pháp và từ Pháp

vào Việt Nam. Những hàng hóa của các nước khác từ nước ngồi vào Việt
Nam hoặc những hàng hóa sản xuất trên đất nước Việt Nam phải chịu thuế
nặng. Với kế sách đó hàng hóa của Pháp đã độc chiếm thị trường và được bán
với giá cắt cổ, buộc nhân dân ta phải gánh chịu.
Bên cạnh đó, để đáp ứng chi phí ngày càng nhiều, để tăng ngân sách,
nhà cầm quyền đã cho tăng thuế, thuế thân và các loại thuế gián thu như thuế
tiêu thụ muối, thuốc lào, rượu… Để tăng thuế rượu, thuốc phiện, nhà nước đặt
ra kế hoạch tiêu thụ, ép dân phải dùng với một mức tối thiểu bình qn.
Tồn bộ q trình thực hiện chính sách độc quyền kinh tế của thực dân
Pháp làm cho kinh tế Việt Nam phải phụ thuộc vào kinh tế chính quốc và phát
triển một cách què quặt. Nhân dân Việt Nam bị bần cùng hóa: nơng dân , thợ
thủ cơng nghèo đói. Nhiều nhà tư sản dân tộc bị chèn ép và dẫn tới phá sản.
Khái quát về chính sách độc ác của thực dân Pháp thời kỳ này có ý kiến đánh
giá rằng: “chính sách phản động nhất của đế quốc Pháp là độc quyền kinh tế,
độc quyền thương nghiệp, độc quyền cho vay và kìm hãm nền kinh tế Việt


14

Nam trong tình trạng lạc hậu. Do chính sách độc quyền đó, 50% nơng dân
Việt Nam khơng có ruộng” [11,24]
Về chính trị
Để nơ dịch về kinh tế, thu lợi nhuận tối đa, thực dân Pháp thực hành
chính sách chuyên chế về chính trị. Bằng cách dùng lối cai trị trực tiếp và
thẳng tay đàn áp, thực dân Pháp và tay sai thân tín của chúng nắm giữ tất cả
chức vụ quan trọng, chủ chốt trong bộ máy chính quyền, làm cho dân ta
khơng cịn một chút tự do dân chủ nào. Mọi quyền lực đều nằm trong tay các
viên quan cai trị người Pháp từ Toàn quyền đến Thống sứ, Thống đốc, Cơng
sứ …
Chính sách cơ bản của thực dân Pháp là chia để trị. Chúng chia nước

Việt Nam thành ba xứ với chế độ và chính sách cai trị khác nhau. Mục đích
của chúng là gây ra sự nghi kỵ, thù ghét nhau giữa ba miền để tạo sự chia rẽ
dân tộc.
Nước Việt Nam bị chia làm ba xứ khác nhau, thi hành các chính sách
khác nhau nhưng về thực chất là giống nhau. Chúng sử dụng giai cấp phong
kiến làm chỗ dựa xã hội để duy trì sự bóc lột và được sử dụng làm cơng cụ nơ
dịch về tinh thần đối với nhân dân.
Ngoài ra, để đối phó với các cuộc khởi nghĩa, thực dân Pháp đưa binh
lính từ miền này sang đánh miền khác, từ dân tộc này sang đánh vùng dân tộc
khác. Và ngay trong một xứ, chúng sử dụng phương châm “quan nhà trị dân
nhà” điều những tên ác ôn về đàn áp những cuộc khởi nghĩa ngay tại quê
hương. Để thực hiện phương châm này, thực dân Pháp ra sức đào tạo sĩ quan
cấp thấp là người Việt và cho lực lượng ngụy quân người Việt tham gia các
binh chủng pháo binh, công binh…
Từ cách thức khai thác thuộc địa đó của thực dân Pháp đã làm cho cơ
cấu xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi. Kinh tế tư bản chủ nghĩa bắt đầu xuất


15

hiện, giai cấp cơng nhân được hình thành, những người nông dân bị phá sản
do thuế nặng, do mất mùa…và những người thợ thủ cơng bị phá sản vì nhiều
lý do khác nhau.
Như vậy, kể từ khi thực dân Pháp tiến hành chính sách cai trị, khai thác
thuộc địa ở Việt Nam, đã làm biến đổi rất nhiều về tình hình kinh tế và chính
trị xã hội nước ta. Trong đó sự biến đổi về xã hội diễn ra khá sâu sắc, xã hội
Việt Nam đã có sự phân hóa, và cùng với q trình bóc lột của thực dân,
phong kiến thì sự phân hóa đó ngày càng sâu sắc. Cùng với các giai cấp cũ
trong lòng xã hội phong kiến như giai cấp địa chủ phong kiến, giai cấp nông
dân, một số giai cấp mới đã ra đời như giai cấp công nhân, giai cấp tư sản dân

tộc và tiểu tư sản. Xã hội Việt Nam dưới sự cai trị của thực dân Pháp như Chủ
tịch Hồ Chí Minh nhận xét: đây là thời kỳ “tình hình đen tối như khơng có
đường ra” [57,3]. Con người Việt Nam bị chà đạp, bị áp bức bóc lột đến cùng
cực, dã man, họ bị tước hết các quyền cơ bản của một cá nhân, một con người.
“Toàn thể nhân dân đau khổ vì sự bóc lột …thuế má và tạp dịch tăng lên.
Ruộng đất nhiều làng bị bọn địa chủ và chủ đồn điền Pháp chiếm đoạt. Pháp
thi hành chính sách gây nạn đói để làm cho nơng dân bần cùng. Giai cấp tư
sản và giai cấp tiểu tư sản Việt Nam bị nghẹt thở vì sự áp bức nặng nề của tư
bản thuộc địa” [90,76]. Những biến đổi trên khiến cho tính chất của xã hội
Việt Nam thời kỳ này là xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Từ xã hội phong
kiến, chuyển thành xã hội thuộc địa, nửa phong kiến, chính là đặc điểm lớn
nhất của xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Với chính sách cai trị hà khắc đó của thực dân Pháp trên cơ sở cấu kết
cùng bè lũ tay sai và bọn địa chủ phong kiến, đã tạo nên hai mâu thuẫn cơ bản
trong xã hội Việt Nam, đó là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với
thực dân Pháp cùng bè lũ tay sai bán nước. Bên cạnh đó, mâu thuẫn giữa nhân
dân lao động mà chủ yếu là giữa nông dân với địa chủ phong kiến đã từng tồn


16

tại trước khi thực dân Pháp xâm lược không những không mất đi mà trái lại
càng trở nên gay gắt hơn. Hai mâu thuẫn này có mối quan hệ khăng khít với
nhau. Bởi vì sự câu kết giữa đế quốc và phong kiến là đặc trưng của chế độ
thuộc địa. Thực dân Pháp muốn bóc lột nhân dân phải dựa vào giai cấp địa
chủ phong kiến. Giai cấp địa chủ phong kiến muốn bóc lột nhân dân phải dựa
vào thực dân Pháp. Bản chất sâu xa của hai mâu thuẫn này là vì nước Việt
Nam, dưới ách thống trị của thực dân Pháp và phong kiến tay sai, dân tộc Việt
Nam khơng có tự do, hạnh phúc; nơng dân Việt Nam khơng có ruộng đất. Con
người và dân tộc Việt Nam như sống dưới địa ngục. Họ bị tước hết mọi quyền

về kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục. Nỗi nhục lớn nhất của người dân Việt
Nam lúc bấy giờ là mất nước, mất mọi quyền về chủng tộc, màu da, ngơn ngữ,
tơn giáo, luật pháp, thậm chí cả chủ quyền và nhân phẩm…
Nhân dân Việt Nam vừa không có quyền sống, quyền tự do, lại cịn bị
xâm phạm về thân thể, chịu nhục hình, bị đối xử dã man, bị hạ thấp nhân
phẩm. Dưới chế độ thuộc địa, người bản xứ có thể bị bắt bớ, giam giữ bất cứ
lúc nào hoặc bị kết án tử hình vắng mặt. Mỗi người khơng có quyền sở hữu tài
sản, quyền tự do chính kiến và tự do khơng bị ngăn cản thực hiện chính kiến
của mình. Chế độ thuộc địa giam hãm con người trong sự què quặt, méo mó
về trí tuệ. Họ khơng thể có sự tự do phát triển cá nhân trong các lĩnh vực kinh
tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, sức khỏe, nghề nghiệp…Nói một cách đầy đủ,
người dân thuộc địa khơng có quyền cơng dân.
Bên cạnh sự biến đổi về kinh tế, văn hóa tư tưởng cũng có nhiều thay
đổi. Có nhiều học thuyết chính trị, kinh tế, xã hội từ nước ngoài được đưa vào
Việt Nam như của Pháp, Nhật Bản, Trung Quốc …Những tác phẩm của
những học thuyết này dù ít, dù nhiều cũng có những ảnh hưởng nhất định, tạo
cho luồng suy nghĩ mới, một giá trị văn hóa tiến bộ chống lại những quan
điểm bảo thủ, trì trệ, cứng nhắc của xã hội đương thời. Những cuộc vận động


17

cải cách và cách mạng cùng các “tân thư”, “tân văn” vào Việt Nam gắn liền
với tên tuổi của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, bác sĩ Tôn Dật Tiên (Tôn
Trung Sơn). Tư tưởng cách mạng của giai cấp tư sản Pháp trong thời kỳ đang
phát triển tiến bộ với các gương mặt tiêu biểu như Môngtexkiơ (1689-1755),
Vônte (1694-1778), Rútxô (1712-1778)…Những khẩu hiệu “Tự do”, “Bình
đẳng”, “Bác ái” của cách mạng Pháp 1789 cũng từng bước thâm nhập vào
nước ta.
Tuy nhiên, cùng với những cuộc khai thác thuộc địa, thực dân Pháp

cũng đem lại cho xứ thuộc địa những kết quả ngồi ý muốn. Đó là phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tạo ra lực lượng sản mới, trong lúc phương
thức sản xuất phong kiến đã trở nên lạc hậu và đang kìm hãm sự phát triển của
xã hội Việt Nam.
Cùng với sự bóc lột của tư bản Pháp, nhiều trung tâm kinh tế, chính trị
cũng dần dần được hình thành. Nhiều khu cơng nghiệp tập trung đã ra đời;
giai cấp công nhân Việt Nam xuất hiện. Việc mở mang trường học với mục
đích đào tạo phiên dịch, thư ký và tầng lớp trí thức phục vụ cho bộ máy cai trị,
người Pháp đã vơ hình chung mở cánh cửa ra thế giới cho nhiều thanh niên
Việt Nam yêu nước. Nhiều người trong số họ sẽ trở thành những người lãnh
đạo chủ chốt của các phong trào chống thực dân Pháp sau này.
Bối cảnh lịch sử ấy tất yếu dẫn tới các phong trào đấu tranh chống Pháp
và phong kiến tay sai như các phong trào đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Phan
Bội Châu, Phan Châu Trinh, Hoàng Hoa Thám…Các phong trào đó do các sĩ
phu phong kiến tư sản hóa đã tiếp thu tư tưởng tư sản từ bên ngồi thâm nhập
vào. Mặt dù các loại hình phong trào đấu tranh theo khuynh hướng tư sản trên
tồn tại không lâu dài, nhưng là một minh chứng cho sự khát khao độc lập, tự
do và quyền con người. Thực tiễn đó là địi hỏi cấp bách và u cầu bức xúc
cần được giải đáp. Bối cảnh lịch sử ấy khơng chỉ có giai cấp cơng nhân, nơng


18

dân, tầng lớp trí thức địi quyền sống mà cả dân tộc, mọi người dân yêu nước
Việt Nam đều mong muốn. Hồ Chí Minh đi tìm đường cứu nước, cứu dân và
đến với chủ nghĩa Mác – Lênin là xuất phát từ thực tiễn đó.
1.1.3. Các phong trào đấu tranh vì mục tiêu giải phóng dân tộc cuối
thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
Với bản hiệp ước ô nhục được ký kết ngày 6 tháng 6 năm 1884 giữa
triều đình nhà Nguyễn với thực dân Pháp, từ đây đất nước ta rơi vào tay thực

dân Pháp. Người Pháp thực hiện chính sách chia để trị nhằm làm suy yếu sức
mạnh của dân tộc Việt Nam, sử dụng giai cấp địa chủ phong kiến làm tay sai
đắc lực trong việc bóc lột về kinh tế, áp bức về chính trị, nơ dịch về văn hóa
đối với nhân dân Việt Nam, từ một quốc gia độc lập thành một nước thuộc địa
nửa phong kiến. Thực tiễn xã hội Việt Nam lúc này đặt ra hai yêu cầu: một là,
phải đánh đuổi bọn thực dân xâm lược, giành độc lập cho dân tộc; hai là, xóa
bỏ chế độ phong kiến đã lỗi thời, phản bội lại lợi ích của dân tộc. Giải quyết
hai yêu cầu trên cũng là nhằm giải quyết hai mâu thuẫn cơ bản đang hằn sâu
trong lòng dân tộc Việt Nam. Đây là yêu cầu cấp bách và là động lực thơi thúc
các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ.
Trước yêu cầu của lịch sử, các phong trào đấu tranh yêu nước chống
Pháp của nhân dân ta diễn ra ở nhiều nơi. Phong trào Cần Vương (1885-1896)
dưới sự lãnh đạo của các sĩ phu yêu nước chống thực dân Pháp đã phát triển
rầm rộ trong cả nước, kéo dài gần 20 năm cuối thể kỷ XIX. Phong trào này
xuất phát từ tinh thần phản đế cứu nước mạnh mẽ của những người trí thức
dân tộc, những quần chúng lao động như: Phan Đình Phùng, Nguyễn Xn
Ơn, Tống Duy Tân, Nguyễn Thiện Thuật, …Tuy họ giàu lòng yêu nước, căm
thù sâu sắc bọn giặc Pháp xâm lược, nhưng đều xuất thân từ giai cấp phong
kiến đã mất vai trị lịch sử, nên khơng có khả năng thống nhất tồn bộ phong
trào đấu tranh của dân tộc về một mối. Cùng trong thời kỳ đó cịn có các cuộc


19

đấu tranh tự phát của nông dân với đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa của nơng dân
n Thế do Hồng Hoa Thám lãnh đạo (1885-1913)
Yên Thế là nơi gặp gỡ bí mật của nhiều nhà u nước tìm đến như:
Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Lê Văn Huân, Nguyễn Đình Kiên, Kỳ
Đồng…
Cuộc khởi nghĩa Yên Thế kéo dài từ những năm 80 của thế kỷ XIX

sang đầu thế kỷ XX, cuộc khởi nghĩa này tuy có tính thực tế là trực tiếp đấu
tranh chống Pháp nhưng vẫn “còn nặng cốt cách phong kiến” [89,13] và chủ
trương của Cụ Hoàng Hoa Thám cũng chưa có phương hướng giải phóng
chính xác, chưa có hướng thốt rõ ràng. Tuy khơng giành được những thắng
lợi bền vững về quân sự và chính trị, nhưng cuộc khởi nghĩa Yên Thế cũng
tạo ra những luồng suy nghĩ về việc tìm đường giải phóng dân tộc. Sự thất bại
của phong trào đấu tranh vũ trang cuối thế kỷ XIX đã kết thúc thời kỳ xâm
lược và “bình định” của giặc Pháp ở Việt Nam.
Thế kỷ XX mở màn. Sau những thất bại của phong trào kháng chiến
của nhân dân ta, bọn tư bản Pháp bắt đầu đợt khai thác và bóc lột thuộc địa
Việt Nam lần thứ nhất trên quy mô cả nước, với tốc độ nhanh, đã gây nhiều
biến đổi cho xã hội Việt Nam về các mặt, kéo theo luôn sự thay đổi của ý thức
xã hội, của đời sống con người.
Đúng vào lúc đó, từ những năm đầu của thế kỷ XX, trào lưu tư tưởng tư
sản từ ngoài dồn dập dội vào Việt Nam qua hai con đường : Nhật Bản và
Trung Quốc. Việt Nam lại là thuộc địa của Pháp nên thông qua các trường
học, báo chí, tư tưởng cách mạng tư sản Pháp cũng được du nhập vào. Những
điều kiện trong và ngoài của Việt Nam từ đầu thế kỷ XX như vậy đã tác động
mạnh mẽ đến tính chất cuộc đấu tranh cách mạng ngày càng quyết liệt giữa
dân tộc ta với bè lũ tay sai bán nước. Trong hoàn cảnh mới, một tầng lớp sĩ
phu mới đã tiếp bước nhiệm vụ vẻ vang của dân tộc. Các phong trào Đông Du


20

(1905-1908), phong trào chống thuế ở Trung Kỳ (1907), hoạt động của những
nhà yêu nước trong Duy Tân hội (1905), Đông Kinh Nghĩa Thục (1907),
Quang phục hội (1912), …lần lược diễn ra sơi nổi, chứng tỏ phong trào giải
phóng dân tộc ở Việt Nam đã phát triển trở lại, nhưng theo xu hướng mới một tư tưởng mới đã thay thế tư tưởng phong kiến cũ, chi phối cuộc đấu tranh
chống Pháp ở đầu thế kỷ XX, đó là tư tưởng dân chủ tư sản, một xu hướng

tiến bộ lúc bấy giờ.
Sau thất bại của con đường cứu nước theo tư tưởng phong kiến, những
trí thức yêu nước Việt Nam hướng ra nước ngồi để tìm hướng đi mới. Tiêu
biểu cho phong trào ấy là xu hướng cứu nước của cụ Phan Bội Châu và Phan
Châu Trinh.
Với xu hướng mới đó, có một tìm tịi mới trong đường lối cứu nước của
Hội Duy Tân, do Phan Bội Châu lãnh đạo, Ông chủ trương bạo động, sử dụng
sức mạnh của nhân dân trong nước đã được tuyên truyền giác ngộ, cùng với
sự viện trợ của nước ngoài (Nhật Bản), cho thanh niên yêu nước sang Nhật để
học tập.
Do điều kiện khách quan của lịch sử và quan điểm giai cấp còn nhiều
hạn chế, nên những người lãnh đạo Hội Duy Tân như Phan Bội Châu không
thấy được mối quan hệ giai cấp trong nước, không nhận ra được lực lượng cơ
bản của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc là ai; mặt khác, lại quá ảo tưởng
khi xem Nhật là “chỗ dựa” khi thấy Nhật vừa mạnh lên sau khi đánh thắng đế
quốc Nga, khơng hiểu chính nó đang phát triển thành một nước đế quốc ở
châu Á, là bạn đồng minh với Pháp – là kẻ thù mà mình muốn đánh đổ.
Thất bại của phong trào Đông Du của Hội Duy Tân như một hồi
chuông cảnh tỉnh nhân dân ta và “con đường cứu nước” lại được đặt ra để tìm
câu trả lời hợp lý hơn.


×