Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Nghiên cứu giải pháp hoàn thiện tổ chức thu thuế xuất nhập khẩu tại tổng cục hải quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (674.28 KB, 97 trang )

-1-

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ - ĐỊA CHẤT

LƯƠNG MINH HẢI

NGHIÊN CỨU GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ CHỨC
THU THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU TẠI
TỔNG CỤC HẢI QUAN

Chuyên ngành: Kinh tế công nghiệp
Mã số: 60.31.09

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. Ngơ Thế Bính

HÀ NỘI – 2013


-2-

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các kết
quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Kinh tế - Quản trị kinh doanh
trưởng đại học Mỏ - Địa chất xem xét để tơi có thể bảo vệ luận văn.
Trân trọng cảm ơn!



Tác giả luận văn

Lương Minh Hải


-3-

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hồn thành luận văn này, tơi đã nhận
được sự giúp đỡ nhiệt tình của cơ quan, các cấp lãnh đạo và các cá nhân.
Qua đây, tôi xin trân trọng cảm ơn Lãnh đạo Cục Công nghệ Thông tin & Thống
kê Hải quan cùng toàn thể các cán bộ trong Cục, Lãnh đạo và chuyên viên tại Cục Thuế
xuất nhập khẩu - Tổng cục Hải quan đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong suốt thời
gian tiến hành thu thập dữ liệu để thực hiện Luận văn này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới tất cả Thầy/Cô - những người đã tận tình truyền
đạt cho tơi những kiến thức có giá trị lý luận và thực tiễn trong suốt quá trình là học
viên cao học chuyên ngành Kinh tế công nghiệp tại Trường Đại học Mỏ - Địa chất.
Tôi xin trân trọng cảm ơn PGS.TS. Ngơ Thế Bính, người thầy đáng kính,
người đã tận tình hướng dẫn, cũng như đã đóng góp những ý kiến q báu để giúp
tơi hoàn thành Luận văn này.

Hà Nội, ngày 28 tháng 03 năm 2013

Lương Minh Hải

MỤC LỤC


-4-


Trang bìa phụ
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các hình vẽ, đồ thị
MỞ ĐẦU
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu về thuế xuất nhập khẩu đối với
ngành Hải quan
1.1. Khái niệm về thuế xuất nhập khẩu
1.2. Quá trình ra đời và bổ sung sửa đổi của Thuế xuất nhập khẩu ở
Việt Nam
1.3. Đặc điểm của thuế xuất nhập khẩu
1.4. Vai trò của thuế xuất nhập khẩu
1.5. Các yếu tố cơ bản của thuế xuất nhập khẩu
1.6. Nguyên tắc xây dựng chính sách thuế xuất nhập khẩu
1.7. Các nhân tố ảnh hưởng đến thực trạng thu thuế xuất nhập khẩu
1.7.1. Nhân tố khách quan
1.7.2. Nhân tố chủ quan
1.8. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả công tác thu thuế xuất nhập
khẩu
1.9. Kinh nghiệm công tác tổ chức thu thuế xuất nhập khẩu ở một số
quốc gia
1.9.1. Tại Hàn Quốc
1.9.2. Tại Trung Quốc
1.9.3. Tại Đan Mạch
1.9.4. Tại Singapo
1.10. Những bài học kinh nghiệm rút ra đối với Việt Nam

Chương 2: Thực trạng công tác tổ chức thu thuế xuất nhập khẩu của
Tổng cục Hải quan
2.1. Khái quát tình hình xuất nhập khẩu và công tác tổ chức thu thuế
xuất nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian qua
2.2.Khái quát tình hình tổ chức và hoạt động của Tổng cục Hải quan
2.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển

Trang
1
2
3
4
6
7
8
19
13
13
15
16
17
21
24
25
25
28
29
30
30
32

33
34
35
40
41
46
46


-5-

2.2.2. Chức năng, nhiệm vụ
2.3. Thực trạng công tác tổ chức thu thuế xuất nhập khẩu của Tổng
cục Hải quan
2.3.1. Cơ sở pháp lý
2.3.2. Tổ chức bộ máy thu thuế xuất nhập khẩu
2.3.3. Quy trình tổ chức thu thuế xuất nhập khẩu
2.4. Các kết luận đánh giá chung qua nghiên cứu thực trạng tổ chức
thu thuế xuất nhập khẩu của Tổng cục Hải quan
2.4.1. Kết quả đạt được
2.4.2. Hạn chế
2.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện tổ chức thu thuế xuất nhập khẩu của

47
48
48
49
61
62

62
66
69
72

Tổng cục Hải quan.
3.1. Định hướng và mục tiêu hoàn thiện tổ chức thu thuế xuất nhập
khẩu giai đoạn tới 2015, tầm nhìn 2020
3.1.1. Mục tiêu
3.1.2. Định hướng
3.2. Giải pháp hồn thiện tổ chức thu thuế xuất nhập khẩu của Tổng

72
72
75
77

cục Hải quan
3.2.1. Một số giải pháp vĩ mô
3.2.2. Một số giải pháp cho ngành Hải quan Việt Nam
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1. Với Quốc hội và Chính phủ
3.3.2. Với Bộ Tài chính
3.3.3. Kiến nghị trong Ngành
3.3.4. Kiến nghị dối với các doanh nghiệp
3.3.5. Kiến nghị khác
KẾT LUẬN
Danh mục tài liệu tham khảo

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


78
81
89
89
89
90
91
91
93
95


-6-

XNK

Xuất nhập khẩu

CNTT

Công nghệ thông tin

CSDL

Cơ sở dữ liệu

QLRR

Quản lý rủi ro


TCHQ

Tổng cục Hải quan

WB

Ngân hàng thế giới

WCO

Tổ chức Hải quan thế giới

WTO

Tổ chức Thương mại Thế giới

DANH MỤC BẢNG BIỂU


-7-

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Trang

Bảng 2.1: Bảng kết quả xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 1996- 2011

41


Bảng 2.2 : Số thu thuế của Ngành Hải quan giai đoạn 2005-2011

49

Bảng 2.3 : Số liệu dự toán và kết quả thực tế thu thuế xuất nhập khẩu hàng
hóa 2009-2011

55

Bảng 2.4 : Kết quả kiểm tra sau thông quan và số thuế truy thu năm 2011

57

Bảng 2.5: Thống kê số liệu nợ thuế chuyên thu tại một số Cục Hải quan
năm 2010-2011

58

Bảng 2.6 : Thống kê công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật quản lý thuế
cho người nộp thuế của Tổng cục Hải quan năm 2011

6

Bảng 2.7 : Kim ngạch xuất nhập khẩu, số lượng tờ khai và số lượng doanh
nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2005- 2011

65

Bảng 2.8: Tỷ lệ thu thuế năm sau so với năm trước


66


-8-

DANH MỤC SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ
DANH MỤC SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ

Trang

Sơ đồ 2.1: Thống kê tình hình thu thuế các loại giai đoạn 2005-2011

44

Sơ đồ 2.2: Cơ cấu tổ chức của Hải quan Việt Nam

47

Sơ đồ 2.3 :Sơ đồ phân cấp quản lý thu thuế xuất nhập khẩu hàng hoá của
Ngành Hải quan

50

Hình 2.4: Sơ đồ quy trình miễn thuế, giảm thuế, không thu thuế XNK

62


-9-


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang trong q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước nên vấn
đề huy động mọi nguồn lực quốc gia cho phát triển là rất quan trọng. Tổ chức thu thuế
là nhiệm vụ mà bất kỳ quốc gia nào trên thế giới cũng phải thực hiện để đảm bảo
nguồn thu ngân sách dành cho chi trả cho các hoạt động của mình. Việc quản lý, tổ
chức thu thuế XNK ngày càng trở nên quan trọng trong bối cảnh lưu lượng, chủng loại
hàng hoá XNK, phương tiện và hành khách xuất nhập cảnh (XNC) không ngừng tăng
lên qua các năm, thực sự là một thách thức không nhỏ đối với việc đảm bảo thu đúng,
thu đủ mà vẫn phải đáp ứng nhiệm vụ tạo thuận lợi hoá thương mại quốc tế của nước
ta. Trong giai đoạn hiện nay ở nước ta thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã và
đang là một nguồn thu quan trọng, tập trung của ngân sách nhà nước, là phương tiện
vật chất để nhà nước hoạt động và thực hiện chức năng quản lý của ḿình. Trong
những năm qua chính sách và cơ chế tổ chức thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có
những thay đổi lớn và đạt được những kết quả quan trọng cả về yêu cầu thu ngân
sách và quản lý điều tiết vĩ mơ trong quan hệ kinh tế đối ngoại, góp phần ổn định
t́ình h́ ình kinh tế - xă hội, tạo ra những tiền đề cần thiết để chuyển nền kinh tế sang
một thời kỳ phát triển mới, thời kỳ cơng nghiệp hố hiện đại hố và hội nhập.
Hồn thiện tổ chức thu thuế xuất nhập khẩu nhằm tạo môi trường thuận lợi
cho hoạt động xuất nhập khẩu, đảm bảo quản lý thu thuế xuất nhập khẩu, phục vụ
cho mục tiêu tăng trưởng, ổn định và bền vững trong thời kỳ phát triển mới của đất
nước. Luật Hải quan ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt lớn trong cải cách thủ tục
Hải quan. Vì vậy việc thực hiện tốt Luật Hải quan và cải cách tổ chức thu thuế xuất
nhập khẩu sẽ góp phần đưa hoạt động xuất nhập khẩu theo định hướng của Nhà
nước.
Thực tế quá trình thực hiện cải cách hành chính nói chung và tổ chức thu
thuế xuất nhập khẩu nói riêng cho thấy ngành Hải quan đã đạt được những kết quả
nhất định để bảo đảm thực thi thống nhất các luật thuế, quy trình tổ chức thu thuế
như giảm thời gian thông quan, rút ngắn các bước thực hiện trong khâu nộp thuế,



- 10 -

thời gian giải quyết các công việc liên quan đến người nộp thuế được rút ngắn góp
phần giảm chi phí sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp.
Tuy nhiên bên cạnh những thành tích vẫn cịn những vấn đề bất cập phát sinh
bộc lộ khơng ít những hạn chế từ hoạt động tổ chức thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu
(thuế xuất nhập khẩu) như tình trạng trốn thuế, nợ đọng thuế gây thất thu ngân sách,
quy trình tổ chức thu thuế còn chưa thực sự gắn kết với quy trình thủ tục hải quan,
thơng tin phục vụ cơng tác tổ chức thu thuế còn nghèo nàn, đối tượng nộp thuế đơi
khi cịn chưa rõ ràng chưa hiểu rõ những việc cần làm, phải làm, xử lý pháp luật về
thuế cịn nhẹ, thiếu tính răn đe.
Mặc dù đã có một vài cơng trình nghiên cứu về cơng tác thu thuế xuất nhập
khẩu như:
+ “Tiếp tục cải cách, hiện đại hoá Hải quan Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội
nhập kinh tế quốc tế ”, Luận án Tiến sỹ của Nguyễn Ngọc Túc.
+ Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Tổng cục thuế về “Chiến lược cải
cách hệ thống thuế giai đoạn 2001-2010”.
+ Đề tài “Hoàn thiện pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở Việt Nam”
của tác giả Thạc sỹ kinh tế Lỗ Thị Nhụ, công tác tại Bộ Tài chính.
Nhưng vẫn cịn tồn tại khá nhiều vấn đề cần phải xem xét, bổ sung, hoàn
thiện. Do đó, nghiên cứu được tiến hành từ thực trạng cơng tác tổ chức thu thuế
xuất nhập khẩu của Tổng cục Hải quan để xây dựng hệ thống các giải pháp hồn
thiện cơng tác tổ chức thu thuế xuất nhập khẩu hàng hóa của Tổng cục Hải quan.
Xuất phát từ nhận thức về ý nghĩa của công tác thu thuế xuất nhập khẩu hàng
hóa đối với việc thuận lợi hố thương mại cũng như khuyến khích các doanh nghiệp
xuất nhập khẩu góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước cho ta thấy rằng cần
phải có những giải pháp mới hiệu quả hơn nhằm hoàn thiện tổ chức thu thuế xuất
nhập khẩu hàng hóa ở nước ta. Từ bối cảnh đó, học viên chọn đề tài luận văn thạc
sỹ kinh tế “Nghiên cứu giải pháp hoàn thiện tổ chức thu thuế xuất nhập khẩu

tại Tổng cục Hải quan” có ý nghĩa thiết thực cả về mặt lý luận khoa học và đáp
ứng nhu cầu đòi hỏi của thực tiễn.


- 11 -

2. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của luận văn là xây dựng căn cứ khoa học cho các giải
pháp nhằm hoàn thiện tổ chức thu thuế xuất nhập khẩu của Tổng cục Hải quan, tạo
thuận lợi trong thương mại quốc tế cũng như khuyến khích các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Các hoạt động liên quan đến thu thuế xuất nhập
khẩu hàng hóa, thuộc chức năng quản lý, tổ chức của Tổng cục Hải quan.
- Thời gian nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu, khảo sát các dữ liệu về tình
hình tổ chức thu thuế xuất nhập khẩu hàng hoá của Tổng cục Hải quan trong giai
đoạn 2006 - 2011 và từ đó đề xuất các giải pháp, kiến nghị đến năm 2015, tầm nhìn
2020.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tổng quan nghiên cứu về thuế xuất nhập khẩu đối với ngành Hải quan.
- Tìm hiểu thực trạng quản lý, tổ chức thu thuế xuất nhập khẩu của
Tổng cục Hải quan
- Đưa ra giải pháp hoàn thiện tổ chức thu thuế xuất nhập khẩu của Tổng cục
Hải quan.

5. Phương pháp nghiên cứu
Bằng việc sử dụng phương pháp thống kê thu thập tài liệu, phương pháp liệt
kê, so sánh, tổng hợp, phân tích, đánh giá, luận văn đã làm nổi bật những tồn tại,

hạn chế, chỉ ra các nguyên nhân, đồng thời với những đánh giá đó, tác giả đã đưa ra
một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện tổ chức thu thuế xuất nhập khẩu
hàng hóa của Tổng cục Hải quan.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa khoa học: Hệ thống hoá lý luận về tổ chức, hồn thiện tổ chức, quy
trình thu thuế xuất khẩu nhập khẩu. Đồng thời xây dựng căn cứ khoa học và dựa trên
tình hình thực tiễn tại Tổng cục Hải Quan để xây dựng các giải pháp hoàn thiện hoạt
động thu thuế xuất nhập khẩu đạt hiệu quả cao.


- 12 -

- Ý nghĩa thực tiễn: Nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thu thuế xuất nhập
khẩu của Tổng cục Hải quan góp phần vào sự phát triển kinh tế xã hội của cả nước
nói chung và của Ngành Hải quan nói riêng.

7. Kết cấu luận văn:
Căn cứ vào mục tiêu, đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu đã nêu, kết cấu của
luận văn ngoài lời mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo có 3 chương:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu về thuế xuất nhập khẩu đối với ngành Hải
quan.
Chương 2: Thực trạng quản lý, tổ chức thu thuế xuất nhập khẩu của Tổng
cục Hải quan
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện tổ chức thu thuế xuất nhập khẩu của Tổng
cục Hải quan.


- 13 -


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU ĐỐI VỚI
NGÀNH HẢI QUAN
1.1. Khái niệm về thuế xuất nhập khẩu
Sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển dẫn đến các quan hệ mua bán trao
đổi hàng hoá giữa các quốc gia diễn ra ngày càng tăng. Mỗi một quốc gia độc lập
có chủ quyền đều sử dụng một loại thuế thu vào hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu qua
cửa khẩu, biên giới nước mình. Thuế này được gọi chung là thuế quan (Custom
duty).
Trong điều kiện nền kinh tế thế giới phát triển theo xu hướng quốc tế hóa thì
pháp luật của các nước về thuế xuất khẩu, nhập khẩu ngày càng có xu thế hội nhập
với các quốc gia trong khu vực và trên phạm vi toàn thế giới.
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là một loại thuế đánh vào các hàng hoá mậu
dịch, phi mậu dịch được phép xuất khẩu, nhập khẩu qua biên giới Việt Nam.
Theo Giáo trình thuế của Học viện tài chính “Thuế là một khoản đóng góp
bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho Nhà nước theo mức độ và thời hạn được
pháp luật quy định nhằm sử dụng cho mục đích cơng cộng”.[29]
Thuế xuất khẩu, nhập khẩu là sắc thuế đánh vào hàng hóa xuất khẩu hoặc nhập
khẩu trong quan hệ thương mại quốc tế. Thuế xuất nhập khẩu hoặc thuế quan là cách
gọi chung của hai loại thuế trong lĩnh vực thương mại quốc tế là thuế xuất khẩu và
thuế nhập khẩu. Thuế xuất nhập khẩu là loại thuế đánh vào hàng hoá được chuyên
chở qua biên giới hoặc lãnh thổ hải quan. Thông thường, các nước đều khơng đánh
thuế xuất khẩu để khuyến khích hoạt động xuất khẩu ngoại trừ một số ít mặt hàng là
nguyên liệu thô. Ngược lại, hầu hết các mặt hàng nhập khẩu đều bị đánh thuế nhập
khẩu ngoại trừ một số mặt hàng khuyến khích nhập khẩu.
Thuế xuất khẩu, nhập khẩu là loại thuế gián thu. Nhà nước sử dụng thuế xuất
khẩu, nhập khẩu để điều chỉnh hoạt động ngoại thương thông qua việc tác động vào cơ
cấu giá cả của hàng hố xuất, nhập khẩu. Vì vậy, thuế xuất khẩu, nhập khẩu là một yếu
tố cấu thành trong giá của hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu. Người nộp thuế là người



- 14 -

thực hiện hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá; người chịu thuế là người tiêu dùng cuối
cùng. Việc tăng, giảm thuế suất thuế xuất khẩu, nhập khẩu sẽ tác động trực tiếp tới giá
cả hàng hoá xuất, nhập khẩu, từ đó ảnh hưởng tới nhu cầu và việc lựa chọn hàng hoá
của người tiêu dùng, buộc các nhà sản xuất và nhập khẩu hàng hoá phải điều chỉnh sản
xuất kinh doanh của mình cho phù hợp.
Thuế xuất khẩu, nhập khẩu là loại thuế gắn liền với hoạt động ngoại thương.
Hoạt động ngoại thương giữ một vai trò quan trọng trong sự phát triển của nền kinh
tế quốc dân, tuy nhiên hoạt động này địi hỏi phải có sự quản lý chặt chẽ của nhà
nước. Thuế xuất khẩu, nhập khẩu là một công cụ quan trọng của nhà nước nhằm
kiểm sốt hoạt động ngoại thương thơng qua việc kê khai, kiểm tra, tính thuế đối
với hàng hố xuất, nhập khẩu.
Thuế xuất khẩu, nhập khẩu chịu ảnh hưởng trực tiếp của các yếu tố quốc tế như:
sự biến động kinh tế thế giới, xu hướng thương mại quốc tế… Thuế xuất khẩu, nhập
khẩu điều chỉnh vào hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá của một quốc gia. Sự biến
động của kinh tế thế giới, xu hướng thương mại quốc tế trong từng thời kỳ sẽ tác động
trực tiếp tới hàng hóa xuất, nhập khẩu của các quốc gia, nhất là trong xu thế tự do hoá
thương mại, mở cửa và hội nhập kinh tế như hiện nay. Để đạt được những mục tiêu đề
ra địi hỏi chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu phải có tính linh hoạt cao, có sự thay
đổi phù hợp tuỳ theo sự biến động của kinh tế thế giới và thương mại quốc tế, ngoài ra
chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu cịn phải đảm bảo phù hợp với hiệp định, cam kết
quốc tế mà mỗi quốc gia ký kết, tham gia.
Như vậy, có rất nhiều các định nghĩa khác nhau về thuế do có những góc độ
đề cập khác nhau, nhưng tựu chung lại, theo học viên thuế là một khoản tiền hoặc
hiện vật mà các tổ chức, cá nhân thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi đóng góp theo luật
định cho nhà nước theo mức độ, thời hạn cụ thể nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của
Nhà nước, điều tiết vĩ mô nền kinh tế, phân phối lại thu nhập và của cải của xã hội,
kiểm sốt q trình phân phối và mức chi tiêu trong nền kinh tế, thay đổi tập qn

tiêu dùng của xã hội và khơng mang tính hồn trả trực tiếp cho người nộp thuế. Một
phần thuế mà các tổ chức và cá nhân đóng góp cho Nhà nước được trả về với người


- 15 -

dân một cách gián tiếp dưới các hình thức như trợ cấp xã hội, phúc lợi xã hội và quỹ
tiêu dùng khác.

1.2. Quá trình ra đời và bổ sung sửa đổi của Thuế xuất nhập khẩu ở Việt
Nam
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu được nhà nước ta ban hành vào năm 1951,
thời điểm này thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là công cụ để nhà nước thực hiện
chức năng quản lý việc xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá giữa vùng tự do và vùng bị
tạm chiếm, bảo vệ và phát triễn kinh tế vùng tự do, xúc tiến việc giao lưu các loại
hàng hoá là nhu yếu phẩm cần thiết cho quân đội và nhân dân. Phương châm đấu
tranh kinh tế với địch là đẩy mạnh xuất khẩu, tranh thủ nhập khẩu các loại hàng hoá
cần thiết cho kháng chiến, sản xuất và đời sống nhân dân. Do đó, nhà nước miễn
thuế xuất khẩu cho tất cả các loại hàng hoá của vùng tự do. Mặt khác, hạn chế nhập
khẩu hàng hoá từ vùng địch. Thuế suất áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu là từ 30
% trở lên.
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hàng mậu dịch được Quốc hội nước ta
ban hành ngày 29 -12 -1987. Ðạo luật này chỉ điều chỉnh quan hệ thu nộp thuế phát
sinh từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng mậu dịch. Do đó có sự phân biệt trong
áp dụng chế độ thu thuế giữa hàng hoá mậu dịch với các loại hàng hoá phi mậu dịch
khác.
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã được Quốc hội thông qua ngày 26 -121991 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhậpkhẩu
đã được Quốc hội thông qua ngày 5 -7- 1993. Luật này được Quốc hội thông qua
ngày 20 -5 1998 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1 -1- 1999.Mới đây nhất quốc hội

thông qua luật thuế xuất khẩu , nhập khẩu ngày 14 – 6 – 2005. Luật thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu hiện hành có phạm vi điều chỉnh rộng, luật này quy định về thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu,
biên giới Việt Nam; hàng hóa mua bán, trao đổi của cư dân biên giới và hàng hóa
mua bán, trao đổi khác được coi là hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Theo đó, Nhà


- 16 -

nước thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu khơng phân biệt tính chất hàng hố là xuất
khẩu, nhập khẩu mậu dịch hay phi mậu dịch.
Ðối tượng điều chỉnh của Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu là quan hệ thu
nộpthuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu giữa nhà nước với các tổ chức và cá nhân có
hàng hố được phép xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam, kể cả
hàng hoá từ thị trường trong nước đưa vào khu chế xuất và từ khu chế xuất đưa ra
thị trường trong nước.
Theo quy định của Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu thì thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu đối với hàng hố mậu dịch mang tính chất gián thu. Cịn đối với các loại
hàng hố khác thì tùy theo từng trường hợp mà thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có
tính chất gián thu hoặc tính chất trực thu.

1.3. Đặc điểm của thuế xuất nhập khẩu
Theo [28] do thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu có tính gián thu nên
người chịu thuế khó nhận biết mình phải nộp thuế nên ít phản ứng, dễ thu hơn do đó
tính chất quản lý cũng khác với thuế trực thu.
Thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu gắn chặt với hoạt động XNK do
đó gắn chặt với hoạt động kinh tế đối ngoại của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ. Vì,
ngoại thương là một trong những hình thức hoạt động cơ bản của kinh tế đối ngoại
mà thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu là cơng cụ góp phần thực hiện vai
trị quản lý, kiểm sốt hoạt động ngoại thương của Nhà nước. Hoạt động kinh tế đối

ngoại của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ không cố định mà luôn vận động và phát
triển theo sự phát triển chung của nhân loại, nên có thể nói thuế đối với hàng hóa
xuất khẩu, nhập khẩu gắn chặt với hoạt động kinh tế đối ngoại và luôn vận động,
phát triển theo sự phát triển của quan hệ kinh tế đối ngoại của mỗi quốc gia.
Thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu có tính xung đột cao, mâu thuẫn
nhau (lợi ích khác nhau) giữa doanh nghiệp xuất khẩu, nhập khẩu, người tiêu dùng
và doanh nghiệp sản xuất trong nước, nên nếu bảo hộ cao cho sản xuất trong nước
thì doanh nghiệp xuất khẩu, nhập khẩu phản ứng và ngược lại. Vì vậy, doanh
nghiệp xuất khẩu, nhập khẩu người tiêu dùng thường ủng hộ tự do hóa thương mại,


- 17 -

nhưng doanh nghiệp sản xuất trong nước lại muốn duy trì hàng rào thuế quan cao,
lâu dài.
Tổ chức thu thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu bao gồm một số
nghiệp vụ kỹ thuật địi hỏi tính chuyên sâu, chuyên nghiệp cao như phân loại hàng
hóa, xác định trị giá, xác định xuất xứ và liên quan nhiều đến việc thực hiện các
cam kết quốc tế/khu vực; chịu ảnh hưởng và tác động lớn bởi sự thay đổi trong đời
sống kinh tế, chính trị của thế giới nhiều hơn các loại thuế khác (ví dụ như thuế
nhập khẩu mặt hàng xăng dầu luôn biến động thê sự biến động của giá thế giới).
Tổ chức thu thuế thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu là một khâu
trong quy trình nghiệp vụ hải quan. Mỗi một cơng việc của thủ tục hải quan, từ khi
đăng ký tờ khai, đến khi thơng quan hàng hóa đều là cơ sở để xác định thuế, do vậy
để quản lý thuế tốt thì thủ tục hải quan phải chuẩn xác và phải được thực hiện một
cách tốt nhất.

1.4. Vai trò của thuế xuất nhập khẩu
Theo [14] thì thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là công cụ rất quan trọng để
nhà nước thực hiện chính sách kinh tế của mình, quản lý các hoạt động xuất khẩu,

nhập khẩu; mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại; nâng cao hiệu quả của hoạt động
xuất khẩu, nhập khẩu. Căn cứ vào từng giai đoạn lịch sử và điều kiện kinh tế – xã
hội của mỗi nước mà thuế quan được sử dụng với nhiều mục tiêu khác nhau như:
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là nguồn thu quan trọng cho ngân sách nhà nước.
Mục tiêu chung của các quốc gia là sử dụng thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu để tạo
nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Ðồng thời thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là
loại thuế dễ thu nhất, ít bị phản ứng từ phía trong nước, thậm chí có khi cịn được
sự ủng hộ của nhiều người. Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cấu thành trong giá cả
hàng hoá, làm tăng giá hàng hố, do đó có tác dụng điều tiết xuất khẩu, nhập khẩu
và hướng dẫn tiêu dùng; bởi vì lượng hàng hoá xuất khẩu hay nhập khẩu phụ
thuộc vào sức tiêu thụ hàng hoá, yếu tố này lại phụ thuộc vào giá cả. Giá cả hàng
hoá cao hay thấp sẽ quyết định việc giảm hoặc tăng sức cạnh tranh của hàng hố
đó trên thị trường. Thơng qua thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nhà nước điều tiết


- 18 -

việc xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá . Hơn nữa, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu sẽ
hạn chế việc tiêu dùng hàng hoá xa xỉ hoặc các loại hàng hố khơng được khuyến
khích sử dụng như thuốc lá, rượu, bia…
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có tác dụng bảo hộ nền sản xuất trong
nước. Việc đánh thuế cao vào hàng hoá nhập khẩu sẽ giúp các nhà sảnxuất trong
nước có thể cạnh tranh được với hàng hố nhập khẩu. Ðặc biệt thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu giúp cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh các ngành còn non trẻ
trong nước có thời gian trưởng thành và sinh lời để từ đó có thể cạnh tranh với hàng
hố nhập khẩu. Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có tác dụng giảm bớt nạn thất
nghiệp vì việc đánh thuế nhập khẩu cao thì hàng hố nhập khẩu sẽ giảm; để bù vào
lượng hàng hố nhập khẩu đó nhà nước ta phải mở rộng đầu tư, phát triển sản xuất,
tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động từ đó góp phần giải quyết nạn thất
nghiệp trong nước. Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là công cụ để nhà nước thực

hiện chính sách phân biệt đối xử trong quan hệ thương mại đối với các nước. Chẳng
hạn Mỹ đòi EU phải giảm từ 30 – 50% trợ cấp cho nông nghiệp, nếu không Mỹ sẽ
tăng mức thuế đánh vào hàng hố nơng sản củaEU nhập khẩu vào thị trường Mỹ.
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu góp phần mở rộng quan hệ kinh tế đối ngọai giữa
Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới. Luật thuế xuất khẩu, nhập
khẩu là công cụ quan trọng để Nhà nước thực hiện chức năng quản lý và nâng cao
hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu trong cả nước.
Thuế xuất nhập khẩu có vai trị cụ thể như sau:
* Điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu:
Trong nền kinh tế thị trường tồn cầu hố, hoạt động thương mại quốc tế
diễn ra ngày càng lớn về quy mô, đa dạng về chủng loại. Trong các luồng hàng hố
xuất nhập khẩu đó có loại phục vụ nhu cầu thiết yếu cho mọi tầng lớp dân cư trong
xã hội, cũng có những mặt hàng chỉ phục vụ cho một số ít tầng lớp dân cư giàu có
trong xã hội. Có những mặt hàng phục vụ cho mục đích an ninh quốc phịng, cũng
có những mặt hàng gây tổn hại đến anh ninh, an tồn xã hội… Để khuyến khích hay
hạn chế các loại hàng hố đó các nhà nước sử dụng nhiều cơng cụ khác nhau như


- 19 -

hạn ngạch, quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật hay thuế quan… trong đó thuế quan vẫn
là cơng cụ hiệu quả.
Như đã biết thuế quan là một bộ phận cấu thành giá hạch toán của hàng hoá
xuất nhập khẩu. Nó là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của hoạt động kinh
doanh xuất nhập khẩu. Nhà nước sẽ đánh thuế tỷ lệ nghịch với mức độ khuyến
khích đối với hoạt động xuất nhập khẩu một mặt hàng nào đó.
Ví dụ: Trong thời gian gần đây nhằm hạn chế việc xuất khẩu quặng nhà
nước tăng thuế suất thuế xuất khẩu các mặt hàng quặng từ 15% lên 30% và để hạn
chế việc nhập khẩu ô tô từ 5 chỗ ngồi trở xuống nhà nước nâng thuế suất thuế nhập
khẩu mặt hàng này từ 60% đến 83%

* Tạo nguồn thu ngân sách:
Thuế là nguồn thu chính cho ngân sách nhà nước. Có nhiều sắc thuế được áp
dụng như thuế xuất nhập khẩu, thuế tài nguyên, thuế thu nhập, thuế giá trị gia tăng...
Tuỳ theo từng quốc gia, từng thời kỳ khác nhau mà sự đóng góp của thuế xuất nhập
khẩu trong tổng thu ngân sách là khác nhau. Tỷ trọng này thường cao hơn ở các
nước đang phát triển.
Trong các sắc thuế được áp dụng thì thuế xuất nhập khẩu được cho là dễ huy
động nhất. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, vai trò tạo nguồn thu ngân sách
của thuế xuất nhập khẩu càng ngày càng giảm. Tuy nhiên, đối với các nước đang
phát triển với nền sản xuất trong nước yếu kém thì thuế xuất nhập khẩu vẫn đóng
vai trị quan trọng.
Với vai trị tạo nguồn thu cho ngân sách thì thuế xuất nhập khẩu là một phận
của chính sách tài chính quốc gia.
* Bảo hộ nền sản xuất trong nước:
Khi nói đến vai trò bảo hộ sản xuất trong nước nghĩa là chúng ta đang nói
đến thuế nhập khẩu. Thuế quan bảo hộ được đưa ra với mục đích làm tăng giá một
cách nhân tạo đối với hàng hoá nhập khẩu làm giảm khả năng cạnh tranh của nó đối
với hàng hóa được sản xuất trong nước.Và để thay thế, người tiêu dùng sẽ chuyển
sang sử dụng hàng hoá trong nước sản xuất. Nói chung, thuế quan bảo bộ được tính


- 20 -

toán và đưa ra khi nhà nước cho rằng ở mức thấp hơn thì sản xuất trong nước sẽ gặp
phải sự cạnh tranh rất quyết liệt từ hàng nhập khẩu và về cơ bản thị phần sẽ nằm
trong tay các nhà nhập khẩu.
Trong xu thế tồn cầu hố, khu vực hóa thì tự do hố thương mại là xu hướng
tất yếu, các nước đang phát triển phải đứng trước cuộc cạnh tranh khốc liệt, không
ngang sức. Đứng trên phương diện lý thuyết, cạnh tranh là nhân tố quan trọng thúc
đẩy sản xuất phát triển, nhưng mặt tích cực đó của cạnh tranh chỉ có thể có được

chung sản xuất, chất lượng thấp, trong giai đoạn đẩu tư ít có khả năng đương đầu
trong cuộc cạnh tranh với nền kinh tế của các nước phát triển. Do đó yêu cầu bảo
hộ là tất yếu. Chính phủ các nước này đều muốn sử dụng công cụ thuế xuất nhập
khẩu trong hoạt động kinh tế đối ngoại để bảo hộ có giới hạn nền sản xuất trong
nước. Tuy nhiên, nếu quá trình nhấn mạnh đến tác dụng bảo hộ của thuế xuất nhập
khẩu sẽ làm cho nền kinh tế đi đến xu hướng tự cung tự cấp, khơng có khả năng mở
rộng quan hệ kinh tế với bên ngoài, sớm muộn sẽ đưa đến nền kinh tế tụt hậu.
Trên thực tế thì rất khó có thể phân biệt rạch rịi giữa thuế quan tạo nguồn
thu và thuế quan bảo hộ bởi vì thuế quan đã chứa đựng hai yếu tố là bảo hộ và tạo
nguồn thu. Bảo hộ sản xuất trong nước nhằm hỗ trợ nền sản xuất phát triển, tạo
công ăn việc làm và nguồn thu nội địa. Bảo hộ cũng làm giảm tính cạnh tranh, lãng
phí nguồn lực gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Chính vì vậy việc lựa chọn ngành
nghề bảo hộ, thời gian bảo hộ phù hợp là điều vô cùng quan trọng. Về lâu dài thì
đầu tư đổi mới cơng nghệ, cải tiến phương thức quản lý để nâng cao chất lượng, hạ
giá thành sản phẩm để tăng năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế mới là yếu tố
quyết định.
* Khẳng định vai trị chủ quyền quốc gia:
Mọi hàng hố đều phải khai báo, kiểm tra và tính thuế (nếu có) trước khi
được xuất nhập khẩu thể hiện việc khẳng định chủ quyền của một quốc gia. Khẳng
định chủ quyền quốc gia còn thể hiện ở việc đánh thuế khác nhau đối với hàng hóa
có xuất xứ từ những quốc gia hay vùng lãnh thổ khác nhau. Ngày nay, việc khẳng


- 21 -

định chủ quyền qua công cụ thuế quan không được đề cao khi hầu hết các nước đều
tham gia các hiệp định song phương hay đa phương.
* Thuế xuất nhập khẩu và việc làm:
Thông qua điều chỉnh mức thu thuế xuất nhập khẩu mà gây nên áp lực tăng
giá hàng nhập khẩu, từ đó gây nên phản ứng của người tiêu dùng trong nước, hướng

cầu vào sản phẩm nội địa. Đây là cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước phát triển
sản xuất, thu hút lao động, do đó làm giảm thất nghiệp.
* Thuế xuất nhập khẩu và đầu tư nước ngoài:
Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong điều kiện thu nhập b́ nh quân đầu người
thấp, tỷ lệ tiết kiệm nội địa không đáng kể, đồng tiền ít có khả năng chuyển đổi như
nước ta th́ nhu cầu thu hút vốn đầu tư nước ngoài là hết sức cấp bách. Để đạt được
mục tiêu đó, phương hướng chung của cơng cuộc cải cách, đổi mới chính sách thuế
xuất khẩu là giảm nhẹ thuế suất, liên kết Chính phủ các nước để hạn chế việc đánh
thuế trùng, tạo ra sự thơng thống về chính sách, chế độ thuế với nhà đầu tư. Mức
thuế nhập khẩu giảm sẽ khuyến khích các nhà đầu tư nước ngồi tăng đầu tư vào
trong nước từ đó thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển.
* Thuế xuất nhập khẩu là một bộ phận của chính sách tài chính quốc gia
Thuế xuất nhập khẩu là một nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước. Đặc biệt
đối với những nước đang phát triển như nước ta th́ đây là một nguồn thu quan trọng.
Hiện nay, tuy đang trong quá tŕnh hội nhập việc cắt giảm thuế quan là tất yếu để
tham gia kinh tế khu vực và thế giới nhưng thuế xuất nhập khẩu vẫn là một nguồn
thu đáng kể cho Ngân sách Nhà nước.

1.5. Các nội dung cơ bản của quản lý thuế xuất nhập khẩu
Theo [2] thì nội dung cơ bản của quản lý thuế xuất nhập khẩu là:
Thứ nhất, đó là xây dựng hệ thống văn bản pháp luật thuế: Trong bất cứ quốc
gia nào cũng đều có hệ thống các văn bản pháp luật nói chung và quy định về thuế
nói riêng. Tùy theo từng mức độ hiệu lực và nội dung quy định mà văn bản pháp
luật có các cấp độ khác nhau như Luật, Nghị định, Thông tư, Quyết định... các văn


- 22 -

bản cấp thấp hơn nhằm quy định chi tiết các điều khoản mà văn bản cao hơn chưa
cụ thể hoặc hướng dẫn chi tiết các trường hợp cụ thể.

Ví dụ, ở Việt Nam có Luật quản lý thuế tại Điều 51 Chương V về hồ sơ gia
hạn nộp thuế. Trên cơ sở đó, tại mục I.2 Phần G Thơng tư 59/2008/TT-BTC ngày
14/6/2007 của Bộ Tài chính đã hướng dẫn cụ thể hồ sơ hoàn thuế đối với từng loại
hình để chi tiết hóa Điều 51 của Luật quản lý thuế.
Thứ hai, đó là xây dựng mơ hình bộ máy thu thuế: Xây dựng mối quan hệ
giữa cơ quan quản lý thuế trong đó có cơ quan hải quan và Chính phủ. Hiện nay, có
nhiều mơ hình khác nhau trong đó có kiểu mơ hình cơ quan quản lý thuế đặt dưới
sự quản lý của một Bộ thu hay mơ hình trực tiếp chịu sự quản lý của Bộ trưởng Bộ
Tài chính như Việt Nam.
Thứ ba, đó là xây dựng cơ chế quản lý thuế: Theo từng tình trạng, hồn cảnh,
trình độ phát triển, đặc điểm của mỗi quốc gia mà quản lý thuế có những mơ hình
khác nhau, nhưng thường là hai dạng: (i) áp đặt, cơ quan quản lý thuế tính thuế và
ra thơng báo thuế, (ii) trên cơ sở tự nguyện của đối tượng nộp thuế, người nộp thuế
tự tính, tự khai và tự nộp. Cơ quan thu thuế khơng can thiệp vào q trình kê khai,
nộp thuế của đối tượng nộp thuế, nhưng sẽ áp dụng các biện pháp xử phạt, cưỡng
chế để xử lý vi phạm khi người nộp thuế không thực hiện nghiêm chỉnh việc kê
khai, nộp thuế này.
Thứ tư, đó là tổ chức triển khai thực hiện các luật thuế: Đây là một nội dung
quan trọng nhất trong công tác tổ chức thu thuế, nội dung này quyết định sự thành
công hay thất bại của các văn bản pháp quy về thuế, đưa hệ thống pháp luật thuế
vào cuộc sống. Việc tổ chức, triển khai thực hiện các luật thuế trong đó có thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu bao gồm cơng tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thuế, dự
toán thu, tổ chức thu, quản lý đối tượng nộp thuế, kiểm tra, thanh tra thuế, cưỡng
chế và xử lý tố tụng về thuế. Các khâu này tạo thành một quy trình khép kín để vừa
đảm bảo được mục đích thu đúng, thu đủ vừa tạo điều kiện thuận lợi, tránh phiền
hà, thiệt thòi cho đối tượng nộp thuế. Các bước này có thể khái quát như sau:


- 23 -


+ Do đặc trưng của các luật thuế là khá nhạy cảm, nó liên quan trực tiếp đến
thu nhập của các thành viên trong xã hội, nên ngoài việc tăng cường các biện pháp
tổ chức thực hiện thì cơ quan quản lý thuế không thể bỏ qua công tác tuyên truyền,
phổ biến về nghĩa vụ nộp thuế để nâng cao tính tuân thủ của đối tượng nộp thuế.
Các biện pháp tun truyền có thể thơng qua các panơ, áp phích, tờ rơi, sách hướng
dẫn, trên các phương tiện thông tin đại chúng...
+ Do thuế là một nguồn thu chính cho ngân sách các quốc gia, trong khi ngân
sách địi hỏi cần phải có sự cân đối cả về mặt thời gian và số lượng tiền, ngoài ra số
thu dự kiến về thuế là căn cứ để thực hiện quản lý bằng dự toán của các ngành khác
trong nền kinh tế quốc dân nên hàng năm nhà nước đều phải có dự tốn thu thuế.
Dự tốn này có thể là ngắn hạn, có thể là dài hạn tùy thuộc vào mục đích sử dụng và
căn cứ vào nhiệm vụ kinh tế xã hội của nhà nước, tình hình thực hiện dự tốn của
các năm trước, các chính sách thuế hiện hành. Dự toán thu thuế cũng xuất phát từ
việc đặt ra mục tiêu phấn đấu của các cơ quan quản lý thuế trong đó có cơ quan hải
quan trong công tác thu thuế xuất nhập khẩu.
+ Việc tổ chức thực hiện việc thu thuế và quản lý người nộp thuế bao gồm:
đăng ký đối tượng nộp thuế, tiếp nhận và kiểm tra việc khai thuế, ấn định thuế, kế
toán và thống kê thuế. Để quản lý tốt thu nộp thuế, cơ quan quản lý thuế nói chung
và hải quan nói riêng sẽ cấp mã số thuế cho từng đối tượng nộp thuế khi họ đăng ký
kê khai thuế. Mục tiêu của quản lý đối tượng nộp thuế thông qua mã số thuế nhằm
quản lý chặt chẽ và có thể nhanh chóng tra cứu, kiểm tra đối tượng nộp thuế.
Việc ấn định thuế không phụ thuộc vào cơ chế quản lý thu thuế, tuy nhiên
trong cơ chế người nộp thuế tự khai, tự nộp thì bản chất của việc ấn định thuế được
thể hiện rõ nét hơn. Theo cơ chế tự khai, tự nộp người khai tự căn cứ trên các thơng
tin của mình để kê khai số thuế phải nộp nhưng trường hợp người khai khơng tự
tính được số thuế phải nộp hoặc cố tình hoặc khơng biết đã căn cứ vào các thông tin
không chuẩn xác, không hợp pháp để khai báo hoặc khai báo không đầy đủ để giảm
bớt số thuế phải nộp hoặc cố tình trì hoãn kéo dài thời hạn quy định việc cung cấp
các tài liệu liên quan đến xác định số thuế phải nộp mà cơ quan hải quan có đủ căn



- 24 -

cứ pháp lý đưa ra trị giá giao dịch thực tế của số hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thì
cơ quan hải quan sẽ ấn định thuế và đối tượng nộp thuế có trách nhiệm thực hiện.
Kế tốn thuế và thống kê thuế là quá trình tổ chức hệ thống thông tin bằng số
liệu để phản ánh số thuế đã thu, đã hồn, số thuế phải thu thơng qua các bút tốn có
thể có sự hỗ trợ của hệ thống cơng nghệ thơng tin. Kế tốn thuế được thống nhất từ
trung ương đến địa phương. Thông qua hệ thống thông tin từ thống kê thuế, cơ quan
quản lý thuế đánh giá đúng được hiệu quả của quá trình quản lý thu thuế để rút ra
ưu nhược điểm của q trình quản lý để hồn thiện hay đổi mới cơng tác quản lý
thuế và kịp thời điều chỉnh chính sách.
Bên cạnh việc đánh giá tính hiệu quả của cơng tác thu thuế và q trình áp
dụng các chính sách thuế, cơ quan quản lý thuế còn phải tổ chức kiểm tra, thanh tra
định kỳ hoặc đột xuất để xem xét các hoạt động của chủ thể quản lý và đối tượng
của quản lý thuế nhằm đảm bảo thực hiện tốt các luật thuế, tránh sai sót.
Cưỡng chế thuế và xử lý tố tụng về thuế: là các chế tài áp dụng trong trường
hợp các đối tượng nộp thuế cố tình khơng thực hiện nghĩa vụ thuế.

1.6. Ngun tắc xây dựng chính sách thuế xuất nhập khẩu
Có nhiều ngun tắc khi xây dựng chính sách thuế xuất nhập khẩu. Nhưng
theo [14], [23], [28] thì hiện nay, trong xu thế hội nhập, các nhà hoạch định chính
sách nhấn mạnh đến nguyên tắc sau:
Nguyên tắc tổng thể: Nguyên tắc này xem xét một cách tổng thể sự tác động
của thuế quan đối với nền kinh tế của một nước.
Thuế xuất nhập khẩu là một công cụ để bảo hộ nền sản xuất trong nước,
nhưng mặt khác thuế xuất nhập khẩu cũng gây ra những tác động tiêu cực, những
phản ứng phụ khi dược áp dụng trong nền kinh tế. Để đánh giá hiệu quả của chính
sách thuế xuất nhập khẩu, các nhà hoạch định chính sách phải ln quan tâm so
sánh những tác động tiêu cực, phản ứng phụ này với những mặt tích cực của chính

sách.
Sau khi có thuế quan, giá của mặt hàng nhập khẩu ở thị trường nội địa tăng
khiến người sản xuất trong nước có lợi, cịn người tiêu dùng bị thiệt. điều này cũng


- 25 -

tương tự đối với lĩnh vực đầu tư nước ngồi. Ví dụ: Khi cần bảo hộ một ngành A
nào đó bằng cách tăng thuế quan để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngồi, thì cũng vơ
hình chung làm giảm vốn đầu tư vào các ngành khác mà có lẽ trong điều kiện bình
thường các ngành đó sẽ nhận được vốn đầu tư nước ngồi.
Cũng có quan điểm cho rằng cần phải có một số hình thức bảo hộ để thu hút
các nhà đầu tư nước ngoài thực sự sản xuất trong nội địa thay cho việc xuất sang
nước đó. Theo quan điểm này, có một sự đánh đổi giữa đầu tư và thương mại, càng
nhiều hoạt động thương mại có nghĩa là càng ít đầu tư, do vậy càng nhiều đầu tư
càng ít đ ̣i hoạt động thương mại.
Nguyên tắc này đ ̣òi hỏi khi xây dựng chính sách thuế, các nhà hoạch định
chính sách phải tính toán, cân nhắc lựa chọn đúng mục tiêu: bảo hộ, hay thương
mại, hay đầu tư cho phù hợp với điều kiện của từng nước.
Nguyên tắc minh bạch: Nguyên tắc minh bạch trong chính sách thuế quan đ ̣i
hỏi mục tiêu chính sách thuế xuất nhập khẩu phải được phân biệt một cách rơ ràng.
Nói một cách cụ thể, chính sách thuế phải được thiết kế sao cho xác định được
ngành nào, lĩnh vực nào được bảo hộ và cấp độ bảo hộ là bao nhiêu.
Nguyên tắc này là hệ quả hay là bước tiếp theo của nguyên tắc trên, bởi lẽ, bảo
hộ kéo theo đánh đổi căn bản. Do vậy, điều này quan trọng là phải làm cho sự đánh
đổi này thật minh bạch. Điều này cho phép các nhà hoạch định chính sách hiểu tác
động do chính sách của họ đem lại.
Đây là một nguyên tắc rất quan trọng, nhất là đối với những nước đang phát
triển như nước ta, nơi mà chính sách thường khơng có mục tiêu nhất định, rơ ràng,
sự tuỳ tiện thay đổi mục tiêu của chính sách bằng việc tuỳ tiện thay đơi mức thuế

quan khiến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực phải gánh chịu hậu quả khơng xác định
trước, gây khó khăn, thậm chí làm phá sản cả kế hoạch sản xuất kinh doanh của một
ngành, một lĩnh vực.
Nguyên tắc dự đoán được: Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong bất kỳ
ngành nào, lĩnh vực nào cũng đều phải lập kế hoạch. Và như vậy, chính sách của
chính phủ phải đảm bảo khả năng có thể dự đốn được, sẽ thật phi lư nếu chính


×