Tải bản đầy đủ (.docx) (64 trang)

ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT MÁC 3 CHỦ NGHĨA KHOA HỌC XÃ HỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (302.24 KB, 64 trang )

Câu 1: Quan điểm về đặc điểm GCCN trong nền sản xuất TBCN. Liên hệ GCCN VN
Việc xã hội hóa lao động ngày càng tiến nhanh thêm dưới muôn vàn hình thức, đã biểu hiện đặc biệt
rõ ràng ở sự phát triển của đại công nghiệp…, đấy là cơ sở vật chất chủ yếu cho sự ra đời không thể tránh
khỏi của chủ nghĩa xã hội” mà động lực trí tuệ và tinh thần lực lượng duy nhất của sự chuyển biến đó chính
là giai cấp cơng nhân giúp cuộc cách mạng vĩ đại nhất trong lịch sử phát triển của xã hội lồi người thành
cơng – cách mạng xã hội chủ nghĩa.
A. LÝ LUẬN CHUNG
*Khái niệm GCCN
C.Mác và Ph.Ăngghen đã sử dụng nhiều thuật ngữ khác nhau để nói về giai cấp công nhân giống như
giai cấp vô sản - giai cấp xã hội mà hoàn toàn chỉ dựa vào việc bán sức lao động của mình hay là làm thuê
ở thế kỉ XIX. Giai cấp công nhân - con đẻ của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, giai cấp đại biểu cho
lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất hiện đại và họ không phải là chủ sở hữu tư liệu sản
xuất. “Họ không những là nô lệ của giai cấp tư sản, của nhà nước tư sản, mà hàng ngày, hàng giờ, cịn là nơ
lệ của máy móc, của người đốc cơng và trước hết là của chính nhà tư sản chủ cơng xưởng.”- Trích Tun
ngơn của Đảng Cộng Sản.
Cũng theo C.Mác giai cấp công nhân là giai cấp tạo ra các giá trị thặng dư và sự giàu có cho xã hội.
Ngày nay, đây là giai cấp lao động sản xuất ra của cải vật chất trong lĩnh vực công nghiệp với trình độ kỹ
thuật và cơng nghệ ngày càng hiện đại, tiên tiến. Sản phẩm thặng dư do họ làm ra là nguồn gốc chủ yếu
cho sự giàu có và phát triển xã hội. Trong tác phẩm “Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản”,
Ph.Ăngghen định nghĩa: “Giai cấp vô sản là một giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ kiếm sống bằng việc bán lao
động của mình, chứ khơng phải sống bằng lợi nhuận của bất cứ tư bản nào, đó là một giai cấp mà hạnh
phúc và đau khổ, sống và chết tồn bộ sự sống cịn của họ đều phụ thuộc vào số cầu về lao động, tức là vào
tình hình chuyển biến tốt hay xấu của công việc làm ăn, vào những biến động của cuộc cạnh tranh khơng gì
ngăn cản nổi”. Tuy vậy, thật khơng chính xác khi gọi giai cấp vơ sản là giai cấp công nhân. Giai cấp công
nhân là giai cấp vô sản có trình độ lao động cơng nghiệp cao là đứa con của nền công nghiệp hiện đại.
Song khái niệm giai cấp công nhân (giai cấp vô sản) được các nhà kinh điển xác định trên 2 phương diện
cơ bản: kinh tế - xã hội và chính trị - xã hội.
*Xem xét giai cấp công nhân trên phương diện kinh tế - xã hội
Thứ nhất, giai cấp công nhân với phương thức lao động công nghiệp trong nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa: đó là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất cơng
nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hóa cao. Đã là cơng nhân hiện đại thì phải gắn với nền đại cơng


nghiệp, bởi vì đó là sản phẩm của nền đại công nghiệp. Giai cấp công nhân hiện đại là hạt nhân, bộ phận cơ
bản của mọi tầng lớp cơng nhân. Các ơng cịn nhấn mạnh rằng, “Các giai cấp đều suy tàn và tiêu vong
cùng với sự phát triển của đại cơng nghiệp, cịn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân -5- nền đại
công nghiệp” và “công nhân cũng là một phát minh của thời đại mới, giống như máy móc vậy”… “cơng
nhân Anh là đứa con đầu lịng của nền công nghiệp hiện đại”.
Thứ hai, giai cấp công nhân trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đó là giai cấp của những người
lao động không sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Họ phải bán sức lao động cho nhà tư sản và bị
tư sản bóc lột giá trị thặng dư. Đối diện với nhà tư sản, công nhân là những người lao động tự do, với nghĩa
là tự do bán sức lao động của mình để kiếm sống. Chính điều này khiến cho người công nhân trở thành giai
cấp đối kháng với giai cấp tư sản. Công nhân ấy buộc phải tự bán mình để kiếm ăn từng bữa, họ được ví


như là một món hàng bị đem bán như bất kì món hàng nào khác vì thế họ phải chịu hết mọi sự may rủi của
cạnh tranh mọi sự lên xuống của thị trường. Đối diện quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đặc trưng cơ bản
của giai cấp công nhân trong chế độ tư bản chủ nghĩa được thể hiện theo cách gọi của C.Mác và
Ph.Ăngghen là giai cấp vô sản, “giai cấp công nhân làm thuê hiện đại vì mất các tư liệu sản xuất của bản
thân nên buộc phải bán sức lao động của mình để kiếm sống. Phương diện thứ hai này nói lên một trong
những đặc trưng cơ bản của giai cấp công nhân dưới chế độ tư bản chủ nghĩa nên C.Mác và Ph.Ăngghen
cịn gọi giai cấp cơng nhân là giai cấp vơ sản.
Ngày nay, với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, bộ mặt của giai cấp công nhân hiện đại có nhiều
thay đổi khác trước. Cơ cấu ngành nghề của giai cấp cơng nhân đã có những thay đổi to lớn: bên cạnh cơng
nhân của nền cơng nghiệp cơ khí đã xuất hiện công nhân của nền công nghiệp tự động hố, với việc áp
dụng phổ biến cơng nghệ thơng tin vào sản xuất. Song, dù cho trình độ kỹ thuật có thay đổi như thế nào đi
nữa thì xét theo tiêu chí kinh tế - xã hội, giai cấp công nhân vẫn tồn tại như là một giai cấp đặc thù. Căn cứ
vào hai phương diện cơ bản của giai cấp cơng nhân như đã trình bày ở trên, chúng ta có thể coi những
người lao động trong các ngành sản xuất công nghiệp, dịch vụ công nghiệp là cơng nhân. Cịn những người
làm cơng ăn lương phục vụ trong các ngành khác như y tế, giáo dục, văn hố, dịch vụ (khơng liên quan
trực tiếp đến sản xuất cơng nghiệp) ... là những người lao động nói chung, đang được thu hút vào tổ chức
cơng đồn nghề nghiệp, nhưng không phải là công nhân.
*Xem xét giai cấp công nhân trên phương diện chính trị - xã hội

Trong cách nhìn duy vật biện chứng về lịch sử sự thống trị của giai cấp tư sản, đặc biệt của bộ phận
tư sản đại công nghiệp là điều kiện ban đầu cho sự phát triển giai cấp cơng nhân. Nói chung sự phát triển
của giai cấp vô sản công nghiệp được quy định bởi sự phát triển của giai cấp tư sản công nghiệp. Chỉ dưới
sự thống trị của giai cấp này giai cấp vơ sản cơng nghiệp mới có được một quy mơ lớn và có thể nâng lên
thành một cuộc cách mạng.
Xem xét giai cấp công nhân (giai cấp vô sản) từ phương diện kinh tế - xã hội và chính trị - xã
hội trong chủ nghĩa tư bản các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học - C.Mác và Ph.Ăngghen không
những đưa lại quan niệm khoa học về giai cấp cơng nhân mà cịn làm sáng tỏ những đặc điểm quan trọng
của nó với tư cách là một giai cấp cách mạng có sứ mệnh lịch sử thế giới. Giai cấp cơng nhân có những đặc
điểm chủ yếu sau đây: Nổi bật nhất là lao động bằng phương thức công nghiệp với công cụ lao động là
máy móc, tạo ra năng suất cao, q trình lao động mang tính chất xã hội hóa. Giai cấp cơng nhân là sản
phẩm của nền đại công nghiệp, là chủ thể của quá trình sản xuất vật chất hiện đại. Vậy nên giai cấp công
nhân đại diện cho nền sản xuất tiên tiến, phương thức sản xuất tiên tiến mang tính chất xã hội hóa ngày
càng cao, quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội hiện đại. Nền sản xuất đại công nghiệp và phương
thức sản xuất xã hội hóa đã rèn luyện cho cơng nhân phẩm chất về tính tổ chức, kỷ luật lao động, tinh thần
hợp tác và tâm lí lao động cơng nghiệp. Và trong q trình lao động bị áp bức và bóc lột bởi giai cấp tư sản
và chủ nghĩa tư bản họ đã tự ý thức cho mình là một giai cấp chống lại tầng lớp thống trị và là một giai cấp
cách mạng có tinh thần cách mạng triệt để nhất. Những đặc điểm đó đã tạo nên những phẩm chất cần thiết
cho một giai cấp cách mạng và có vai trò lãnh đạo.
*Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và giai cấp công nhân thế giới hiện nay
a) Nội dung kinh tế:


Về kinh tế, giai cấp cơng nhân có nhiều sứ mệnh quan trọng. Đầu tiên là nắm vai trò là nhân tố hàng
đầu, quan trọng không thể thiếu và tiên phong của lực lượng sản xuất xã hội hóa cao. Bởi lẽ tính chất nền
tảng của xã hội hóa cao là chế độ sở hữu xã hội, tiêu biểu cho lợi ích của tồn xã hội. Mà giai cấp cơng
nhân là chủ thể đại biểu cho lợi ích chung của xã hội: Chỉ có giai cấp cơng nhân là giai cấp duy nhất khơng
có lợi ích riêng với nghĩa là tư hữu. Nó phấn đấu cho lợi ích chung của tồn xã hội. Nó chỉ tìm thấy lợi ích
chân chính của mình khi thực hiện được lợi ích chung của cả xã hội. Với nội dung này, giai cấp công nhân
hồn tồn phù hợp với vai trị trên. Giai cấp cơng nhân cũng nắm vai trị là đại biểu cho quan hệ sản xuất

mới, tiên tiến nhất dựa trên chế độ sở hữu xã hội (công hữu) về tư liệu sản xuất, đại biểu cho phương thức
sản xuất tiến bộ nhất thuộc về xu thế phát triển của lịch sử xã hội. Cụ thể nội dung sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân về kinh tế được hiểu như sau:
Về vai trị chủ thể của q trình sản xuất bằng phương thức sản xuất xã hội hóa cao giai cấp cơng
nhân có nhiệm vụ sản xuất ra của cải vật chất đáp ứng cho nhu cầu ngày càng tăng của con người và xã hội
để từ đó tạo tiền đề vật chất - kỹ thuật cho sự ra đời của xã hội mới. Ở các nước xã hội chủ nghĩa, giai cấp
cơng nhân thơng qua q trình cơng nghiệp hóa và thực hiện "một kiểu tổ chức xã hội mới về lao động"
nhằm tăng năng suất lao động xã hội và thực hiện các nguyên tắc sở hữu, quản lý, phân phối phù hợp với
nhu cầu phát triển sản xuất, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Nhìn vào thực tế, đa số các nước xã hội
chủ nghĩa lại ra đời từ phương thức quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Vì thế sứ mệnh về kinh tế của
giai cấp công nhân nơi đây cịn đóng vai trị nịng cốt trong q trình giải phóng lực lượng sản xuất (vốn
lạc hậu, bị kìm hãm trong quá khứ), thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển để tạo cơ sở cho quan hệ sản
xuất mới, xã hội chủ nghĩa ra đời. Đặc biệt hơn, để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội
thì cơng nghiệp hóa là một u cầu tất yếu có tính quy luật. Để thực hiện sứ mệnh của mình giai cấp cơng
nhân phải là lực lượng đi đầu trong q trình cơng nghiệp hóa. Vì vậy trong bối cảnh đổi mới và hội nhập
quốc tế, yêu cầu mới được đặt ra là phải gắn liền cơng nghiệp hóa với hiện đại hóa, đó là đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Hiện nay, sứ mệnh của giai cấp cơng nhân về kinh tế có sự cải tiến và gắn liền với xã hội.Vai trò sứ
mệnh của giai cấp cơng nhân trong kinh tế đó là việc sử dụng công nghệ hiện đại, tăng năng suất, chất
lượng cao,... đã đảm bảo cho sự phát triển bền vững của cả nền kinh tế thơng qua đó góp phần làm ổn định
và phát triển của xã hội. Sứ mệnh của giai cấp công nhân đối với sự phát triển xã hội ngày càng thể hiện rõ,
biểu hiện là trong sự phát triển sản xuất của chủ nghĩa tư bản trong thế giới ngày nay có sự tham gia trực
tiếp của giai cấp công nhân và các lực lượng lao động - dịch vụ chất lượng cao, đây là nhân tố kinh tế - xã
hội thúc đẩy sự chín muồi các tiền đề của chủ nghĩa xã hội trong lịng chủ nghĩa tư bản. Đó chính là điều
kiện để phát huy vai trị chủ thể của giai cấp cơng nhân trong cuộc đấu tranh vì dân chủ, tiến bộ xã hội và
chủ nghĩa xã hội. Mặt trái, hiện nay có sự mâu thuẫn ngày càng sâu sắc giữa giai cấp cơng nhân với giai
cấp tư sản trên tồn cầu về những lợi ích. Ngun nhân là do tồn cầu hóa hiện nay vẫn mang đậm tính
chất tư bản chủ nghĩa với những bất cơng và bất bình đẳng xã hội đối với giai cấp công nhân. Điều này
thúc đẩy các cuộc đấu tranh địi lợi ích, cơng bằng, bình đẳng và chống bóc lột giá trị thặng dư trên phạm
vi thế giới, đó chính là sứ mệnh và từng bước thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân về kinh tế xã hội.

b) Nội dung chính trị - xã hội
Trước khi giành được quyền làm chủ đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, sứ mệnh của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động là tiến hành cuộc cách mạng chính trị để lật đổ quyền thống trị
của giai cấp tư sản, xóa bỏ chế độ áp bức, bóc lột và bất bình đẳng của chủ nghĩa tư bản, giành lại quyền và


lợi ích về tay giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động. Tạo điều kiện để đi đến thành lập nhà nước kiểu
mới, mang bản chất giai cấp công nhân, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện quyền lực của
nhân dân, quyền dân chủ và làm chủ xã hội. Sau khi làm chủ được đất nước, giai cấp công nhân và nhân
dân lao động phải biết sử dụng nhà nước của mình và do mình làm chủ như một công cụ, phương tiện để
tiến hành cải tạo xã hội cũ đi đến phát triển mọi mặt (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,...) để xây dựng xã
hội mới nơi mà mọi mặt đều ổn định và phát triển để phục vụ quyền, lợi ích, tính dân chủ, cơng bằng, bình
đẳng của nhân dân lao động và tiến bộ xã hội theo lý tưởng và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Hiện nay, sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trên thế giới có phân ra cụ thể: Ở các nước tư bản chủ nghĩa, đối với
giai cấp công nhân và nhân dân lao động, mục tiêu trực tiếp là chống lại bất cơng và bình đẳng xã hội, mục
tiêu lâu dài là giành chính quyền. Điều này được nêu rõ trong Cương lĩnh chính trị của các Đảng Cộng sản
trong các nước tư bản chủ nghĩa. Ở các nước xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản đã được cầm quyền, nội
dung chính trị - xã hội của sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân là lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới,
giải quyết thành công các nhiệm vụ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trên hết là xây dựng Đảng
cầm quyền trong sạch, vững mạnh, thực hiện thành cơng sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa đất
nước phát triển nhanh và bền vững.
c) Nội dung tư tưởng - văn hóa
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới, trong đó có lĩnh
vực văn hóa, tư tưởng là phải tập trung xây dựng hệ giá trị mới: lao động, công bằng, dân chủ, bình đẳng
và tự do. Hệ giá trị này là sự phủ định. Đầu tiên là sự phủ định các giá trị tư sản mang bản chất tư sản và
phục vụ cho giai cấp tư sản, đây chính là chống lại sự thống trị của giai cấp tư sản và tư bản chủ nghĩa.
Cùng sự phủ định những tàn dư các giá trị đã lỗi thời, lạc hậu của các xã hội quá khứ. Hệ giá trị mới đã thể
hiện bản chất ưu việt của chế độ mới xã hội chủ nghĩa về việc sẽ từng bước phát triển và hoàn thiện. Thực
chất, sứ mệnh lịch sử này của giai cấp cơng nhân trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng là cải tạo cái cũ lỗi thời,
lạc hậu để xây dựng cái mới tiến bộ trong lĩnh vực ý thức tư tưởng, tâm lý, lối sống và đời sống tinh thần

xã hội. Đưa hệ ý thức tiên tiến nhất là chủ nghĩa Mác-Lênin để củng cố ý thức nhân dân lao động làm nền
tảng tinh thần của xã hội. Tư tưởng Mác - Lênin đã khắc phục các ý thức hệ tư sản không phù hợp và tàn
dư lỗi thời, lạc hậu cịn sót lại của xã hội cũ. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân về văn hóa, tư tưởng
cịn có một nội dung trọng yếu về cách mạng văn hóa tư tưởng là phát triển văn hóa, xây dựng con người
mới xã hội chủ nghĩa, đạo đức và lối sống xã hội chủ nghĩa. Về bối cảnh hiện nay trên lĩnh vực văn hóa tư
tưởng, vẫn tiếp tục nổi bật từ xưa đến nay là cuộc đấu tranh ý thức hệ giữa hệ giá trị của giai cấp công nhân
và hệ giá trị của giai cấp tư sản. Đây là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội với nền tảng lý luận là chủ
nghĩa Mác-Lênin với chủ nghĩa cá nhân của giai cấp tư sản. Cuộc đấu tranh ngày càng diễn ra quyết liệt và
phức tạp, nhất là trên nền kinh tế thị trường hiện tại đã gây ra nhiều tác động. Mặt khác, khi hệ thống xã
hội chủ nghĩa thế giới tan rã, phong trào cách mạng thế giới phải vượt qua giai đoạn thoái trào tạm thời đã
tác động vào lý tưởng xã hội chủ nghĩa, gây ra những thử thách cho lý tưởng xã hội chủ nghĩa và làm cho
cuộc đấu tranh tư tưởng với lý luận chủ nghĩa tư bản ngày càng phức tạp và gay gắt.Tuy nhiên ở các cuộc
cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thì lý tưởng chủ nghĩa xã hội vẫn là đặc trưng nắm
vị trí chỉ đạo, định hướng trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản và lựa chọn con đường xã hội chủ
nghĩa cho sự phát triển xã hội. Các giá trị của hệ giá trị: lao động, sáng tạo, cơng bằng, dân chủ, bình đẳng,
tự do vẫn là những giá trị được nhân loại thừa nhận và phấn đấu thực hiện. Về thực tế thì các giá trị được
toàn thể nhân loại hướng tới đều tương đồng với những giá trị mà mục tiêu, sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân đề ra. Cả ở các nước xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa nơi mà các cuộc đấu tranh của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động vì theo đuổi những giá trị ấy đều đem lại những tiến bộ xã hội quan


trọng. Từ bối cảnh, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện nay được rút ra là đấu tranh bảo vệ nền
tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lênin của Đảng Cộng sản, giáo dục nhận thức và củng cố niềm tin khoa học
đối với lý tưởng, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động, giáo dục và
thực hiện chủ nghĩa quốc tế chân chính của giai cấp cơng nhân trên cơ sở phát huy chủ nghĩa yêu nước và
tinh thần dân tộc.
*Đặc điểm sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
a) Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân xuất phát từ những tiền đề kinh tế - xã hội của sản xuất
mang tính xã hội hóa với hai biểu hiện nổi bật là:
Thứ nhất, xã hội hóa sản xuất làm xuất hiện những tiền đề vật chất, thúc đẩy sự phát triển của xã hội,

thúc đẩy sự vận động của mâu thuẫn cơ bản trong lòng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. C.Mác chỉ
rõ mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất ngày càng xã hội hóa cao với
chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất, mâu thuẫn giữa giai cấp cơng nhân với
giai cấp tư sản. Có mâu thuẫn ắt có đấu tranh, đấu tranh giai cấp là động lực phát triển xã hội. Học thuyết
kinh tế của C.Mác chứng minh về mặt lý luận rằng: giai cấp vô sản nhất thiết phải đấu tranh chống giai cấp
tư sản và nhất định giai cấp vô sanr sẽ thắng lợi và chủ nghĩa xã hội sẽ thay thế chủ nghĩa tư bản.
Thứ hai, quá trình sản xuất mang tính xã hội hóa đã sản sinh ra giai cấp cơng nhân và rèn luyện nó
thành chủ thể thực hiện sứ mệnh lịch sử. Biết rằng xã hội hóa là nền tảng qua trọng của loài người và giúp
cho xã hội phát triển liên tục. Ngoài ra, lý luận về giá trị thặng dư: “Giá trị thặng dư là bộ phận giá trị mới
dơi ra ngồi giá trị sức lao động (người lao động làm thuê) tạo ra và thuộc về nhà tư bản (người mua hàng
hóa sức lao động)” là hòn đá tảng của học thuyết kinh tế của C.Mác. Mà mục đích của nhà tư bản là giá trị
thặng dư làm cho người lao động không ngừng bị bóc lột lao động với tiền cơng rẻ mạt trong khi nhà tư
bản khơng ngừng giàu có để tăng tích lũy tư bản. Tích lũy tư bản biến giá trị thặng dư thành tư bản phụ
thêm. Đó chính là sự bất công sâu sắc về mặt xã hội, là mâu thuẫn lợi ích khơng thể điều hịa giữa hai giai
cấp. Mâu thuẫn đã trở thành động lực chính cho cuộc đấu tranh giai cấp, đặc biệt trong bối cảnh hiện đại.
b) Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là sự nghiệp cách mạng của quần chúng và mang lại
lợi ích cho đa số.
Đây là cuộc cách mạng của đại đa số mưu lợi ích cho tuyệt đại đa số. Nhận thấy trong xã hội tư bản,
về mặt số lượng, giai cấp tư sản mặc dù không nhiều nhưng lại chiếm phần lớn tài sản trong xã hội, có lợi
thế về tiền bạc rồi quyền lực; trong khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động chiếm nhiều hơn cả nhưng
chỉ có thể kiếm sống bằng tiền cơng lao động ít ỏi mà cịn bị chèn ép bởi người chủ cho ra giá trị thặng dư.
Mà xã hội đó muốn phát triển khơng thể dựa vào áp bức sức lao động. Việc đấu tranh, làm cách mạng thể
hiện ý chí và nguyện vọng chung của đại đa số người trong xã hội đó. Điều đó có nghĩa sự nghiệp cách
mạng cần hướng tới sự thống nhất cơ bản về lợi ích giai cấp cơng nhân với lợi ích của nhân dân lao động
dựa trên cơ sở công hữu về tư liệu sản xuất. Lực lượng sản xuất xã hội hóa cao, ở trình độ phát triển hiện
đại và chế độ công hữu sẽ tạo ra cơ sở kinh tế để chấm dứt vĩnh viễn chế độ bóc lột người.
c) Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không phải là thay thế chế độ sở hữu tư nhân này
bằng một chế độ sở hữu tư nhân khác mà là xóa bỏ triệt để tư hữu về tư liệu sản xuất
Chính lịch sử chứng minh rằng chừng nào cịn có tư hữu về tư liệu sản xuất thì vẫn cịn tồn tại mâu
thuẫn khơng thể điều hịa trong lịng xã hội. Vì bản chất của tư bản hình thành trên sự biến đổi giá trị thặng



dư mà giá trị thặng dư có nhờ lao động của người lao động dư ra. Sự xóa bỏ này khơng do chủ quan, duy ý
chí mà bị quy định bởi một cách khách quan từ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
d) Việc giai cấp công nhân giành lấy quyền lực thống trị xã hội là tiền đề để cải tạo toàn diện, sâu
sắc và triệt để xã hội cũ và xây dựng thành công xã hội mới với mục tiêu cao nhất là giải phóng con
người.
So với các cuộc cách mạng trước đây, mục tiên tiến hành đấu tranh chỉ mang lại lợi ích trước mắt cho
họ. Tới thời điểm giai cấp công nhân thực hiện cuộc cách mạng, mục tiêu không đơn giản giành lấy lợi ích
cá nhân hay cho một giai cấp nữa, mục tiêu đã lớn mạnh hơn là giải phóng con người hướng tới sự tự do,
bình đẳng, bác ái. “Con người là tổng hoà của những mối quan hệ xã hội”- C.Mác - nên muốn phát triển
xã hội cần tập trung vào con người cũng như giải phóng con người là mục tiêu cao cả. Quan điểm của
C.Mác là một bước ngoặt cách mạng trong quan niệm về con người, về bản chất con người và vị trí, vai trị
của con người trong tiến trình phát triển của nhân loại. Đồng thời quan điểm của C.Mác cũng cho thấy, mọi
hoạt động lao động sản xuất con người đều khơng ngồi mục đích sáng tạo ra tồn bộ nền văn hố vật chất
và tinh thần. Cũng với ý nghĩa đó, bằng các hoạt động cách mạng, con người đánh dấu các trang sử mới
cho chính mình phù hợp với nhu cầu và mục đích của mình trong tiến trình phát triển.
*Những điều kiện quy định và thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
*Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định tính tất yếu khách quan của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân: "... Cùng với sự phát triển của đại cơng nghiệp, chính cái nền tảng trên đó giai cấp tư sản đã sản xuất
và chiếm hữu sản phẩm của nó, đã bị phá sập dưới chân giai cấp tư sản. Trước hết, giai cấp tư sản sản sinh
ra người đào huyệt chơn chính nó. Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất
yếu như nhau". Điều kiện khách quan bao gồm:
a) Do địa vị kinh tế của giai cấp công nhân quy định
Giai cấp công nhân đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến và lực lượng sản xuất hiện đại. Chính
nền sản xuất hiện đại đã tạo ra tiền đề cần thiết cho xã hội hóa cao để xây dựng xã hội mới. Điều kiện
khách quan này là nhân tố kinh tế, quy định giai cấp công nhân phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
giành chính quyền về tay mình. Giai cấp cơng nhân trở thành đại biểu cho sự tiến hóa tất yếu của lịch sử,
tạo nền tảng vững chắc để xây dựng chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ xã hội kiểu mới, khơng cịn

chế độ người áp bức, bóc lột người.
b) Do địa vị chính trị - xã hội của giai cấp công nhân quy định
Giai cấp công nhân được sinh ra trong nền sản xuất đại công nghiệp, gắn với phương thức lao động
trình độ cao, tiên tiến và là giai cấp cách mạng đã đào tạo cho họ tính tổ chức và kỷ luật. Trong tiến trình
đấu tranh giai cấp chống tư sản và chủ nghĩa tư bản đã rèn luyện cho công nhân trưởng thành về mọi mặt,
nhất là ý thức chính trị tự giác và đồn kết để tự giải phóng mình và giải phóng xã hội. Giai cấp công nhân
là giai cấp cách mạng, đại biểu cho lực lượng sản xuất hiện đại, phương thức sản xuất tiên tiến thay thế cho
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, xác lập phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Giai cấp công
nhân là đại biểu cho tương lai, cho xu thế đi lên của tiến trình lịch sử. Giai cấp công nhân không được sinh
ra với trình trạng nghèo khổ mà là do họ bị bóc lột, áp bức và nhiệm vụ của cách mạng là giải phóng giai
cấp cơng nhân, xã hội ra khỏi tình trạng đó.


*Điều kiện chủ quan để giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử
a) Sự phát triển của bản thân giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng
Số lượng biểu thị sự lớn mạnh của giai cấp công nhân cùng với quy mô phát triển của nền sản xuất
hiện đại. Phát triển số lượng phải đi kèm với chất lượng thể hiện trình độ trưởng thành về ý thức chính trị
thơng qua việc tự giác và nhận thức được trọng trách của giai cấp mình trong lịch sử trên nền tảng giác ngộ
lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Cùng với đó là năng lực và trình độ làm chủ
khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại, nhất là trong điều kiện hiện nay khi mà lao động bằng trí óc, năng
lực sáng tạo ngày càng chiếm vị thế quan trọng. Vì vậy, để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp
cơng nhân cần tăng về số lượng và đặc biệt là chất lượng.
b) Đảng Cộng sản là nhân tố chủ quan quan trọng nhất để giai cấp công nhân thực hiện thắng lợi
sứ mệnh lịch sử của mình
Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp cơng nhân đảm nhận vai trị lãnh đạo cuộc cách mạng
là dấu hiệu về sự trưởng thành vượt bậc của giai cấp công nhân với tư cách là giai cấp cách mạng. Đảng ra
đời là sự kết hợp của chủ nghĩa xã hội khoa học, tức chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân. Giai
cấp công nhân là lực lượng quan trọng nhất của Đảng, còn Đảng là đội tiên phong, là đại biểu trung thành
nhất cho lợi ích của giai cấp cơng nhân, tồn dân tộc và xã hội
c) Để cuộc cách mạng thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đi tới thắng lợi, phải có

sự liên minh giai cấp giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác.
Nó làm tăng đại đồn kết và sức mạnh tổng hợp để thực hiện mục tiêu thắng lợi và là một điều kiện
quan trọng không thể thiếu khi thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
*Đặc điểm GCCN cuối thế kỷ XIX (theo quan điểm Chủ nghĩa Mác – Lênin)
Giai cấp công nhân cuối thế XIX là lực lượng sản xuất hàng đầu của xã hội. Bên cạnh đó, 1 bộ phận
lớn cơng nhân bị giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản bóc lột giá trị thặng dư. Vì mục tiêu hịa bình, hợp tác
và phát triển, vì dân sinh, dân chủ, tiến bộ xã hội và chủ nghĩa xã hội thì họ ln là lực lượng đi đầu trong
các cuộc đấu tranh. Và giai cấp công nhân cuối thế kỉ XIX là giai cấp lao động, làm thuê, bị bóc lột và xuất
thân chủ yếu từ nông dân, nông thôn. Họ chỉ có thể bán sức lao động của mình để lấy tiền lương.Chính vì
vậy, hao phí lao động đơn thuần là hao phí sức lực cơ bắp. Những nhu cầu về vật chất, nhu cầu về tinh thần
và văn hóa tinh thần của cơng nhân đơn giản, khơng có yêu cầu quá cao. Và trong thời gian này thì q
trình sản xuất của giai cấp cơng nhân mang tính chất nhỏ hẹp, gói gọn trong quy mơ một khu vực hoặc một
quốc gia.
*Đặc điểm GCCN thế kỷ XXI (hiện nay)
Sang thế kỳ XXI, giai cấp công nhân vẫn là lực lượng sản xuất hàng đầu. Quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa sản sinh ra tình trạng 1 bộ phận cơng nhân vẫn
bị bóc lột giá trị thặng dư. Và họ vẫn không ngừng đấu tranh cho lợi ích của mình, đi đầu trong những
phong trào đấu tranh. Nhờ q trình đơ thị hóa, giai cấp cơng nhân đã được bổ sung thành phần, góp phần
làm đa dạng hơn xuất thân của giai cấp công nhâ. Trước sự phát triển khoa học – công nghệ mạnh mẽ của
thế kỷ XXI, họ có xu hướng trí tuệ hóa, dẫn đến hao phí lao động hiện đại chủ yếu là hao phí về trí lực. Từ
đó, những nhu cầu cũng được tăng lên, đa dạng và phong phú hơn. Với xu thế thế giới hiện nay là hòa


bình, hợp tác, và phát triển thì quá trình sản xuất có sự liên kết, mở rộng và vượt khỏi phạm vi quốc gia –
dân tộc, với mơ hình lao động đa dạng, mang tính chất quốc tế.
 So sánh đặc điểm GCCN cuối thế kỷ XIX và GCCN thế kỷ XXI
So với giai cấp công nhân thời Mác tại thế kỷ XIX với những quan niệm của ơng thì giai cấp công
nhân hiện nay đặt trong bối cảnh hiện tại đã có nhiều điểm khơng cịn phù hợp, cần bổ sung, phát triển. Tuy
vậy vẫn xuất hiện những nét tương đồng và cả những nét khác biệt, có những biến đổi mới trong điều kiện
lịch sử mới. Vì thế chúng ta cần làm rõ những đặc điểm nêu trên theo quan điểm lịch sử - cụ thể của chủ

nghĩa Mác – Lênin để một mặt khẳng định những giá trị lịch sử của chủ nghĩa Mác – -18- Lênin, mặt khác
cần có những bổ sung, phát triển nhận thức mới trong việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân hiện nay.
Sự tương đồng giai cấp công nhân hiện nay so với giai cấp công nhân truyền thống:
Trước hết, giai cấp cơng nhân hiện nay vẫn đóng vai trò là lực lượng sản xuất hàng đầu trong xã hội
hiện đại. Họ là chủ thể của quá trình sản xuất cơng nghiệp hiện đại mang tính xã hội hóa ngày càng cao. Xã
hội nào cũng tồn tại và phát triển thơng qua q trình sản xuất và tiêu thụ của cải vật chất. Với tư cách là
lực lượng sản xuất cơ bản tiên tiến, trực tiếp và tham gia quá trình sản xuất, tái sản xuất của cải vật chất,
giai cấp cơng nhân góp phần quyết định sự tồn tại và phát triển xã hội. Thêm vào đó, tính chất xã hội hóa
ngày càng tăng của sản xuất cũng làm nảy sinh những nhân tố mang tính chất xã hội trong q trình phát
triển. Theo C.Mác, đây chính là yếu tố duy vật cho chủ nghĩa xã hội hiện đại, cái tính chất mà trước cuộc
Cách mạng cơng nghiệp lần thứ nhất chưa xuất hiện trên thực tế. Cơng nghiệp càng phát triển thì tính chất
xã hội hóa này ngày càng cao, và cơng nhiệp hóa vẫn là cơ sở khách quan để giai cấp công nhân hiện đại
phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng.
Tiếp theo, giống với thế kỷ XIX, một bộ phận công nhân hiện đại vẫn bị giai cấp tư sản và chủ nghĩa
tư bản hiện đại ngày nay bóc lột giá trị thặng dư. Chủ nghĩa tư bản mặc dù có những bước phát triển mới,
biến đổi về lượng và chất cục bộ, nhưng bản chất bóc lột khơng hề thay đổi. Dựa vào thực tế cho thấy rằng,
xung đột về lợi ích cơ bản giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân (giữa tư bản và lao động) vẫn tồn tại,
Đồng thời, quy luật giá trị thặng dư ngày càng phát huy tác dụng mạnh mẽ trong điều kiện tồn cầu hóa và
kinh tế tri thức, song, cơ chế tác động của quy luật này cũng phức tạp hơn, hình thức bóc lột giá trị thặng
dư tinh vi hơn nhiều so với trước đây. Phong trào công sản và công nhân ở nhiều nước vẫn luôn là lực
lượng đi đầu trong các cuộc đấu tranh vì hịa bình, hợp tác và phát triển, vì dân sinh, dân chủ, tiến bộ xã
hội và chủ nghĩa xã hội.
Từ những nét tương đồng nêu trên giữa giai cấp công nhân hiện nay với giai cấp công nhân truyền
thống từ kế kỷ XIX, có thể khẳng định: Lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong chủ nghĩa
Mác – Lênin vẫn có giá trị khoa học và cách mạng; đóng vai trị và ý nghĩa to lớn, có nhiệm vụ chỉ đạo
cuộc đấu tranh cách mạng hiện nay của giai cấp cơng nhân nói riêng, phong trào cơng nhân và quần chúng
lao đơng nói chung, với mục tiêu chống chủ nghĩa tư bản và đưa ra lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa
trong sự phát triển của thế giới hiện nay.
Những nét khác biệt và sự biến đổi của giai cấp công nhân hiện nay so với giai cấp công nhân

truyền thống.
Giai cấp công nhân truyền thống, tức là thời của Mác, vào thế kỉ XIX, khi ơng đề xuất lên các học
thuyết của mình, thì những nội dung trong học thuyết phải phù hợp -19- với tình hình xã hội và chính trị tại
thời kì đó, phù hợp với giai cấp cơng nhân thời kì đó. Thế nhưng, từ cuối thế kỷ XX trở lại đây, trải qua các
cuộc cách mạng công nghiệp, gắn liền cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, giai cấp cơng nhân ngày
nay đã mang trong mình những sự biến đổi và khác biệt nhất định để phù hợp và bắt kịp thời đại.
Đầu tiên, phải kể đến giai cấp công nhân thời Mác là giai cấp lao động, làm thuê, bị bóc lột và xuất
thân chủ yếu từ nông dân, nông thôn. Nhưng khoảng giữa thế kỷ XX trở lại đây, xu thế đơ thị hóa và đơng
đảo cư dân đô thị đã bổ sung một lượng lớn vào nguồn nhân lực của GCCN khiến cho quá trình đơ thị hóa
trên thế giới có sự khác biệt so với những thế kỷ trước.
Đồng thời, dưới thời đại của sự phát triển kinh tế tri thức, công nhân hiện đại xuất hiện xu hướng trí
tuệ hóa, khác biệt so với giai cấp công nhân ngày trước rằng họ chỉ có thể bán sức lao động của mình để
lấy tiền lương. Trình độ mới của sản xuất và dịch vụ cùng cách tổ chức xã hội hiện đại đã làm cơ cấu của


giai cấp công nhân hiện đại đa dạng tới mức nội hàm của nó liên tục phải điều chỉnh, mở rộng theo nhiều
hướng như: theo lĩnh vực (công nghiệp - nơng nghiệp - dịch vụ); theo trình độ cơng nghệ “Công nhân áo
xanh” - công nhân công nghiệp truyền thống; “Cơng nhân áo trắng” - cơng nhân có trình độ đại học, cao
đẳng, chủ yếu làm công việc điều hành, quản lý sản xuất; “Công nhân áo vàng” - công nhân của các ngành
cơng nghệ mới; “Cơng nhân áo tím” - cơng nhân dịch vụ - lao động, ví dụ: gác cầu thang, vệ sinh đô
thị,...); theo sở hữu tư liệu sản xuất (cơng nhân có cổ phần và cơng nhân khơng có cổ phần); theo chế độ
chính trị (cơng nhân ở các nước phát triển theo định hướng XHCN, các nước G7, các nước đang phát
triển,...) Chính vì vậy, đòi hỏi và yêu cầu đề ra đối với giai cấp công nhân hiện nay là phải luôn phát triển
cùng với sự phát triển của công nghiệp cách mạng khoa học và công nghệ. Nếu vào thế kỉ XIX, khi cơng
nghệ và khoa học chưa thật sự có những biến chuyển hiện đại, thì với sự phát triển của cách mạng khoa
học như hiện tại đã đề ra những chuẩn mực cao hơn, địi hỏi giai cấp cơng nhân phải có trình độ kỹ thuật
tốt hơn, chun nghiệp hơn.
Điều này đã dẫn đến điểm khác biệt thứ ba, là hao phí lao động hiện đại chủ yếu là hao phí về trí lực
chứ khơng cịn đơn thuần là hao phí sức lực cơ bắp. Ngày nay, công nhân được đào tạo có chuẩn mực và
thường xuyên được đào tạo lại, nhằm đáp ứng sự thay đổi nhanh chóng của cơng nghệ trong nền sản xuất.

Điểm khác biệt thứ tư, chính là tư duy lý luận về văn hóa phát triển, nhận thức về văn hóa của giai
cấp cơng nhân cũng được nâng lên. Từ đó, bên cạnh những nhu cầu về vật chất, nhu cầu về tinh thần và
văn hóa tinh thần của công nhân cũng ngày càng tăng, phong phú và đa dạng hơn, đòi hỏi chất lượng
hưởng thụ tinh thần cao hơn. Tính chất xã hội hóa của lao động công nghiệp trong thời đại ngày nay cũng
mang nhiều biểu hiện mới: sản xuất công nghiệp trong thế giới tồn cầu hóa đang mở rộng thành “chuỗi
giá trị tồn cầu”.
Thứ năm, khác với truyền thống, q trình sản xuất có sự liên kết, mở rộng và vượt khỏi phạm vi
quốc gia – dân tộc, với mơ hình lao động đa dạng, mang tính chất quốc tế. Trên bình diện thế giới hiện nay,
hịa bình, hợp tác cùng phát triển trong mơi trường dân chủ, cơng bằng, bình đẳng đang là xu thế lớn. Xu
thế ấy tạo điều kiện thuận lợi cho “Cách mạng công nghiệp 4.0”, đồng thời đưa ra thử thách cho giai cấp
công nhân trong giai đoạn hiện nay. “Cách mạng công nghiệp 4.0” là một q trình phát triển của văn
minh, có những đóng góp, bổ sung vào nhận thức duy vật lịch sử về các vấn đề trong phát triển. Ở phương
diện xã hội, sát cánh cùng giai cấp sản xuất ra của cải vật chất - giai cấp công nhân, Cùng với sự phát triển
của “Cách mạng công nghiệp 4.0” và kinh tế sáng tạo, lao động sáng tạo ngày càng chiếm vị trí chủ đạo
trong lực lượng lao động xã hội, đặt ra vấn đề nhìn nhận lại vai trị của các giai cấp cơng nhân xã hội hiện
đại. Về phía các nước xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân đã trở thành giai cấp lãnh đạo và Đảng Cộng
sản trở thành Đảng cầm quyền. Đó là những biến đổi mới của giai cấp công nhân hiện nay so với giai cấp
công nhân thế giới thế kỷ XIX.
*Đặc điểm GCCN thế giới hiện nay
Giai cấp công nhân thế giới hiện nay vẫn là lực lượng sản xuất hàng đầu. Quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa sản sinh ra tình trạng 1 bộ phận cơng nhân vẫn
bị bóc lột giá trị thặng dư. Và họ vẫn không ngừng đấu tranh cho lợi ích của mình, đi đầu trong những
phong trào đấu tranh của nhân loại. Thơng q q trình đơ thị hóa, giai cấp cơng nhân đã được bổ sung
thành phần, góp phần làm đa dạng hơn xuất thân của họ. Trước sự phát triển khoa học – công nghệ mạnh
mẽ của thế kỷ XXI, họ có xu hướng trí tuệ hóa, dẫn đến hao phí lao động hiện đại chủ yếu là hao phí về trí
lực. Những nhu cầu cũng được tăng lên, đa dạng và phong phú hơn. Và với xu thế thế giới hiện nay là hịa
bình, hợp tác, và phát triển thì quá trình sản xuất có sự liên kết, mở rộng và vượt khỏi phạm vi quốc gia –
dân tộc, với mơ hình lao động đa dạng, mang tính chất quốc tế.
*Đặc điểm GCCN Việt Nam hiện nay
Giai cấp công nhân Việt Nam là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân

Pháp, lớp công nhân đầu tiên xuất hiện gắn liền với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897 - 1914) và
thực sự trở thành giai cấp công nhân Việt nam từ thời kỳ khai thác thuộc địa của thực dân Pháp lần thứ hai
(1924 - 1929). Cùng với quá trình phát triển của cách mạng, giai cấp công nhân Việt Nam sớm trở thành bộ


phận của đội ngũ giai cấp công nhân quốc tế. Giai cấp cơng nhân Việt Nam có những đặc điểm chủ yếu sau
đây:
a) Đặc điểm ra đời và phát triển:
Giai cấp công nhân ra đời vào đầu thế kỉ XX, trước cả sự ra đời của giai cấp tư sản Việt Nam, trực
tiếp đối kháng với tư bản thực dân Pháp và bè lũ tay sai của chúng. Chính vì vậy, giai cấp cơng nhân Việt
Nam phát triển chậm vì nó sinh ra và lớn lên ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, dưới ách thống trị của
thực dân Pháp.
b) Đặc điểm về chính trị
Đây là đặc điểm ưu trội của giai cấp cơng nhân Việt Nam do chính hồn cảnh lịch sử mà giai cấp
cơng nhân ra đời quy định. Trực tiếp đối kháng với tư bản thực dân Pháp, giai cấp cơng nhân đã tự thể hiện
mình là lực lượng chính trị tiên phong để lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải quyết mâu thuẫn
cơ bản giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc thực dân và phong kiến thống trị, mở đường cho sự phát triển
của dân tộc trong thời đại cách mạng vơ sản. Tinh thần dân tộc gắn bó mật thiết với nhân dân, với dân tộc
có truyền thống yêu nước, đoàn kết và bất khuất chống xâm lược; trưởng thành nhanh chóng về ý thức
chính trị của giai cấp, sớm giác ngộ lý tưởng, mục tiêu cách mạng. Thông qua truyền thống yêu nước và
đoàn kết, cho thấy giai cấp cơng nhân có phẩm chất tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin, với
Đảng Cộng sản, với lý tưởng, mục tiêu cách mạng độc lập dân tộc và chủnghĩa xã hội. Giai cấp cơng nhân
có tinh thần cách mạng triệt để và là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng
sản.
c)Giai cấp cơng nhân Việt Nam gắn bó mật thiết với các tầng lớp nhân dân trong xã hội:
Lợi ích của giai cấp cơng nhân và lợi ích dân tộc gắn chặt với nhau, tạo thành động lực thúc đẩy đoàn
kết giai cấp gắn liền với đoàn kết dân tộc. Đại bộ phận công nhân Việt Nam xuất thân từ nông dân và các
tầng lớp lao động khác, cùng chung lợi ích, nguyện vọng nên có mối liên hệ tự nhiên, chặt chẽ với giai cấp
nông dân và các tầng lớp lao động trong xã hội. Những yếu tố này tạo thuận lợi xây dựng khối liên minh
giai cấp với giai cấp cơng nhân, với đội ngữ trí thức làm nịng cốt trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Những đặc điểm trên bắt nguồn từ lịch sử hình thành và phát triển giai cấp công nhân Việt Nam với cơ sở
kinh tế - xã hội và chính trị ở đầu thế kỉ XX.
Ngày nay, những đặc điểm đó đã có những biến đổi do tác động của tình hình trong nước và thế giới.
Giai cấp cơng nhân có những biến đổi từ cơ cấu xã hội – nghề nghiệp, trình độ học vấn, tay nghề, đời
sống... Đảng Cộng sản đã có quá trình trưởng thành, trở thành Đảng cầm quyền, duy nhất ở Việt Nam,
đang nỗ lực đổi mới, nâng cao năng lực… Những nét đổi mới chính:
Giai cấp cơng nhân Việt Nam tăng nhanh về số lượng và chất lượng, là giai cấp đi đầu trong sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn với phát triển kinh tế tri thức bảo vệ tài nguyên và môi trường.
Cơ cấu nghề nghiệp đa dạng, có mặt trong mọi thành phần kinh tế nhưng đội ngũ công nhân trong khu vực
kinh tế nhà nước là tiêu biểu, chủ đạo. Công nhân tri thức, nắm vững khoa học – công nghệ tiên tiến; công
nhân trẻ được đào tạo nghề theo chuẩn nghề nghiệp, được rèn luyện trong thực tiễn; là lực lượng chủ đạo
trong cơ cấu giai cấp công nhân, trong lao động và phong trào cơng đồn. Trước sự phát triển mạnh mẽ của
cách mạng công nghiệp lần thứ 4, giai cấp công nhân Việt Nam đứng trước những thời cơ và thách thức
nguy cơ trong phát triển.
 So sánh đặc điểm GCCN thế giới hiện nay và GCCN Việt Nam hiện nay
Thứ nhất: Về nét tương đồng giữa giai cấp công nhân Việt Nam và giai cấp công nhân thế giới.
Mang bản chất là giai cấp công nhân, giai cấp công nhân Việt Nam và giai cấp công nhân thế giới chắc
chắn sẽ có những điểm tương đồng nhất định.
Trước hết, cả hai đều giữ vai trò là giai cấp tiên phong của cách mạng. Họ đại diện cho lực lượng sản
xuất tiến bộ nhất của thời đại. Đồng thời họ cịn có hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác dẫn đường, cho nên họ
là lực lượng tiên phong dẫn đường trong các cuộc cách mạng.
Một nét tương đồng nữa, là giai cấp cơng nhân có tinh thần cách mạng triệt để, thể hiện ở chỗ giai
cấp công nhân là lực lượng khơng có tư liệu sản xuất, nói cách khác là khơng có gì để mất. Nếu đấu tranh
thành cơng thì giai cấp cơng nhân sẽ phá tan được xiềng xích của mình, cịn nếu đấu tranh thất bại, họ sẽ


trở về với xiềng xích đó, khơng hơn khơng kém. Cơng nhân được xem giai cấp có mục tiêu phải theo đuổi
đến tận cùng, khơng chỉ là xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, mà cịn vì xóa bỏ tận gốc chế độ người bóc lột người.
Giai cấp cơng nhân nói chung khơng chỉ vì mục đích giải phóng cho chính họ, mà cịn giải phóng tồn thể
xã hội lồi người, mong muốn xây dựng hình thái kinh tế xã hội mới thực sự tiến bộ, trong đó đảm bảo tính

bình đẳng, cơng bằng và con người được phát triển tồn diện.
Nét tương đồng tiếp theo giữa giai cấp công nhân Việt Nam và giai cấp cơng nhân thế giới chính là
họ có tính tổ chức và kỷ luật cao. Tính tổ chức và kỷ luật của giai cấp công nhân được xây dựng, rèn giũa
bởi chính dây chuyền lao động mang tính chất cơng nghiệp của chủ nghĩa tư bản, mỗi người chỉ đảm nhận
một mắt khâu trong toàn bộ dây chuyền: họ phải đúng giờ, có sản phẩm và sản phẩm đó phải có giá trị
(một mắt khâu mà dừng, một mắt khâu mà vô kỷ luật, vô tổ chức thì khơng thể đảm bảo tồn bộ dây
chuyền được hoạt động tốt), điều này trái ngược với đặc tính của các ngành nghề, các tầng lớp khác như
nông dân hay trí thức.
Cuối cùng, giai cấp cơng nhân có bản chất quốc tế. Giai cấp tư sản không chỉ dừng lại ở biên giới
quốc gia cụ thể nào, mà nó đã mang tính tập đồn. Thậm chí chủ nghĩa tư bản sau khi phát triển từ chủ
nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa tư bản độc quyền, thì hình thành các tập đồn tư bản xun
quốc gia, có sự liên kết tồn cầu. Vậy khơng lý do gì để chống lại giai cấp tư sản, chống lại chủ nghĩa tư
bản mà giai cấp cơng nhân khơng có sự liên kết trên toàn cầu. Đặc biệt chủ nghĩ tư bản vơ cùng mạnh, vì
thế để chống lại chủ nghĩa tư bản thì giai cấp cơng nhân phải có tình thần đồn kết quốc tế thì may chăng
mới có thể thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình.
Thứ hai, Về những nét khác biệt giữa giai cấp công nhân Việt Nam và giai cấp công nhân thế giới
Nét khác biệt đầu tiên, giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp đã cùng nhân dân lao động làm chủ
những tư liệu sản xuất và cùng nhau hợp tác lao động vì lợi ích chung của tồn xã hội trong đó có lợi ích
chính đáng của bản thân họ, họ khơng bị giai cấp tư sản bóc lột. Trong khi giai cấp công nhân thế giới là
những người không có hoặc về cơ bản khơng có tư liệu sản xuất phải làm thuê cho giai cấp tư sản và bị giai
cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư.
Tiếp đến, xét đến thời điểm ra đời, giai cấp công nhân Việt Nam ra đời muộn vào cuối TK XIX và
chiếm tỷ lệ ít trong thành phần dân cư, đa số xuất thân từ nơng dân, có mối liên hệ máu thịt với nhân dân.
Sinh ra và lớn lên ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, dưới sự thống trị của thực dân Pháp, một “chủ
nghĩa tư bản thực lợi” không quan tâm mấy đến phát triển công nghiệp, nên giai cấp công nhân Việt Nam
phát triển chậm.
Bên cạnh đó, giai cấp cơng nhân thế giới ra đời ra đời sớm hơn, vào cuối TK XVIII, chiếm lực lượng
đông đảo, xuất thân là những nông dân bị mất đất hoặc là những thợ thủ công bị phá sản và phải đi làm
thuê, ra đời và phát triển gắn liền với sự bị bóc lột và áp bức vơ cùng nặng nề của GCTS. Chính vì vậy giai
cấp cơng nhân phát triển nhanh và mạnh mẽ.

Hoàn cảnh ra đời của giai cấp công nhân Việt Nam và giai cấp công nhân thế giới cũng có nét khác
biệt. Giai cấp cơng nhân Việt Nam ra đời trong nỗi nhục mất nước cộng với nỗi khổ vì ách áp bức bóc lột
của giai cấp tư sản đế quốc làm cho lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc kết hợp làm một. Điều này khiến cho
động cơ cách mạng, nghị lực cách mạng và tính triệt để cách mạng của giai cấp cơng nhân được nhân lên
gấp bội. Có thể nói, giai cấp công nhân Việt Nam luôn đấu tranh với mục đích hướng về quyền lợi cộng
đồng. Cịn cách mạng của giai cấp cơng nhân quốc tế thì lại hướng tới mục đích địi quyền lợi cá nhân, và
quyền lợi giai cấp. Nếu các phong trào cách mạng của giai cấp công nhân quốc tế diễn ra thiếu sự lãnh đạo
đúng đắn và đường lối chính trị rời rạc, thì giai cấp cơng nhân Việt Nam ra đời lại có Đảng lãnh đạo nên
ln giữ vững được tinh thần đồn kết thống nhất và giữ vững vai trò lãnh đạo của mình. Kế thừa được
truyền thống đấu tranh anh dũng kiên cười của dân tộc mà giai cấp công nhân nước ta luôn tỏ rõ là một giai
cấp.
Nét khác biệt tiếp theo, giai cấp cơng nhân Việt Nam có xu hướng gia tăng về số lượng, cả ở bộ phận
công nhân công nghiệp truyền thống, cả ở bộ phận công nhân làm việc trong các lĩnh vực sản xuất mới,
lĩnh vực cơng nghệ cao. Chỉ có lĩnh vực cơng nghiệp có xu hướng ngày càng mở rộng. Giai cấp cơng nhân
thế giới có xu hướng giảm về số lượng, thay thế bằng cơng nghệ hiện đại và máy móc, thay thế cơng việc
thủ cơng bằng cơng việc máy móc. Lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp dần thu hẹp lại, lĩnh vực dịch vụ
được mở rộng. Điều này được các nhà nghiên cứu xã hội học lý giải do vùng kinh tế đang phát triển (bao


gồm Việt Nam) đang trong q trình cơng nghiệp hóa (còn vùng kinh tế tại các các nước phát triển trên thế
giới đã hồn thành q trình cơng nghiệp hóa, chuyển các ngành công nghiệp truyền thống, sử dụng nhiều
lao động sang khu vực các vùng kinh tế đang phát triển), đang thu hút đầu tư nước ngoài mà chủ yếu là của
các vùng kinh tế đang phát triển.
Tổng kết lại, dù có những nét tương đồng hay khác biệt thì giai cấp cơng nhân Việt Nam và giai cấp
cơng nhân thế giới vẫn mang trong mình những nhiệm vụ và sứ mệnh lịch sử vô cùng quan trọng, cao cả,
giữ vai trị then chốt trong q trình phát triển của một quốc gia, một đất nước.
B.LIÊN HỆ VIỆT NAM
* Quan điểm, chính sách của ĐCSVN về việc xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay (Đại hội)
– 2 Đại hội
*Quan điểm của ĐCSVN về việc xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay (Đại hội)

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của ĐCSVN có những bước tiến mới trong nhận thức, lý luận
về GCCN trong q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế. Đại hội lần thứ IX khẳng định: “Trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình
thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, nhưng cơ
cấu, tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội ta đã thay đổi nhiều cùng với những biến đổi to lớn vè
kinh tế, xã hội. Mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ
nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Lợi ích GCCN thống nhất với lợi ích tồn dân tộc”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng khẳng định “Coi trọng giữ vững bản chất giai cấp
công nhân và các nguyên tắc sinh hoạt của Đảng”. Đồng thời, “Chú trọng xây dựng, phát huy vai trị của
giai cấp cơng nhân, đội ngũ trí thức, đội ngũ doanh nhân đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước thời kỳ mới”.
Đảng và Nhà nước phải “Quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về số
lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác
phong công nghiệp, kỷ luật lao động của công nhân; bảo đảm việc làm, nhà ở, các cơng trình phúc lợi phục
vụ cho cơng nhân; sửa đổi, bổ sung các chính sách, pháp luật về tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,
…để bảo về quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của cơng nhân”.
*Chính sách của ĐCSVN về việc xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay
Định hướng xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ mới: Một là, kiên định quan điểm
giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hai là, xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn kết hữu cơ với xây dựng, phát huy sức mạnh của
liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng, của tất
cả các giai cấp, các tầng lớp xã hội trong khối đại đoàn kết dân tộc. Ba là, thực hiện chiến lược xây dựng
giai cấp công nhân lớn mạnh, gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế. Bốn là, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho cơng
nhân, khơng ngừng trí thức hóa giai cấp cơng nhân là một nhiệm vụ chiến lược. Năm là, xây dựng giai cấp
công nhân lớn mạnh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và sự nỗ lực vươn lên của
bản thân mỗi người cơng nhân, sự tham gia đóng góp tích cực của người sử dụng lao động.
Kết luận: Tóm lại, qua việc phân tích, trình bày nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất có sứ mệnh lịch sử. Vì vậy
hiểu rõ về giai cấp cơng nhân, đặc biệt hiểu rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là điều hết sức quan

trọng trong nhận thức mỗi chúng ta, từ đó giúp mỗi người có một cái nhìn, một nhận thức đúng đắn hơn


trong từng giai cấp xã hội nói chung cũng như giai cấp cơng nhân nói riêng, để qua đó mỗi người cần nỗ
lực nâng cao ý thức trách nhiệm về giai cấp công nhân cũng như nâng cao tri thức bản thân.
Trong tình hình xã hội nước ta hiện nay, Đảng và nhà nước ta đang cố gắng thúc đẩy q trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đồng thời Đảng và nhà nước đã và đang nâng cao trình độ giai cấp cơng
nhân để đáp ứng được u cầu của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới. Để nâng cao trình độ nhận
thức mỗi người dân nước ta cũng như giai cấp cơng nhân Việt Nam thì vấn đề cấp thiết là tăng cường giáo
dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục đường lối chính sách của Đảng và nhà nước
để mỗi người có cái nhìn tổng quan và đúng đắn hơn.
Câu 2: Quan điểm về hình thái KT-XH CSCN, nhất là thời kì quá độ và đặc trưng của CNXH.
Liên hệ thời kì quá độ và đặc trưng CNXH ở VN
Lý luận về hình thái kinh tế - xã hội là lý luận cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch
sử do C. Mác xây dựng nên. Nó có vị trí quan trọng trong triết học Mác. Lý luận đó đã
được thừa nhận lý luận khoa học và là phương pháp luận cơ bản trong việc nghiên cứu
lĩnh vực xã hội. Nhờ có lý luận hình thái kinh tế - xã hội, lần đầu tiên trong lịch sử loài
người, Mác đã chỉ rõ nguồn gốc, động lực bên trong, nội tại của sự phát triển xã hội,
chỉ rõ được bản chất của từng chế độ xã hội. Lý luận đó giúp chúng ta nghiên cứu một
cách đứng đắn và khoa học sự vận hành của xã hội trong giai đoạn phát triển nhất định
cũng như tiến trình vận động lịch sử chung của xã hội loài người. Trong thực tiễn, Việt Nam đang tiến hành
công cuộc xây dựng đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở bám sát tư tưởng Mác- Lênin và đặc biệt là
việc vận dụng học thuyết hình thái kinh tế xã hội vào cơng cuộc xây dựng đất nước,
việc vạch ra những mối liên hệ hợp quy luật và đề ra các giải pháp nhằm đảm bảo thực
hiện thành công công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam thành một đất nước giàu
mạnh, xã hội công bằng văn minh cũng là một nhiệm vụ thực tiễn đang đặt ra.
Chính vì những lý do trên việc nghiên cứu đề tài: “Sự vận dụng học thuyết
hình thái kinh tế xã hội vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” thực
sự mang tính cấp thiết và có ý nghĩa quan trọng cả về thực tế và lí luận.

A.LÝ LUẬN CHUNG
*Khái niệm hình thái kinh tế - xã hội:
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử để chỉ xã hội ở từng giai đoạn
phát triển lịch sử nhất định với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ
nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những
quan hệ sản xuất ấy. Hình thái kinh tế - xã hội có cấu trúc phức tạp, mỗi yếu tố có vị trí, chức năng riêng và
ln tác động qua lại lẫn nhau. Hình thái kinh tế - xã hội gồm ba mặt cơ bản: lực lượng sản xuất, quan hệ
sản xuất và kiến trúc thượng tầng.
*Khái niệm hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa:
Khái niệm hình thái kinh tế - xã hội: Là một phạm trù của duy vật lịch sử (hay còn gọi và chủ nghĩa
biện chứng về xã hội) dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất
đặc trưng của xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc
thượng tầng tương ứng xây dựng trên những quan hệ sản xuất đó. Nó chính là các xã hội cụ thể được tạo
thành từ sự thống nhất biện chứng giữa các mặt trong đời sống xã hội và tồn tại trong từng giai đoạn lịch
sử nhất định


Khái niệm hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa: Hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
là hình thái phát triển cao nhất hiện nay, kết tinh của văn minh nhân loại, trên cơ sở kế thừa có chọn lọc
những giá trị của hình thái kinh tế - xã hội trước đó với đặc trưng cơ bản là có quan hệ sản xuất dựa tren sở
hữu công cộng về tư liệu sản xuất, thích ứng với lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, tạo thành cơ sở
hạ tầng có trình độ cao hơn so với cơ sở hạ tầng của chủ nghĩa tư bản; có kiến trúc thượcng tầng tương ứng
thực sự là của nhân dân với trình độ xã hội hóa ngày càng cao.
Cũng như mọi hình thái kinh tế - xã hội khác, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa có q trình
phát triển từ thấp đến cao do sự trưởng thành về kinh tế và các quan hệ xã hội phù hợp, thể hiện ở từng
thời kỳ, giai đoạn khác nhau, kế tiếp và thống nhất với nhau.
b. Các điều kiện cơ bản của sự ra đời hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa:
Sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa bằng hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa là
hợp quy luật. Sự thay thế đó có nguồn gốc kinh tế- xã hội sâu xa, đó là miếng đất hiện thực tư bản chủ
nghĩa.

Những điều kiên cơ bản của sự ra đời hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa:
- Thứ nhất, khi nền sản xuất tư bản chủ nghĩa càng phát triển, dựa trên sự phát triển của khoa học – kỹ
thuật và công nghệ hiện đại làm cho lực lượng sản xuất phát triển không ngừng với trình độ xã hội hóa
ngày càng cao, vượt khỏi giới hạn chật hẹp của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa là mâu thuẫn kinh tế cơ bản của phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn này dẫn đến mâu thuẫn xã hội, mâu thuẫn giai cấp khơng thể điều hịa
được giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao động với giai cấp tư sản.
- Thứ hai, trong xã hội tư bản chủ nghĩa có hai giai cấp cơ bản, tiêu biểu nhất, đối lập nhau về lợi ích cơ
bản, đó là giai cấp cơng nhân đại biểu cho lực lượng sản xuất hiện đại, xã hội hóa ngày càng cao và giai
cấp tư sản thống trị xã hội đại biểu cho quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Hai giai cấp này mâu thuẫn với
nhau ngày càng rõ rệt, sâu sắc và gay gắt. Các cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân chống giai
cấp tư sản áp bức, bóc lột phát triển từ thấp đến cao.
- Thứ ba, trong xã hội tư bản chủ nghĩa xuất hiện những tai họa cho cả giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và cho cả nhân loại cũng như mơi trường thiên nhiên (áp bức, bóc lột, bất cơng, phân hóa giàu nghèo,
phân biệt chủng tộc, chiến tranh xâm lược, lối sống văn hóa, đạo đức suy đồi, tệ nạn xã hội phức tạp, ô
nhiễm môi trường…).
Đến khi xuất hiện những tình thế, thời cơ, tạo ra những điều kiện cần và đủ thì cách mạng xã hội chủ nghĩa
nổ ra. Cách mạng xã hội chủ nghĩa nổ ra và thắng lợi sẽ mở đầu cho sự ra đời hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong thời đại hiện nay, có những nước tư bản chủ nghĩa mới ở trình độ
trung bình và những nước chưa qua chủ nghĩa tư bản cũng có thể nổ ra cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
để bước sang hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Vậy, những điều kiện để những nước tư bản chủ nghĩa trung bình và những nước chưa qua chủ nghĩa tư
bản lên hình thái kinh tế- xã hội cộng sản chủ nghĩa là:
- Một là, chủ nghĩa tư bản chuyển thành chủ nghĩa đế quốc gây chiến tranh xâm lược các thuộc địa, gây tai
họa cho hàng trăm quốc gia dân tộc, làm xuất hiện những mâu thuẫn cơ bản và gay gắt của thời đại mới:
+ Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản.
+ Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc xâm lược với các quốc gia dân tộc thuộc địa, phụ thuộc.
+ Mâu thuẫn giữa các nước tư bản – đế quốc với nhau.
+ Ở hàng trăm nước nông nghiệp, vẫn cịn mâu thuẫn giữa địa chủ và nơng dân, tư sản với nơng dân, trong
đó nổi lên mâu thuẫn giữa tư bản – đế quốc xâm lược và bè lũ tay sai phong kiến với cả dân tộc bị áp bức,

bóc lột, mất độc lập tự do.


- Hai là có những tác động tồn cầu của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, của học thuyết Mác –
Lênin … thức tỉnh các dân tộc vùng lên giành độc lập dân tộc. Nhiều nước sau khi giành được độc lập dân
tộc đã chọn con đường phát triển đi lên hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
*Hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản chủ nghĩa gồm những giai đoạn nào?
*Quá độ là gì? Có mấy hình thức q độ?
*Các đặc trưng cơ bản của CNXH :
Một là, cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội phải được tạo ra bởi một nền sản xuất công nghiện
hiện đại.
Đây được coi là đặc trưng cơ bản nhất trong số cái đặc trưng của chủ nghĩa xã hội theo V.I.Lênin cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa về thực chất là cuộc cách mạng trong lĩnh vực kinh tế nên chủ nghĩa xã hội
phải có một nền kinh tế phát triển cao hơn so với chủ nghĩa tư bản trước đó. Trên thực tế, trước khi chủ
nghĩa xã hội ra đời từ các nước tư bản chủ nghĩa thì bản thân nền kinh tế ở một số nước tư bản chủ nghĩa
đã đạt tới trình độ xã hội hóa rất cao. Tuy nhiên, chưa đủ khả năng tạo ra sự thịnh vượng cho toàn xã hội.
Chủ nghĩa xã hội với mục tiêu hướng đến sự thịnh vượng và đáp ứng nhu cầu về phúc lợi ngày càng cao
cho tồn thể nhân dân thì càng khơng có cách nào khác là phải tạo ra một lực lượng sản xuất có trình độ
cao hơn hẳn lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Theo chủ nghĩa Mác Lênin, đối với một số quốc gia đi lên chủ nghĩa xã hội xuất phát từ một nền kinh
tế tư bản phát triển trung bình hoặc " Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa" thì việc tạo ra một nền kinh tế có
trình độ phát triển cao trong một thời gian ngắn khơng phải là dễ dàng. Địi hỏi Đảng Cộng Sản và công
nhân tại các quốc gia này phải biết cách sử dụng "Các bước đi quá độ" thích hợp, khơng loại trừ khả năng
sử dụng và tiếp tục duy trì các quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa. Để tạo ra bước đột phá cho việc tạo ra một
lực lượng sản xuất tiên tiến ở các giai cấp tiếp theo. V.I.Lênin đưa ra công thức về "Chủ nghĩa xã hội":
"Chính quyền Xơ viết + trật tự ở đường sắt Phổ + kỹ thuật và cách tổ chức các tơ-rớt+ ngành giáo dục quốc
dân Mỹ etc. etc ++ = (tổng số) = Chủ nghĩa xã hội".
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, mỗi chế độ xã hội đều có một cơ sở vật chất kỹ
thuật tương ứng, phản ánh trình độ phát triển kinh tế - kỹ thuật của nó. Nếu cơng cụ thủ công là đặc trưng
cho cơ sở vật chất – kỹ thuật của các xã hội tiền tư bản chủ nghĩa thì nền đại cơng nghiệp cơ khí là cơ sở

vật chất của CNTB. Xã hội xã hội chủ nghĩa này sinh với tính cách là phủ nhận biện chứng chủ nghĩa tư
bản, thì cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội nhất thiết phải là nền đại cơng nghiệp phát triển và hồn thiện
trên một trình độ cao của nó.
Hai là, từng bước xóa bỏ chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa đồng thời thiết lập chế độ công hữu về
các tư liệu sản xuất chủ yếu.


C.Mác và Ph.Ăngghen ln nhắc nhở: trong q trình thực hiện "sứ mệnh lịch sử" của mình, giai cấp
vơ sản sẽ dùng sự thống trị chính trị của mình để "từng bước một đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp
tư sản, để tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước" hoặc: giai cấp vơ sản "phải
chiến lấy chính quyền nhà nước và biến tư liệu sản xuất trước hết thành sở hữu nhà nước" đây là điều kiện
tiên quyết để giải phóng người lao động ra khỏi các quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa, đồng thời cũng là
tiền đề quan trọng để thực hiện tổ chức quản lý sản xuất và thực hiện phân phối công bằng trong chế độ
mới. Điều đó có nghĩa là "chủ nghĩa xã hội xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân nhưng quyền sở hữu cá nhân vẫn
được tôn trọng. Mặc dù thừa nhận việc xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân để thiết lập chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất chủ yếu dưới chủ nghĩa xã hội song C. Mác và Ph. Ăng-ghen cho rằng: Do chế độ sở hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa từ lâu vốn là một trong những động lực quan trọng cho nền kinh tế tư bản chủ nghĩa
nên việc xóa bỏ nó ngay lập tức là không thể mà phải "kinh qua một q trình rất khó khăn và lâu dài trong
hiện thực". Sau này, V.I.Lênin cũng cho rằng Chủ nghĩa xã hội là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ
yếu, "từ chủ nghĩa tư bản, nhân loại chỉ có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, nghĩa là chế độ công hữu về
các tư liệu sản xuất và chế độ phân phối theo lao động của mỗi người". Đặc biệt, bài học từ thực tiễn của
cách mạng Nga, V.I.Lênin cho rằng: với các quốc gia trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội với xuất phát
điểm của nền kinh tế cịn ở trình độ thấp thì việc thiết lập ngay chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất
chưa thể thực hiện ngay. Trái lại, trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ có thể thực hiện chế độ kinh tế
nhiều thành phần. Thậm chí, trong những trường hợp cần thiết vẫn phải "kết hợp, liên hợp, phối hợp giữa
nhà nước Xô viết - nền chun chính vơ sản với chủ nghĩa tư bản", nhưng kinh tế tập thể và Nhà nước vẫn
phải đóng vai trị chủ đạo.
Trong tác phẩm Tun ngơn của Đảng cộng sản, C. Mác và Ph. Ăngghen đã cho rằng thủ tiêu chế độ
tư hữu là cách tốt nhất, tổng quát nhất về thực chất của cuộc cải tạo xã hội theo lập trường của giai cấp vô
sản. Tuy nhiên, đặc trưng của chủ nghĩa cơng sản khơng phải là xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung mà là xóa

bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa.
Theo Ăngghen, việc thủ tiêu chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất sẽ dẫn đến việc thủ tiêu nên sản xuất hàng hóa, nền kinh tế cịn có kế hoạch trên quy mơ tồn xã hội sẽ
được thiết lập.
Ba là, tạo ra cách thức tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới với năng suất cao.
Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, khi đạt tới xã hội chủ nghĩa, tư liệu sản xuất đã mang tính xã hội hóa,
khơng cịn chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất đòi hỏi việc tổ chức vận hành và quản lý nền sản xuất mới này
phải hết sức khoa học, chặt chẽ và hiệu quả cao nếu không sẽ tạo ra một sự lãng phí nguồn lực và suy giảm
về động lực thúc đẩy phát triển dưới chủ nghĩa xã hội. muốn vậy chủ nghĩa xã hội cần phải tạo ra một cách


thức tổ chức lao động và kỷ luật mới cho người lao động với năng suất cao. Quan niệm về kỷ luật lao động
mới không đồng nghĩa với việc tăng cường khả năng, kiểm tra, kiểm soát đối với người lao động. Trái lại,
cách thức lao động mới của người lao động dưới chủ nghĩa xã hội dựa trên tinh thần hăng say tự giác và
sáng tạo. Quá trình tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới phải tạo ra cho người lao động hiểu rằng: lao
động của họ giờ đây khơng cịn là sự cưỡng bức hay lao động "tự tha hóa". Trái lại, hoạt động lao động
trong xã hội mới đối với mỗi người dưới đây thực sự là lao động "Vì mình", lao động "cho mình", lao động
là vinh quang.
Để có được cách tổ chức lao động mới với ý nghĩa lao động, tự giác sáng tạo đối với bản thân mỗi
người lao động thì cần phải thực hiện chế độ kiểm kê, kiểm soát tồn dân. Điều này, đặc biệt có ý nghĩa đối
với việc tổ chức quản lý và vận hành nền kinh tế trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội.Chủ đưa ra một
hình thức tổ chức lao động nghĩa xã hội sẽ tạo ra một năng suất lao động cao hơn cả nhờ việc đưa ra một
hình thức tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới theo nguyên tắc tự giác, tự nguyện xong có sự kiểm,
kiểm sốt toàn dân đối với việc sản xuất và phân phối sản phẩm đảm bảo lợi ích của đa số người lao động.
Trong sự nghiệp kiến thiết chế độ xã hội mới, các nhà kinh điển của chủ nghĩa xã hội khoa học rất
quan tâm và coi trọng việc tổ chức lao động và kỷ luật lao động nhằm khắc phục những tàn dư của tình
trạng lao động bị tha hóa trong xã hội cũ, xây dựng thái độ lao động mới phù hợp với địa vị làm chủ của
người lao động. Các ơng nhấn mạnh rằng chỉ có tổ chức hết sức chặt chẽ và kỷ luật lao động nghiêm ngặt
mới dẫn tới chủ nghĩa xã hội. Theo các ông, lao động được tổ chức có kế hoạch và kỷ luật tự giác, tự
nguyện là đặc trưng của xã hội chủ nghĩa.

Bốn là, chủ nghĩa xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động - nguyên tắc cơ bản nhất.
Trong giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa nền sản xuất chua phát triển đến mức đủ sức thỏa mãn nhu
câu của tất cả mọi thành viên trong xã hội nên nguyên tắc phân phối của cải trong giai đoạn này chủ yếu
vào kết quả lao động làm theo năng lực, hưởng theo lao động. Đây là hình thức căn bản của chủ nghĩa xã
hội, là nguyên tắc phân phối chủ yếu, thích hợp nhất với các thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu
về tư liệu sản xuất.
Lao động trở thành động lực và cơ sở quyết định địa vị và phúc lợi vật chất của mỗi người. Nó đáp
ứng được những địi hỏi cấp bách của sự cơng bằng xã hội. Nó kết hợp được chặt chẽ lợi ích của sản xuất
với lợi ích của cá nhân lao động, khuyến khích người lao động đầu tư cho chuyên môn, thúc đẩy người lao
động ra sức học tập kỹ thuật, văn hóa. Góp phần giáo dục về quan điểm, thái độ và kỷ luật lao động đối với
mỗi thành viên xã hội. Banr thân người lao động sẽ vì lợi ích của bản thân mà quan tâm đến kết quả lao
động, từ đó ra sức sản xuất.


Theo nguyên tắc này, mỗi người sản xuất sẽ được nhận từ xã hội một lượng sản phẩm tiêu dùng trị
giá ngang số lượng, chất lượng và hiệu quả lao động mà họ đã cung cấp cho xã hội, sau khi đã trừ đi một
số khoản đóng góp nhất định cho hoạt động vì lợi ích chung. Trong chủ nghĩa xã hội cịn sử dụng ngun
tắc này, bởi vì trong xã hội đó, của cải làm ra chưa đạt tới mức thật dồi dào như trong chủ nghĩa cộng sản.
Năm là, chủ nghĩa xã hôi dân chủ, nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa mang bản chất của giai cấp
công nhân vừa mang tính nhân dân rộng rãi.
C. Mác và Ăngghen đã chỉ rõ “...bước thứ nhất trong cách mạng công nhân là giai cấp vô sản biến
thành giai cấp thống trị, là giành lấy dân chủ”. Từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Nga Xô Viết,
Lênin đã khẳng định tính ưu việt của chế độ dân chủ vô sản hay dân chủ xã hội chủ nghĩa, tính ưu việt của
chính quyền Xơ Viết, một hình thức của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước xã hội chủ nghĩa theo chủ nghĩa Mác-Lênin thể hiện trước
hết nó là một cơng cụ để bảo vệ lợi ích của giai cấp cơng nhân. Lợi ích của giai cấp cơng nhân cơ bản là lợi
ích của cơng nhân lao động, do vậy, Nhà nước xã hội chủ nghĩa cịn mang tính nhân dân rộng rãi. Xây
dựng “Nhà nước kiểu mới’ cần đảm bảo các nguyên tắc cơ bản sau:
I. Nhà nước do ĐCS lãnh đạo vì nhà nước chỉ là cơng cụ để thực thi đường lối chính trị của Đảng
cầm quyền thơng qua việc thể chế hóa đường lối chính trị đó và tổ chức thực hiện nó.

II. Xây dựng bộ máy Nhà nước gọn nhẹ, tính giản, tổ chức khoa học, hoạt động hiệu quả và tiết kiệm
theo nguyên tắc “thà ít mà tốt’ tức là coi trọng chất lượng, không chạy đua theo số lượng.
III. Cải cách nhà nước phải thể hiện tính cơ bản, tình hệ thống chặt chẽ, chính quy về ngun tắc và
về tổ chức, khơng được nóng vội trên cơ sở đó phát huy tính năng động và sáng tạo của bộ máy nhà nước
và viên chức nhà nước trong thực tiễn.
Bản chất giai cấp công nhân và tính nhân dân rộng rãi của nhà nước là thực tiễn sinh động để các
Đảng Cộng sản trên thế giỏi tham khảo, vận dụng vào xây dựng nhà nước dân chủ xã hội chủ nghĩa. Các
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác–Lênin đã đề cập tới khái niệm chun chính vơ sản khi xác định bản
chất, chức năng và nhiệm vụ của nhà nước kiểu mới – nhà nước được xác lập do thắng lợi của cách mạng
xã hội chủ nghĩa. Thực chất của chun chính vơ sản là sự lãnh đạo của chính Đảng của giai cấp cơng nhân
đối với Nhà nước và tồn xã hội nhằm bảo vệ và phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền
dân chủ thuộc về tay nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.
Sáu là, mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng và phát triển con người.


Là một trong những học thuyết vĩ đại nhất trong lịch sử tư tưởng nhân loại, ngay từ khi mới ra đời
học thuyết Mác đã đặt ra mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa như Ăngghen đã khẳng định là giải
phóng con người. Chủ nghĩa Mác- Lênin đề ra mục tiêu cụ thể của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là
phải đâu tranh “xóa bỏ tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này đi bóc lột dân tộc khác
cũng bị xóa bỏ”.
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, chủ nghĩa xã hội chính là đích đến của những con người tự do. Chỉ có
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới làm cho “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự
phát triển tự do của mọi người”. Đây là mục đích tự thân của lịch sử mà chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản sẽ đạt tới trong một tiến trình hết sức lâu dài. Mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con
người khỏi mọi ách bóc lột về kinh tế và nô dịch về tinh thần, tạo điều kiện cho con người phát triển tồn
diện. Nhờ xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất cơ bản khi lực lượng sản xuất đã phát
triển đến mức cho phép thực hiện được, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản sẽ loại bỏ tai họa lớn nhất
của lồi người: tình trạng người bóc lột người, tình trạng nơ dịch và áp bức dân tộc; thực hiện được sự
cơng bằng, bình đẳng xã hội, trước hết là bình đẳng về địa vị xã hội của con người. Chủ nghĩa xã hội tạo ra
sự bình đẳng nam – nữ, thưc hiện mối quan hệ bình đẳng và hữu nghị giữa các dân tộc. Trên cơ sở toàn bộ

những cải biến xã hội lịch sử nói trên, chủ nghĩa xã hội tạo ra những điều kiện để từng bước tiến đến giải
phóng triệt để con người. Ngồi các đặc trưng cơ bản trên chủ nghĩa xã hội còn có các đặc trưng khác như
về văn hóa, xã hội, quan hệ giữa các dân tộc trong nước và quốc tế.
B.LIÊN HỆ VIỆT NAM
*Quá độ trực tiếp hay quá độ gián tiếp? Vì sao?
*Đặc điểm và thực chất của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam
Căn cứ vào lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng Sản Việt Nam và Hồ Chí Minh cho rằng
do tính chất và đặc điểm của đất nước, Việt Nam muốn đi lên XHCN tất yếu phải trải qua thời kỳ quá độ
với đặc điểm to nhất: “…là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH không phải kinh qua
giai đoạn của tư bản chủ nghĩa”. Từ Hội nghị Trung ương 1 Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 10-1930)
đến Hội nghị Trung ương 9 khóa VI Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 8-1990), thời kỳ quá độ luôn được
xác định là: “do được các nước XHCN giúp đỡ, nên bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN”, tức là nửa trực
tiếp. Đại hội II Đảng Lao động Việt Nam (tháng 02-1951) nêu rõ: TKQĐ ở Việt Nam có điểm xuất phát
thấp hơn, cho nên lâu dài, khó khăn hơn. Với đặc điểm như thế, Hồ Chí Minh cho rằng “xây dựng CNXH
là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài”.
Xây dựng CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu là một công việc hết sức mới mẻ đối với Đảng,
với Nhà nước và đối với cả nhân dân. Vì vậy Hồ Chí Minh cho rằng: tiến lên CNXH khơng phải muốn mà
tức khắc có, khơng thể một sớm một chiều là có thể giải quyết xong những nhiệm vụ cực kỳ khó khăn,
phức tạp mà CNXH đặt ra. Người căn dặn: phải tính tốn, cân nhắc kỹ lưỡng cách đi, cách làm cho phù
hợp với nước mình, đồng thời phải học tập kinh nghiệm của các nước anh em nhưng không được sao chép
máy móc, phải độc lập sáng tạo, khơng được làm bừa, làm ẩu.


Theo tư tưởng của Hồ Chí Minh, trong thời kỳ kháng chiến, Đảng ta đã chỉ đạo nhiệm vụ cách mạng
của hai miền Nam Bắc có sự khác nhau. Miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH, miền Nam tiến
hành cuộc cách mạng dân tộc nhân chủ nhân dân, thống nhất nước nhà. Nhờ đó, những thành tựu của miền
Bắc đã thật sự xứng đáng là hậu phương vững chắc của miền Nam và có vai trị quyết định trong việc thực
hiện hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Đất nước thống nhất, cả nước bước bước vào thời
kỳ quá độ đi lên CNXH, vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
về thời kỳ quá độ lên CNXH ở “những nước tiểu nông”, Đảng và nhân dân ta đã có những thành quả ban

đầu trong xây dựng CNXH, bảo vệ tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế.
Tuy nhiên, do những nguyên nhân khách quan ,chủ quan dẫn đến khủng hoảng nghiệm trọng về kinh
tế - xã hội vào cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỉ XX . Nguyên nhân chủ quan: sau khi
thống nhất đất nước, do hậu quả từ chiến tranh khiến bước đầu khôi phục lại đất nước gặp nhiều khó khăn.
Thế nhưng bình n chưa được bao lâu thì ngay trong năm 1975 Việt Nam ta lại phải đối phó với tập đồn
diệt chủng Khơ-me đỏ (đứng đầu là Polpot) nhiều lần gây hấn, tấn công tàn bạo biên giới phía Tây Nam.
Sau khi giúp đỡ Hunsen lật đổ chế độ Khơ-me đỏ tháng 1/1979 thì Trung Quốc (cùng với Mỹ và các quốc
gia khác hỗ trợ cho Khơ-me đỏ) đã tiến hành gây hấn, tấn công vào biên giới phía Bắc nước ta, khiến cho
Việt Nam vốn đang phải vừa khôi phục đất nước vừa dồn lực phản công Khơ-me đỏ chịu nhiều thiệt hại
nặng nề, nhất là về kinh tế cùng với những mất mát về người và vật chất bị tàn phá trong cuộc chiến. Ngoài
ra trong giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1995, Việt Nam đang trong tình trạng bị cấm vận kinh tế và căng
thẳng với Trung Quốc. Những điều này cũng đã ảnh hưởng lớn khiến thời kỳ quá độ của Việt Nam tiến lên
XHCN gặp rất nhiều khó khăn. Nguyên nhân chủ quan đến từ tình trạng tham nhũng, các chính sách kinh
tế khơng hợp lý, khơng theo kịp thời đại mới, cào bằng,… cũng đã khiến Việt Nam rơi vào khủng hoảng.
Hậu quả là từ năm 1976 - 1986, tăng trưởng kinh tế thấp thậm chí xuống mức âm, lạm phát phi mã kéo dài,
cán cân thanh toán mất cân đối, tỷ lệ thất nghiệp cao, chất lượng sống của nhân dân đi xuống khiến sự bất
mãn trong xã hội tăng lên, uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam sa sút.
Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện cho đất nước. Đảng ta đã
xác định: “Thời kỳ quá độ ở nước ta, do tiến thẳng lên CNXH từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và rất khó khăn. Đó là một thời kỳ cải biến cách
mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây dựng từ kiến trúc thượng tầng”. Vì vậy, thời kỳ quá độ ở nước ta
nhất thiết phải trải qua nhiều bước, nhiều chặng đường phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội
đan xen, trung gian, quá độ. Tránh khỏi những sai lầm trong chính sách, rút kinh nghiệm từ sự sụp đổ của
Liên Xô và các nước CNXH Đông Âu (trong quá trình hình thành và phát triển, Liên Xô và các nước xã
hội chủ nghĩa khác đã đạt những thành tựu to lớn về nhiều mặt, từng là chỗ dựa cho phong trào hồ bình và
cách mạng thế giới, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến


bộ xã hội. Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ là tổn thất lớn đối với phong trào cách
mạng thế giới, nhưng một số nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam, vẫn kiên định

mục tiêu, lý tưởng, tiến hành cải cách, đổi mới, giành được những thành tựu to lớn, tiếp tục phát triển;
phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế có những bước hồi phục.
Sau mười năm đổi mới (1996) nước ta đã rút ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, cơ bản hoàn thành
nhiệm vụ của chặng đường đầu thời kỳ quá độ, đất nước chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, mở cửa và hội nhập với thế giới.
Thực hiện bước quá độ lên CNXH ở Việt Nam hiện nay bên cạnh những yếu tố thuận như nhân loại
đã chuyển sang cuộc cách mạng cơng nghiệp 4.0 từ đó tạo ra sự tác động rất lớn thúc đẩy sự phát triển
nhảy vọt của lực lượng sản xuất, xu thế “tồn cầu hố” đang tạo cơ hội để cho nền kinh tế của nhiều quốc
gia có cơ hội để vươn lên, q trình đổi mới với chính sách cởi mở của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong
hội nhập quốc tế,… thì chúng ta còn gặp nhiều hạn chế về cơ sở vật chất, kỹ thuật cịn tương đối nghèo
nàn, lạc hậu, các chính sách chưa thay đổi để phù hợp với thời đại,… Bên cạnh đó, cuộc đấu tranh ngăn
chặn, đẩy lùi sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến tự chuyển
hoá” trong nội bộ, đấu tranh quyết liệt chống lại “diễn biến hồ bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
phản động, chống phá. Tất cả những vấn đề trên càng cho thấy “tính chất lâu dài, khó khăn và phức tạp”
của thời kỳ quá độ lên CNXH như Lênin đã chỉ ra.
*Những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Căn cứ vào tình hình cụ thể của đất nước và những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội theo quan điểm
chủ nghĩa Mác – Lênin, trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”,
Đảng ta đã xác định những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở VIệt Nam mà chúng ta sẽ xây dựng là:
- Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Do nhân dân lao động làm chủ.
- Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp
- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện cá nhân.
- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp nhau cùng phát triển.
- Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản
lãnh đạp.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Kết luận: Những thành tựu mà công cuộc đổi mới mang lại đã chứng minh cho sự đúng
đắn của quy luật phát triển trong việc dụng hình thái kinh tế - xã hội. Xây dựng chủ



nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tạo nên sự biến đổi về chất của xã hội
trong tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp khó khăn và lâu dài. Do vậy phải trải qua một
thời kì quá độ lâu dài vời nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội.
Câu 3: Quan điểm về dân chủ, nhà nước XHCN. Liên hệ VN
A.LÝ LUẬN CHUNG
*Khái niệm dân chủ (quan điểm của chủ Chủ nghĩa Mác - Lênin)
Lịch sử xã hội loài người là lịch sử của quá trình đấu tranh cho hạnh phúc và tương lai của con người.
Từ thuở xa xưa, con người đã ln có khát vọng vươn tới một cuộc sống tốt đẹp cho con người, vì con
người và do con người – đó chính là dân chủ. Có nhiều định nghĩa khác nhau về dân chủ, tuy nhiên theo
chủ nghĩa Mác – Lênin, đã nhìn nhận dân chủ trên những phương diện sau:
Trên phương diện chế độ xã hội và trong lĩnh vực chính trị, dân chủ là hình thức hay hình thái nhà
nước, là chính thể dân chủ hay chế độ dân chủ. Nó ln gắn với một kiểu nhà nước và một giai cấp cầm
quyền mà ở đó khơng có “dân chủ phi giai cấp” “dân chủ chung chung”.
Trên phương diện quyền lực, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ đất nước. Lợi
ích của nhân dân trong mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội sẽ đảm bảo được thực hiện khi quyền lực nhà
nước thuộc quyền sở hữu của nhân dân lao động.
Trên phương diện tổ chức và quản lí xã hội, dân chủ là một nguyên tắc - nguyên tắc dân chủ. Sự kết
hợp giữa nguyên tắc dân chủ và nguyên tắc tập trung đã hình thành nên nguyên tắc tập trung dân chủ trong
tổ chức và quản lí xã hội. Đây là nguyên tắc kết hợp hài hòa giữa chỉ đạo tập trung thống nhất của cấp trên
với việc mở rộng dân chủ cho cấp dưới, đảm bảo nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong quản lí nhà nước, thiết
lập được trật tự xã hội.
Trên phương diện tư tưởng, dân chủ là một quan niệm - quan niệm về dân chủ, về tinh thần dân chủ.
Nó được thể hiện trong thực tiễn đời sống xã hội trên toàn phương diện trong đời sống, từ kinh tế, chính trị
đến văn hóa, xã hội thơng qua sự quy định của các điều kiện lịch sử, kinh tế - xã hội hay bối cảnh lịch sử
đã được đặt trước đó.
Dân chủ được coi là mục tiêu, là tiền đề, cũng là phương tiện để vươn tới tự do, giải phóng con
người, giai cấp và xã hội. Dân chủ là quyền lực của nhân dân được thực hiện bởi những tổ chức tự quản
một cách tự nguyện, theo truyền thống đã chuyển sang một hình thức mới gắn liền với nhà nước. Từ đây

dân chủ được thể chế hóa bằng chế độ nhà nước, bằng pháp luật. Và vì gắn liền với nhà nước như thế, nên
khi nhà nước tiêu vong, dân chủ cũng sẽ bị mất đi. Nhưng khi xem dân chủ với tư cách một giá trị xã hội,
nó lại là một phạm trù vĩnh viễn, tồn tại và phát triển cũng với xã hội loài người.
* Khái niệm Dân chủ xã hội chủ nghĩa


Trên cơ sở thực tiễn quá trình xuất hiện, tồn tại và phát triển của các nền dân chủ trong lịch sử,
đặc biệt là nền dân chủ tư sản, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định rằng: Đấu tranh cho
dân chủ là một quá trình lâu dài, phức tạp và không thể dừng lại ở dân chủ tư sản. Vì đấy, tất yếu ra đời
một nền dân chủ mới song với sự thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa lúc bấy giờ, đó chính là nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, hay cịn gọi là dân chủ vô sản.
Thực chất, dân chủ xã hội chủ nghĩa đã được hình thành sơ khai từ các cuộc đấu tranh giai cấp ở Pháp
và Công xã Paris năm 1871. Cho đến khi cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) thắng lợi, lần đầu tiên
trong lịch sử, nhân dân lao động giành lại được chính quyền, lập nên Nhà nước xã hội chủ nghĩa và lãnh
đạo nó thơng qua chính đảng của mình, thiếp lập nền dân chủ xã hội chủ nghĩa để thực hiện quyền lực của
nhân dân. Sự ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đánh dấu một bước phát triển mới về chất của dân
chủ. Những điều kiện cần thiết mà cách mạng xã hội chủ nghĩa mang lại đã giải phóng nhân dân lao động,
mở rộng dân chủ và lơi cuốn quần chúng vào công cuộc cải tạo xã hội, xây dựng nền dân chủ mới, không
những kế thừa từ những giá trị của các nền dân chủ trước đó mà q trình phát triển của nó cịn thu nạp và
làm sâu sắc thêm những giá trị mới của nền dân chủ mới.
Theo C.Mác và Ăngghen, dân chủ là sản phẩm tiến hóa, là nhu cầu khách quan của con người, nên
sau khi giành được chính quyền, nhiệm vụ của cách mạng vơ sản là sử dụng có hiệu quả quyền lực nhà
nước để hình thành nên một xã hội mà ở đó, nhân dân được nắm giữ tồn bộ quyền làm chủ trong tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Một chế độ dân chủ thể hiện chủ yếu qua nhà nước thì khi đó khơng có “dân chủ phi giai cấp”, “dân
chủ chung chung” hay “dân chủ thuần túy”. Ngược lại, Lênin đã nhấn mạnh, mỗi chế độ dân chủ gắn liền
với nhà nước đều mang bản chất giai cấp thống trị xã hội và phân biệt dân chủ vơ sản với các nền dân chủ
trước đó như dân chủ nô lệ, dân chủ tư sản ở chỗ, dân chủ vô sản là chế độ thống trị của đa số với thiểu số,
vì lợi ích của đa số.
V.I.Lenin cho rằng, cuộc đấu tranh cho dân chủ với thắng lợi của chủ nghĩa xã hội luôn gắn liền với

nhau. Sự phát triển của nền dân chủ vô sản sau các cuộc đấu tranh cho dân chủ là tiền đề cho thắng lợi triệt
để của cách mạng vơ sản, hồn tồn của mục tiêu chủ nghĩa xã hội. Khơng có các cuộc đấu tranh cho dân
chủ thì cách mạng xã hội chủ nghĩa của giai cấp vô sản cũng không thể hoàn thành.
Ở nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân lao động được thực sự là người chủ trên tất cả các lĩnh vực
hoạt động của đời sống xã hội. Toàn bộ quyền lực được sử dụng để điều hành và quản lí nhà nước đều là
do nhân dân nắm giữ. Dân chủ trong chủ nghĩa xã hội trở thành giá trị phổ biến, bao quát tất cả các mặt
của đời sống xã hội. Từ đây, “xóa bỏ giai cấp” dần được định hướng rõ rệt, thức đẩy và phát huy cao độ
tính tích cực, sáng tạo của quần chúng nhân dân, để nhân dân tham gia vào công việc quản lý nhà nước,


quản lý và phát triển xã hội “Với việc phát triển chế độ dân chủ một cách đầy đủ, nghĩa là với việc làm cho
toàn thể quần chúng nhân dân tham gia thực sự bình đẳng và thực sự rộng rãi vào mọi cơng việc quản lý
nhà nước”. (V.I.Lenin: Tồn tập, NXB Tiến bộ, Moscow, 1981, t30, trang 93)
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cần và phải mở rộng dân chủ với đông đảo quần chúng nhân dân, song
song với đó, kiên quyết hạn chế dân chủ và đấu tranh chống mọi hành vi vi phạm giá trị dân chủ. Trong
nền dân chủ này, chuyên chính bảo vệ và phát triển thành quả dân chủ của nhân dân, hai yêu tố này tự quy
định, tác động, bổ sung cho nhau. Vì sự cần thiết phải xử lý kịp thời, đúng đắn các hành vi gây ảnh hưởng
xấu đến quyền dân chủ của nhân dân, pháp luật ra đời từ đây. Dân chủ và pháp luật có mối quan hệ biện
chứng, là điều kiện, tiền đề để tồn tại, phát triển của nhau.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng dựa trên chủ nghĩa Marx-Lenin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, nhìn chung,
quần chúng nhân dân có tính tự giác cao, trình độ giác ngộ chính trị và trình độ văn hóa dân chủ cao. Khi
đó, nhân dân đấu tranh mới có hiệu quả trong việc chống lại những giá trị và chuẩn mực đi ngược với lợi
ích nhân dân.
Ta rút được khái niệm: dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ mà ở đó mọi quyền lực đều thuộc
về nhân dân; dân là chủ và dân làm chủ; pháp luật nằm trong sự thống nhất biện chứng; được thực hiện
thông qua nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng; và trải đều ở tất cả các
lĩnh vực trong đời sống xã hội.
Trong quá trình hình thành và phát triển, dân chủ xã hội chủ nghĩa có những bản chất cơ bản sau đây:
Về chính trị, với tư cách là chế độ nhà nước được sáng tạo bởi quần chúng nhân dân lao động và đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa bảo đảm mọi quyền lực đều thuộc về nhân

dân. Nhà nước xã hội chủ nghĩa tạo điều kiện cho nhân dân tham gia ngày càng đơng đảo và có ý nghĩa
quyết định vào cơng việc quản lí chính trị - xã hội. Hồ Chí Minh cũng đã chỉ rõ: Trong chế độ dân chủ xã
hội chủ nghĩa thì bao nhiêu quyền lực đều là của dân, bao nhiêu sức mạnh đều ở nơi dân, bao nhiêu lợi ích
đều là vì dân... Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa... do đó về thực chất là của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước đảm bảo sự thoả mãn ngày càng cao cho các nhu cầu và
lợi ích của nhân dân, trong đó có lợi ích của giai cấp công nhân là phù hợp nhất với các quan điểm chung
của quần chúng nhân dân. Điều đó cho thấy, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có bản chất giai cấp cơng nhân,
vừa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
Về kinh tế, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có cơ sở kinh tế là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ
yếu cho toàn xã hội xuất phát từ q trình xã hội hóa. Đó là sự đi lên mạnh mẽ không ngừng nghỉ của lực
lượng sản xuất trên cơ sở khoa học, công nghệ hiện đại nhằm thỏa mãn nhu cầu không ngừng tăng lên về


vật chất và tinh thần của toàn thể nhân dân lao động, đảm bảo mọi người ai cũng đều được hưởng thụ
những thành quả chung của sự phát triển xã hội. Ngoài ra, bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa và nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ln gắn liền với nhau, hình thành, bù trừ và hoàn thiện lẫn nhau.
Tuy nhiên, muốn mục tiêu này đạt được, đòi hỏi phải trải qua một quá trình lâu dài, khó khăn và phức tạp.
Về văn hóa - tư tưởng, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy chủ nghĩa Marx-Lenin làm nền tảng tư
tưởng, đồng thời kế thừa, phát huy những tinh hoa văn hóa, tư tưởng của nhân loại. Trong nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, các giá trị dân chủ dần biến thành những nguyên tắc phổ biến trong hoạt động và các quan
hệ xã hội. Cụ thể là những giá trị dân chủ, quyền lực nhân dân được thể chế hóa thành Hiến pháp và Pháp
luật, thành hệ thống chính trị, ngày càng trở thành nhân tố hàng đầu, thành mục tiêu và động lực cho quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Về xã hội, trên cơ sở là sự kết hợp hài hịa giữa về lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích tồn xã
hội. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đẩy mạnh tính tự giác, sức sáng tạo và tính tích cực của con người trong
cơng cuộc xây dựng xã hội mới. Mọi nhân dân đều có quyền được bầu cử và tự ứng cử mình vào các vị trí
trong các cơ quan nhà nước hay các tổ chức chính trị - xã hội.
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa dù cho có ra đời muộn hơn, thời gian phát triển cũng ngắn hơn các nền
dân chủ trước đó nên cũng khơng thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế trên các lĩnh vực ở đời sống xã
hội. Nhưng vận dụng những bản chất vừa nêu trên, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đang từng bước, từng

ngày hồn thiện để đáp ứng cho cơng dân những điều tốt đẹp nhất.
*Nhà nước là gì và nhà nước xã hội chủ nghĩa là gì
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu
thuẫn giai cấp không thể điều hoà được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách quan,
những mâu thuẫn giai cấp khơng thể điều hồ được, thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của
nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hoà được”. Nhà nước chỉ ra đời, tồn
tại trong một giai đoạn nhất định của sự phát triển xã hội và sẽ mất đi khi những cơ sở tồn tại của nó khơng
cịn nữa.
Và nhà nước xã hội chủ nghĩa là một trong những tổ chức chính trị cơ bản nhất của hệ thống chính
trị xã hội chủ nghĩa, một công cụ quản lý mà Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo nhân dân tổ chức ra để
qua đó là chủ yếu, nhân dân lao động thực hiện quyền lực và lợi ích của mình, cũng qua đó là chủ yếu mà
giai cấp cơng nhân và Đảng của nó lãnh đạo xã hội về mọi mặt.
*Bản chất, chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa
*Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa


×