Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Vị trí địa lý của đông nam á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (70.19 KB, 9 trang )

Vị trí địa lý của Đơng Nam Á:
- Đơng Nam Á là một khu vực nằm ở phía Đơng Nam châu Á, bao gồm
các nước nằm ở phía nam Trung Quốc, phía đơng Ấn Độ và phía
bắc của Úc, phía Tây Papua New Guinea. Khu vực này rộng
4.494.047 km² (chiếm 10.5% diện tích Châu Á và 3% diện tích đất trên
Trái Đất). Phần lớn khu vực nằm ở bán cầu Bắc và nằm một chút tại bán
cầu Nam. Nó bao gồm 11 quốc gia được chia thành 2 nhóm:
1.

Nhóm đất liền (Bán đảo Trung - Ấn): Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái
Lan, Myanmar và phía tây Malaysia.

2.

Nhóm hải đảo (Quần đảo Mã Lai): Indonesia, phía đơng
Malaysia, Singapore, Philipines, Đơng Timor, Brunei.
- Đơng Nam Á là khu vực có nhiều thuận lợi về vị trí địa lý trong sự phát
triển kinh tế khu vực vì có vùng biển rộng, gấp nhiều lần so với diện tích
đất liền, khi nguồn tài nguyên trên đất liền ngày càng cạn kiệt thì vùng
biển có ý nghĩa vơ cùng quan trọng. Bên cạnh đó, vùng biển Đơng Nam
Á giàu tài ngun như: Sinh vật, khống sản, tạo điều kiện phát triển du
lịch và lĩnh vực giao thơng vận tải… Ngồi ra, khu vực Đơng Nam Á là
giao điểm của con đường giao thông quốc tế, từ Bắc xuống Nam, từ
Đông sang Tây. Là cầu nối giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, lục
địa Á - Âu và ÚC từ đó tạo thuận lợi cho việc phát triển các mối quan hệ,
giao lưu buôn bán quốc tế, Đơng Nam Á là khu vực có tầm quan trọng
hàng đầu trên thế giới.


- Mặc dù có nhiều thuận lợi nhưng bên cạnh đó khu vực Đơng Nam Á
cũng có nhiều khó khăn. Vì là khu vực có vùng biển lớn và nhiều hải đảo


do vậy, địa hình ở đây bị chia cắt mạnh vậy nên khơng có những đồng
bằng lớn, khó khăn cho giao thơng đường bộ. Ngồi ra, do là trung tâm
của đường giao thông quốc tế khiến cho Đông Nam Á ngay từ rất sớm
đã bị các nước bên ngoài nhóm ngó, xâm lược.
- Đơng Nam Á có vị trí địa – chính trị đặc biệt, là điểm xốy chiến lược,
giao thoa quyền lợi của nhiều cường quốc lớn trên thế giới như: Mỹ,
Trung Quốc, Nhật Bản và Ấn Độ… Mỗi quốc gia có những mục tiêu chiến
lược, sách lược và lợi ích riêng đối với khu vực này.


Chiến lược của Mỹ:
- Về lợi ích kinh tế, khu vực Đơng Á nói chung và Đơng Nam Á nói
riêng là thị trường đầu tư khổng lồ, tiêu thụ lượng hàng hóa
lớn,mang lại lợi nhuận cao cho Mỹ. Các nước trong khu vực chủ
yếu là những nước đang phát triển, thiếu vốn và công nghệ khá
lạc hậu, nhưng sức lao động rẻ, lại đang có chính sách kích thích
đầu tư nước ngồi, nhất là vào các ngành công nghệ cao (sản xuất
ô tơ, máy tính, điện thoại di động…) vốn là lĩnh vực thuộc ưu thế
của Mỹ và các nước tư bản phát triển. Hơn thế, các nước Đơng
Nam Á đang hình thành nên tầng lớp trung lưu khá giả càng làm
gia tăng sức mua của thị trường. Những quốc gia có nền kinh tế
chuyển đổi trong khu vực sẽ tham gia nhiều hơn vào hệ thống
phân công lao động theo chiều dọc mà “chuỗi giá trị” sản xuất ra
sản phẩm có công nghệ cao do phương Tây và Nhật Bản chi phối.
Điều này mang lại lợi nhuận cao cho các nhà đầu tư nước ngồi và
có lợi cho người tiêu dùng trong nước.


- Về lợi ích chính trị, an ninh. Đơng Nam Á đóng một vai trị quan
trọngtrong chiến lược an ninh Châu Á – Thái Bình Dương của Mỹ.

Đồng thời, Đơng Á cịn là một trong những khu vực có lực lượng
quân sự dày đặc, tiềm lực phát triển quân sự lớn và vấn đề phổ
biến vũ khí hạt nhân nghiêm trọng nhất thế giới. Mỹ rất lo lắng về
vấn đề phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt ở châu Á, như vấn đề
hạt nhân ở Triều Tiên và Iran, Ấn Độ và Pakistan. Bên cạnh đó,
Đơng Á đã trở thành “mặt trận thứ hai” trong cuộc chiến chống
khủng bố tồn cầu của Mỹ. Sau sự kiện 11-9-2001, Chính quyền
Mỹ đặt mục tiêu chống khủng bố vào trọng tâm chiến lược an
ninh quốc gia. Nước Mỹ cho rằng thế lực chủ nghĩa khủng bố Hồi
giáo ở Nam Á và Đông Nam Á tạo thành mối đe dọa nghiệm trọng
đối với lợi ích an ninh của Mỹ ở khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương. Mặt khác, trở lại Đơng Nam Á, Mỹ muốn thực hiện chiến
lược chung là củng cố chặt chẽ liên minh Mỹ – Nhật – Hàn song
song với việc triển khai chiến lược Châu Á – Thái Bình Dương.
Nhiều quốc gia tại Đơng Á và Đơng Nam Á là bạn bè đồng minh
truyền thống của Mỹ (Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippines và Thái
Lan). Singapore hợp tác chặt chẽ với Mỹ trên lĩnh vựcquân sự. Các
nước khác như Indonesia và Việt Nam có những lợi ích chung
quan trọng với Mỹ và nhiều khả năng sẽ trở thành các đối tác an
ninh và chiến lược gần gũi hơn trong những năm tới. Trở lại Đông
Nam Á, Mỹ chẳng những nối lại quan hệ cũ mà cịn có thể cải
thiện và phát triển quan hệ với các đồng minh mới như Ấn Độ, xây
dựng được vành đai liên kết an ninh từ Đông Bắc Á xuống Đông
Nam Á, vươn sang Ấn Độ Dương, xây dựng liên minh chiến lược
châu Á có lợi cho Mỹ bao gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ và
ASEAN. Sau Chiến tranh Lạnh, nhất là trong thập niên đầu thế kỷ


21, Trung Quốc nổi lên như một cường quốc khu vực tồn diện,
một trung tâm quyền lực chính, có khả năng lớn đe dọa trật tự

châu Á. Việc điều chỉnh từ chính sách đối ngoại “dấu mình chờ
thời” sang chủ động đề ra luật chơi, “vạch ra những đường đỏ”
trong quan hệ quốc tế của Trung Quốc cùng với sự phát triển về
thực lực kinh tế, quốc phòng đã tạo nên những thách thức tiềm
tàng đối với Mỹ. Bên cạnh đó, Nhật Bản đang theo đuổi mục tiêu
“đuổi kịp về chính trị – ngang tầm với kinh tế”, canh tân quân đội
để trở thành một “cường quốc bình thường” cũng ít nhiều khiến
Mỹ trăn trở. Hơn thế, việc nước Nga từng bước phục hồi trong
thập niên đầu thế kỷ 21 và đang điều chỉnh chính sách cân bằng
Đơng – Tây, quan tâm nhiều hơn đến các nước Châu Á, chú trọng
cải thiện quan hệ với Trung Quốc, Ấn Độ, tham dự nhiều hơn vào
các cơ chế hợp tác khu vực cũng là những thách thức đối với việc
duy trì vị thế của Mỹ ở châu Á nói chung và Đơng Nam Á nói riêng


Chiến lược của Trung Quốc:
- Đối với Trung Quốc, trong lịch sử cũng như hiện tại, Đông Nam Á
ln là khu vực có ý nghĩa chiến lược quan trọng. Trung Quốc đang
tích cực tận dụng thực lực kinh tế và uy tín chính trị trong việc mở
rộng mối quan hệ trên tất cả các phương diện với ASEAN. Về mặt vị
trí, hầu hết các đặc khu kinh tế, các thành phố, hải cảng và vùng
đồng bằng giàu có của Trung Quốc đều tập trung ở phía Đơng Nam,
tiếp giáp các nước ASEAN. Ngồi ra, Đơng Nam Á cịn là nơi làm ăn
và sinh sống của đơng đảo Hoa Kiều, với hơn 22 triệu người. Đối với
một số nước như Singapore, Malaysia, người Hoa đóng vai trị quan
trọng về kinh tế thương mại, bất chấp thời gian hay sự thay đổi chế
độ chính trị. Đây có thể coi là lợi thế tuyệt đối của Trung Quốc ở khu
vực Đơng Nam Á. Vì vậy, một trong những hướng mở cửa quốc gia



của Trung Quốc là khu vực Đông Nam Á, với mong muốn xây dựng
mối quan hệ kinh tế thương mại phát triển tại đây.
Quan hệ ASEAN – Trung Quốc bắt đầu khởi động từ năm 1991 qua
việc Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc họp khơng chính thức với các
nước ASEAN. Năm 1996, Trung Quốc trở thành một bên đối thoại
đầy đủ của ASEAN. Trung Quốc muốn mở rộng ảnh hưởng của mình
tại khu vực Đơng Nam Á, cịn các nước ASEAN lại muốn mình trở
thành đối tác quan trọng và xâm nhập sâu rộng vào thị trường
khổng lồ với hơn một tỷ dân của Trung Quốc. Hợp tác kinh tế –
thương mại đã trở thành con đường thuận lợi để cả hai phía đạt
được lợi ích của mình. Biên giới mềm (hàng hóa tiêu dùng và văn
hóa tinh thần) của Trung Quốc trải dài khắp các quốc gia Đông Nam
Á. Cùng với sức mạnh vật chất (sức cạnh tranh hàng hóa cao, vốn dự
trữ ngoại tệ hàng nghìn tỷ USD) uy tín chính trị – ngoại giao của
Trung Quốc cũng đang tăng lên nhanh chóng (ln sẵn sàng viện trợ
cho các nước khó khăn trong khu vực). Trong khi mậu dịch song
phương của ASEAN với Mỹ, Nhật, EU giảm mạnh ở những năm cuối
thập kỷ 90 thì quan hệ kinh tế – thương mại giữa ASEAN với Trung
Quốc lại tăng đều đặn và ổn định, nhất là sau khi Hồng Kông trở về
Trung Quốc. Năm 2012, kim ngạch thương mại hai chiều Trung Quốc
– ASEAN đã đạt hơn 400 tỷ USD, tăng 9,3% so với cùng kỳ. Tính đến
hết tháng 10-2014, tổng mức đầu tư hai chiều đạt khoảng 347tỷ
USD, tăng 7,5% so với cùng kỳ, mức tăng gấp hơn ba lần so với mức
tăng của ngành ngoại thương Trung Quốc(1). Trong 4 đối tác thương
mại chủ yếu của Trung Quốc (Liên minh châu Âu, Mỹ, ASEAN và Nhâật
Bản), mức tăng nhanh nhất là thương mại với ASEAN. Dự kiếnnăm
2020, Trung Quốcsẽ tăng lượng trao đổi thương mại với các nước
thành viên Hiệp hội Đông Nam Á (ASEAN) lên 2,5 lần – tức là
khoảng1nghìntỷ USD. ASEAN đã trở thành điểm đến đầu tư chủ yếu
của các doanh nghiệp Trung Quốc. Ngoài ra, trong những năm gần



đây, Trung Quốc còn lập ra các Quỹ đầu tư giá trị hàng chục tỷ USD
dành cho các nước ASEAN vay với lãi suất ưu đãi nhằm phát triển cơ
sở hạ tầng, nhất là đối với các nước thuộc Tiểu vùng sông Mêkông
mở rộng (GMS). Việc phát triển mối quan hệ hợp tác nhiều mặt với
các quốc gia Đông Nam Á giúp Trung Quốc tăng khả năng cạnh
tranh với Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ và EU trong khu vực.


Chiến lược của Nhật Bản tại Đơng Nam Á:
- Về lợi ích kinh tế: Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã làm thay
đổi một cách cơ bản các nền kinh tế lạc hậu và phụ thuộc ở Đông
Nam Á, từ chỗ lệ thuộc vào phương Tây chuyển sang tự nghiên
cứu và phát triển các kỹ thuật cơng nghệ thích ứng. Với đặc trưng
là nền kinh tế hướng ngoại, xuất nhập khẩu trở thành hai lá phổi
quan trọng của nến kinh tế Nhật Bản. Sự mở rộng cơ hội thương
mại và đầu tư tại các nước có nền kinh tế mới chuyển đổi ở Đông
Nam Á, như Việt Nam, đã và đang tạo ra nhiều cơ hội cho các
doanh nghiệp Nhật Bản. Các nền kinh tế này sẽ giúp Nhật Bản đổi
mới cơng nghệ, gia tăng xuất khẩu sản phẩm có hàm lượng chất
xám cao bằng cách chuyển một bộ phận nhà máy có cơng nghệ
vừa phải ra nước ngồi và đóng vai trò là nhà cung cấp linh kiện,
dây chuyền sản xuất hiện đại cho việc lắp ráp, sản xuất hàng xuất
khẩu tại nước đó. Trong bối cảnh gia tăng cạnh tranh kết hợp với
xu thế liên kết khu vực, nhất là sự trỗi dậy của Trung Quốc như
“một công xưởng thế giới”, thì sự bổ sung giữa nền kinh tế Nhật
Bản với các nền kinh tế cịn lại của Đơng Á có ý nghĩa chiến lược
với Nhật Bản. Hơn nữa, sự khan hiếm về mặt nhiên liệu, năng
lượng cũng là một bài tốn khó cho Nhật Bản, buộc nước này phải

tăng cường hợp tác năng lượng với các quốc gia có tiềm năng về
nguồn dự trữ tài nguyên trong khu vực. Chính vì vậy, chính sách


“ngoại giao kinh tế”, trong đó có “ngoại giao ODA” kết hợp với
“ngoại giao văn hóa” là hướng đi đang được người Nhật chú
trọng, nhằm khơng chỉ duy trì, mà cịn gia tăng lợi ích chiến lược
kinh tế, chính trị của Nhật Bản trên trường quốc tế.
- Về lợi ích chính trị và an ninh: Nhật Bản là một trong những nước
nằm trên “vành đai địa – chính trị nhạy cảm, thiếu ổn định về an
ninh”. Điều này đã và đang tạo ra cả cơ hội lẫn thách thức đối với
lợi ích quốc gia – dân tộc của Nhật Bản cả hiện tại lẫn tương lai.
Với vị trí địa – chính trị đặc biệt, án ngữ tuyến đường biển nối liền
các khu vực có tiềm lực kinh tế, chính trị và quân sự lớn như Đông
Bắc Á, Trung Đông, Australia và một số quốc gia thuộc khu vực
Châu Á – Thái Bình Dương, khu vực Đơng Nam Á đóng vai trò thiết
yếu trong chiến lược phát triển của nhiều quốc gia, trong đó có
Nhật Bản. Đối với Nhật Bản, Đơng Nam Á được coi là bàn đạp cho
mục tiêu trở thành cường quốc khu vực của Nhật Bản, đồng thời
nước này coi quan hệ với ASEAN là khâu đột phá mở rộng ảnh
hưởng của Nhật tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương cũng như
trên tồn thế giới. An ninh quốc gia của Nhật Bản phụ thuộc rất
lớn vào sự an toàn trên các tuyến đường biển quốc tế chảy qua
lãnh hải của các nước Đông Nam Á. Không chỉ đảm nhận vai trò
vận chuyển, xuất nhập khẩu hàng hóa, nhu yếu phẩm cần thiết
cho đời sống và sản xuất của người dân Nhật (có khoảng hơn 80%
hàng hóa nhập khẩu của Nhật đi qua khu vực Biển Đông), các
tuyến đường biển ở Đơng Nam Á cịn là cầu nối căn cứ quân sự
của Mỹ ở Okinawa với các tuyến phòng thủ do Mỹ lập ra để đảm
bảo an ninh quân sự cho Nhật Bản ở Đông Á. Đông Nam Á thực sự

là nơi Nhật Bản có thể tìm kiếm vai trị chính trị tương xứng với
sức mạnh kinh tế sau Chiến tranh Lạnh, trở thành một “cường


quốc đầy đủ” trên thế giới. Trong bối cảnh đó, Chính phủ Nhật Bản
xem việc phát triển quan hệ với các nước trong khu vực Đông
Nam Á là ưu tiên hàng đầu trong chiến lược ngoại giao “Quay về
Châu Á” của mình.


Chiến lược của Ấn Độ:
- Về kinh tế: Xét về địa lý, tiến vào Thái Bình Dương qua eo biển
Malacca là con đường đi sang phía Đơng thuận lợi nhất của Ấn Độ.
Đơng Á cũng giàu có về ngun liệu thô và năng lượng, những tài
nguyên mà Ấn Độ rất “khát” cho sự phát triển đất nước trong
tương lai. Yếu tố gần gũi về văn hóa cũng là tiền đề thuận lợi cho
sự phát triển quan hệ hợp tác mọi mặt giữa Ấn Độ và Đông Nam
Á. Ấn Độ tiến hành cải cách kinh tế trong bối cảnh Mỹ và Tây Âu
vẫn duy trì chính sách bảo hộ thương mại mạnh, do đó, tốc độ
tăng trưởng kinh tế nhanh và q trình hội nhập kinh tế sâu rộng
tại Đơng Á đã trở thành lực hút quan trọng đối với Ấn Độ. Bước
sang thế kỷ 21, các nước Đông Nam Á đang có bước phát triển
vượt bậc về kinh tế với chính sách kích thích đầu tư nước ngồi
vào các ngành công nghệ cao, viễn thông, công nghệ thông tin,
công nghiệp phần mềm… vốn là lĩnh vực thuộc ưu thế của Ấn Độ.
Các nhà hoạch định kinh tế của Ấn Độ cho rằng, thông qua các cơ
chế hợp tác với ASEAN, Ấn Độ có thể bảo đảm khơng bị cơ lập khi
mà các thỏa thuận mậu dịch mang tính khu vực đang trở thành xu
thế chung. Trên thực tế, Ấn Độ hy vọng mối quan hệ kinh tế chặt
chẽ với ASEAN sẽ làm cầu nối giúp nước này hòa nhập vào một

cộng đồng kinh tế lớn hơn bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn
Quốc.


- Về chính trị – an ninh, thương mại trên biển của Ấn Độ gắn trực
tiếp với những eo biển nằm ở khu vực Đông Nam Á như Sun-đa,
Lom-bo, đặc biệt là eo biển Malacca, nơi có lượng tàu thuyền qua lại
mỗi năm gần gấp đôi lượng tàu thuyền qua kênh đào Xuy-ê và gần
gấp ba lần kênh đào Panama. Chú trọng quan hệ hợp tác với các
quốc gia Đông Á sẽ giúp Ấn Độ bảo vệ các hoạt động thương mại
trên biển, chống lại nạn cướp biển, buôn lậu ma túy tại khu vực Tam
giác vàng. Trên thực tế, trong bối cảnh các quốc gia châu Á đang xích
lại gần nhau, các cường quốc lớn trong và ngoài khu vực đang tìm
mọi cách gia tăng ảnh hưởng về kinh tế và chính trị đối với Đơng Á,
sẽ là bất lợi nếu Ấn Độ đứng ngồi tiến trình này.



×