Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

DE CUONG KTCT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (351.54 KB, 12 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Câu1: Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá
.Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá


Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế, đó là sản xuất tự cấp tự
túc và sản xuất hàng hoá.


Sản xuất tự cấp tự túc là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm do lao động tạo ra là nhằm để thoả mãn trực tiếp nhu
cầu của người sản xuất.


Sản xuất hàng hoá là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm được sản xuất ra để trao đổi hoặc mua bán trên thị
trường.


Sản xuất hàng hoá ra đời là bước ngoặt căn bản trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, đưa lồi người
thốt khỏi tình trạng “mơng muội”, xố bỏ nền kinh tế tự nhiên, phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất và
nâng cao hiệu quả kinh tế của xã hội.


Sản xuất hàng hoá chỉ ra đời, khi có đủ hai điều kiện sau đây:
- Thứ nhất, phân công lao động xã hội.


Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội một cách tự phát thành các ngành, nghề khác nhau.
Phân công lao động xã hội tạo ra sự chun mơn hố lao động, do đó dẫn đến chun mơn hố sản xuất. Do phân
công lao động xã hội nên mỗi người sản xuất sẽ làm một cơng việc cụ thể, vì vậy họ chỉ tạo ra một hoặc một vài
loại sản phẩm nhất định. Song cuộc sống của mỗi người lại cần đến rất nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để thoả
mãn nhu cầu, địi hỏi họ phải có mối liên hệ phụ thuộc vào nhau, phải trao đổi sản phẩm cho nhau.


Như vậy, phân công lao động xã hội là cơ sở, là tiền đề của sản xuất hàng hố. Mác chỉ rõ: “Sự phân cơng lao
động xã hội này là điều kiện tồn tại của nền sản xuất hàng hoá, mặc dầu ngược lại, sản xuất hàng hố khơng phải
là điều kiện tồn tại của sự phân công lao động xã hội”. Phân công lao động xã hội càng phát triển, thì sản xuất và
trao đổi hàng hoá càng mở rộng hơn, đa dạng hơn.


- Thứ hai, sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất.



Sự tách biệt này do các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, mà khởi thuỷ là chế độ tư hữu nhỏ về tư
liệu sản xuất, đã xác định người sở hữu tư liệu sản xuất là người sở hữu sản phẩm lao động.


C.Mác viết: “Chỉ có sản phẩm của những lao động tư nhân độc lập và không phụ thuộc vào nhau mới đối diện
với nhau như là những hàng hố”.


Như vậy, chính quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất đã làm cho những người sản xuất độc lập, đối lập
với nhau, nhưng họ lại nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội nên họ phụ thuộc lẫn nhau về sản xuất và
tiêu dùng.


Trong điều kiện ấy người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải thông qua sự mua – bán hàng hoá,
tức là phải trao đổi dưới những hình thái hàng hố.


Từ sự phân tích trên, sản xuất hàng hố chì ra đời khi có đồng thời hai điều kiện nói trên, nếu thiếu một trong hai
điều kiện ấy thì khơng có sản xuất hàng hố và sản phẩm lao động khơng mang hình thái hàng hoá.


Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hoá


Sản xuất hàng hoá ra đời là bước ngoặt căn bản trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, đưa lồi người
thốt khỏi tình trạng “mơng muội”, xoá bỏ nền kinh tế tự nhiên, phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất và
nâng cao hiệu quả kinh tế của xã hội.


Sản xuất hàng hoá so với sản xuất tự cung tự cấp có đặc trưng và ưu thế cơ bản sau đây:


- Thứ nhất, do mục đích của sản xuất hàng hố khơng phải để thoả mãn nhu cầu của bản thân người sản xuất như
trong kinh tế tự nhiên mà để thoả mãn nhu cầu của người khác, của thị trường. Sự gia tăng không hạn chế nhu
cầu của thị trường là một động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển.


- Thứ hai, cạnh tranh ngày càng gay gắt, buộc mỗi người sản xuất hàng hoá phải năng động trong sản xuất – kinh


doanh, phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất để tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng
sản phẩm, nhằm tiêu thụ được hàng hoá và thu được lợi nhuận ngày càng nhiều hơn. Cạnh tranh đã thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ.


- Thứ ba, sự phát triển của sản xuất xã hội với tính chất “mở”, các quan hệ hàng hoá tiền tệ làm cho giao lưu
kinh tế, văn hoá giữa các địa phương trong nước và quốc tế ngày càng phát triển. Từ đó tạo điều kiện ngày càng
nâng cao đời sống vật chất và văn hố của nhân dân.


Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực như đã nêu trên, sản xuất hàng hoá cũng có những mặt trái của nó như phân
hố giàu – nghèo giữa những người sản xuất hàng hoá, tiềm ẩn những khả năng khủng hoảng kinh tế – xã hội,
phá hoại mơi trường


<b>Câu2</b>: 1. Hàng hố là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người thơng qua trao đổi
buôn bán.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

nhưng dù ở dạng nào nó cũng có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị.


2. Giá trị sử dụng là công dụng của hàng hoá để thoả mãn nhu cầu nào đó của con người.


Hàng hố nào cũng có một hay một vài cơng dụng và cộng dụng đó làm nó có giá trị sử dụng. Ví dụ như gạo là
dùng để ăn, giá trị sử dụng của gạo là để ăn...


Giá trị sử dụng của hàng hoá là do thuộc tín tự nhiên (Lý, hố, sinh) của thực thể hàng hố đó quy định nhưng
việc phát hiện ra những thuộc tính có ích đó lại phụ thuộc vào sự phát triển của XH, của con người. XH càng tiến
bộ, lực lượng sản xuất ngày càng phát triển thì số lượng giá trị sử dụng ngày càng nhiều, chủng loại giá trị sử
dụng ngày càng phong phú và chất lượng giá trị sử dụng ngày càng cao.


Giá trị sử dụng là giá trị sử dung XH. Nó khơng phải là giá trị sử dụng cho người trực tiếp sản xuất mà là cho
XH thông qua trao đổi mua bán. Do đó, người sản xuất phải luôn quan tâm đến như cầu của XH, làm cho sản
phẩm của họ phù hợp với nhu cầu XH.



Giá trị sử dụng mang trên mình giá trị trao đổi.


3. Để hiểu giá trị của hàng hoá, trước hết, ta phải hiểu giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là một quan hệ về số lượng,
là tỷ lệ theo đó một giá trị sử dụng loại này được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác. Ví dụ như: 1m vải
có giá trị trao đổi bằng 5 kg thóc.


Hai hàng hố khác nhau như vậy có thể trao đổi với nhau thì giữa chúng phải có một cơ sở chung. Lao động hao
phí tạo ra hàng hố chính là cơ sở chung cho việc trao đổi đó và tạo ra giá trị của hàng hoá. Vậy giá trị của hàng
hoá là lao động XH của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong sản phẩm. Giá trị trao đổi là biểu hiện bên ngoài
của giá trị, giá trị là nội dung bên trong, là cơ sở của giá trị trao đổi.


Giá trị biểu hiện mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hố. Vì vậy, giá trị là một phạm trù lịch sử, chỉ
tồn tại trong nền kinh tế hàng hố.


4. Hai thuộc tính đó của hàng hoá vừa mâu thuẫn, vừa thống nhất. Chúng thống nhất ở chỗ: chúng cùng tồn tại
trong hàng hố, một hàng hố phải có hai thuộc tính này, thiếu một trong hai thuộc tính thì khơng phải là hàng
hoá. Tuy nhiên, chúng mâu thuẫn ở hai điểm: thứ nhất, về một giá trị sử dụng thì hàng hố khác nhau về chất cịn
về mặt giá trị thì hàng hoá lại giống nhau về chất; Thứ hai, giá trị được sử dụng trong q trình lưu thơng cịn giá
trị sử dụng được thực hiện trong quá trình tiêu dùng.


5.Hai thuộc tính của hàng hố này khơng phải là do có hai thứ lao động khác nhau kết tinh trong hàng hoá mà là
do lao động sản xuất hàng hố có tính chất hai mặt, vừa có tính trừu tượng (lao động trừu tượng), vừa có tính cụ
thể (lao động cụ thể).


Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định. Mỗi
một lao động cụ thể có mục đích, phương pháp, cơng cụ lao động, đối tượng lao động và kết quả lao động riêng.
Do đó, lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hố.Nếu phân cơng lao động XH càng phát triển thì càng
có nhiều giá trị sử dụng khác nhau để đáp ứng nhu cầu của XH.



Lao động trừu tượng chính là sự tiêu hao sức lao động (tiêu hao sức bắp thịt, thần kinh) của người sản xuất hàng
hố nói chung. Chính lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hố tạo ra giá trị của hàng hố. Ta có thể nói,
giá trị của hàng hố là lao động trừu tượng kết tinh trong hàng hố. Đây chính là mặt chất của giá trị hàng hoá.
Lượng giá trị của hàng hoá. Giá trị của hàng hoá là do lao động xó hội, lao động trừu tượng của người sản xuất
hàng hoá kết tinh trong hàng hoá.


Lượng giá trị của hàng hoá được đo bằng lượng lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hố đó. Trên thực tế có
nhiều người cùng sản xuất một loại hàng hoá, nhưng điều kiện sản xuất, trỡnh độ tay nghề, năng suất lao động
khác nhau, do đó thời gian lao động để sản xuất ra hàng hố khơng giống nhau, tức hao phí lao động cá biệt khác
nhau. Vỡ vậy, lượng giá trị hàng hố khơng phải tính bằng thời gian lao động cá biệt, mà tính bằng thời gian lao
động xó hội cần thiết.


Thời gian lao động xó hội cần thiết là thời gian lao động cần để sản xuất ra một hàng hố nào đó trong những
điều kiện sản xuất bỡnh thường của xó hội với trỡnh độ trang thiết bị trung bỡnh, với trỡnh độ thành thạo trung
bỡnh và cường độ lao động trung bỡnh trong xó hội đó. a) Trỡnh độ thành thạo trung bỡnh tức trỡnh độ nghề,
trỡnh độ kỹ thuật, mức độ khéo léo của đại đa số người cùng sản xuất mặt hàng nào đó. b) Cường độ lao động
trung bỡnh là cường độ lao động trung bỡnh trong xó hội, sức lao động phải được tiêu phí với mức căng thẳng
trung bỡnh, thụng thường. c) Điều kiện bỡnh thường của xó hội tức là muốn núi dựng cụng cụ sản xuất loại gỡ là
phổ biến, chất lượng nguyên liệu để chế tạo sản phẩm ở mức trung bỡnh.


Cũng cần chỳ ý rằng, trỡnh độ thành thạo trung bỡnh, cường độ trung bỡnh, điều kiện bỡnh thường của xó hội
đối với mỗi nước, mỗi ngành là khác nhau và thay đổi theo sự phát triển của lực lượng sản xuất.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Như vậy chỉ có lượng lao động xó hội cần thiết, hay thời gian lao động xó hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá,
mới là cái quy định đại lượng giá trị của hàng hoá ấy.


2) Các yếu tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hoá


Do thời gian lao động xó hội cần thiết luụn thay đổi, nên lượng giá trị của hàng hoá cũng là một đại lượng không
cố định. Sự thay đổi này tuỳ thuộc vào năng suất lao động và mức độ phức tạp hay đơn giản của lao động



a) Năng suất lao động là sức sản xuất của lao động được đo bằng lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị
thời gian hoặc lượng thời gian lao động hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Năng suất lao động tăng lên
có nghĩa là cũng trong thời gian lao động, nhưng khối lượng hàng hoá sản xuất ra tăng lên làm cho thời gian lao
động cần thiết để sản xuất ra một đơn vị hàng hoá giảm xuống. Do đó, khi năng suất lao động tăng lên thỡ giỏ trị
của hàng hoá tỷ lệ nghịch với năng suất lao động.


Năng suất lao động lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố như trỡnh độ khéo léo (sự thành thạo) trung bỡnh của người
công nhân; mức độ phát triển của khoa học, công nghệ và mức độ ứng dụng những thành tựu đó vào sản xuất;
trỡnh độ tổ chức quản lý, quy mô và hiệu xuất của tư liệu sản xuất và các điều kiện tự nhiên. Muốn tăng năng
suất lao động phải hoàn thiện các yếu tố trên.


b) Tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động có tác động khác nhau đối với lượng giá trị hàng hoá.
Cường độ lao động là mức độ khẩn trương, nặng nhọc của lao động trong cùng một thời gian lao động nhất định
và được đo bằng sự tiêu hao năng lực của lao động trên một đơn vị thời gian và thường được tính bằng số calo
hao phí trong một thời gian nhất định. Cường độ lao động tăng lên tức là mức hao phí cơ bắp, thần kinh trên một
đơn vị thời gian tăng lên, mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay căng thẳng của lao động tăng lên. Nếu cường độ
lao động tăng lên thỡ số lượng (hoặc khối lượng) hàng hoá sản xuất ra tăng lên và sức hao phí lao động cũng
tăng lên tương ứng cũn lượng giá trị của một đơn vị hàng hoá vẫn không đổi. Tăng cường độ lao động thực chất
cũng như kéo dài thời gian lao động.


Tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động giống nhau ở chỗ chúng đều dẫn đến lượng sản phẩm sản
xuất ra trong một đơn vị thời gian tăng lên. Nhưng chúng cũng khác nhau ở chỗ tăng năng suất lao động làm cho
lượng sản phẩm (hàng hoá) sản xuất ra trong một đơn vị thời gian tăng lên, nhưng làm cho lượng giá trị của một
đơn vị hàng hoá giảm xuống. Hơn nữa, tăng năng suất lao động có thể phụ thuộc nhiều vào máy móc, kỹ thuật,
do đó nó gần như một yếu tố có “sức sản xuất” vô hạn; cũn tăng cường độ lao động tuy có làm cho lượng sản
phẩm sản xuất ra tăng lên, nhưng không làm thay đổi giá trị của một đơn vị hàng hoá. Hơn nữa, tăng cường độ
lao động phụ thuộc vào thể chất và tinh thần của người lao động, do đó nó là yếu tố của “sức sản xuất” có giới
hạn. Chính vỡ vậy, tăng năng suất lao động cú ý nghĩa tớch cực hơn đối với sự phát triển kinh tế.



b) Tính chất của lao động. Lao động giản đơn và lao động phức tạp


Lao động giản đơn là lao động mà một người lao động bỡnh thường không cần phải qua đào tạo cũng có thể thực
hiện được. Lao động phức tạp là lao động đũi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện mới có thể tiến hành được.
Trong cùng một thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn. Tuy nhiên để tiến hành
trao đổi hàng hoá, mọi lao động phức tạp đều được quy thành lao động giản đơn trung bỡnh trờn cơ sở lao động
phức tạp bằng bội số của lao động giản đơn.


Câu3:<b>. </b>Phân tích nguồn gốc và bản chất chức năng của tiền<b>?</b>


1) Nguồn gốc của tiền. Tiền là kết quả quỏ trỡnh phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hoá của các
hỡnh thỏi giỏ trị hàng hoỏ. Cỏc hỡnh thỏi giỏ trị hàng hoỏ


a) Hỡnh thỏi giản đơn hay ngẫu nhiên của giá trị là hỡnh thỏi phụi thai của giỏ trị, nú xuất hiện trong giai đoạn
đầu của trao đổi hàng hố, trao đổi mang tính chất ngẫu nhiên, trực tiếp đổi vật này lấy vật khác. Ví dụ, 1m vải
đổi lấy 10 kg thóc. Ở đây, giá trị của vải được biểu hiện ở thóc. Cũn thúc là cỏi được dùng làm phương tiện để
biểu hiện giá trị của vải. Với thuộc tính tự nhiên của mỡnh, thúc trở thành hiện thân giá trị của vải. Sở dĩ vậy vỡ
bản thõn thúc cũng cú giỏ trị. Hàng hoỏ (vải) mà giỏ trị của nú được biểu hiện ở một hàng hố khác (thóc) thỡ
gọi là hỡnh thỏi giỏ trị tương đối. Cũn hàng hoỏ (thúc) mà giỏ trị sử dụng của nú biểu hiện giỏ trị của hàng hoỏ
khỏc (vải) gọi là hỡnh thỏi vật ngang giỏ.


Hỡnh thái vật ngang giá có ba đặc điểm +) giá trị sử dụng của nó trở thành hỡnh thức biểu hiện giỏ trị. +) lao
động cụ thể trở thành hỡnh thức biểu hiện lao động trừu tượng. +) lao động tư nhân trở thành hỡnh thức biểu
hiện lao động xó hội. Hỡnh thỏi giỏ trị tương đối và hỡnh thỏi vật ngang giỏ là hai mặt liờn quan với nhau,
khụng thể tỏch rời nhau, đồng thời, là hai cực đối lập của một phương trỡnh giỏ trị. Trong hỡnh thỏi giỏ trị giản
đơn hay ngẫu nhiên thỡ tỷ lệ trao đổi chưa thể cố định.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

nhiều hàng hoá khác nhau. Tuy nhiên, vẫn là trao đổi trực tiếp, tỷ lệ trao đổi chưa cố định.


c) Hỡnh thỏi chung của giỏ trị. Với sự phát triển cao hơn nữa của lực lượng sản xuất và phân công lao động xó


hội, hàng hoỏ được trao đổi thường xuyên, đa dạng và nhiều hơn. Nhu cầu trao đổi trở nên phức tạp hơn, người
có vải muốn đổi thóc, nhưng người có thóc lại khơng cần vải mà lại cần thứ khác. Vỡ thế, việc trao đổi trực tiếp
không cũn thớch hợp mà người ta phải đi đường vũng, ang hàng hoá của mỡnh đổi lấy thứ hàng hoá được nhiều
người ưa chuộng, rồi đem đổi lấy thứ hàng hoá mỡnh cần. Khi vật trung gian trong trao đổi được cố định lại ở
thứ hàng hoá được nhiều người ưa chuộng, thỡ hỡnh thỏi chung của giỏ trị xuất hiện.


Ví dụ, 10 kg thóc hoặc 2 con gà hoặc 0,1 chỉ vàng = 1 mét vải. Ở đây, tất cả các hàng hoá đều biểu hiện giá trị
của mỡnh ở cựng một thứ hàng hoỏ đóng vai trũ là vật ngang giỏ chung. Tuy nhiờn, vật ngang giá chung chưa
ổn định ở mọi thứ hàng hoá nào; trong các địa phương khác nhau thỡ hàng hoỏ dựng làm vật ngang giỏ chung
cũng khỏc nhau.


d) Hỡnh thỏi tiền. Khi lực lượng sản xuất và phân cơng lao động xó hội phỏt triển hơn nữa, sản xuất hàng hoá và
thị trường ngày càng mở rộng, thỡ tỡnh trạng cú nhiều vật ngang giỏ chung làm cho trao đổi giữa các địa phương
vấp phải khó khăn, xuất hiện đũi hỏi khỏch quan phải hỡnh thành vật ngang giỏ chung thống nhất. Khi vật ngang
giỏ chung được cố định lại ở một vật độc tôn và phổ biển thỡ xuất hiện hỡnh thỏi tiền tệ của giỏ trị. Ví dụ, 10 kg
thóc; 1mét vải, 2 con gà = 0,1 gr vàng (vật ngang giá chung, cố định); trong trường hợp này, vàng trở thành tiền
tệ.


Lúc đầu có nhiều kim loại đóng vai trũ tiền, nhưng về sau được cố định lại ở các kim loại quý như vàng, bạc và
cuối cùng là vàng. Vàng đóng vai trũ tiền là do những ưu điểm của nó như thuần nhất về chất, dễ chia nhỏ,
khơng hư hỏng, với một lượng và thể tích nhỏ nhưng chứa đựng được lượng giá trị lớn.


Tiền xuất hiện là kết quả phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hoá, khi tiền ra đời thỡ hàng hoá được
phân thành hai cực; một bên là các hàng hố thơng thường; một bên là hàng hố (vàng) đóng vai trũ tiền. Đến
đây giá trị các hàng hố đó có một phương tiện biểu hiện thống nhất. Tỷ lệ trao đổi được cố định lại.


2) Bản chất của tiền. Tiền là một hàng hoá đặc biệt được tách ra từ hàng hoá làm vật ngang giá chung cho tất cả
các hàng hóa đem trao đổi; nó thể hiện lao động xó hội và biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng
hoá.



Thường thỡ tiền có năm chức năng


1) Thước đo giá trị. Tiền dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của các hàng hoá. Muốn đo lường giá trị của các
hàng hoỏ, bản thõn tiền phải cú giỏ trị. Vỡ vậy, tiền làm chức năng thước đo giá trị thường là tiền vàng. Để đo
lường giá trị hàng hoá không nhất thiết phải là tiền mặt mà chỉ cần so sánh tưởng tượng với lượng vàng nào đó.
Sở dĩ có thể làm được như vậy, vỡ giữa giá trị của vàng và giá trị của hàng hoá trong thực tế đó có một tỷ lệ nhất
định. Cơ sở của tỷ lệ đó là thời gian lao động xó hội cần thiết hao phớ để sản xuất ra hàng hoá. Giá trị hàng hoá
được biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả hàng hố đó. Do đó, giỏ cả là hỡnh thức biểu hiện bằng tiền của giỏ trị
hàng hoỏ. Giỏ cả hàng hoỏ do các yếu tố sau đây quyết định +) Giá trị hàng hoá; +) Ảnh hưởng của quan hệ
cung-cầu hàng hoá; +) Cạnh tranh; +) Giá trị của tiền.


Để làm chức năng thước đo giá trị thỡ bản thân tiền cũng phải được đo lường; xuất hiện đơn vị đo lường tiền tệ.
Đơn vị đó là một trọng lượng nhất định của kim loại dùng làm tiền tệ. Ở mỗi nước, đơn vị tiền này có tên gọi
khác nhau; đơn vị tiền và các phần chia nhỏ của nó là tiêu chuẩn giá cả. Tác dụng của tiền khi dùng làm tiêu
chuẩn giá cả không giống với tác dụng của nó khi dùng làm thước đo giá trị. Là thước đo giá trị, tiền đo lường
giá trị của các hàng hoá khác; khi là tiêu chuẩn giá cả, tiền đo lường bản thân kim loại dùng làm tiền. Giá trị của
hàng hoá tiền thay đổi theo sự thay đổi của số lượng lao động cần thiết để sản xuất ra hàng hố đó. Giá trị hàng
hố tiền (vàng) thay đổi không ảnh hưởng gỡ đến “chức năng” tiêu chuẩn giá cả của nó, dù giá trị của vàng có
thay đổi như thế nào.


2) Phương tiện lưu thông. Với chức năng này, tiền làm mụi giới trong quỏ trỡnh trao đổi hàng hoá. Để làm chức
năng lưu thơng hàng hố phải dùng tiền mặt. Trao đổi hàng hố lấy tiền làm mơi giới gọi là lưu thơng hàng hố.
Cơng thức lưu thơng hàng hố là H-T-H; tiền làm mơi giới trong trao đổi hàng hố làm cho hành vi bán và mua
có thể tách rời nhau cả về thời gian và không gian. Sự khơng nhất trí giữa mua và bán chứa đựng mầm mống của
khủng hoảng kinh tế.


Trong lưu thông, lúc đầu tiền xuất hiện dưới hỡnh thức vàng thoi, bạc nộn. Dần dần nú được thay thế bằng tiền
đúc. Tiền đúc dần bị hao mũn và mất một phần giỏ trị của nú nhưng vẫn được xó hội chấp nhận như tiền đúc đủ
giá trị.



</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

danh nghĩa của nó. Thực tiễn đó dẫn đến sự ra đời của tiền giấy mặc dù tiền giấy không có giá trị mà chỉ là dấu
hiệu của giá trị và được công nhận trong phạm vi quốc gia.


3) Phương tiện cất trữ. Làm phương tiện cất trữ, tức là tiền được rút khỏi lưu thông đi vào cất trữ. Sở dĩ tiền làm
được chức năng này là vỡ tiền là đại biểu cho của cải xó hội dưới hỡnh thỏi giỏ trị, nờn cất trữ tiền là một hỡnh
thức cất trữ của cải. Để làm chức năng phương tiện cất trữ, tiền phải có đủ giá trị, tức là tiền vàng. Chức năng cất
trữ làm cho tiền trong lưu thơng thích ứng tự phát với nhu cầu tiền cần thiết cho lưu thông. Nếu sản xuất tăng,
lượng hàng hoá nhiều thỡ tiền cất trữ được đưa vào lưu thông. Ngược lại, nếu sản xuất giảm, lượng hàng hoá ớt
thỡ một phần tiền vàng rỳt khỏi lưu thông đi vào cất trữ.


4) Phương tiện thanh toán. Khi làm phương tiện thanh toán, tiền được dùng để trả nợ, nộp thuế, trả tiền mua chịu
hàng v.v. Khi sản xuất và trao đổi hàng hoá phát triển đến trỡnh độ nào đó tất yếu nảy sinh việc mua bán chịu.
Trong hỡnh thức giao dịch này trước tiên tiền làm chức năng thước đo giá trị để định giá cả hàng hoá. Nhưng vỡ
là mua bỏn chịu nờn đến kỳ hạn tiền mới được đưa vào lưu thơng để làm phương tiện thanh tốn. Sự phát triển
của quan hệ mua bán chịu này một mặt tạo khả năng trả nợ bằng cách thanh toán khấu trừ lẫn nhau không dùng
tiền mặt. Mặt khác, trong việc mua bán chịu người mua trở thành con nợ, người bán trở thành chủ nợ. Khi hệ
thống chủ nợ và con nợ phát triển rộng rói, đến kỳ thanh tốn, nếu một khâu nào đó khơng thanh tốn được sẽ
gây khó khăn cho các khâu khác, phá vỡ hệ thống, khả năng khủng hoảng kinh tế tăng lờn. Trong quỏ trỡnh thực
hiện chức năng phương tiện thanh toán, ngày càng xuất hiện nhiều hơn các hỡnh thức thanh toỏn mới khụng cần
tiền mặt như ký sổ, sộc, chuyển khoản, thẻ điện tử v.v.


5) Tiền thế giới. Khi trao đổi hàng hoá vượt khỏi biờn giới quốc gia thỡ tiền làm chức năng tiền thế giới. Tiền
thế giới cũng thực hiện các chức năng thước đo giá trị, phương tiện lưu thơng, phương tiện thanh tốn. Trong
giai đoạn đầu sự hỡnh thành quan hệ kinh tế quốc tế, tiền đóng vai trũ là tiền thế giới phải là tiền thật (vàng,
bạc). Sau này, song song với chế độ thanh toán bằng tiền thật, tiền giấy được bảo lónh bằng vàng, gọi là tiền giấy
bản vị cũng được dùng làm phương tiện thanh toán quốc tế. Dần dần do sự phát triển của quan hệ kinh tế-chính
trị thế giới, chế độ tiền giấy bản vị vàng bị xoá bỏ nên một số đồng tiền quốc gia mạnh được công nhận là
phương tiện thanh toán, trao đổi quốc tế, mặc dù phạm vi và mức độ thơng dụng có khác nhau. Nền kinh tế của
một nước càng phát triển, đặc biệt trong quan hệ kinh tế đối ngoại, thỡ khả năng chuyển đổi của đồng tiền quốc
gia đó càng cao. Những đồng tiền được sử dụng làm phương tiện thanh toán quốc tế ở phạm vi và mức độ thông


dụng nhất định gọi là những đồng tiền có khả năng chuyển đổi. Việc chuyển đổi tiền của nước này ra tiền của
nước khác được tiến hành theo tỷ giá hối đối. Đó là giá trị đồng tiền của nước này được tính bằng đồng tiền của
nước khác.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6></div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Hàng hoá là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người thơng qua trao đổi bn bán.
Hàng hố có thể ở dạng hữu hình như sắt, thép, thực phẩm... hay vơ hình như dịch vụ, giao thơng vận tải... nhưng dù ở
dạng nào nó cũng có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị.


2. Giá trị sử dụng là cơng dụng của hàng hố để thoả mãn nhu cầu nào đó của con người.


Hàng hố nào cũng có một hay một vài cơng dụng và cộng dụng đó làm nó có giá trị sử dụng. Ví dụ như gạo là dùng để ăn,
giá trị sử dụng của gạo là để ăn...


Giá trị sử dụng của hàng hố là do thuộc tín tự nhiên (Lý, hố, sinh) của thực thể hàng hố đó quy định nhưng việc phát
hiện ra những thuộc tính có ích đó lại phụ thuộc vào sự phát triển của XH, của con người. XH càng tiến bộ, lực lượng sản
xuất ngày càng phát triển thì số lượng giá trị sử dụng ngày càng nhiều, chủng loại giá trị sử dụng ngày càng phong phú và
chất lượng giá trị sử dụng ngày càng cao.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

với nhu cầu XH.


Giá trị sử dụng mang trên mình giá trị trao đổi.


3. Để hiểu giá trị của hàng hoá, trước hết, ta phải hiểu giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là một quan hệ về số lượng, là tỷ lệ
theo đó một giá trị sử dụng loại này được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác. Ví dụ như: 1m vải có giá trị trao đổi
bằng 5 kg thóc.


Hai hàng hố khác nhau như vậy có thể trao đổi với nhau thì giữa chúng phải có một cơ sở chung. Lao động hao phí tạo ra
hàng hố chính là cơ sở chung cho việc trao đổi đó và tạo ra giá trị của hàng hoá. Vậy giá trị của hàng hoá là lao động XH
của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong sản phẩm. Giá trị trao đổi là biểu hiện bên ngoài của giá trị, giá trị là nội dung
bên trong, là cơ sở của giá trị trao đổi.



Giá trị biểu hiện mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hố. Vì vậy, giá trị là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong
nền kinh tế hàng hoá.


4. Hai thuộc tính đó của hàng hố vừa mâu thuẫn, vừa thống nhất. Chúng thống nhất ở chỗ: chúng cùng tồn tại trong hàng
hố, một hàng hố phải có hai thuộc tính này, thiếu một trong hai thuộc tính thì khơng phải là hàng hố. Tuy nhiên, chúng
mâu thuẫn ở hai điểm: thứ nhất, về một giá trị sử dụng thì hàng hố khác nhau về chất cịn về mặt giá trị thì hàng hố lại
giống nhau về chất; Thứ hai, giá trị được sử dụng trong quá trình lưu thơng cịn giá trị sử dụng được thực hiện trong q
trình tiêu dùng.


5.Hai thuộc tính của hàng hố này khơng phải là do có hai thứ lao động khác nhau kết tinh trong hàng hoá mà là do lao
động sản xuất hàng hố có tính chất hai mặt, vừa có tính trừu tượng (lao động trừu tượng), vừa có tính cụ thể (lao động cụ
thể).


Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định. Mỗi một lao
động cụ thể có mục đích, phương pháp, cơng cụ lao động, đối tượng lao động và kết quả lao động riêng. Do đó, lao động
cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hố.Nếu phân cơng lao động XH càng phát triển thì càng có nhiều giá trị sử dụng
khác nhau để đáp ứng nhu cầu của XH.


Lao động trừu tượng chính là sự tiêu hao sức lao động (tiêu hao sức bắp thịt, thần kinh) của người sản xuất hàng hố nói
chung. Chính lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hoá tạo ra giá trị của hàng hố. Ta có thể nói, giá trị của hàng
hoá là lao động trừu tượng kết tinh trong hàng hố. Đây chính là mặt chất của giá trị hàng hoá.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Câu 6:Lợi nhuận:


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

nhuận, ký hiệu là p.


Lợi nhuận là giá trị thặng dư khi được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng ra, là kết quả hoạt động của toàn bộ tư
bản đầu tư vào sản xuất kinh doanh.



Cơng thức tính lợi nhuận: p = W - k.


Công thức W = k + m chuyển thành W = k + p, có nghĩa là giá trị hàng hóa tư bản chủ nghĩa bằng chi phí sản xuất tư bản
chủ nghĩa cộng với lợi nhuận.


Lợi nhuận là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư, nó phản ánh sai lệch bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Cái
khác nhau giữa bỏ m và p ở chỗ, khi nói m là hàm ý so sánh nó với v, cịn khi nói p lại hàm ý so sánh với (c + v); p và m
thường khơng bằng nhau, p có thể cao hơn hoặc thấp hơn m, phụ thuộc vào giá cả bán hàng hóa do quan hệ cung - cầu
quy định. Nhưng xét trên phạm vi toàn xã hội, tổng số lợi nhuận luôn ngang bằng tổng số giá trị thặng dư.Trong xã hội có
nhiều ngành sản xuất khác nhau, với những điều kiện sản xuất không giống nhau, lợi nhuận thu được và tỷ suất lợi nhuận
cũng sẽ không giống nhau. Điều này dẫn đến việc cạnh tranh giữa các ngành. Đó là sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp tư
bản kinh doanh trong các ngành sản xuất khác nhau, nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có lợi hơn. Chính vì điều này mà dẫn
đến việc các nhà tư bản di chuyển từ các ngành lợi nhuận ít sang những ngành có lợi nhuận cao hơn. Sự tự do di chuyển
tư bản từ ngành này sang ngành khác làm thay đổi tỷ suất lợi nhuận ngành và dẫn đến hình thành tỷ suất lợi nhuận
ngành ngang nhau. Đó là tỷ suất lợi nhuận chung hay tỷ suất lợi nhuận bình quân. Tỷ suất lợi nhuận bình quân là “con số
trung bình” của tất cả các tỷ suất lợi nhuận khác nhau hay là tỷ số phần trăm giữa tổng giá trị thặng dư và tổng tư bản
XH. Khi hình thành tỷ xuất lợi nhuận bình qn, ta có thể tính được lợi nhuận bình quân của từng ngành. Đây là lợi nhuận
bằng nhau của tư bản bằng nhau đầu tư vào những ngành khác nhau. Nó chính là lợi nhuận mà nhà tư bản thu được căn
cứ vào tổng tư bản đầu tư, nhân với tỷ suất lợi nhuận bình qn, khơng quan tâm đến cấu thành hữu cơ của nó. Sự xuất
hiện của lợi nhuận bình quân đã biến quy luật giá trị thặng dư trở thành quy luật lợi nhuận bình quân (Tổng lợi nhuận bình
quân bằng tổng giá trị thặng dư). 2. Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân đã
làm giá trị hàng hoá chuyển thành giá cả sản xuất. Giá cả sản xuất là giá cả bằng chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận bình
quân. Giá trị là cơ sở của giá cả sản xuất. Giá cả sản xuất là phàm trù kinh tế tương đương với giá cả, là cơ sở của giá cả
trên thị trường, nó điều tiết giá cả thị trường, giá cả thị trường xoay quanh giá cả sản xuất. Lúc này, quy luật giá trị đã
biểu hiện ra thành quy luật giá cả sản xuất (Tổng giá cả sản xuất bằng tổng giá trị). 3. Việc nghiên cứu sự hình thành tỷ
suất lợi nhuận bình quân, lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất có ý nghĩa rất quan trọng. Về mặt lý luận, nó giúp ta
thấy được sự phát triển lý luận giá trị và giá trị thặng dư của Mác theo tiến trình đi từ trừu tượng đến cụ thể. Mặt khác, nó
cịn phản ánh quan hệ cạnh tranh giữa các nhà tư bản trong việc giành giật lợi nhuận với nhau. Về mặt thực tiến, nó vạch
rõ tồn bộ giai cấp tư sản đã bóc lột tồn bộ giai cấp cơng nhân. Vì vậy, muốn giành thắng lợi, giai cấp cơng nhân phải
đồn kết, đấu tranh với tư cách là một giai cấp, kết hợp đấu tranh kinh tế với đấu tranh chính trị



<b>Câu 7: Các đặc điểm kinh tế cơ bản của CNTB độc quyền. </b>


<b>Sự chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh thành chủ nghĩa tư bản độc quyền</b>


Từ cuối thế kỷ 19 diễn ra quá trình chuyển từ cạnh tranh tự do sang độc quyền, quá trình này diễn ra có tính quy luật:


- Sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác động của cách mạng khoa học kỹ thuật đẩy nhanh q trình tích tụ và tập trung tư bản,
dẫn đến tích tụ tập trung sản xuất, sản xuất tập trung vào các xí nghiệp qui mô lớn.


- Tác động của các qui luật kinh tế của CNTB đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình tập trung sản xuất:


+ Trước hết là qui luật kinh tế cơ bản (sản xuất giá trị thặng dư), để đạt mục đích sản xuất ngày càng nhiều giá trị thặng dư cho nhà tư
bản thì các nhà tư bản phải khơng ngừng tích lũy mở rộng sản xuất, nâng cao năng suất, nâng cao trình độ bóc lột.


+ Tác động của quy luật cạnh tranh để giành lợi thế trong cạnh tranh thì từng nhà tư bản khơng ngừng tích lũy, mở rộng sản xuất, sản
xuất quy mơ lớn có lợi thế trong cạnh tranh.


- Cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt, hàng loạt xí nghiệp nhỏ bị xí nghiệp lớn thơn tính, một số các xí nghiệp nhỏ dưới áp lực của
cạnh tranh tự nguyện sáp nhập lại thành xí nghiệp lớn, chính cạnh tranh đã đẩy mạnh quá trình tập trung sản xuất.


- Khủng hoảng kinh tế nỗ ra, hàng loạt các xí nghiệp nhỏ bị phá sản, một số xí nghiệp thốt ra khỏi khủng hoảng thì tiến hành đổi mới
trang thiết bị, máy móc, sử dụng máy móc hiện đại hơn, do đó dẫn đến sản xuất tập trung.


- Hệ thống tín dụng phát triển tạo điều kiện di chuyển tư bản và tập trung tư bản, dẫn đến tập trung sản xuất.
Khi sản xuất tập trung đến trình độ nhất định thì dẫn thẳng đến độc quyền và sự ra đời của các tổ chức độc quyền.
<b>Những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền (Tóm tắt)</b>


<i>a) Tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền: </i>



- Cạnh tranh thúc đẩy tích tụ tập trung tự bản dẫn đến tập trung sản xuất, sản xuất tập trung được biểu hiện là:


+ Số lượng công nhân trong các xí nghiệp quy mơ lớn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lực lượng lao động xã hội, số lượng sản
phẩm sản xuất ra trong các xí nghiệp qui mô lớn chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩn xã hội.


+ Sản xuất tập trung vào một số xí nghiệp quy mơ lớn thì chúng có khuynh hướng liên minh thỏa thuận với nhau, dẫn đến
hình thành tổ chức độc quyền.


<i><b>* Vậy: Tổ chức độc quyền là liên minh các xí nghiệp qui mơ lớn nắm trong tay hầu hết việc sản xuất và tiêu thụ một hoặc một số </b></i>
<i><b>loại sản phẩm, chúng có thể quyết định được giá cả độc quyền nhằm thu được lợi nhuận độc quyền cao.</b></i>


- Quá trình hình thành của độc quyền diễn ra từ thấp đến cao, từ lưu thông đến sản xuất và tái sản xuất, cụ thể:
+ Cácten là hình thức độc quyền trong lưu thơng ở trình độ thấp nó quyết định về mặt hàng và giá cả.


+ Xanhdica là hình thức độc quyền trong lưu thơng ở trình độ cao hơn Cácten, nó quyết định về mặt hàng, giá cả và thị phần
+ Tơ rơt là hình thức độc quyền sản xuất, nó quyết định ngành hàng, qui mơ đầu tư.


+ Congsoocion là hình thức độc quyền liên ngành tái sản xuất từ cung ứng vật tư - sản xuất - tiêu thụ.
<i>b) Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính: </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

nguyện sáp nhập lại thành ngân hàng lớn, một số ngân hàng lớn thì có xu hướng liên minh, thỏa thuận với nhau hình thành độc quyền
trong ngân hàng.


Khi độc quyền trong ngân hàng ra đời thì ngân hàng có một vai trò mới, thể hiện: Giữa tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp thâm
nhập vào nhau thông qua chế độ tham dự bằng việc mua cổ phiếu để các công ty cử người vào HĐQT của ngân hàng, giám sát hoạt
động của ngân hàng và ngược lại thì ngân hàng cử người vào HĐQT của các công ty.


Sự dung nhập giữa tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp bằng cách trên làm xuất hiện một loại tư bản mới gọi là tư bản tài chính.
- Tư bản tài chính và đại diện cho nó là bọn đầu sỏ tài chính, chúng lũng đoạn cả về kinh tế và chính trị:



+ Về kinh tế: Bằng cổ phiếu khống chế để nắm công ty mẹ, chi phối các công ty con, các chi nhánh.
+ Về xã hội: Bằng sức ép tập đoàn để nắm giữ các vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước.


<i>c) Xuất khẩu tư bản: </i>


- Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài nhằm thu được giá trị thặng dư và các quyền lợi khác từ các nước nhập khẩu tư
bản.


- Nguyên nhân hình thành:


+ Một số nước có tư bản thừa để đầu tư ra nước ngoài


+ Các nước kém phát triển thiếu tư bản, có tỷ suất lợi nhuận cao, hấp dẫn các nhà tư bản.
- Hai hình thức xuất khẩu tư bản


+ XKTB hoạt động: đầu tư xây dựng hoặc mua lại xí nghiệp của nước nhận đầu tư.
+ XKTB cho vay: cho chính phủ, thành phố hoặc ngân hàng ở nước ngoài vay để thu lãi.
- Xét về chủ sở hữu, có thể phân tích thành XKTB nhà nước và XKTB tư nhân


+ Xuất khẩu tư bản nhà nước: là nhà nước tư bản độc quyền dùng vốn từ ngân quỹ của mình đầu tư hoặc viện trợ có hồn lại hay ko
hoàn lại để thực hiện các mục tiêu về kinh tế, chính trị và quân sự


+ Xuất khẩu tư bản tư nhân: do tư nhận thực hiện.




Việc xuất khẩu tư bản là sự mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra nước ngoài, là công cụ chủ yếu để bành trướng sự thống


trị, bóc lột, nơ dịch của tư bản tài chính trên phạm vi toàn thế giới
<i>d) Sự phân chia thế giới về kinh tế giữa các tổ chức độc quyền: </i>



Xu hướng tịan cầu hóa diễn ra cạnh tranh quyết liệt, cạnh tranh giữa các quốc gia, các tập đồn, dẫn đến hình thành các liên minh kinh
tế quốc tế rất đa dạng (liên minh về thương mại, thuế quan, sản xuất,…)


Các liên minh này phân chia nhau khu vực ảnh hưởng kinh tế.
- Nguyên nhân:


+ Lực lượng sản xuất phát triển, đòi hỏi nguồn nguyên liệu và thị trường tiêu thụ
+ Do thèm khát lợi nhuận siêu ngạch, cần có thị trường ổn định




Các tổ chức độc quyền quốc gia thỏa hiệp và ký kết các hiệp định để củng cố địa vị độc quyền của chũgn trong những lĩnh vực và thị


trường nhất định. Từ đó hình thành các liên minh độc quyền quốc tế dưới dạng cácten, xanhdica, tờ rớt quốc tế...
<i>e) Sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc: </i>


- Do sự hoạt động của quy luật phát triển không đều trong giai đoạn độc quyền thì một nước đang phát triển có thể đuổi kịp, vượt một
nước đã phát triển.


- Sự phát triển không đều về kinh tế dẫn đến không đều về quân sự, chính trị làm thay đổi tương quan lực lượng và đòi phân chia lại
lãnh thổ thế giới dẫn đến xung đột quân sự để chia lại lãnh thổ thế giới, đó là nguyên nhân dẫn đến 2 cuộc chiến tranh thế giới (14-18
và 39-45)


- Để đảm bảo thị trường ổn định, các nước đế quốc chia nhau lãnh thổ, kết quả là biến các nước lạc hậu thành các nước thuộc địa hoặc
nửa thuộc địa.




5 đặc điểm trên có liên quan chặt chẽ với nhau, nói lên bản chất của chủ nghĩa đế quốc về mặt kinh tế là sự thống trị của của chủ



nghĩa tư bản độc quyền, về mặt chính trị là hiếu chiến, xâm lược


Câu 8: 1. Nguyên nhân ra đời và bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.


<b>a. Nguyên nhân:</b>Một là: Sự phát triển của LLSX dẫn đến quy mô của nèen kinh tế ngày càng lớn, tính chất xã hội hố của


nền kinh tế ngày càng cao địi hỏi phải có sự điều tiết của xã hội đối với sản xuất và phân phối, một kế hoạch hoá tập
trung từ một trung tâm. Nhà nước phải dùng các công cụ khác nhau để can thiệp, điều tiết nền kinh tế.


Hai là: Sự phát triển của phân công lao động xã hội đã làm xuất hiện một só ngành mà các tổ chức độc quyền tư bản tư
nhân không thể hoặc khơng muốn kinh doanh vì đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm và ít lợi nhuận (như năng lượng, giao thông
vận tải, giáo dục, nghiên cứu khoa học cơ bản...). Nhà nước tư sản trong khi đảm nhiệm kinh doanh những ngành đó, tạo
điều kiện cho các tổ chức độc quyền tư nhân kinh doanh các ngành khác có lợi hơn.


Ba là: sự thống trị của độc quyền đã làm sâu sắc thêm sự đối kháng giai cấp giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, nhân
dân lao động. Nhà nước phải có chính sách để giải quyết những mâu thuẫn đó: Trợ cấp thất nghiệp, điều tiết thu nhập
quốc dân, phat triển phúc lợi xã hội.


Bốn là: Sự tích tụ và tập trung tư bản cao dẫn đến mâu thuẫn giữa các tổ chức độc quyền với nhau, mâu thuẫn giữa tư
bản độc quyền với các tổ chức kinh doanh vừa và nhỏ….trở nên gay gắt cần có sự điều tiết, can thiệp của nhà nước….
Năm là: Cùng với xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế, sự bành trướng của các tổ chức liên minh độc quyền quốc tế vấp
phải những hàng rào quốc gia dân tộc và xung đột lợi ích giữa các đối thủ trên thì trường thế giới. Địi hỏi có sự điều tiết
các quan hệ chính trị, kinh tế quốc tế của nhà nước tư sản. Nhà nước tư sản có vai trị quan trọng để giải quyết các quan
hệ đó.


Ngồi ra, việc thi hành chủ nghĩa thực dân mới, cuộc đấu tranh với CNXH hiện thực và tác động của cách mạng khoa học-
cơng nghệ, địi hỏi có sự can thiệp trực tiếp của nhà nước vào đời sống kinh tế.


<b>b. Bản chất.</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

đã có nhiều thay đổi so với chủ nghĩa tư bản thời kỳ canh tranh tự do.


- CNTB độc quyền nhà nước là nấc thang phát triển mới của chủ nghĩa tư bản độc quyền, nhưng nóc vẫn chưa thốt khỏi
chủ nghĩa tư bản độc quyền.


- CNTB độc quyền nhà nước chỉ là một nấc thang mới so với chủ nghĩa tư bản độc quyền thời kỳ đầu.
Đặc điểm nổi bật của CNTB độc quyền nhà nước là sự can thiệp, sự điều tiết của nhà nước về kinh tế.


Như vậy CNTB độc quyền nhà nước không phải là một chế độ kinh tế mới so với CNTB, lại càng không phải chế độ tư bản
mới so với CNTB độc quyền. CNTB độc quyền nhà nước chỉ là CNTB độc quyền có sự can thiệp, điều tiết của nhà nước về
kinh tế, là sự kết hợp sức mạnh của tư bản độc quyền với sức mạnh của nhà nước về kinh tế.


<b>2. Những biểu hiện chủ yếu của CNTB độc quyền nhà nước.</b>


<b>a. Sự kết hợp về nhân sự giữa các tổ chức độc quyền và nhà nước tư sản:</b>
- Sự kết hợp về nhân sự được thực hiện


+ Thông qua các đảng phải tư sản.
+ Thơng qua các hội chủ xí nghiệp:


* Các đại biểu của các tổ chức độc quyền tham giai vào bộ máy nhà nước


* Các quan chức chính phủ được cài vào các ban quản trị của các tổ chức độc quyền.
<b>b. Sự hình thành và phát triển của sở hữu nhà nước:</b>


- CNTB độc quyền nhà nước thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống, nhưng nổi bật nhất là sức mạnh của sđộc quyền và
nhà nước kết hợp với nhau trong lĩnh vựs kinh tế; Cơ sở của những biện pháp độc quyền nhà nước trong kinh tế là sự
thay đổi các quan hệ sở hữu:



* Sở hữu nhà nước tăng lên.


* Quan hệ giữa sở hữu nhà nước và sở hữu độc quyền được tăng cường trong quá trình chu chuyển của tổng tư bản xã
hội.


+ Sở hữu nhà nước được hình thành dưới những hình thức:
* Xây dựng doanh nghiệp nhà nước bằng vốn của ngân sách.
* Quốc hữu hóa các xí nghiệp tư nhân bằng cách mua lại
* Nhà nước mua cổ phiếu cảu các doanh nghiệp tư nhân.


* Mở rộng doanh nghiệp nhà nước bằng vốn tích lũy của các doanh nghiệp tư nhân .
<b>c. Sự điều tiết kinh tế cua nhà nước tư sản:</b>


- Nhà nước tư sản dung hợp cả 3 cơ chế: Thị trường, độc quyền tư nhân và điều tiết của nhà nước nhằm phát huy mặt
tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của từng cơ chế. Xét đến cùng và về bản chất, hệ thống điều tiết đó phục vụ cho CNTB
độc quyền


Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là nấc thang phát triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền, là sự kết hợp sức mạnh
của các tổ chức độc quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước tư bản thành một thiết chế và thể chế thống nhất nhằm
phục vụ lợi ích của các tổ chức độc quyền và cứu nguy cho chủ nghĩa tư bản


Ở đây nhà nước tư bản xuất hiện như một chủ sở hữu tư bản, một nhà tư bản xã hội, đồng thời lại là người quản lý xã hội
bằng pháp luật với bộ máy bạo lực to lớn.


Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội, chứ khơng chỉ là một chính sách trong giai
đoạn độc quyền của chủ nghĩa tư bản.


Tùy theo học thuyết kinh tế được vận dụng, hệ thống điều tiết kinh tế ở mỗi nước có những nét khác nhau: - cịn được gọi
là “mơ hình thể chế kinh tế”-như “mơ hình trọng cầu”, “mơ hình trọng cung”,”mơ hình trọng tiền”….. các chính sách kinh
tế của nhà nước tư sản là biểu hiện quan trọng nhất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.



Vị trí, vai trị: Nhờ nắm được địa vị thống trị trong lĩnh vực sản xuất và lưu thông, các tổ chức độc quyền có khả năng định
ra giá cả độc quyền.


+ Giá cả độc quyền là giá cả hàng hóa có sự chệnh lệch rất lớn so với giá cả sản xuất:
* Họ định ra giá cả độc quyền cao hơn giá cả sản xuất đối với những hàng hóa bán ra.


* Họ định ra giá cả độc quyền thấp hơn giá cả sản xuất đối với những hàng hóa mua vào, qua đó thu được lợi nhuận độc
quyền.


Vậy giá cả độc quyền là: Giá cả độc quyền = chi phí sản xuất + P độc quyền.


Nhưng giá cả độc quyền không thủ tiêu được tác động của quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư, vì xét trên phạm vi
tồn xã hội thì: Tổng giá cả vẫn bằng tổng giá trị; tổng số lợi nhuận vẫn bằng tổng số giá trị thặng dư.


Do đó những gì mà độc quyền thu được cũng là cái mà tầng lớp tư sản vừa và nhỏ, nhân dân lao động ở các nước TB,
thuộc địa mất đi.


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×