Tải bản đầy đủ (.docx) (69 trang)

SKKN một số biện pháp kỷ luật tích cực góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức học sinh trong công tác chủ nhiệm lớp tại trường THPT đô lương 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.62 MB, 69 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN
TRƯỜNG THPT ĐÔ LƯƠNG 4
----------------

SÁNG KIẾN
Đề tài:
“Một số biện pháp kỷ luật tích cực góp phần nâng cao hiệu quả
giáo dục đạo đức học sinh trong công tác chủ nhiệm lớp tại trường
THPT Đô Lương 4”

Tác giả: Trần Thị Nga – GVCN
Nguyễn Bá Hùng – P.Hiệu trưởng
Lĩnh vực: Giáo dục KNS

Đô Lương, tháng 3 năm 2021

1


MỤC LỤC
NỘI DUNG
PHẦN I - MỞ ĐẦU

Trang
1

1. Lý do chọn đề tài

1

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu



1

3. Giới hạn nghiên cứu

2

4. Phương pháp nghiên cứu

2

5. Đóng góp của đề tài

3
PHẦN II – NỘI DUNG

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

4
4

1. Cơ sở lý luận của đề tài

4

1.1. Các khái niệm cơ bản

4

1.2. Vị trí, ý nghĩa giáo dục học sinh THPT bằng phương pháp kỷ luật tích cực


5

1.2.1. Đặc điểm tâm lí học sinh THPT (thế mạnh và tồn tại)

5

1.2.2. Ý nghĩa giáo dục đạo đức học sinh bằng kỷ luật tích cực

6

1.3. Các nguyên tắc sử dụng phương pháp kỷ luật tích cực

7

2. Cơ sở thực tiễn

8

2.1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu

8

2.2. Thực trạng giáo dục đạo đức học sinh trung học phổ thông Đô
Lương 4, tỉnh Nghệ An

8

2.3. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng giáo dục trên


13

II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP KỶ LUẬT TÍCH CỰC GIÚP GIÁO DỤC TỐT
ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH THPT QUA CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM
LỚP

14

1. Công tác chủ nhiệm trong trường THPT

14

2. Một số biện pháp kỷ luật tích cực giúp giáo dục tốt đạo đức học sinh

14

2.1. Biện pháp 1: Tìm hiểu rõ đối tượng giáo dục.
2.2. Biện pháp 2: Hình thành một số kỹ năng mềm cần thiết cho học

18
2


sinh trong việc thực hiện kỷ luật giáo dục.
2.3 Biện pháp 3: Sử dụng những kỹ năng mền trong giải quyết tình
huống sư phạm.

20

2.4. Biện pháp 4: Giáo viên cùng học sinh xây dựng nội quy, quy chế

thi đua đúng, phù hợp

24

2.5. Biện pháp 5: Xây dựng tính kỷ luật, nói khơng với kỷ luật trừng
phạt.

26

2.6. Biện pháp 6: Phối hợp với các lực lượng giáo dục

27

2.7. Biện pháp 7: Đổi mới tổ chức sinh hoạt lớp và một số hoạt động
khác.

30

3. Thử nghiệm biện pháp kỷ luật tích cực trong giáo dục học sinh qua
các tình huống sư phạm.

32

3.1. Các tình huống

32

3.2. Kết luận chung cho vấn đề giải quyết tình huống

39


3.3. Kết quả thực nghiệm qua phiếu thăm do học sinh

39

3.4. Kết luận chung về thử nghiệm

41

PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

45

1. Kết luận

45

2. Kiến nghị

46
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG SÁNG KIẾN
Nội dung
Trung Học Phổ Thông

Viết tắt
THPT


Học Sinh

HS

Giáo viên

GV

Giáo viên chủ nhiệm

GVCN

Kỷ luật tích cực

KLTC

3


PHẦN I - MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Gơlơbơlin viết: “Nếu người kỹ sư vui mừng nhìn thấy cây cầu mà mình vừa
mới xây xong, người nơng dân mỉm cười nhìn đồng lúa mình vừa mới trồng, thì
người giáo viên vui sướng khi nhìn thấy học sinh đang trưởng thành, lớn lên”. Cây
cầu mà người kỷ sư xây xong sẽ nối nhịp bước, xích gần khoản cách cho con
người, đồng lúa người nông dân trồng sẽ hứa hẹn mùa vàng chín cho con người no
đủ, trưởng thành và lớn lên của trò mà người giáo viên giáo dục là cả một chân trời
tươi sáng sẽ là cấp số cộng, số nhân các cây cầu và mùa lúa vàng. Đây chính là kết
quả của giáo dục – một kết quả khơng thể nhìn thấy của một ngày làm việc, kết quả
ấy vơ hình và có lẽ vẫn cịn đó đến 20 năm sau. Giống như không thể trồng cây ở

những nơi thiếu ánh sáng và cũng không thể giáo dục trẻ bằng chút ít nhiệt tình. Để
có được giá trị bền vững ấy, niềm vui sướng trọn vẹn ấy là q trình lao động sáng
tạo nghiêm túc địi hỏi vừa phải nỗ lực tìm tịi khám phá tri thức khoa học vừa phải
có phương pháp phù hợp với từng đối tượng. Khơng có phương pháp giáo dục vạn
năng mà phương pháp nào phát huy hiệu quả tối ưu nhất đó là phương pháp đúng,
hay. Phương pháp giáo dục học sinh bằng kỷ luật tích cực là một trong những
phương pháp tối ưu mà chúng tơi đã áp dụng có hiệu quả.
Kỷ luật là những quy định yêu cầu phải tuân thủ, kỷ luật không đồng nghĩa
với trừng phạt mà kỷ luật có nghĩa là “giảng dạy, đào tạo, giáo dục”. Kỷ luật tích
cực là động viên, khuyến khích, hỗ trợ, ni dưỡng lịng ham học dẫn đến ý thức
kỷ luật một cách tự giác, nâng cao năng lực, thái độ tích cực và lịng tin của học
sinh vào giáo viên. Kỷ luật tích cực là cách ứng xử vừa mềm mỏng vừa kiên quyết,
để bất kỳ học trò nào cũng có thể học được cách hợp tác thật linh hoạt và tinh thần
kỷ luật tích cực mà khơng bị tổn thương tới lịng tự trọng. Kỷ luật tích cực chính là
chuẩn mực vàng cho giáo viên trong quá trình giáo dục học sinh.
Sau nhiều năm làm công tác giảng dạy và chủ nhiệm lớp quan sát một cách có
hệ thống về học sinh các lớp ở bậc THPT, chúng tôi muốn trải lịng mình về những
thành cơng và những hạn chế của mình về cơng tác giáo dục học sinh, nhất là những
đối tượng học sinh cá biệt, cá tính. Khơng giám nhận mình “một thầy giáo tuyệt vời”
nhưng vẫn tự nhận thấy bản thân có nghệ thuật trong giáo dục, biết kết hợp giữa lý trí
và tinh thần, kết hợp hài hịa kỷ luật và kỷ luật tích cực đồng hành cùng trị trong q
trình hồn thiện nhân cách bản thân và thành cơng trong tương lai.
Vì vậy, trong khuôn khổ sáng kiến này, chúng tôi xin đưa ra một số giải
pháp cơ bản, cụ thể để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, phát triển phẩm
chất và năng lực của học sinh trong việc triển khai đề tài “Một số biện pháp kỷ
luật tích cực góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức học sinh trong công
tác chủ nhiệm lớp tại trường THPT Đô Lương 4”.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
4



2.1. Mục tiêu nghiên cứu
- Nâng cao hiệu quả trong công tác chủ nhiệm lớp, công tác giáo dục đạo đức học
sinh của nhà trường nói chung.
- Chia sẻ đồng nghiệp về kinh nghiệm giáo dục học sinh có hiệu quả.
- Đề xuất một số kinh nghiệm giúp phát triển kỹ năng giáo dục học sinh
trung học phổ thơng có tính kỷ luật cao.
- Hỗ trợ GV thực hiện các biện pháp, vận dụng phương pháp giáo dục kỷ
luật tích cực trong dạy học và giáo dục HS.
- Giúp phụ huynh học sinh thay đổi cách dạy dỗ con cái bằng các biện pháp
giáo dục kỷ luật tích cực. Bố mẹ cần quan tâm đến tâm tư tình cảm của các con
nhiều hơn, lắng nghe và tôn trọng ý kiến của các con. Khi các con mắc lỗi cần tìm
hiểu nguyên nhân và phân tích để chúng nhận ra cái sai, cái đúng để trẻ tự điều
chỉnh hành vi. Động viên kịp thời khi các con tiến bộ.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về kỷ luật tích cực cho học sinh trung học phổ
thơng.
- Khảo sát và đánh giá thực trạng giáo dục học sinh trung học phổ thông Đô
Lương 4, tỉnh Nghệ An.
- Đề xuất một số kinh nghiệm giúp phát triển kĩ năng giáo dục học sinh trung
học phổ thông qua công tác chủ nhiệm lớp.
- Khảo nghiệm tính khả thi của các giải pháp.
3. Giới hạn nghiên cứu
- Giới hạn nội dung: Đề tài tập trung vào nghiên cứu thực trạng và đề xuất
một số kinh nghiệm giáo dục học sinh bằng kỷ luật tích cực qua cơng tác chủ
nhiệm lớp. Trong đó:
+ Kỷ luật tích cực trong đề tài nghiên cứu được giới hạn bao gồm:
+ Đề tài nghiên cứu kỷ luật tích cực qua cơng tác chủ nhiệm lớp trong nhà
trường phổ thông.
- Địa bàn nghiên cứu: Học sinh trường THPT Đô Lương 4, tỉnh Nghệ An.

- Thời gian nghiên cứu: Trong năm học: 2020 - 2021
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết
- Phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các tài liệu lý luận về kỷ luật tích cực cho
học sinh THPT để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
5


- Phương pháp điều tra: Dùng phiếu điều tra bằng bảng hỏi (Ankét) và trắc
nghiệm tâm lý, để khảo sát thu thập thông tin và đánh giá biện pháp giáo dục học
sinh bằng kỷ luật tích cực của học sinh THPT.
- Phương pháp quan sát: Quan sát HS trong các giờ học trên lớp, trong các
hoạt động ngoại khóa, trong giao tiếp với bạn bè và các Thầy, Cô giáo để nắm bắt
các biểu hiện cụ thể về kĩ năng tự quản lý bản thân.
4.3. Các phương pháp thống kê toán học
Sử dụng các phương pháp thống kê toán học để thu thập số liệu, xử lý số liệu
định lượng kết quả nghiên cứu xây dựng cơ sở thực tiễn, từ đó đề xuất các biện
pháp giáo dục học sinh bằng kỷ luật tích cực của học sinh THPT.
5. Đóng góp của đề tài
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về kỷ luật, kỷ luật tích cực của học sinh THPT
- Làm sáng tỏ thực trạng giáo dục học sinh THPT Đô Lương 4, tỉnh Nghệ An.
- Đề xuất được một số kinh nghiệm giúp phát triển kĩ năng giáo dục học sinh
THPT.
- Kết quả nghiên cứu đề tài trở thành tài liệu tham khảo cho công tác giáo dục
trong các trường phổ thông.

6



PHẦN II - NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lý luận
1.1. Các khái niệm cơ bản
* Kỷ luật: Là những quy tắc, quy định, luật lệ mà con người phải thực hiện,
chấp hành và tuân theo.
*Kỷ luật tích cực: là không phải trừng phạt mà là sự tôn trọng, và cũng
khơng mang tính cho phép. KLTC ủng hộ những cơng cụ vừa mềm dẻo vừa cứng
rắn và dạy cho con người cả những kỹ năng xã hội và kỹ năng sống có giá trị.
* Phương pháp kỷ luật tích cực: là phương pháp không quá khắt khe và
cũng không quá tự do. Kỷ luật tích cực dựa trên sự hợp tác và tơn trọng lẫn nhau.
Kỷ luật tích cực kết hợp sự mềm mỏng với sự kiên quyết và lấy đó làm nền tảng để
giáo dục những kỹ năng sống dựa trên khả năng kiểm soát từ bên trong.
+ Mềm mỏng có nghĩa là tơn trọng trẻ và tơn trọng chính bản thân bạn. Tơn
trọng trẻ khơng phải là nâng nịu, bao bọc. Tôn trọng không phải là giúp trẻ tránh
khỏi mọi điều thất vọng và khiến trẻ đánh mất cơ hội phát triển “ khả năng phục
hồi khỏi thất vọng”. Tôn trọng là thừa nhận cảm xúc của trẻ. Và tơn trọng là có
niềm tin vào trẻ, rằng trẻ sẽ vượt qua được nỗi thất vọng và hình thành được nhận
thức về khả năng của mình trong quá trình đó.
+ Kiên quyết khơng phải là trừng phạt, qt mắng hoặc một hình thức kiểm
sốt khác nào đó. Sự kiên quyết, khi kết hợp với sự mềm mỏng, có nghĩa là sự tơn
trọng dành cho trẻ và cho chính mình và tơn trọng những u cầu của tình huống.
+ Phương pháp khắt khe thường thiếu sự mềm mỏng. Phương pháp nng
chiều lại thiếu sự kiên quyết. Phương pháp kiểm sốt quá mức, trẻ phụ thuộc vào
một “trung tâm kiểm soát bên ngồi”. Mềm mịng vừa kiên quyết, là một khái niệm
nền tảng, là điều vô cùng quan trọng cho phương pháp KLTC. Vừa mềm mỏng vừa
kiên quyết giúp tránh được cách nói thiếu tơn trọng và nhận thêm sự hợp tác, học
được sự tôn trọng và kỹ năng giải quyết vấn đề đồng thời sẵn sàng tuân theo các
quy tắc. Đây chính là những hiệu quả lâu dài của phương pháp KLTC.
* Giá trị, ý nghĩa

Giáo dục kỷ luật tích cực là những giải pháp mang tính dài hạn giúp phát
huy tính kỷ luật tự giác của học sinh; dạy cho học sinh những kĩ năng sống mà các
em sẽ cần trong suốt cả cuộc đời; làm tăng sự tự tin và khả năng xử lí các tình
huống khó khăn trong học tập và cuộc sống của các em; dạy cho học sinh cách cư
xử lịch sự, nhã nhặn, không bạo lực, có sự tơn trọng bản thân, biết cảm thông và
tôn trọng quyền của người khác. Các biện pháp kỉ luật khơng mang tính bạo lực,
tơn trọng học sinh, cung cấp cho học sinh những thông tin biết để không vi phạm,
chấp hành và ý thức tự giác.
7


Giáo dục bằng kỷ luật tích cực: Một kết quả logic sẽ đem lại kết quả tốt
khi nó khiến trị hành động theo hướng tích cực và có tính xây dựng. Mơ hình kỷ
luật tích cực chính là sự dung hòa giữa sự kỳ vọng cao vào trò và sự đáp ứng nhu
cầu của trị. Một mơ hình trong đó học sinh được u thương và tơn trọng. Đó là
mơ hình mà mọi hành vi đều được xem là chiến thuật để đáp ứng nhu cầu, các giới
hạn được thiết lập với sự cảm thông, cảm xúc được cho phép bộc lộ và tình yêu
thương ngự trị.
- Giáo dục bằng kỷ luật tích cực, Giáo dục linh hoạt có cương có nhu, có kỷ
cương, tình thương và trách nhiệm trên tinh thần bình đẳng, hợp tác cùng tìm ra
giải pháp, mọi vướng mắc và khó khăn đều được giải quyết hợp tình hợp lý, học
sinh nhân thức lại vấn đề theo hướng tích cực, biết nhận lỗi và sữa lỗi. Mỗi quan hệ
cơ trị thân thiện. Học sinh tích cực trong hoạt động giáo dục, hình thành nhiều kỹ
năng tốt, tiến bộ về nhiều mặt, thầy cô hạnh phúc, hài lịng về thành quả giáo dục
của mình.
- Kỷ luật tích cực là quá trình nhận thức từ nội tại bên trong. Kỷ luật tích cực
áp dụng vào thực tế khiến trị ngừng cách cư xử thơ lỗ và dạy trị về tinh thần tự
giác, ý thức trách nhiệm, sự hợp tác các kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng nâng
cao sự tơn trọng lẫn nhau, niềm vui thích và tin yêu.
Ngược lại với kỷ luật tích cực là kỷ luật tiêu cực, sử dụng hình phạt bằng

trừng phạt thân thể như đánh, bạt ta, trừng phạt tinh thần như chửi mắng, sỉ nhục,
lăng mạ, bêu riếu ... sẽ có ảnh hưởng tiêu cực, lâu dài tới trẻ. Phải khẳng định, giáo
dục đạo đức lối sống cho học sinh bằng phương pháp kỉ luật tích cực là một trong
những biện pháp hữu hiệu trong cơng tác giáo dục tồn diện, đồng thời góp phần
xây dựng mơi trường học tập, mơi trường sống thân thiện, an toàn cho học sinh.
Kỷ luật tích cực là hướng đến xây dựng trường học hạnh phúc, thầy cô giáo hạnh
phúc, học sinh hạnh phúc.
1.2. Vị trí, ý nghĩa giáo dục học sinh THPT bằng phương pháp kỷ luật tích cực
1.2.1. Đặc điểm tâm lí học sinh THPT (thế mạnh và tồn tại)
Tuổi học sinh THPT là lứa tuổi tiếp sau tuổi học sinh THCS, học sinh THPT
thuộc lứa tuổi thanh niên. Có nhiều quan niệm khác nhau về tuổi thanh niên.
- Các nhà lý luận sinh học xác định tuổi thanh niên dựa trên sự trưởng thành
của cơ thể. Tiêu biểu như các nhà phân tâm học, họ cho rằng tuổi thanh niên là giai
đoạn phát triển tình dục.
- Các nhà lý luận về xã hội lại coi tuổi thanh niên là thời kỳ chuyển tiếp từ thơ
ấu sang tuổi người lớn.
- Các nhà tâm lý học cho rằng: Cần phải nghiên cứu tuổi thanh niên một cách
phức hợp, kết hợp cả quan điểm xã hội và quan điểm sinh học.
Từ nhiều quan niệm nhìn nhận các biểu hiện của lứa tuổi ta có thể sơ lược sự
phát triển tâm sinh lý của tuổi vị thành niên như sau:
8


- Về thể chất: sự thay đổi về kích thước và những đặc tính
- Về nhận thức: sự thay đổi trong khả năng suy nghĩ. Có hiểu biết tốt hơn về
mỗi quan hệ giữa nguyên nhân và hậu quả, có khả năng lớn hơn để thiết lập mục
tiêu, bắt đầu suy nghĩ về ý nghĩa của cuộc sống.
- Về xúc cảm, tình cảm: sự thay đổi trong những trải nghiệm và thể hiện
những cảm xúc. Có sự mâu thuẫn giữa sự mong đợi tự cao với sự tự nhận thức cịn
kém. Phát triển cảm xúc của tình u và niềm đam mê.

- Về xã hội: thay đổi trong các mỗi quan hệ với mọi người. Nhận ra người lớn
khơng hồn hảo, khao khát phát triển sự độc lập. Những ảnh hưởng của bạn cùng
trang lứa trở nên quan trọng, tin tưởng nhiều hơn vào sự cổ vũ của bạn bè. Có
khoảng cách với cha mẹ.
Như vậy tuổi THPT được miêu tả như một giai đoạn khó khăn, tiêu cực trải
qua nhiều giơng bão và sự căng thẳng để có thể sống sót và trưởng thành. Trên
thực tế đây là một giai đoạn phát triển có nhiều sự thay đổi lớn lao về cả tâm lý và
sinh lý, là giai đoạn chuyển giao rất dài về mặt thời gian từ trẻ nhỏ thành người
trưởng thành. Vì thế, đây là giai đoạn cần được sự hỗ trợ, giúp đỡ một cách đặc
biệt từ thầy cô giáo, cha mẹ, bạn bè và cả cộng đồng để các em có thể phát huy
được mặt mạnh của sự phát triển về thể chất và tâm lý đồng thời hạn chế được
những điểm yếu của sự phát triển trong giai đoạn này. Qua phần này chúng ta hiểu
được rằng vì sao học sinh THPT giáo viên khơng thể áp đặt, u cầu, ra mệnh lệnh,
nói nhiều như học sinh tiểu học, trung học cơ sở, bởi các em đã có nhận thức bản
thân rõ nét hơn, lòng tự trọng các em cao hơn. Giáo viên chủ nhiệm phải nắm rõ
tâm sinh lý học sinh lứa tuổi mới lớn các em thích gì, ngại ngùng điều gì, cần gì,
mới mở đường cho cách giáo dục học sinh có hiệu quả.
1.2.2. Ý nghĩa giáo dục đạo đức học sinh bằng kỷ luật tích cực
- Thực hiện KLTC là phù hợp với Công ước quốc tế về quyền trẻ và luật bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục học sinh của Việt Nam
- Thực hiện KLTC phù hợp với mục tiêu giáo dục của Việt Nam là “Đào tạo
con người Việt Nam phát triển tồn diện, có đạo đức, tri thức, thẩm mỹ và nghề
nghiệp”
- Thực hiện KLTC mang lại lợi ích cho học sinh, giáo viên, nhà trường, gia
đình và xã hội.
* Học sinh:
+ KLTC tạo ra môi trường an tồn mà học sinh có thể kiểm nghiệm hành vi,
khám phá việc nó sẽ ảnh hưởng tới người khác như thế nào và tự mình tham gia
giải quyết vấn đề.


9


+ KLTC, các em đều có cơ hội trình bày ý kiến và đưa ra đề xuất theo trình tự
có sắp xếp và tôn trọng lẫn nhau. Đây là nền tảng để phát triển niềm tin về giá trị
bản thân.
+ KLTC là nơi mà học sinh có thể hiểu rằng mắc lỗi là khơng sao và có thể
học được từ những lỗi sai đó.
+ KLTC là một nơi tuyệt vời mà học sinh có thể thể hiện cảm xúc và phát
triển sự cảm thơng và lịng trắc ẩn.
* Giáo viên:
+ Giảm được áp lực quản lý lớp vì học sinh hiểu và tự giác chấp hành kỷ luật.
Giáo viên không phải nhắc nhở, mất nhiều thời gian theo dõi, giám sát việc thực
hiện kỷ luật của học sinh; đỡ mệt mỏi căng thẳng vì phải xử lý nhiều vụ vi phạm
kỷ luật, giải quyết nhiều vấn đề khúc mắc trong quan hệ với học sinh, gia đình và
nhà trường.
+ Xây dựng được mối quan hệ thân thiện Thầy – Trò. Trị kính trọng, tin
tưởng và u q thầy cơ; thầy cơ hiểu, thơng cảm với khó khăn của trị, u
thương và hết lịng vì học sinh
+ Nâng cao hiệu quả quản lý lớp học, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
học sinh
* Nhà trường: Thực hiện được mục tiêu GD, nâng cao chất lượng và hiệu
quả GD; tạo ra mơi trường học tập thân thiện, an tồn tạo được niềm tin đối với gia
đình HS và XH.
* Gia đình: HS trở thành những người có đủ phẩm chất và năng lực cho
tương lai. Điều này làm cha mẹ HS n tâm lao động và cơng tác, gia đình hịa
thuận, hạnh phúc.
* Xã hội: Giảm thiểu được các tệ nạn xã hội, các hành vi bạo hành, bạo lực;
tiết kiệm kinh phí quốc gia trong việc chăm sóc, điều trị và trợ giúp giải quyết các
tệ nạn trên góp phần nâng cao đời sống cộng đồng, xây dựng xã hội phồn vinh.

1.3. Các nguyên tắc sử dụng phương pháp kỷ luật tích cực
- Ngun tắc 1: Vì lợi ích thực tế nhất của học sinh
- Nguyên tắc 2: Không làm tổn thương đến thể xác và tinh thần
- Nguyên tắc 3: Khích lệ và tơn trọng lẫn nhau
- Ngun tắc 4: Phù hợp với đặc điểm và sự phát triển của lứa tuổi học sinh

10


2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu
- Trường THPT Đô Lương 4 thành lập năm 2006, đóng trên địa bàn xã Hiến
Sơn, huyện Đơ Lương, tỉnh Nghệ An. Học sinh chủ yếu là con em xã Hiến Sơn,
Trù Sơn, Đại Sơn, Mỹ Sơn.
- Trường hiện tại có 21 lớp với tổng học sinh là 827 học sinh
- Đội ngũ giáo viên 100% chính quy sư phạm
- Cơ sở vật chất của trường đảm bảo mức tối thiểu cho việc dạy học và đang
từng bước cố gắng đảm bảo tốt hơn.
- Nội quy giáo dục học sinh cụ thể, rõ ràng, đúng theo pháp luật
- Đoàn thanh niên hoạt động tích cực và có hiệu quả giáo dục cao
- Học sinh cơ bản ngoan nhưng kỹ năng sống cịn hạn chế: nhút nhát, ngại
giao tiếp, tính cầu tiến, vượt đói, vượt nghèo chưa cao, ảnh hưởng tiêu cực của đơ
thị hóa nhiều như học địi, sa ngã ... Đặc biệt có nhiều luồng tư tưởng, mục tiêu khá
phức hợp:
+ HS vì khổ quyết học vượt khổ
+ HS học cho hết 12 đi làm thuê, đi công ty, xuất khẩu...
+ HS tơn giáo thì giáo dục nhà trường đứng sau giáo lý nhà thờ.
+ HS học được chăng hay chớ, không xác định mục tiêu, lý tưởng
+ HS đi học là vì bố mẹ bắt đi học
Trường THPT Đơ Lương 4 tuổi nghề cịn khiêm tốn, khó khăn nhiều mặt

nhưng đội ngũ giáo viên đã nỗ lực không ngừng trong học tập, giảng dạy và giáo
dục học sinh. Các khóa học của học sinh sau ba năm học tập và rèn luyện dưới mái
trường THPT Đô lương 4 đều trưởng thành và lớn lên nhiều mặt: có lý tưởng sống,
có khát vọng, đậu đạt cao,... Chất lượng đại trà được khặng định, chất lượng mũi
nhọn có nhiều đột phá: đậu tốt nghiệp 100% nhiều năm liền; đã có học sinh đậu thủ
khoa kỳ thi THPT quốc gia, kết quả thi học sinh giỏi tỉnh đứng vị thứ cao trên toàn
tỉnh (13, 19, ...). Hiện nay trường đã trở thành một địa chỉ được nhân dân và các
cấp chính quyền tin tưởng.
2.2. Thực trạng giáo dục đạo đức học sinh trung học phổ thông Đô Lương
4, tỉnh Nghệ An
Để tìm hiểu thực trạng giáo dục đạo đức của học sinh THPT, đề tài đã thực hiện
khảo sát với 21 bảng hỏi, trong đó có 21 bảng hỏi có giá trị sử dụng đối với giáo viên.
Và 126 bảng hỏi, trong đó có 115 bảng hỏi có giá trị sử dụng đối với học sinh. Trong
115 HS khảo sát thì có 28 HS khối 10, 41 HS khối 11 và 46 HS khối 12.

11


Nội dung khảo sát trong trắc nghiệm tâm lý của Dakharov và của bảng hỏi
đều được thiết kế theo 3 phương án lựa chọn (trả lời) (xem phụ lục 1A – 1B)
+ Đúng (thường xun);
+ Khơng hồn tồn, cịn tùy người, cịn tùy lúc khơng tin tưởng lắm (đơi khi);
+ Không (không bao giờ).
Kết quả thu được sau khi xử lý số liệu như sau:
Bảng: Đánh giá chung của học sinh về biện pháp giáo dục của GVCN
TT

Các biện pháp

Điểm trung

bình

1

Kỷ luật nghiêm khắc

3.72

2

Kỷ luật nng chiều

0.75

3

Kỷ luật tích cực

1.05

Bảng: Đánh giá chung của GVCN về biện pháp giáo dục học sinh
TT

Các biện pháp

Điểm trung
bình

1


Kỷ luật nghiêm khắc

3.67

2

Kỷ luật nng chiều

0.75

3

Kỷ luật tích cực

1.15

Từ kết quả điểu tra cho thấy biểu hiện cụ thể của thực trạng giáo dục tại trường
THPT Đô Lương 4 như sau:
2.2.1. Các biểu hiện lệch chuẩn (vô kỷ luật) của học sinh ở trường THPT Đơ
Lương 4
Vị trí địa lý, mơi trường sống, khí hậu, văn hóa vùng miền, văn hóa gia đình,
chi phối rất lớn đến cách nghĩ, lối sống, hành động của mỗi cá nhân con người.
Một vùng quê nghèo hạ huyện, đông dân, dân trí chưa cao, tơn giáo đơng, hình
thành nên nhiều luồng tư tưởng, nết nghĩ, tâm lý khá phức hợp. Học sinh THPT lứa
tuổi mới lớn, giai đoạn nửa người lớn, nửa trẻ con, tuổi “ăn chưa no, nghĩ chưa
đến”, các em thương mắc những lỗi: nóng giận mà đánh nhau, bỏ học, xung đột
với giáo viên, nghiện mạng xã hội, nghiện game, trộm cắp, vi phạm quy định trong
nhà trường (gian lận trong thi cử, phá hoại của cơng, sử dụng lời nói thơ tục ...).
2.2.2. Thời gian, thời điểm giáo dục
Trong qui định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, cơng tác chủ nhiệm được tính 4

tiết trên tuần. Đây là thời lượng theo định tính, nhưng trên thực tế giáo viên chủ
nhiệm dùng rất nhiều quỹ thời gian để giáo dục trò. Ghi nhận những giáo viên chủ
12


nhiệm tâm huyết dành nhiều thời gian cho trò cũng như những giáo viên linh hoạt,
tinh tế trong quá trình giáo dục. Trong quá trình thực hiện giáo viên đã có những
thời gian, thời điểm hợp lý và cũng chưa hợp lý như sau:
- Giáo viên đến lớp 15 đầu giờ. 15 phút đầu giờ học sinh chủ yếu sinh hoạt
theo nội dung Đoàn trường quy đinh: tập hát, chữa bài tập, đọc truyện về Bác Hồ,
sinh hoạt đoàn, vệ sinh công cộng. Giáo viên đến tham gia cùng lớp vừa tạo nề nếp
sinh hoạt nghiêm túc, hiệu quả vừa nắm bắt được một số tình hình của lớp ngay từ
đầu buổi học về sỹ số, về nề nếp thực hiện ..
- Ngồi giờ hành chính: đến nhà học sinh, trao đổi phu huynh qua điện thoại,
trao đổi giáo viên bộ mơn, tìm học sinh ở các qn nét, đưa học sinh về nhà ....
- Hoạt động ngoài giờ lên lớp ( hoạt động đoàn, hướng nghiệp, câu lạc bộ ...).
giáo viên tham gia các hoạt động này cùng trò một phần cùng Đồn ổn định nề
nếp, nắm bắt tình hình lớp, phát hiện một số phẩm chất năng lực của trị.
- Những tiết học văn hóa mơn của giáo viên chủ nhiệm, nhiều lúc dành 5 hay
7 phút thậm chí cịn hơn nhắc nhở, giáo dục. Thực trạng của một số giáo viên sử
dụng thời điểm giáo dục chưa hợp lý, lớp có học sinh vi phạm giáo viên bức xúc
phải nói ngay, phải trách phạt la mắng ngay cho nhớ, dẫn đến kiểu cắt xén chương
trình giáo dục môn học, mà giáo viên chưa biết cách lồng ghép giáo dục.
- Tiết chào cờ hàng tuần, hàng tháng đánh giá hoạt động có khen thưởng có
phê bình học sinh trước toàn trường, một số học sinh vi phạm lỗi lớn có thể cho
gọi đứng lên để phê bình, nhận hình thức kỷ luật.
- Tiết sinh hoạt cuối tuần. Một tiết học rất quan trọng nhưng thực trạng chung
lại chưa được coi trọng.
* Thực trạng.
Thơng thường thì một giờ SHL được diễn ra với trình tự như sau :

- GVCN hoặc ban cán sự lớp tổng kết đánh giá hoạt động trong tuần;
- Xây dựng kế hoạch tuần tiếp theo
- Giáo viên chủ nhiệm nhận xét đánh giá.
* Ưu điểm : Cách tổ chức giờ sinh hoạt như thế này sẽ đảm bảo tương đối đầy
đủ những nội dung theo quy định của nhà trường, đồng thời giúp cho GV và HS đỡ
vất vả trong công tác chuẩn bị.
* Hạn chế
Đối chiếu với lý luận dạy-học, với mục tiêu và nguyên lý giáo dục thì việc
tổ chức giờ sinh hoạt lớp truyền thống bộc lộ những hạn chế cơ bản sau :
- Chưa tích cực hóa một cách hiệu quả những hoạt động của chủ thể học sinh.
- Chưa tạo được cho HS hoàn cảnh giao tiếp thuận lợi trong khơng khí hào
hứng của lớp học và thái độ dễ hợp tác của những người cùng tham gia …
13


- Chưa tạo cho HS nhu cầu muốn hoạt động, muốn được bộc lộ …
- Chưa thể hiện được vai trò quan trọng của giáo viên trong việc hướng dẫn,
tổ chức tiết sinh hoạt
- Chưa nâng cao được hiệu quả giáo dục từ tiết sinh hoạt.
2.2.3. Các phương pháp giáo dục học sinh:
Trước sự phức hợp của bối cảnh xã hội, môi trường giáo dục, tâm lý lứa tuổi,
mỗi giáo viên giáo dục học sinh lại có những phương pháp giáo dục khác nhau.
Qua tìm hiểu, điều tra, trao đổi, chia sẻ cùng đồng nghiệp về phương pháp giáo dục
học sinh và tiếp cận với học sinh tôi nhận ra các giáo viên giáo dục học sinh bằng
các biện pháp sau:
a. Giáo dục bằng những kỷ luật nghiêm khắc: áp dụng nội quy quy định và
thực hiện nghiêm, học sinh vi phạp xử lý theo nội quy. Giáo viên kiểm sốt học
sinh q mức, học sinh khơng có lựa chọn, khơng được tham gia vào q trình ra
quyết định, học sinh phải làm vì cơ nói thế.
Giáo dục bằng kỷ luật nghiêm khắc: kỷ luật nghiêm khắc cũng có thể cho

răng đó là sự trừng phạt. Sự trừng phạt có tác dụng vì nó thường ngăn chặn cách
hành xử sai trái ngay lập tức. Nhưng kết quả lâu dài mang tính tiêu cực. Kỷ luật
nghiêm khắc là khi giáo viên đề ra những tiêu chuẩn rất cao nhưng lại không thực
sự chịu trách nhiệm về các nhu cầu của học sinh. Hầu hết công sức giáo viên bỏ ra
là để giữ trị theo nề nếp thơng qua hình phạt và những cuộc chiến quyền lực. Vì
thế kỷ luật nghiêm khắc hay là trừng phạt thường dẫn đến những hệ quả sau:
Kỷ luật nghiêm khắc học sinh thương không thực sự quan tâm đến những
quyết định chúng đưa ra khi bị trừng phạt nhưng sau này cách cư xử thô lỗ sẽ được
bắt nguồn từ những quyết định đó. Học sinh khi bị trừng phạt lòng tự trọng bị tổn
thương và chúng nghĩ “mình thật tồi tệ” và rồi chúng tiếp tục cư xử như một người
tồi tệ. Kết quả chỉ ra rằng những học sinh hay bị phạt khi vi phạm thì dễ nổi loạn
hoặc phục tùng một cách đầy sợ hãi. Thậm chí học sinh có thái độ tức giận, mất
lịng tin vào thầy cơ có cảm giác bất cơng, bất mãn. Tồi tệ hơn là học sinh có ý
nghĩ trả thù, rồi thi thách thức “mình sẽ làm ngược lại để cho giáo viên thấy mình
khơng cần làm theo cách giáo viên đưa ra”. Kỷ luật nghiêm khắc là kỷ luật đến từ
sự kiểm sốt bên ngồi. Vậy nên giáo viến cần cẩn thận với những kết quả ngay
lập tức, kết quả ngắn hạn của kỷ luật nghiêm khắc – kỷ luật trừng phạt.
Ví dụ: Học sinh A không học thuộc bài và làm bài tập dẫn đến điểm xấu bị
ghi vào sổ đầu bài và trừ điểm thi đua của lớp.
- Giáo viên chủ nhiệm bực tức, tra hỏi, chất vấn và trừng phạt: Tại sao em
không nghe lời? Cô đã nhắc hàng trăm lần rồi sao vẫn vi phạm? Về nhà cả tối em
làm gì mà không học bài, làm bài tập? Em hãy viết bảng tường trình, bản kiểm
điểm và hãy chép lại 10 lần, 20 lần bài tập đó cho cơ! Em nhớ hồn thành nộp cơ
vào ngày mai, mai khơng hồn thành hình phạt sẽ tăng gấp đôi! ...
14


- Học sinh A nhận hình phạt nhưng khơng nghĩ rằng mình đáng bị như vậy, và
việc này sẽ nhắc mình khơng tái phạm lần sau. Mà học sinh thực hiện hình phạt bởi
sự kiểm sốt của giáo viên. Học sinh thực hiện theo sự ép buộc và chép bài theo

một thói quen nhìn mặt chữ để ghi chứ khơng tự giác tiếp nhận kiên thức nên chỉ
mất thời gian và tốn giấy mực.
- Giáo viên nhận kết quả từ hình phạt trị và bắt trị phải chịu đựng vì sai
phạm đó bằng cách nói “phải nhớ là khơng bao giờ được phép tái phạm nữa”
Vậy rõ ràng giáo viên sử dụng hình phạt là giáo viên thể hiện “quyền lực”
của mình, lúc này giáo viên chiến thắng trị bằng cách khiến trị phải chịu đựng vì
những hành vi khơng đúng mực của mình chứ khơng phải là giúp trị thay đổi hành
vi đó. Giáo viên khơng khích lệ trị, khơng giúp trị dừng, hoặc gần như từ bỏ hồn
tồn hành vi khơng đúng mực đó mà chỉ là phản ứng theo cảm xúc nghĩ chỉ có hình
phạt để trị làm tốt hơn và nếu chưa tốt hơn là vì hình phạt chưa đủ nặng.
b. Khơng kỷ luật (kỷ luật nng chiều): khơng có quy tắc, học sinh có thể
chọn quý tắc của riêng bản thân, giáo viên với cách nghĩ học sinh cấp 3, các em đã
lớn rồi phải biết suy nghĩ và hành động đúng theo quy định, không thực hiện đúng
sẽ tự chịu trách nhiệm với bản thân.
- Không kỷ luật: Giáo viên dễ dãi, không đặt ra các giới hạn một cách hiệu quả.
Ví dụ:
Học sinh cá biệt trong lớp thì giáo viên phớt lờ, xem như khơng có để đỡ mất
thời gian ảnh hưởng đến học sinh khác
Khi học sinh vi phạm thầy hay nói kiểu các em lớn rồi, là học sinh cấp ba rồi
phải có ý thức tự giác thực hiện đâu cịn trẻ nhỏ mà thầy cô phải theo sau chỉ bảo
như cấp 1.
Học sinh vi phạm vào thời điểm giáo viên cịn có chuyện cá nhân bực mình,
hoặc là bị BGH khiển trách. Vậy là lên lớp “nổi cơn tam bành” la mắng chì chiết
học sinh một tràng dài hết cả tiết dạy hoặc tiết sinh hoạt. La mắng đó rồi ngày mai
lại thôi không kiểm tra lại kết quả, yêu cầu ngày hôm qua.
Đây là kiểu giáo dục vô trách nhiệm, buông thả, được chăng hay chớ.
c. Giáo dục bằng kỷ luật tích cực: phương chân giáo dục tự do có trật tự,
những lựa chọn được giới hạn, học sinh có thể chọn giữa những giới hạn với quy
trình chúng ta sẽ cùng nhau quyết định các quy tắc vì lợi ích chung của nhau.
Chúng ta cũng sẽ cùng quyết định các giải pháp phù hợp cho tất cả khi chúng ta

gặp phải bất cứ vấn đề gì. Giải quyết vấn đề vừa cứng rắn vừa mềm dẻo, coi trọng
phẩm giá và tôn trọng đối tượng giáo dục. (đặc trưng ở phần cơ sở lý luận)
Như vậy mỗi giáo viên có một phương pháp, cách thức giáo dục học sinh.
Khơng có phương pháp nào là phương pháp vạn năng mà phương pháp nào có hiệu
quả tốt nhất, đạt mục đích, mục tiêu giáo dục nhất đó là phương pháp tối ưu. Trên
15


thực tế kết quả đạt được hàng năm của các lớp về mặt giáo dục đạo đức học sinh
cũng như giáo dục tri thức tôi nhận thấy phương pháp giáo dục học sinh bằng kỷ
luật tích cực là phương pháp về địch hiệu quả nhất, phương pháp cho giáo viên
hạnh phúc, trò hạnh phúc. Tuy nhiên, đa số mới dừng ở việc nhận thức, vẫn chưa
tiếp cận được những biện pháp để hình thành và phát triển biện pháp giáo dục này
khoa học, hiệu quả.
Kết quả điều tra từ thực trạng cho thấy rằng việc giáo dục học sinh, giáo viên
chủ yếu sử dụng giáo dục nghiêm khắc. Giáo dục bằng kỷ luật nghiêm khắc cho
thấy hiệu quả trước mắt chính là học sinh thực hiện đúng nội quy quy chế học sinh
mà trường, đoàn, lớp đề ra. Tuy nhiên con đường này mang tính cưỡng chế nhiều,
giáo viên phải quản lý và giám sát học sinh, thái độ học sinh cảm thấy không thoải
mái, ý thức tự giác thực hiện chưa cao. Cịn giáo dục vơ kỷ luật thì diễn ra không
nhiều, điều này cho thấy rằng giáo viên trường THPT Đơ Lương 4 cơ bản có trách
nhiệm trong q trình giáo dục học sinh, khơng bỏ bê, khơng phó mặc trị. Trong
bảng số liệu cho chúng ta thấy rằng con đường giáo dục có cương có nhu tạo tâm
thế học tập và hoạt động giáo dục của học sinh rất hiệu quả, trò vui vẻ, tự giác
tham gia. Thế nhưng hầu hết giáo viên chưa nắm rõ bản chất đó chính là kỷ luật
tích cực nên thực hành không đồng bộ, không liên tục.
2.3. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng giáo dục trên
Giáo dục đạo cho học sinh là công việc thực sự không giản đơn, mau lẹ ln
cần có sự tỷ mỉ, nhiệt thành để các em có thể nhận được sự giáo dục tốt nhất. Tuy
nhiên việc giáo dục đạo đức cho HS hiện nay chưa đạt được hiệu quả cao. Nguyên

nhân dẫn đến sự tái vi phạm, vô tổ chức kỷ luật cho học sinh là do:
Nguyên nhân của những thực trạng trên đây là:
+ Nhiều thầy cơ giáo cịn chịu ảnh hưởng của tư tưởng giáo dục cũ với những
điểm hạn chế: người lớn có quyền bắt trẻ em phải phục tùng, đó là quan niệm
“Thương cho roi cho vọt” hay “Đòn đau nhớ đời” nên đã sử dụng nhiều biện pháp
trừng phạt thân thể đối với trẻ em, học sinh khi mắc lỗi.
+ Nhiều thầy cơ cịn chưa hiểu biết đầy đủ về tâm sinh lí học sinh và việc mắc
lỗi của các em như một lẽ tự nhiên.
+ Trong quá trình giáo dục cịn thiếu sự quan tâm sâu sắc, tình u thương
dành cho học sinh.
+ Nguyên nhân khác là do thiếu hiểu biết về sử dụng các biện pháp KLTC để
giáo dục học sinh: Giáo dục kỉ luật tích cực là biện pháp phù hợp với tâm sinh lí
học sinh, thầy cơ phải dùng cả “trái tim” và “lí trí” của mình mới thành cơng.
Trong các ngun nhân trên, ngun nhân về phía nhà trường là một trong
những nguyên nhân quan trọng, trong đó vai trị của người giáo viên đặc biệt là
GVCN có vai trị rất quan trọng trong việc giáo dục tính kỷ luật cho học sinh.
16


II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP KỶ LUẬT TÍCH CỰC GIÚP GIÁO DỤC TỐT ĐẠO ĐỨC
CHO HỌC SINH THPT QUA CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP

1. Công tác chủ nhiệm trong trường THPT
Trong nhà trường phổ thông, giáo viên chủ nhiệm lớp là người chịu trách
nhiệm thực hiện mọi quyết định quản lý của hiệu trưởng đối với lớp. Giáo viên chủ
nhiệm là người vạch kế hoạch, tổ chức cho lớp thực hiện các chủ đề theo kế hoạch
và theo dõi, đánh giá việc thực hiện của học sinh. Bên cạnh những giờ dạy trên lớp
giáo viên chủ nhiệm cịn có những giờ chào cờ, sinh hoạt 15 phút, sinh hoạt cuối
tuần, các buổi lao động, hoạt động ngoại khóa để triển khai công việc chung của
nhà trường, để giáo dục học sinh.

Mục đích chính của việc tổ chức hoạt động trong công tác giáo dục học sinh
thông qua công tác chủ nhiệm là hình thành và phát triển những phẩm chất, tư
tưởng, ý chí, tình cảm, giá trị, kĩ năng sống và những năng lực chung cần có ở con
người trong xã hội hiện đại.
Trong khuôn khổ nghiên cứu này, tác giả đề xuất một số biện pháp kỷ luật
tích cực trong công tác chủ nhiệm lớp giúp giáo dục tốt đạo đức học sinh. Những
kinh nghiệm này đã được thực hiện trong nhiều năm học, nhưng thực hiện có hệ
thống là năm học: 2020 – 2021 ở trường THPT Đô Lương 4. Quá trình thực
nghiệm đã đem lại hiệu quả thiết thực giúp học sinh phát triển về nhân cách và
hình thành kỷ năng sống, kỷ năng xã hội.
2. Một số biện pháp kỷ luật tích cực giúp giáo dục tốt đạo đức học sinh
2.1. Biện pháp 1: Tìm hiểu rõ đối tượng giáo dục.
Nhà giáo dục vĩ đại Nga Usinxki nói rằng: “muốn giáo dục con người về
mọi mặt thì phải hiểu con người về mọi mặt” vì vậy:
- Nếu hiểu học sinh thì có thể chọn lựa được những tác động thích hợp. Nếu
khơng hiểu học sinh thì khơng thể tìm được những phương pháp giáo dục phù hợp
với đối tượng. Kể cả việc lựa chọn nội dung và các hình thức giáo dục cũng cần
căn cứ vào đặc điểm đối tượng. Chú ý đặc điểm đối tượng là nguyên tắc quan
trọng của giáo dục học. Tìm hiểu học sinh và tập thể học sinh vừa là điều kiện vừa
là một nội dung quan trọng trong công tác chủ nhiệm lớp.
- Giáo viên chủ nhiệm cần tìm hiểu và nắm vững các đặc điểm cơ bản về
tâm sinh lý, tính cách, năng lực, sức khỏe, năng lực phát triển trí tuệ, sở thích,
nguyện vọng, năng khiếu, phẩm chất đạo đức của học sinh. Về hoàn cảnh sống,
mối quan hệ với tập thể, bạn bè. Qua đó để thấy mặt mạnh, mặt yếu của từng học
sinh, của tập thể lớp để phát huy và khắc phục. Trên cơ sở đó phát hiện những yếu
tố mới, những nhân tố tích cực để làm nòng cốt cho phong trào chung của lớp.
Để tìm hiểu và nắm vững đối tượng giáo dục, Giáo viên chủ nhiệm vận
dụng những cách thu thập thông tin (Phụ lục 2); và tìm hiểu bản chất cụ thể sau:
17



2.1.1. Nắm rõ một số đặc điểm tâm lý học sinh THPT - lứa tuổi vị thành niên
Tâm lý lứa tuổi học sinh THPT đã được nêu rõ ở mục thực trạng, đặc điểm
tâm lý lứa tuổi, những biểu hiện giáo viên cần nắm rõ:
- Học sinh THPT là có sự tự ý thức cao: Sự tự ý thức là một đặc điểm nổi
bật trong sự phát triển nhân cách của học sinh THPT, nó có ý nghĩa to lớn đối với
sự phát triển tâm lý của lứa tuổi này. Biểu hiện của sự tự ý thức là nhu cầu tìm hiểu
và tự đánh giá những đặc điểm tâm lý của mình theo chuẩn mực đạo đức của xã
hội. Các em không chỉ nhận thức về cái tôi hiện tại của mình mà cịn nhận thức về
vị trí của mình trong xã hội tương lai. Ý thức làm người lớn khiến các em thích
khẳng định mình, muốn thể hiện cá tính của mình một cách độc đáo, muốn người
khác quan tâm, chú ý đến mình.
Với những đặc điểm đó, người lớn, thầy cô giáo cần phải lắng nghe ý kiến
của các em đồng thời cần giúp các em có sự nhìn nhận khách quan về nhân cách
của mình, tự nhận thức và xác định được giá trị của bản thân nhằm giúp cho sự tự
đánh giá bản thân được đúng đắn hơn, xác định được điểm mạnh, điểm yếu để tự
điều chỉnh hoàn thiện bản thân, tránh những suy nghĩ lệch lạc, phiến diện hoặc quá
ảo tưởng hoặc quá tự ti về bản thân dẫn đến các biểu hiện hành vi khơng tích cực.
- Học sinh THPT đã hình thành thế giới quan: Sự hình thành thế giới quan là
nét chủ yếu trong tâm lý tuổi học sinh THPT. Vì các em sắp trở thành người lớn,
chuẩn bị bước vào cuộc sống xã hội, các em có nhu cầu tìm hiểu khám phá tự
nhiên, xã hội, về các nguyên tắc và quy tắc ứng xử, những định hướng giá trị về
con người. Các em quan tâm đến nhiều vấn đề như: thói quen đạo đức, cái xấu, cái
đẹp, cái thiện, cái ác, quan hệ giữa cá nhân và tập thể, giữa cống hiến và hưởng
thụ, giữa quyền lợi và nghĩa vụ trách nhiệm…
Để giúp các em điều chỉnh suy nghĩ tư tưởng lệch lạc, giáo viên phải khéo
léo, tế nhị khi phê phán những biểu hiện tư tưởng qua thái độ hành vi chưa đúng
đắn của học sinh, giúp các em thay đổi nhận thức, điều chỉnh hành vi thái độ của
mình. Giáo viên cần tìm hiểu hồn cảnh gia đình, tâm tư tình cảm, suy nghĩ của
học sinh, nguyên nhân của những hành vi khơng tích cực để giúp các em phát triển

đúng hướng. Tuyệt đối không dùng bạo lực.
- Ở tuổi học sinh THPT các em có nhu cầu sống tự lập, có nhu cầu giao tiếp
với bạn bè cùng lứa tuổi trong tập thể. Thích được giao lưu, thích được tham gia
các hoạt động tập thể. Tình bạn đối với các em ở độ tuổi này có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng. Tình bạn thân thiết chân thành sẽ cho phép các em nhìn nhận, điều
chỉnh bản thân. Ở lứa tuổi này tình u cũng có thể bắt đầu nảy nở. Cảm xúc của
các em ở giai đoạn này rất phức tạp, dễ ảnh hưởng đến học tập, nhiều em không
làm chủ được bản thân dẫn đến học hành sa sút.
Giáo viên cấn hết sức bình tĩnh, coi đây là sư phát triển bình thường và tất
yếu trong sự phát triển của con người, tế nhị, khéo léo không nên can thiệp một
cách thô bạo như cấm đốn, kiểm điểm phê bình, bêu gương trước lớp. Cách làm
18


này sẽ làm tổn thương đến tình cảm và lịng tự trọng của các em. Giáo viên nên
gặp gỡ khuyên nhủ để các em xác định được nhiệm vụ học tập và có thái độ đúng
đắn trong quan hệ tình cảm với bạn khác giới. Giúp các em biết kìm chế những
cảm xúc của bản thân để tránh những hậu quả đáng tiếc xảy ra ảnh hưởng đến học
tập và tương lai sau này.
Có thể nói lứa tuổi học sinh THPT là thời kỳ đặc biệt quan trọng trong cuộc
đời của mỗi con người. Các em đứng trước “ngưỡng cửa cuộc đời”, Giai đoạn này
có tính chất quyết định đến sự thành công hay thất bại. Giáo viên và phụ huynh
phải hiểu tâm lý của lứa tuổi này để có những cách giáo dục phù hợp.
2.1.2. Tìm hiểu các yếu tố khách quan (gia đình, mơi trường sống, mơi
trường học tập)
Hành vi của học sinh lệch chuẩn nhiều lúc nó ảnh hưởng bởi mơi trường
sống, gia đình, bạn bè rất nhiều. Giáo viên tìm hiểu rõ để giúp học sinh biết cách
ứng xử đúng mực, giúp trò biết học tập những cái tốt và loại bỏ cái sai, cái xấu.
2.1.2.1. Gia đình
“Gia đình là ngơi thánh đường đầu tiên của tuổi thơ”. Mọi biểu hiện của lối

sống, tư tưởng, nết nghĩ, văn hóa gia đình là cơ sở tác động sâu sắc đến quá trình
hình thành nhân cách của trẻ.
Mặc cảm vì nhà mình nghèo, xấu hổ vì mình phải đi một cái xe đạp cũ, vì có
một người cha say nhèm, vì một người mẹ một thời đã có tai tiếng này nọ, bất mãn
vì mẹ cưng chiều, thương anh trai hơn mình, bố mẹ thường xuyên cại vã nhau, bố
mẹ q bận rộn, hồn cảnh gia đình lúc nào cũng túng thiếu, hay hênh hoang vì
mình có ơng bố làm quan to, nhà giàu khơng thiếu gì, tự tin thái quá rằng chẳng
đời nào mẹ để cho mình khơng lên nổi lớp học, thiếu điểm. Những tâm lí đó ta có
thể nhận ra rằng gia đình là tế bào của xã hội, giáo dục gia đình là rất quan trọng,
là nền tảng đề hình thành nên nhân cách con người. Gia đình giàu có, khá dả
nhưng khơng biết cách giáo dục con sẽ là nguyên nhân dẫn đến con cái hư hỏng,
mất phương hướng trong cuộc sống và đặc biệt là khơng có khả năng ứng phó
hồn cảnh khi gặp bất trắc. Gia đình bố mẹ khơng là tấm gương sáng, con cái sẽ dễ
thành nguyên bản như cha mẹ. Gia đình biết cách đối xử cơng bằng với các thành
viên trong nhà mới tạo nên được thành quả ý nghĩa còn ngược lại đòi hỏi các con
phải thành công như nhau, ngang tài ngang sức như nhau sẽ tạo nên sự so sánh
khập khiếng, tạo nên khoảng trống, hố ngăn, sự đỗ kị, “nồi da nấu thịt”.
Phải nói rằng thời gian mà các em sống với gia đình là khoảng thời gian dài
nhất, chính vì thế mơi trường sống của gia đình có ảnh hưởng rất lớn đối với các
em, những thái độ, hành vi, cách cư xử trong gia đình sẽ hình thành cho các em
nền móng để các em tiếp xúc ngồi xã hội. Tâm lí và tính cách, hành vi học sinh
được hình thành từ mơi trường gia đình. Vì vậy tìm hiểu hồn cảnh gia đình để có
cơ sở và biện pháp hợp lý trong giáo dục học sinh.
2.1.2.2. Môi trường giáo dục (trường học)
19


Kết thúc văn bản “Cổng trường mở ra” nhà văn Lí Lan đã để cho người mẹ
nói với con: “Đi đi con, hãy can đảm lên, thế giới này là của con, bước qua cánh
cổng trường là một thế giới kì diệu sẽ mở ra”

Đúng vậy, trường học, mơi trường giáo dục, ngôi nhà thứ hai của các em, nơi
để phụ huynh gửi gắm niềm tin vào việc giáo dục con em của họ, từ đây các em
được học tập, được hiểu biết, được lớn lên về mọi mặt. Tính mô phạm của người
giáo viên ảnh hưởng và tác động rất lớn đến thái độ học tập và hình thành tính
cách của học sinh. Giáo viên nghiêm túc, tâm huyết, có phương pháp tốt trong
cơng việc giáo dục sẽ mang lại hiệu quả cao. Ngược lại giáo viên tinh thần trách
nhiệm khơng cao, thiếu sự nhiệt tình và khơng trăn trở cách thức giáo dục học sinh
thì hiệu quả giáo dục sẽ khơng có. Giáo viên chỉ chú ý tới những em ngoan học
giỏi, kì thị phân biệt những em khơng ngoan, khơng chăm học. Giáo viên xử lí mọi
việc một cách dễ giãi, đơn chiều, quy chụp hay là suy xét mọi phương diện khơng
đặt mình vào tâm lí lứa tuổi học sinh để nhìn nhận và giáo dục. Cách thức giáo dục
nào sẽ cho ra sản phẩm ấy. Giáo viên sẽ trở thành người mẹ thứ hai của trị là ánh
sáng là niềm tin hay khơng một chút dấu ấn nào, làm mất lòng tin ở các em, tạo ra
một khoảng cách khơng đáng có giữa thầy và trị và chính điều này đã dẫn đến
biểu hiện chống đối lại từ phía HS. Và rồi nhất là học sinh cá biệt, cá tính sẽ như
thế nào? Trong quá trình giáo dục phụ thuộc rất nhiều nếu khơng nói cơ bản là từ
cách thức giáo dục của người giáo viên - ngôi nhà thứ hai của các em. Bởi như
Bác Hồ từng khẳng định: “Thiện ác phải đâu là tính sẵn/ Phần nhiều do giáo dục
mà nên” (Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh). Vậy nên GVCN bao giờ cũng phải
nắm bắt được tình hình lớp từ nhiều kênh thơng tin, từ Đồn trường, các giáo viên
bộ mơn, ngay cả bác bảo vệ trường để có những biện pháp giải quyết vấn đề của
học sinh lớp mình chủ nhiệm.
2.1.2.3. Mơi trường xã hội
Tục ngữ có câu: Gần mực thì đen/ Gần đèn thì sáng
Ngồi mơi trường gia đình và nhà trường ra, học sinh còn phụ thuộc rất lớn
vào môi trường xã hội. Môi trường sống không phải là yếu tố quyết định nhưng nó
có khả năng hình thành nên nhân cách con người. Hiện nay do sự phát triển kinh tế
- xã hội, sự phát triển của mạng lưới thông tin hiện đại, sự du nhập của nhiều loại
hình văn hố khác nhau đã ảnh hưởng khơng ít đến tầng lớp thanh thiếu niên. Các
loại hình dịch vụ như Internet, bi da, karaoke... đã lơi kéo khơng ít học sinh vào

đam mê những trị chơi vơ bổ. Hiện tượng học sinh trốn học để chơi điện tử, bi da,
đánh bạc là chuyện thường ngày, có cả em hết tiền nảy sinh hành vi trộm cắp, cướp
giật. Học sinh khi bị ảnh hưởng bởi những nhân tố không lành mạnh trong xã hội,
cùng với thời gian thì thế giới quan, nhân sinh quan và những quan niệm về giá trị
đạo đức của các em cũng sai lệch. Các em khó phân biệt được đúng sai, Bên cạnh
đó, những nội dung về bạo lực trên các kênh thông tin truyền thông cũng đang bao
vây lấy các em. Phim ảnh, ti vi, tiểu thuyết, truyện tranh, mạng internet, các trò
chơi trực tuyến, ở nơi nào cũng thấy xuất hiện sự tồn tại của hành vi bạo lực. Một
20


số học sinh thường xuyên tìm đến những địa điểm này để giải trí, khi đã tiêu hết
tiền trong túi, bản thân lại chưa có cơng việc kiếm ra tiền, sẽ nảy ra ý định vòi tiền
“bảo kê” của các bạn. Luẩn quẩn trong việc nghĩ mọi cách kiếm tiền.
Đô Lương, nằm ở vị trí nửa chợ nửa quê, các em vừa sống trong một điều
kiện gia đình khó khăn, lại tiếp xúc với cách sống của một số người sống theo kiểu
thành thị, nảy sinh ra hiện tượng học địi (Điều tốt thì khó nạp nhưng cái xấu thì lại
dễ tiêu), chính vì thế một bộ phận HS nhạy cảm với vấn đề xã hội này các em dễ bị
lơi cuốn bởi những thói hư, tật xấu của mơi trường xã hội chung quanh là điều tất
yếu.
Môi trường gia đình, mơi trường giáo dục hay xã hội tất cả là yếu tố tác động
còn bản thân mỗi cá nhân là yếu tố quyết định nên sự hình thành nhân cách.
Nhưng suy xét kỹ ở lứa tuổi học sinh ta lại thấy rằng yếu tố quyết định ấy sẽ được
soi đường, chiếu sáng từ những người thầy chân chính cùng với những biện pháp
giáo dục tích cực. Vì các em ở lứa tuổi này "Ăn chưa no, lo chưa đến", suy nghĩ
còn non nớt, nhận thức chưa cao, các em có những hành vi thiếu chuẩn xác là điều
khơng thể tránh khỏi. Tâm lí tự ti về bản thân, tự cao tự đại, hay bất mãn, tiêu cực
hay chán nản bỏ bê học tập, sự lười biếng, chán nản, muốn phá phách, chính vì thế
mà các em có những hành động vượt ra khỏi những quy định chung. Mọi biểu hiện
hành vi ấy cần được sự tinh tế linh hoạt của người giáo viên nắm bắt và điều chỉnh

một cách phù hợp theo chiều hướng tích cực thì cái tơi của học sinh mới có cơ hội
phát triển để khẳng định mình.
2.2. Biện pháp 2: Hình thành một số kỹ năng mềm cần thiết cho học sinh
trong việc thực hiện kỷ luật giáo dục.
Mục tiêu giáo dục mới chính là hình thành kỹ năng phát triển năng lực cho
người học. Kỷ luật tích cực là áp dụng các nguyên tắc kỷ luật khơng hình phạt. Áp
dụng kỷ luật tích cực có hiệu quả giúp học sinh có thái độ sống đúng mực ln u
đời và đóng góp tích cực cho xã hội. Đặc biệt là giúp các em có được những kỹ
năng sống và kỹ năng xã hội, hình thành phẩm chất năng lực tích cực: tự nhận thức
tích cực, có trách nhiệm, biết tự giác, biết hợp tác. Cởi mở, biết suy luận khách
quan, tự trọng và tôn trọng người khác, giàu nhiệt huyết, chấp nhận bản thân và
không kỳ thị người khác, yêu đời, yêu cuộc sống, ham học hỏi, biết kiềm chế, kiên
nhẫn, có kỹ năng giải quyết vấn đề. Tích hợp những phẩm chất, năng lực cụ thể
trên tơi xin trình bày một số kỷ năng mềm cần thiết nhất.
2.2.1. Kỹ năng tự đánh giá bản thân.
Kỷ luật tích cực điều quan trọng nhất chính là giáo viên giúp học sinh tự
đánh giá bản thân thay vì phải phụ thuộc vào ý kiến đánh giá (khen/ chê) từ người
khác. Bằng những trải nghiệm thực tế học sinh nhận thức sâu sắc giá trị, vị đứng
của bản thân. Học sinh sẽ có niềm tin vào chính mình: “có thể”, “sẽ làm được”.
Lịng tin của bản thân qua trải nghiệm cho trị cảm thấy bản thân mình có ích, có
những đóng góp ý nghĩa cho nhà trường, cho lớp. Từ sự tự tin đó bản thân sẽ có
21


cảm giác gắn bó và yêu trường, yêu lớp, yêu thầy cơ. Có niềm tin, có tình u sẽ
có niềm vui và thành công trong mọi hoạt động giáo dục. Nền tàng của lòng tự
trọng là sự xây dựng niềm tin “Tơi có thể, tơi sẽ làm được” của trị. Trị có niềm tin
sẽ phát triển các kỹ năng giúp trị cảm thấy mình là người có năng lực tham gia
vào q trình đưa ra giải pháp, khi đó trị sẽ vui vẻ vào cuộc và có thể thực hành
những kỹ năng mà thầy cô mong muốn.

2.2.2. Kỹ năng giải quyết sai lầm (phục hồi sau khi mắc lỗi)
“Sai lầm lớn nhất bạn có thể phạm phải trong đời là ln sợ hãi mình sẽ
phạm sai lầm” (Elbert Hubbard). Sai lầm lớn nhất luôn luôn ám ảnh sợ hãi sai lầm
trong cuộc sống là một trạng thái cảm xúc tiêu cực khơng nên có. Trong xã hội
hiện nay, chúng ta được dạy rằng cần biết xấu hổ khi mắc lỗi nhưng không được sợ
hãi. Tất cả chúng ta đều không hoàn hảo, điều cần đạt ở đây là sự dũng cảm để
thiếu hoàn hảo. Nghĩa là chúng ta học được cách coi sai lầm là cơ hội học hỏi. Coi
lỗi sai là một cơ hội để học tập thay vì là một điều gì tệ hại sẽ giúp chúng ta nhận
trách nhiệm dễ dàng hơn. Nếu coi lỗi sai là một điều tệ hại, chúng ta thường sẽ
cảm thấy mình kém cỏi và nản chí, thậm chí trở nên bảo thủ, hay soi xét và chỉ
trích mình. Khi coi lỗi sai là cơ hội để học hỏi là lúc ta nhận ra và chấp nhận tạo ra
một bầu khơng khí tích cực để tìm giải pháp. Ba bước hồi phục sau mắc lỗi chính
là: nhận ra; giảng hịa; giải quyết.
Kỷ luật tích cực giúp học sinh có được kỹ năng sống tốt hơn, chính là qua trải
nghiệm thực tiến học sinh tập hợp các hành vi tích cực và khả năng thích nghi cho
phép. Giúp học sinh nhận ra quy tắc sửa chữa sai lầm, và hiểu được rằng phạm lỗi
khơng phải là điều đáng sợ, nó là cơ hội tuyệt vời để học hỏi. Nhận ra mình mắc
lỗi rồi, nói lời xin lỗi và hãy cùng nhau tìm ra giải pháp.
2.2.3. Kỹ năng xã hội
Kỷ luật tích cực hướng đến hình thành hai kỹ năng lớn cho học sinh chính là
kỹ năng sống và kỹ năng xã hội. Kỹ năng sống là tập hợp các hành vi tích cực và
khả năng thích nghi cho phép mỗi cá nhân đối phó hiệu quả với các nhu cầu và
thách thức của cuộc sống hàng ngày. Kỹ năng xã hội là bất kỳ năng lực tạo thuận
lợi cho sự tương tác và giao tiếp với những người khác, nơi các quy tắc xã hội và
các mỗi quan hệ được tạo ra, truyền đạt và thay đổi theo các cách nói và khơng lời.
Việc giúp trò rèn luyện kỹ năng xã hội là rất quan trọng bởi sẽ giúp trị có được
những phẩm chất tốt, có một tương lai tươi sáng. Kỹ năng xã hội chung nhất gồm:
kỹ năng nhận thức xã hội; kỹ năng ứng xử và giao tiếp xã hội; kỹ năng thích ứng
xã hội. Hình thành kỹ năng xã hội chính là bài học về sự chia sẻ, lắng nghe, hợp
tác, thực hiện theo chỉ dẫn, bài học về tôn trọng, bài học giao tiếp. Kỹ năng xã hội

trong các hoạt động giáo dục chính là tạo ra mơi trường và nhiều cơ hội trải
nghiệm cho người học và cũng chỉ có trải nghiệm và làm việc trong những quan hệ
xã hội thật sự là con đường duy nhất để học các kỹ năng xã hội.

22


2.3 Biện pháp 3: Sử dụng những kỹ năng mền trong giải quyết tình huống
sư phạm.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh khẳng định: “Thầy cô giáo hạnh phúc sẽ thay đổi
thế giới”. Ý kiến khẳng định vai trò sức mạnh của người thầy hạnh phúc trong
cuộc sống hiện đại có thể giúp thế giới này trở nên tốt đẹp hơn. Giáo viên là lực
lượng nắm giữ vai trò chủ chốt trong sự nghiệp đào tạo con người, có tác động rất
lớn đến nhận thức, tình cảm và hành động của thế hệ trẻ nói riêng, của đất nước và
cả nhân loại nói chung. Tuy nhiên, người giáo viên chỉ thực hiện được vai trò ấy
khi họ hạnh phúc. Hạnh phúc là khi họ vui thích hài lịng, đam mê với cơng việc,
không ngừng nỗ lực sáng tạo, đổi mới, sắn sàng dâng hiến tồn bộ cuộc đời mình
cho sự nghiệp giáo dục. Hạnh phúc khi họ sẽ đào tạo nên những học trị hạnh phúc,
hồn thiện bản thân cả về trí tuệ lẫn tâm hồn bằng chính nhân cách và thái độ sống
của mình. Giáo viên hạnh phúc sẽ dựng xây nên một nền giáo dục hạnh phúc. Nhờ
đó, cuộc sống này sẽ trở nên tốt đẹp hơn, tiến bộ hơn và nhân văn hơn. Kỷ luật tích
cực, trong trường học là con đường thực hiện mục tiêu hạnh phúc đó.
Giáo viên chủ nhiện dịu dàng như người mẹ, nghiêm khắc lạnh lùng như
người cha, công minh như một vị quan tòa, bảo chữa như một luật sư ... thiên chức
cao cả nhưng ở cương vị nào cũng phải tròn vài. Vậy nên thành quả của chúng ta
không phải là những tấm bằng khen thưởng treo trên tường mà là cô trị đều cảm
thấy hạnh phúc, cơ trị mỗi ngày có thêm nhiều kỹ năng sống, kỹ năng xã hội.
Trong quá trình giáo dục học sinh theo kỷ luật tích cực càng ngày giáo viên càng
có thêm nhiều kỹ năng sư phạm tích cực. Kỹ năng kiên nhẫn, khả năng thích ứng,
làm việc nhóm, chấp nhận rủi ro, học hỏi khơng ngừng, kỹ năng giao tiếp, khả

năng lãnh đạo. Trong nhiều kỹ năng đó tơi nhấn mạnh một số kỹ năng nổi bật sau:
2.3.1: Kỹ năng kiên nhẫn, tiết chế cảm xúc
Xin được kể lại câu chuyện ngày đầu mới ra trường (công tác tại trường
THPT dân tộc nội trú Mường Quạ - Con Cng), trị Lương Thái Luy tơi chủ
nhiệm thường xun phạm lỗi, thích thì đi học khơng thích là đi làm rẫy hay săn
bắt. Hơm đó vào tiết học của tôi lên lớp em không học bài mà đưa một con tắc kè
trong cặp xách rồi chơi, lớp học đang chăm chú bổng nghe tiếng tắc kè, tắc kè cả
lớp cười vang. Tơi đỏ mặt, bực mình tức giận hùng hổ bước xuống rồi vung tay tát
em Luy một bạt tai. Luy đứng lên, hậm hực bỏ ra khỏi lớp về, mặc cho tôi yêu cầu
em quay lại, đề trơ lại tơi nhìn theo trong sự bực bội và tổn thương lịng tự trọng.
Mấy hơm liên sau đó Luy khơng đi học nữa, và em nói với các bạn là bỏ học luôn.
(học sinh miền núi các em khơng quan trọng hay nặng nề việc học, thích thì đi,
khơng thích thì bỏ, có khi chỉ vì thích cơ giáo hay thầy giáo mới đi học chữ khơng
có mục đích rõ ràng, cơ thầy làm khó làm dễ là trị bỏ học ln). Sự khơng kiên
nhẫn, khơng tiết chế được cảm xúc lúc đó tơi phạm phải một sai lầm lớn, gây tổn
hại đến trị và chính bản thân tơi. Sự trả giá đó là tơi đã phải đi ba con khe, lội sông
Giăng và leo hai quả đổi mới vào đến Khe Khặng thuyết phục Luy đi học lại. Mà
không phải vào liền là gặp em và gia đình, hỏi đến nhà, chờ em đi rừng về, về em
23


biết tơi đến em cịn trốn tơi. Biết làm sao được, vì tơi có lỗi. Thái độ biết lỗi của
mình nên tôi rất gần gũi, thân thiết để chinh phục cho bằng được em quay lại
trường. Thành thực, chân thành nên tôi cũng đã chuộc được lỗi lầm là em đã đi học
trở lại. Một năm sau nhờ chính sách di dân của Đảng và nhà nước, chuyển người
dân tộc Đan Lai vùng sâu vùng xa tận biên giới ra vùng kinh tế mới gần trung tâm
xã hơn. Gia đình Luy di chuyển về xã Môn Sơn nên việc đi lại để học tập khơng
cịn khó khăn như trước nữa, Luy đi học chuyên cần, lực học tốt hơn lên. Tôi đã
đồng hành cùng em ba năm cấp ba, em tốt nghiệp trung học phổ thông với tấm
bằng loại khá. Sau tốt nghiệp em về làm đoàn xã, giờ đã là trưởng thôn của làng

Xiềng xã Môn Sơn – Con Cng. 20 năm ngày thành lập trường, cơ trị gặp lại
nhau, cơ trị vẫn khơng qn nhắc lại chuyện xưa, nhắc cái bạt tai ngày ấy. Bài học
nhớ đời về sự nóng giận, có chút kiêu ngạo của ngày đầu mới ra trường của tôi là
thế. Và một câu chuyện khác về cơ học trị bị mẹ bắt bỏ học để lấy chồng (Việc
nghỉ học giữa chừng để lấy chồng lấy vợ đối với học sinh miền núi khơng có gì lạ
và hiếm, hàng năm cũng phải có 5 đến 7 em là thường) thì tơi lại là một nhà tâm lý
xuất sắc, là nhà đạo diễn kịch bản tuyệt vời. Xuất phát từ tình thương u trị, cứ
nghĩ trị mới 16 tuổi phải lấy chồng, sinh con, làm mẹ, làm vợ. 16 tuổi chưa ra khỏi
thôn bản, chưa biết thế nào là u mà bì ép lấy chồng. Tơi kiên nhẫn đi mấy ngày
liền đến nhà, tôi kiên nhẫn chờ gặp cho bằng được phụ huynh, tôi kiên nhẫn nghe
phụ huynh nói, tơi kiến nhẫn chấp nhận phụ huynh trách cứ đủ điều, phụ huynh
thách thức. Cuối cùng tôi đã chinh phục được phụ huynh học sinh và giúp trị được
trở lại trường học tập và thành cơng. Giờ thì cơ học trị ngày nào đã là chủ tịch hội
phụ nữ xã Lục Dạ - Con Cuông – Nghệ An.

Ảnh cơ trị chụp chung nhân ngày 20 thành lập trường DTNT Mường Quạ.
Phương pháp là cách thức, là con đường đi về đích, nhưng con đường thực
tiễn sẽ cịn chịu sự chi phối, ảnh hưởng bởi nhiều tác nhân cũng như ngoại cảnh vì
thế rất có thể chúng ta sẽ cảm thấy nhầm lẫn và nản lòng nếu chúng ta kỳ vọng
nhiều vào kết quả. Kiên nhẫn với bản thân và với học sinh khi chúng ta muốn thay
24


đổi những thói quen cũ, thay đổi hành vi. Kiên nhẫn lắng nghe, kiên nhẫn tìm hiểu
để khám phá những góc khuất, lịng trắc ẩn của trị, kiên nhẫn trước sai lầm của
học sinh biến sai lầm thành cơ hội để học hỏi, kiên nhẫn thay vì khen ngợi và khen
thưởng thành khích lệ. Kiên nhẫn chính là giáo viên nhìn nhận sự tiến bộ của trị
chữ khơng phải hồn hảo. Sự kiên nhẫn, vui vẻ và lòng vị tha sẽ trợ giúp đắc lực
cho quá trình giáo dục thành công. Kiên nhẫn chúng ta sẽ nhận thấy rằng dù học
sinh chưa hồn hảo thì chúng cũng sẽ vui vẻ hơn, sự nghiệp giáo dục chúng ta

chưa thành công nhưng chúng ta đã cảm thấy hạnh phúc hơn. Kiên nhẫn thay đổi,
thay đổi để hạnh phúc tại sao chúng ta không thay đổi.
2.3.2. Kỹ năng giao tiếp
Giao tiếp là quá trình cung cấp thơng tin, trao đổi tình cảm giữa con người với
con người. Kỹ năng giao tiếp là một q trình diễn ra liên tục, là hoạt động vơ cùng
quan trọng trong đời sống, đúng lúc, đúng người, đúng mục đích, đạt hiệu quả cao
trong giao tiếp địi hỏi cả một nghệ thuật. Kỹ năng cần thiết ở người giáo viên
chính là kỹ năng giao tiếp một cách tơn trọng với trò, với phụ huynh học sinh và
đồng nghiệp. Đây chính là văn hóa ứng xử, cịn được gọi là nghệ thuật ứng xử.
- Khi giao tiếp phải có khả năng mô tả vấn đề, cung cấp thông tin, nói ngắn
gọn, lơi cuốn sự tham gia của học sinh và kỹ năng giao tiếp với phụ huynh học
sinh. Xác định đúng mục đích, đối tượng, thời gian, địa điểm ...
- “Mọi ý kiến đều đúng theo góc độ của người quan sát” (Rudole Dreikurs).
Khi giao tiếp với trò, giáo viên cần tránh thái độ và cách sử dụng câu cầu khiến, ra
mệnh lệnh, yêu cầu học sinh phải, hay kiểu trách phạt, la mắng, chỉ trích, sử dụng
các câu nói gây trở ngại trong giao tiếp mà cần các câu nói cải thiện hiệu quả giao
tiếp, tăng cường sự kết nối.
- Khi giao tiếp giáo viên biết tôn trọng trị, lắng nghe trị, khơng “sai bảo” trị,
hãy “hỏi ý kiến” để mời trò cùng tham gia giải quyết vấn đề. Cách phát triển giao
tiếp cho cả cơ và trị là trao quyền cho trò bằng việc kiểm tra, khám phá, mời gọi
và khích lệ, ghi nhận và tơn trọng. Như vậy giao tiếp khơng đơn giản là nói chuyện
mà cần phải lắng nghe, tôn trọng, gợi mở, và trao quyền trong lúc nói chuyện.
Phương thức để phát triển giao tiếp là nói và làm đúng theo những gì mình nói, nói
ít, lời nói xuất phát từ động cơ tích cực, trái tim yêu thương điều chỉnh hành vi. Có
như vậy cuộc hội thoại hai chiều mới cùng nói chuyện và chia sẻ với nhau suy nghĩ
và cảm xúc của mình.
2.3.3. Kỹ năng giải quyết tình huống
Tình huống sư phạm là vơ vàn, nhưng khơng có tình huống nào giống tình
huống nào cũng như ngun nhân mắc lỗi của trị khơng giống nhau, vì thế kỹ
năng giải quyết tình huống thực tiến trong công tác giáo dục học sinh là vơ cùng

quan trọng. Giải quyết sao cho thấu tình đạt lý, giải quyết tình huống sư phạm
khơng hề giản đơn, giáo viên không khéo léo, không hiểu thấu, không tinh tế thì sẽ
rơi vào ảo tưởng, nhầm lẫn kết quả.
25


×