MÔN: NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU LỊCH
So sánh sự giống và khác nhau của các ngôi đền thờ được công
nhận là Di sản Văn hóa Thế giới của các nước thuộc khối ASEAN
Các ngôi đền được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới:
1. Indonexia:
- Quần thể đền đài Prabanan
- Quần thể đền tháp Borobudur
2. Lào:
- Đền thờ Wat Phou
3. Campuchia:
- Đền Preah Vihear
- Quần thể Angkor
4. Việt nam:
- Khu đền tháp Mỹ Sơn- 1999
1
1.
Indonexia
1.1. Quần thể đền đài Prambanan
Vị trí: - là một quần thể đền thờ thần Hindu ở Trung Java, cách thành
phố Yogyakarta khoảng 18 km về hướng đơng.
Lịch sử:
-
Prambanan có lẽ bắt đầu được xây dựng từ năm 850 dưới thời Vua
Rakai Pikatan của vương quốc Medang. Ngôi đền đầu tiên trong quần thể này là
để thờ thần Shiva. Mục đích là để chứng tỏ nhà Sanjaya đã từ bỏ Phật giáo để
quay về với Hindu.
-
Quần thể đền đài Prambanan được xây dựng dưới triều đại của
Medang, nhưng được xây dựng tích cực nhất dưới thời vua Daksa và vua
Tulodong
-
Prambanan được coi là ngơi đền hồng gia của vương quốc Medang.
Nơi đây đã diễn ra nhiều nghi lễ tín ngưỡng và hiến tế.
-
Đến năm 930, trung tâm chính trị của Medang được Vua Mpu Sindok
dời tới Đông Java
-
Đến thế kỷ 16, một trận động đất lớn xảy ra tại Indonesia đã khiến cho
tháp chính và nhiều đền tháp nhỏ trong quần thể sụp đổ. Bởi khơng có kinh phí
và khơng cịn được quan tam như thời hồng kim nên chính quyền địa phương
thơì kỳ đó đã bỏ mặc khu phế tích này.
-
Vào năm 1811, dưới thời kỳ đơ hộ của vương quốc Anh, nhà thám
hiểm Collin Mackenzie đã tình cờ tới Prambanan và phát hiện ra quần thể đổ nát
này. Ngay lập tức chính quyền vương quốc anh đã cho khám phá tồn bộ khu
phế tích. Tuy nhiên sau đó, khu vực này khơng được trùng tu mà cịn bị thực dân
Hà Lan và Anh lấy trộm các bức phù điêu của đền về trang trí tại vườn nhà riêng
của mình.
-
Đến năm 1880, nhiều nhà khảo cổ tâm huyết đã tìm đến khám phá,
nghiên cứu khu vực phế tích song những việc làm đó chỉ càng khiến cho quần
thể đền tháp được biết đến nhiều hơn và các hiện vật bị trộm nhiều hơn. Cho đến
2
tận năm 1918, việc trung tu, tôn tạo mới thực sự được bắt đầu và đến năm 1930
thì cơng việc này mới bắt đầu quy chuẩn với sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế.
Nhưng vì quá nhiều tác phẩm bằng đá, các bức phù điêu đã bị lấy mất nên việc
phục chế khơng thể hồn tất. Cho đến hiện nay, nhiều đến tháp nhỏ vẫn chưa
được phục dựng lại, chỉ thấy nền móng xưa cịn sót lại vẫn hiện rõ trên mặt đất.
-
Trận động đất năm 2006 lại làm cho khu đền hư hỏng nghiêm trọng và
hiện phải đóng cửa để phục dựng tránh gây nguy hiểm cho khách thăm quan.
Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa Liên hiệp quốc đã công nhận
Quần thể đền đài Prambanan của Indonesia là Di sản văn hóa thế giới năm 1991
1.2. Quần thể đền tháp Borobudur
-
Borobudur” trong tiếng Indonesia có nghĩa là “Tháp Phật trên đồi cao"
Vị trí:
-
Borobudur là một kỳ quan Phật giáo tinh xảo và lớn nhất thế giới, xây
dựng vào thế kỷ thứ VIII, tọa lạc cách 42 km về phía Bắc thành phố Yogyakarta,
trung tâm của đảo Java, quốc gia Indonesia
Lịch sử:
-
Có ý kiến cho rằng, nguồn gốc của đền tháp Borobudur bắt nguồn từ
Campuchia nước cổ Phật giáo. Đó là vào đầu thế kỷ thứ VIII, hoàng triều
Sanjaya theo Ấn giáo và thờ thần Shiva, đóng đơ ở vùng Bắc trung tâm Đảo
Java.
-
Một hồng thân người Campuchia được hồng triều này che chở,
nhưng sau đó ông trở về Campuchia vào năm 802 và lên ngôi vua. Có thể chính
ơng đã đem theo về nước dự án đầu tiên của Borobudur, vì người ta tìm thấy
trên đất Campuchia một ngơi đền nhỏ xây bằng gạch hình tháp tương tợ với mơ
hình của Borobudur.
-
Năm 850 có thể xem là năm hoàn thành Borobudur. Nhưng vào khoảng
đầu thế kỷ XIII, những người buôn bán Á rập đã đưa Hồi giáo vào Indonesia.
3
Chỉ trong vòng hai trăm năm, cả quần đảo Indonesia gần như hồn tồn bị Hồi
giáo hố. Borobodur trở nêđn hoang tàn.
-
Mãi đến sau chiến tranh thế giới lần thứ 2 kết thúc ( năm 1945),
Indonesia mới ý thức được tầm quan trọng của Borobudur liền mời nhiều nhà
khảo cổ trên thế giới đến nghiên cứu, đồng thời yêu cầu UNESCO giúp sức để
trùng tu. Một chương trình cấp thời vào năm 1948 do Liên Hiệp Quốc đưa ra đã
giúp cho Borobudur thoát khỏi cảnh hoang tàn và quên lãng. Tiếp theo là một
chương trình trùng tu rộng lớn hơn kéo dài từ 1973 đến 1982 do UNESCO đảm
trách với sự hợp tác của 27 quốc gia trên thế giới đã hồi phục cho Borobudur.
Chương trình trùng tu tốn 17 triệu đơ-la.
Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa của Liên hiệp quốc đã công
nhận Quần thể đền tháp Borobudur của Indonesia là Di sản văn hóa thế giới năm
1991
2.
Lào - đền thờ Wat Phou
Vị trí: Wat Phou (Vat Phu) là di tích một quần thể đền thờ Khmer nằm
ở phía nam Lào. Wat Phou tọa lạc dưới chân núi Phu Cao, tỉnh Champasak, cách
sông Mê Kông 6 km.
Lịch sử:
-
Những cơng trình đầu tiên của Wat Phou được xây dựng từ thế kỷ V
nhưng những kiến trúc còn lại đến ngày nay được xây dựng trong khoảng thế kỷ
XI đến XIII.
-
Trước đây, Wat Phou từng liên kết với Shrestapura - một thành phố nằm
về phía đơng núi Lingaparvata (tức núi Phu Kao bây giờ ). Vào cuối thế kỷ V,
Shrestapura đã từng thủ đô của một vương quốc, đến giờ dấu tích vẫn cịn lưu lại
trong các bản văn và kiến trúc đầu tiên thuộc quần thể Wat Phou chứng minh
việc đền Wat Phou được xây dựng trong thời gian này. Trên núi Phu Kao có chỗ
nhơ lên tạo thành hình "linga" và vị trí này đã trở thành một vị thế về tâm linh và
được xem là nơi trú ngụ của thần linh. Cịn dịng sơng Mekong chảy qua gần
khu vực đền Wat Phoi được coi như là đại dương (hay dịng sơng Ganges trong
4
thần thoại). Ngôi đền được xem như phần cống hiến của con người dâng cho
thần Siva. Wat Phou còn là một phần của đế chế Khmer với trung tâm Angkor
nằm ở phía tây nam. Thế kỷ sau đó, thành phố Shrestapura được thay thế bởi
một thành phố mới vào thời kỳ Angkor.. Các ngôi đền được xây dựng chủ yếu
vào các triều đại Koh Ker và Baphuon, thế kỷ XI. Chúng tiếp tục được trùng tu
và xây dựng thêm trong hai thế kỷ sau và nghiêng về khuynh hướng Phật giáo
Tiểu thừa. Khi khu vực này nằm dưới sự kiểm sốt của người Lào, việc xây
dựngvà hồn tất ngơi đền lại tiếp tục.
Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa của Liên hiệp quốc đã cơng
nhận đền thờ Wat Phou của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào là Di sản văn hóa
thế giới năm 2001.
3.
Campuchia:
3.1. Đền Preah Vihear
Vị trí: Preah Vihear là ngơi đền toạ lạc trên một chỏm núi thuộc núi
Dângrêk ở Campuchia, gần biên giới với Thái Lan. Phần nửa đền nằm bên Vườn
Quốc gia Khao Phra Viharn của huyện Kantharalak, tỉnh Sisaket, Thái Lan, một
nửa đềnthuộc tỉnh Preah Vihear của Campuchia.
Lịch sử:
-
Ngôi đền đầu tiên được bắt đầu vào đầu thế kỷ IX dùng để thờ thần
Shiva trong những thế kỷ tiếp theo. Các di vật được tìm thấy ở tỉnh này cho thấy
khu vực này là khu định cư quan trọng của Đế quốc Khmer trong thế kỷ XII.
-
Những phần cịn sót lại sớm nhất lại có niên đại thời Koh Ker vào thế
kỷ X khi Kinh đô của Đế quốc Khmer gần hơn so với khi nó ở Angkor. Có một
số yếu tố thuộc phong cách Banteay Srei cuối thế kỷ X, nhưng phần lớn ngôi
đền được lập dưới thời các Vua Suryavarman I và Suryavarman II trong các nửa
đầu thế kỷ XI và XII.
-
Năm 1904, Vương quốc Xiêm (tên gọi chính thức của Thái Lan trước
năm 1949) và thực dân Pháp thành lập một ủy ban chung thực hiện công việc
phân định ranh giới. Năm 1907, sau khi điều tra nghiên cứu, người Pháp đã đưa
5
ra bản đồ, trong đó thể hiện vị trí chính xác khu vực đền Preah Vihear và vùng
lân cận. Căn cứ theo tấm bản đồ này, Preah Vihear nằm bên Campuchia.
-
Năm 1954, Thái Lan chiếm giữ ngôi đền sau khi quân đội Pháp rút khỏi
Campuchia, Campuchia phản đối và yêu cầu Tòa án Thế giới phân xử. Tòa án
xem xét vụ việc không chỉ dựa trên những di sản văn hóa, mà cịn cân nhắc
những biện pháp chun mơn kỹ thuật phân định ranh giới. Ngày 15-6-1962,
Tòa ra phán quyết phần thắng thuộc về Campuchia và yêu cầu Thái Lan trả lại
mọi di vật (kể cả những bức tượng thờ) đã đưa ra khỏi ngôi đền.
-
Ngôi đền đã mở cửa trong một thời gian ngắn cho công chúng năm
1982 và năm sau bị Khmer Đỏ chiếm đóng. Ngơi đền được mở cửa lại vào cuối
năm 1998 và Campuchia hoàn tất việc xây dựng năm 2003 sau một quãng thời
gian dài.
Phiên họp thường niên lần thứ 32 của Ủy ban Di sản thế giới, tổ chức
tại thành phố Quebec, Canada, từ 3 - 10/7/2008, đã công nhận ngôi đền cổ Preah
Vihear là di sản văn hóa thế giới.
3.2. Đền Angkor Wat
Vị trí: Cách thủ đơ Phnom Penh 240km về hướng Bắc, Nằm trong quần
thể kiến trúc Angkor tại tỉnh Siem Reap, đền Angkor Wat là cơng trình kiến trúc
nổi tiếng của người Khmer.
Lịch sử:
-
Được xây dựng dưới thời vua Suriya-warman II (1113-1150), Angkok
Wat mới đầu để thờ thần Viśnu của Ấn Độ giáo. Về sau, khi vương triều Khmer
theo Phật giáo, Angkok Wat trở thành linh đền thờ Phật. Sau khi kinh đô của đế
quốc Khmer bị người Xiêm phá hủy và các nhà vua Khmer bỏ về Phnom Penh
trong thế kỉ 15, Angkok Wat rơi vào quên lãng, bị rừng già vây phủ và được
khám phá lại vào năm 1860 bởi Herri Mouhot.
6
-
Trải qua chiến tranh, sự khắc nghiệt của thời tiết trong gần 1000 năm,
điều may mắn là cơng trình vẫn còn tới 80% nguyên gốc, thu hút hàng triệu lượt
du khách tới thăm mỗi năm.
Được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc
(UNESCO) cơng nhận là Di sản thế giới vào năm 1992.
Cũng như vịnh Hạ Long của Việt Nam, quần thể đền Angkor Wat của
Campuchia được bầu chọn là 1 trong 7 kỳ quan thiên nhiên mới của thế giới.
4.
Việt Nam – khu đền tháp Mỹ Sơn
Vị trí: kh di tích đền tháp Mỹ Sơn nằm gọn trong một thung lũng hẹp,
có núi bao bọc bốn bể thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam,
cách thành phố Đà Nẵng khoảng 70 km, là tổ hợp bao gồm nhiều đền đài
Chămpa, trong một thung lũng đường kính khoảng 2 km, bao quanh bởi đồi
núi.
Lịch sử:
-
Kinh đô Trà kiệu thất thủ khi người Chăm sử dũng Mỹ sơn làm nơi trấn
ngự. Từ những yếu tố này người Chăm cho xây dựng đền thờ đầu tiên vào cuối
thế kỷ thứ IV bằng gỗ ở Mỹ Sơn để thờ thần Sisana Bhahadravana. Tên thần là
sựu kết hợp của tên các vị vua lúc bấy giờ là Bhahadravarman và thần Shiva.
Sau vị vua này, các vị vua khác lên ngôi và tiếp tục cho xây dựng đền tháp.
Trước hết là thờ cúng thần linh, thứ hai là muốn bày tỏ uy quyền của mình.
-
Dần dần từ thế kỷ thứ IV – thế kỷ thứ XIII, Mỹ Sơn trở thành một quần
thể gồm khoảng 70 cơng trình kiến trúc lớn nhỏ.
-
Cuối thế kỷ thứ XIII, do hai bộ lạc Cau và Dừa không thống nhất với
nhau về quyền lợi cũng như phong tục tập quán. Trong nước đã xảy ra nội chiến.
Cũng thời điểm này, các nước láng giềng như Trung Hoa, Việt Nam, Khmer đã
tiến hành các cuộc chiến tranh với Chăm pa. Chính vì những lý do đó người
Chăm đã dời kinh đơ xuống phía nam ở vùng Bình Thuận ngày nay. Sau thế kỷ
thứ XIII, Mỹ Sơn hầu như bị bỏ hoang, không ai xây dựng đền đài cũng như thờ
cúng ở Mỹ Sơn.
7
-
Mỹ Sơn là điểm duy nhất của nghệ thuật Chăm có q trình phát triển
liên tục từ thế kỷ 7 đến thế kỷ 13 xây dựng bằng những vật liệu rất bền vững,
còn tồn tại đến ngày nay.
-
Vào năm 1898, di tích Mỹ Sơn được phát hiện bởi một học giả người
Pháp tên là M.C Paris. Vào những năm đầu thế kỷ 20, hai nhà nghiên cứu của
Viễn thông Pháp là L.Finot và L.de Lajonquière và nhà kiến trúc sư kiêm khảo
cổ học H. Parmentier đã đến Mỹ Sơn để nghiên cứu văn bia và nghệ thuật kiến
trúc, điêu khắc Chăm. Cho đến những năm 1903-1904 những tài liệu cơ bản
nhất về bia ký và nghệ thuật kiến trúc Mỹ Sơn đã được L.Finot chính thức cơng
bố.
Được UNESCO cơng nhận là di sản văn hóa thế giới vào tháng 12/1999
tại Marốc.
II. So sánh
1.
Về đối tượng thờ:
Tên
In-đô-nê-si-a
Lào
Cam-pu-chia
nước
Quần thể
Quần thể
Đền thờ
Đền Preah
Quần thể
Khu đền tháp
đền đài
đền tháp
Wat Phou
Vihear
Angkor
Mỹ Sơn
Prabanan
Borobudur
8
Việt Nam
Đối
tượng
thờ
Thờ phật
Thờ Phật
Thần
Đức Phật
Shiva
(ban đầu
Thần Shiva
thờ Shiva)
2.
Về vật liệu xây dựng
1.
Giống nhau:
(ban đầu
thờ thần
Visnu)
Cúng linga và
Shiva,cũng là
lăng mộ của các
vị vua người
Chăm pa
Vật liệu để xây dựng đều là những vật liệu bền chắc, có tuổi thọ cao và
thường là đá và gạch.
2.
Khác nhau:
Quốc gia
Đền thờ
Indonexia
Prabanan,
Borobudur
Lào
WatPhow
9
Campuchia
ParahVikear,
Angkor
Việt Nam
Khu đền
tháp Mỹ
Sơn
Chủ yếu là
gạch với kỹ
thuật kết
Đá núi lửa
Vật liệu
(Prabanan)
Đá ong, đá sa
Đá
thạch
(Borobudur)
Đá sa thạch
dính khơng
(ParahVikear)
có mạch hồ.
Kết hợp giữa vật Ngồi ra
liệu đá và gạch
cịn có ngơi
(Angkor)
đền duy
nhất được
xây bằng đá
sa thạch.
3. Về kiến trúc
Giống nhau:
Đây đều là các công trình kiến trúc tơn giáo.
Kiểu kiến trúc cao, nhiều chóp nhọn.
Kiến trúc nhiều tầng xếp chồng lên nhau tạo thành hình tháp.
Cấu trúc chia thành ba phần: nền (chân cơ sở), thân, đầu với tỉ lệ 4:9:6
Khác nhau:
Borobudur
Prambanan
Wat Phou
- Công trình
- Cơng trình
kiến trúc Phật
kiến
trúc
Đền
tháp
Đền
Preah
Quần
thể
- Cơng trình
Mỹ Sơn
- Cơng trình
Vihear
- Cơng trình
Angkor
Cơng
kiến
kiến trúc Ấn
kiến
trình
trúc
10
trúc
kiến
giáo.
Hindu giáo.
Phật giáo.
-
- Ngơi đền
ngơi đền gồm
Prambanan
có kết cấu
- Kiến trúc:
- Kiến trúc:
12 nền tầng
có kiểu kiến
độc đáo dẫn
Về mặt kiến
Phần
to,nhỏ,
trúc
cao,
đến
một
trúc thì các
đền nằm bên
Angkor
nhiều chóp
điện
thờ,
đền
vườn
quốc
Wat có chu
nơi có một
lăng mộ ở
gia
Khao
vi gần 6
Mỹ Sơn là
Phra Viharn
km và diện
của
tích
-
cấu
vng,
trúc
trịn
có
Độ Giáo
Khmer.
trúc
Khmer.
tháp,
nửa
-
Khu
xen
kẽ,
nhọn,
chồng
lên
một
đền
linga
nhau
tạo
trung
tâm
trong nước
nơi hội
thành
một
cao
47m,
từ một dòng
của các kiểu
Kantharalak
khoảng
khối
cao
nằm
giữa
suối
dáng
khác
thuộc
tỉnh
200 ha, nơi
42m.
Nếu
một
quần
xuống.
nhau,
từ
Sisaket
của
cao nhất là
tứm
chảy
tụ
trèo lên từng
thể gồm 248
- Mặc dù là
những
đỉnh
tháp
tầng một và
ngôi đền thờ
cơng
trình
cổ đại hay
một nửa đền
của
ngơi
đi dọc chiều
lớn
nhỏ
kiến
trúc
kiểu Mỹ Sơn
thuộc
tỉnh
đền chính,
dài
khác nhau.
Phật
giáo
E1 (thế kỷ 8,
Preah Vihear
có độ cao
của tất cả 12
Ngơi
nhưng
hai
Mỹ Sơn E1
của
65m.
tầng
thờ lớn này
bên
đường
và F1), kiểu
Campuchia.
Angkor
cộng là 5km.
được coi là
vào đền là
Hịa
+, Do ngơi
Wat là đền
- Kiến trúc
thờ
những
trụ
(cuối thế kỷ
đền
núi
Borobudur
Shiva.
hình
8 - đầu thế
xây trên một
nhất
lấy hình dạng
Ngồi
Linga, biểu
kỷ
Mỹ
mỏm
đá
Campuchia
của
khu
vực
tượng
Sơn A2, C7
thuộc
lãnh
có lối vào
Mandala:
trung
tâm
thần Shiva.
và F3), kiểu
thổ
chính
Borobudur
cịn có hai
- Hai ngơi
Đồng Dương
Campuchia
hướng tây,
được
xây
ngơi đền lớn
đền
chính
(cuối thế kỷ
(trước
hướng Mặt
dựng
như
khác
thờ
nắm
phía
9 - đầu thế
được cho là
một bảo tháp
thần
sáng
cuối đường,
kỷ 10, Mỹ
lãnh
thổ
lớn duy nhất
tạo Brahma
hướng
Sơn
Thái
Lan),
chu
vi
tổng
một
đền
thần
đá
ra,
của
về
11
kiểu
Lai
9,
A10,
Thái
huyện
Lan,
được
đây
duy
ở
ở
Trời lặn.
Cách
bố
và khi nhìn
và thần duy
phía
đơng,
A11-13, B4,
nhưng
lối
cục
này
từ trên cao
trì Vishnu.
đối
xứng
B12),
dẫn vào ngơi
gây
cảm
xuống
- Kiến trúc
nhau
trên
Mỹ Sơn A1
đền
Preah
giác ức chế
đền
một gị cao.
(thế kỷ 10,
Vihear nằm
cho người
Mạn Đà La,
Prambanan
Hai
cơng
Mỹ Sơn B5,
trên
đi vào đền,
Phật
giáo
theo truyền
trình
này
B6, B7, B9,
vách
đá
bởi
hình
Mật
tơng,
thống
đang
được
C1, C2, C5,
dựng
đứng
ảnh
khu
có
dạng
một
kiến
kiểu
một
khổng lồ.
trúc Hindu
trùng tu.
D1, D2, D4),
cheo leo và
đền đồ sộ
- Kết cấu 12
điển
hình
- Khu đền
kiểu chuyển
khơng thể
nổi bật trên
tầng :
dựa
trên
thượng nằm
tiếp Mỹ Sơn
Vastu
ở
lưng
A1-Bình
nhất: từ chân
Shastra.
chừng
núi.
Định
đồi lên, có
Kiến
Đường
bình đồ hình
vng,
ánh
sáng
+, Kiến trúc
chói
lịa
(đầu
đền tương tự
của
Mặt
lên
thế kỷ 11 -
kiến trúc của
Trời. Khu
đền có hình
đền thượng
giữa thế kỷ
đền Banteay
đền gồm 4
bốn
dạng
là
12, Mỹ Sơn
Srei với điêu
tầng
nền,
cạnh
căn
Mandala
bậc cấp lát
E4,
F2,
khắc trên đá
càng
lên
đúng
bốn
giống
đá, hai bên
nhóm K) và
sa thạch cực
cao
+Tầng thứ
trúc
một
như
những
càng
hướng Đơng-
Borobudur.
có
những
kiểu
Bình
kỳ tinh xảo.
thu nhỏ lại,
Tây-
Nam-
Ngơi đền là
cột đá trịn
Định
(cuối
Phần
khu
mơ phỏng
Bắc,
mỗi
một
tháp
dựng đứng.
thế kỷ 11 -
vực
xung
cạnh có một
cao
chót
Ngơi đền là
đầu thế kỷ
quanh
khoảng trống
vót,
mơ
khối
kiến
14, Mỹ Sơn
với
7.38m,
phỏng
núi
trúc
được
B1 và các
thự viện và
người
Ấn
bên đặt hai
Meru. Tồn
xếp
từ
nhóm G, H).
các tháp cao
Độ.
Vị
con sư tử lớn
bộ quần thể
những tảng
nhưng
thần
linh
bằng đáchầu
đền là mô
đá
hai bên.
phỏng
chạm
+ Tầng thứ
trụ
2: bình đồ là
hai
đền
"núi vũ trụ
nhiều
Mêru" của
hiện
nay phần lớn
được thờ ở
trổ
thuật và kiến
các kiến trúc
đây là thần
Hindu
hoa văn cầu
trúc qua bố
phụ
xung
Viśnu. Khu
theo vũ trụ
kỳ, tinh xảo.
cục đền tháp
quanh
đền
đền chính
12
+,
ảnh
Nghệ
vũ
lớn,
hình
hình đa giác
học
với 20 cạnh
Hindu
mang
ảnh
đều bị đổ nát
bao
gồm
và các lớp
hưởng
lớn
nghiêm
398
gian
gần như ơm
của Loka.
của
trọng.
phịng với
lấy triền đồi.
- Giống như
cách Ấn Độ.
dù vậy vẫn
Borobudur,
+,
có 4 cạnh lớn
Prambanan
Thánh
hướng về 4
cũng
gồm
phương trời.
ra hệ thống
+ Từ
tầng
phân
thứ
Khu
địa
+, Kiến trúc
chạm khắc
phức
đá trên trần
hợp
phòng,
cụm tháp, bố
chạy
theo
hành lang,
cấp
cục mỗi cụm
trục
Bắc
các
lan
đến
của các khu
tháp đều có
Nam dài 800
can...
thể
tầng thứ 9 lại
đền thờ, kéo
một
tháp
m, và bao
hiện
sức
có dạng hình
dài từ nơi ít
chính (kalan)
gồm một bờ
mạnh
phi
vuông.
linh thiêng
ở
đường
thường và
+ 3 tầng trên
đến nơi linh
nhiều
cùng lại có
thiêng nhất.
phụ nhỏ bao
những
bậc
điêu luyện
dạng
Dù
bọc
xung
tam cấp dẫn
của người
chiều ngang
quanh. Kalan
lên điện thờ
Khmer cổ
hay
theo
thường
nằm
đại. Chính
tầng có xây
chiều
dọc
Linga
dựng
cũng
gồm
hình
trịn.
Trên
mỗi
nhiều
theo
nhiều
nghệ thuật
của ngơi đền
3
nhận
phong
giữa
và
tháp
thờ
cao
đắp
và
trên
bàn
tay
(sinh
đỉnh khu vực
phủ
thực khí) hay
đền thờ phía
Campuchia
Nam
(cao
đã cho tiến
đền đài miếu
ba khu vực:
linh
mạo. Tất cả
+ Bhurloka:
Shiva.
Mặt
120 m so với
hành phục
các
từ
cảnh
giới
trước
mỗi
khu Bắc và
chế, tu bổ
tầng 1 đến
thấp
nhất
cụm tháp là
525m so với
khu di tích
tầng 9 đều
gồm người,
một
đồng
và
ngày
được phủ kín
động vật và
cổng
Campuchia).
nay,
quần
những
phù
quỷ.
Nơi
(gopura),
Ngơi
đền
thể này là
được
đây
con
tiếp đến tiền
cũng
có
địa
điểm
ngươi
vẫn
đình
cùng
mục
thu
hút
điêu
bậc
trạm trổ cơng
13
tượng
tháp
bằng
phu
mơ
tả
bị ràng buộc
(mandapa),
đích
cuộc đời của
bởi
hạng
mục
phụng
Đức
Phật.
ham muốn,
cơng trình có
những
Riêng 3 tầng
xấu xa. Sân
chức năng là
thần ở đỉnh
trên
trên
cùng
bên
ngoài
nơi sắp xếp
Meru.
giới.
phẳng
phiu,
và chân nền
lễ vật và múa
trơn nhẵn, có
cơ sở tượng
hát nghi thức
Trong
trổ 72 tháp
trưng
cho
hành lễ. +,
đó các bức
quanh ngơi
chng hình
vương quốc
Bên cạnh là
tường thành
đền, có hào
mắt cáo bên
này.
một kiến trúc
bao
quanh
rãnh
bao
trong đặt 72
+Bhuvaloka
ln quay về
đền lại mang
bọc;
bên
tượng
Phật
:
hướng
dáng dấp của
ngồi bức
ngồi.
Trên
quốc trung
(hướng thần
Wat
tường
có
cùng của đền
tâm của dân
tài
(Lào)
nhiều
hồ
là mái trịn
thánh, gồm
Kuvera),
Cột thứ năm
chứa nước,
hình chng.
những
gồm 1 hay 2
theo
kiểu
sự thiết kế
- Kiến trúc
Rishis,
phịng, gọi là
kiến
trúc
của
đền
tượng
những
Kósa
Grha
Koh Ker vẫn
đền này rất
trưng cho 3
người
dùng
để
giữ
lại
cân đối và
cõi vũ trụ học
khổ hạnh và
chứa đồ tế
những
vết
xinh
Phật giáo:
những
nhuyễn
và
sơn
+ Kamadhatu
thần
thức ăn (cỗ)
(thế giới của
hơn. Người
cúng
những
dân
thần. Các
dù ngói đỏ
trong vịng
ham
những
vương
tu
vị
thấp
thuộc
Bắc
lộc
chư
thờ
hàng trăm
du
vị
khi
Phou
đỏ
khách
từ khắp nơi
Xung
ngơi
đẹp,
từ
có qui mơ
thời
gian
to lớn, khu
trước
mặc
vực
muốn): gồm
vương quốc
tháp đều có
bây
giờ
tường,
chân nền cơ
này bắt đầu
hình
chóp,
khơng
cịn
rộng
sở. Đây là thế
nhìn
thấy
biểu
tượng
nữa. Cột thứ
giới
thấp
ánh
sáng
của
đỉnh
4 nằm ở phía
nhất,
con
của chân lý.
Meru
thần
sau
14
thế
có
từ
nằm
tới
83610m².
Trung tâm
người
vẫn
Vương quốc
Thánh,
này
bao
cư ngụ của
Khleang-
điện là một
ham muốn, u
gồm
sân
các vị thần
Baphuon và
tịa
tháp
mê.
giữa
và
Hindu.
là một "kiệt
cao
61m.
+ Rupadhatu
phần
thân
+ Cổng tháp
tác
Muốn
(thế giới của
của các ngơi
thường quay
Preah
tới đó phải
hình
đền.
về phía đơng
Vihear". Cột
qua
mấy
đại diện bởi 5
+Svarloka:
để tiếp nhận
thứ
lớn
cửa,
một
bậc cầu thang
đây là cảnh
ánh
nhất và nằm
bậc
thềm
vng.
giới
sáng Mặt
giữa
cao và một
cịn
những
thức):
Đây
cao
nơi
triều
đại
của
3
hai
của
thánh
đi
là mức thế
nhất và linh
Trời. Nhiều
phịng
lớn.
sân
giới cao hơn
thiêng nhất
tháp có kiến
Muốn
đến
Chung
Kamadhuta.
dành
trúc rất đẹp
được đền thờ
quanh tịa
Con
các vị thần,
với
phải
tháp
những
người
cho
khơng
cịn
cịn
được
những
ham
gọi
là
muốn
,
sống
liên
dấu
hiệu
đặc
trưng
của
tồn
hoa văn.
bộ
kiến
+ Phần lớn
trúc.
được
trong
Bao
gồm
nhiều
thế giới hình
sân
bên
thức, họ nhìn
trong
và
thấy
hình
đỉnh
của
thức
nhưng
mỗi
ngơi
khơng rút ra
đền.
được.
-
+
ngơi
Arupadhatu
chính
(thế giới vơ
hình):
bởi
3
thấp
hơn, đó là
trang trí với
đại
thơng
qua hai sân
thần
vị
Svargaloka.
diện
họ
hình
rộng.
những
loại
nhau
tiếp
kiến
trúc này hiện
Với những
nay đã bị suy
phù
tàn,
nhưng
phong phú,
đền
đây đó vẫn
nhiều màu
có
cịn sót lại
sắc
để
một
giếng
những mảng
trang
trí,
sâu
5,75m
điêu
hồn tồn
Trong
trong đó tìm
khắc
mang dấu ấn
15
tương
điêu
nền tảng tròn
được
và bảo tháp
tài đá chứa
của các triều
sự thiết kế
phía
trên.
xương động
đại Chăm pa
cân đối và
Đây là thế
vật, các tấm
huyền thoại.
nghiêm
giới cao nhất
vàng
lá,
+,
Những
trang. Trên
hay cịn được
than,
tiền
đền
thờ
những bức
gọi
vàng và các
chính ở Mỹ
phù
đồ
Sơn thờ một
đá này, đã
bộ
linga
miêu
những
là
cõi
quan
hồng
trang
kim
xứng
với
điêu
Niết
Bàn.
Con
người
thốt
khỏi
hoặc
hình
vịng
ln
tượng
của
cảnh tượng
hồi, sinh tử,
thần Shiva -
trong sử thi
nơi linh hồn
thần bảo hộ
Ấn Độ. Rất
được
giác
của các triều
nhiều thần
ngộ,
khơng
vua
linh
cịn gắn liền
pa..
và nữ vui
với hình thức
Cụm tháp A
vẻ
thế gian.
(Kalan
múa
sức.
Chăm
nam
nhảy
với
Sơn A1) thờ
nhau trong
1 bộ Linga,
tư thế trêu
có
chọc.Qua
6
ngơi
đền nhỏ từ
một
hành
A2-A7
đối
lang
phù
nhau
điêu
nối
xứng
bao
16
Mỹ
tả
quanh
tiếp nhau,
thờ các vị
chạy
dài
thần phương
đến
mấy
hướng (trừ 2
trăm thước
hướng Đông,
Anh,
đã
Tây): hướng
thể
Đông-thần
nhiều nhân
sấm
Indra,
vật
chân
hướng Đông
thật
trong
Nam-thần
lịch sử của
lửa
Campuchia
Agni,
hướng Nam-
.
Diêm vương
tượng
Yama, hướng
được
Tây-thần bầu
người u
trời Varuna,
thích
hướng
thường
Tây
Hình
mọi
và
Nam-thần
xuất
hiện
Nairta,
trên
phù
hướng
Tây
điêu, chính
Bắc-thần gió
là
Vayu, hướng
thần nhảy
Bắc-thần
múa
Kuvera,
Campuchia
hướng Đơng
.
Bắc-thần
tồn
năng
Isána. Tháp
A1 có 2 cửa
chính
diện
đối
nhau,
quay về 2
hướng Đơng
và Tây. Bao
17
hiện
vị
nữ
của
phía
ngồi,
xa
tháp
chính
A1
hơn, là các
tháp
phụ
tương
đối
lớn, được ký
hiệu từ A8A12,
phân
bố trên một
mặt
bằng
vng vắn.
Đối diện với
cụm tháp A,
là cụm tháp
B (Kalan Mỹ
Sơn B1) là
cụm
tháp
trung
tâm
của
Thánh
địa Mỹ Sơn.
+, Mặc dù
chịu
ảnh
hưởng lớn từ
Ấn Độ giáo,
song
biểu
tượng
của Phật
giáo cũng
18
tìm thấy ở
Mỹ Sơn, vì
đạo Phật Đại
Thừa (Maha
yana) đã trở
thành
tín
ngưỡng
chính
của
người Chăm
vào thế kỷ
10. Một số
đền đài đã
được
xây
dựng
trong
thời
gian
này,
tuy
nhiên
vào thế
kỷ
17 nhiều tòa
tháp ở Mỹ
Sơn đã được
tu sửa và xây
dựng.
4. Kiểu trang trí:
Giống nhau
-
Nghệ thuật điêu khắc đều ảnh hưởng từ Hindu giáo nhưng vẫn có sự
giao thoa ảnh hưởng bởi Phật Giáo.
19
-
Nghệ thuật tạo hình có một đặc điểm chung là tính biểu tượng, ước lệ
và cách điệu nhằm hướng đến nội dung biểu đạt sâu kín bên trong hơn là hình
thức bên ngồi.
Khác nhau
4.1.Quần thể đền tháp BOROBUDUR
Borobudur là một quần thể đền tháp Phật giáo lớn ở miền trung đảo Java,
Indonesia. Cho nên từ các bậc thềm từ tần một đến tầng chín đều phủ kín nhữn
phù điêu, được chạm trổ công phu, tinh sảo mô tả về cuộc đời của đức Phật
Thích Ca Mầu Ni, các Bồ Tát, các anh hùng giác ngộ Phật Pháp, thiên đàng, địa
ngục….
Borobudur tổng cộng có 1460 tấm tranh điêu khắc và tạc nổi trên mặt đá,
trình bày các cảnh tượng của Tam giới, kể lại các gương sáng của những vị Bồ
tát, cuộc đời và những tiền thân của Đức Phật và sau hết là các câu chuyện về
Đạo Pháp mô tả trong kinh sách. Ngồi những cảnh tượng điểu khắc, cịn có
1212 trang trí khác tạc trên đá. Nếu xếp các cảnh điêu khắc thành hàng thẳng sẽ
có một chiều dài 5 km. Kiến trúc tổng qt của ngơi đền có thể chia làm ba phần
từ thấp lên cao, tượng trưng cho ba cảnh giới của Ta-bà : các tầng thấp nhất là
Dục giới, tiếp theo là Sắc giới và những tầng trên hết là Vô sắc giới.
Đặc biệt ở đây, có nhiều tượng sư tử với miệng há rộng, có bờm ở lưng, cổ
và ngực, đuôi uốn cong ngược về phía sau nên nhìn tổng thể rất dữ tợn. Trong
khu vực quần thể đền tháp Borobudur có tổng cộng 8 con sự tử đều được đúc và
chạm trổ tinh xảo với hình dáng giống nhau.
Tầng thứ hai của đền cách tầng thứ nhất 1,52m, khơng xây theo dạng hình
vng như tầng thứ nhất mà hình đa giác, có tổng cộng 20 cạnh. Tuy nhiên
vẫn có bốn cạnh lớn hướng về bốn phương trời, giữa bốn cạnh lớn này lại có
bốn tầng cấp. Hai bên tầng cấp có lan can uốn cong thể hiện độ tinh tế tuyệt vời,
Cuối lan can là một đầu voi to, trong miệng voi lại ngoạm một con sư tử, cịn
đầu lan can kia là hình tượng của một đàn sư tử, mõm mở rộng, lưng tựa vào
tường.
20
Riêng ba tầng trên cùng phẳng phiu, trơn nhẵn có trổ 72 tháp chng hình
mắt cáo. Bên trong có đặt 72 tượng Phật ngồi (tầng một 2,32, tầng hai 2,24 và
tầng ba 2,16).
4.2. Đền Prambanan - Indonexia
Đền Prambanan là một quần thể đền thờ Hindu cho nên nghệ thuật điêu khắc
đều miêu tả các vị thần như Shiva, Vishnu và Brahma
Không chỉ đồ sộ về kiến trúc, quần thể đền Prambanan cịn được coi là kho
tàng vơ giá của nghệ thuật điêu khắc với các tác phẩm chạm trổ trên đá rất chi
tiết và tinh xảo.
Prambanan hình thành với chất liệu chính là đá núi lửa, khơng mịn và mềm
như đá sa thạch, việc điêu khắc hẳn gặp rất nhiều khó khăn, thế nhưng những gì
cịn lại trên các nét điêu khắc ở ngôi đền này đã thể hiện một trình độ đạt đến
đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc trên đá.
Nổi bật và lớn nhất trong điêu khắc ở Prambanan là gương mặt Kala trên các
cửa chính của các ngôi đền, thể hiện đầy đủ các chi tiết về sự dữ tợn, chở che,
bảo vệ. Mảng điêu khắc ấy cũng nhắn gửi thông điệp khi con người bước lên
đền, đi dưới gương mặt Kala, chính là đi vào cõi vĩnh viễn, bất tử.
Các phần nóc mái, hành lang của Prambanan được trang trí bằng những tháp
nhỏ được khắc rãnh tượng trưng cho các viên kim cương, chi tiết điêu khắc này
cũng được thấy trong các đền đài Phật giáo ở Java, đây là lối trang trí trong kiến
trúc cổ của Java, một lối trang trí tiêu biểu cho nghệ thuật chạm khắc đỉnh cao
tại Java ở thế kỷ thứ 10.
4.3. Đền Wat Phou - Lào
Wat Phou nằm dưới chân của một núi thiêng gọi là Phou Kao (Núi Voi).
Theo các nhà sử học, Wat Phou là đền thờ xưa nhất ở Lào, từng là trung tâm của
đạo Hindu, thờ thần Shiva. Đến thế kỷ 13, Wat Phou trở thành đền thờ Phật và
tồn tại cho đến ngày nay, trở thành một trong những nơi lưu giữ các giá trị về
21
lịch sử và văn hóa Lào. Vì vậy trong kiến trúc cũng có sự giao thoa giữa đạo
Hindu và đạo Phật.
Những cơng trình cịn lại đến ngày nay vẫn cịn giữ được vẻ đẹp độc đáo của
các bức phù điêu chạm trên tường và đà cửa với kiểu dáng cùng thời với nền văn
hóa Angkor.
Những bức tường của ngơi đền được chạm trổ hoa văn cầu kỳ tinh xảo, đặc
biệt là các phù điêu vũ nữ nhà Trời Apsara, Tevada, voi chầu… Phía sau đền là
vách núi lõm sâu vào phía trong, trên đó những người thợ tài hoa xưa đã tạc
nhiều bức tượng lớn nhỏ rất sống động.
Ngoài ra còn một số dấu vết điêu khắc khác nằm ở phía Bắc ngơi đền: dấu
chân Phật trên mặt vách đá, những hịn đá có hình dáng giống các con voi và
một con cá sấu.
Đặc biệt nơi đây độc đáo ở sự giao hịa giữa các nguồn mạch tơn giáo và văn
hóa, khi mà chánh điện Phật nằm trong đền thờ Hindu, tượng Phật nằm bên cạnh
tượng thần Shiva, tinh thần phồn thực của Linga và Yoni tương tác với trang
nghiêm thanh tịnh giới dục của tinh thần Phật giáo.
4.4. ĂNGCO VÁT - Campuchia
Có thể nói Angkor Wat được xem là cơng trình được xây dựng vào nền cực
thịnh của Angkor. tay.
Với những phù điêu phong phú, nhiều màu sắc để trang trí, hồn tồn
tương xứng với sự thiết kế cân đối và nghiêm trang. Trên những bức phù điêu đá
này, đã miêu tả những cảnh tượng trong sử thi Ấn Độ. Rất nhiều thần linh nam
và nữ vui vẻ nhảy múa với nhau trong tư thế trêu chọc. Qua một hành lang phù
điêu nối tiếp nhau, chạy dài đến mấy trăm thước Anh, đã thể hiện nhiều nhân vật
chân thật trong lịch sử của Campuchia. Hình tượng được mọi người yêu thích và
thường xuất hiện trên phù điêu, chính là vị nữ thần nhảy múa của Campuchia...
Tại các góc của Angkor Wat và từng centimet của ngôi đền, không chỗ nào
là khơng có điêu khắc. Những đường nét điêu khắc trên đá tỉ mỉ đến mức người
ta lầm tưởng là chúng được điêu khắc trên một khn mẫu có sẵn. Nguyên tắc
22
xây dựng ngôi đền được xây dựng trên nguyên tắc, sắp xếp đá trước, sau đó các
kiến trúc sư mới bắt đầu điêu khắc. Bằng chứng là tại các cây cột ở tầng thứ nhất
vẫn cịn vết tích của những bức tranh điêu khắc còn dang dở.
4.5. Khu đền tháp Mỹ Sơn – Việt Nam
Đền tháp ở Mỹ Sơn được chia thành nhiều cụm, xây dựng theo cùng một
nguyên tắc. Kết cấu mỗi cụm gồm có một ngơi đền thờ chính (Kalan), bao
quanh bằng những ngơi tháp nhỏ hoặc cơng trình phụ. Ngơi đền chính tượng
trưng cho núi Meru - trung tâm vũ trụ, là nơi hội tụ của thần linh và thờ thần
Siva. Các đền phụ (miếu phụ) thờ các vị thần trơng coi hướng trời. Ngồi ra cịn
có những cơng trình phụ là những ngơi tháp thường có mái lợp ngói, là nơi
khách hành hương sửa lễ, cất giữ đồ tế lễ. Đền thờ của người Chăm không có
cửa sổ, chỉ các cơng trình tháp phụ mới có cửa sổ.
Những đền thờ chính ở Mỹ Sơn thờ một bộ Linga hoặc hình tượng của thần
Siva - Ðấng bảo hộ của các dịng vua Chămpa. Vị thần được tơn thờ ở Mỹ Sơn
là Bhadrésvara, là vị vua đã sáng lập dòng vua đầu tiên của vùng Amaravati vào
cuối thế kỷ 4 kết hợp với tên thần Siva, trở thành tín ngưỡng chính thờ thần vua và tổ tiên hồng.
Hầu hết các đền tháp và các cơng trình phụ đều được xây bằng gạch với một
kỹ thuật tinh tế. Các mơ típ trang trí hoa văn trên các trụ đá cùng với những
tượng tròn và phù điêu sa thạch được chạm khắc dựa theo các thần thoại Ấn Độ
giáo … Sự kết hợp hài hịa với những mơ típ chạm trổ tinh xảo trên các mảng
tường gạch ngoài tháp đã tạo cho quần thể đền tháp Mỹ Sơn vẻ đẹp mỹ miều
sinh động mang những nét đặc trưng nhất của các phong cách nghệ thuật
Chămpa.
Mỗi ngôi đền tháp ở Mỹ Sơn có 3 bộ phận chính: đế tháp, thân tháp và mái
tháp: Đế tháp: theo quan niệm của người Chămpa, đế tháp tượng trưng cho thế
giới trần tục, thường được xây trên nền hình vng hoặc hình chữ nhật, bằng
23
gạch hoặc đá phiến to. Xung quanh đế được trang trí các mơtip hoa văn, hình
con thú, hình người cầu nguyện đứng trong các vòm cuốn nhỏ…
Thân tháp: cũng theo quan niệm của người Chămpa, thân tháp tượng trưng
cho thế giới tâm linh, nơi con người gột rửa bụi trần được thốt tục để có thể
tiếp xúc với tổ tiên và hoà nhập với thần linh.
Mái tháp: mái tháp tượng trưng cho thần linh, thường có ba tầng càng lên
cao càng thu hẹp. Mỗi tầng lại mô phỏng đầy đủ cấu trúc cửa chính và cửa giả
giống tầng dưới và được trang trí những ngẫu tượng, vật cưỡi của các vị thần
trong Ấn Độ Giáo như: chim thần, ngỗng thần, bò thần, voi, sư tử... Tầng một và
hai ở mỗi góc thường trang trí các tháp nhỏ.
Theo các nhà nghiên cứu tháp Chàm cổ, nghệ thuật kiến trúc tháp Chàm tại
Mỹ Sơn hội tụ được nhiều phong cách, mang tính liên tục từ phong cách cổ thế
kỷ 7 đến thế kỷ 8, phong cách Hoà Lai thế kỷ 8 đến thế kỷ thứ 9, phong cách
Ðồng Dương từ giữa thế kỷ 9, phong cách Mỹ Sơn và chuyển tiếp giữa Mỹ Sơn
và Bình Ðịnh, phong cách Bình Ðịnh.
5.
ST
T
1
Về mặt ý nghĩa văn hóa, xã hội của các ngơi đền thờ.
TÊN
ĐẤT NƯỚC
Ý NGHĨA
Quần thể
Người ta cho rằng Quần thể đền
đền đài
đài Prambanan được xây dựng
Prabanan
nhằm ganh đua với các quần thể
INDONEXIA
đền tháp Borobudur được xây
dựng dưới triều đại Sailendra.
Lý do là bởi các nhà khảo cổ
trong quá trình nghiên cứu nhận
thấy biểu tượng Shiva trong
chính diện của ngơi đền chính.
24
Prambanan được coi là ngơi đền
hồng gia của vương quốc
Medang. Nơi đây đã diễn ra
nhiều nghi lễ tín ngưỡng và hiến
tế. Các nhà học giả, khảo cổ qua
quá trình nghiên cứu cho rằng
vào thời kỳ hồng kim của
vương quốc có hàng nghìn tu sĩ
Bà la mơn và đệ tử của họ sống
tại quần thể đền này
Có học giả cho rằng, Borobudur
là do tổ tiên người Java sáng tạo
ra. Vương triều Borobudur vốn
là một vương tộc sùng bái đạo
Phật. Sau khi nổi lên và hưng
thịnh, vì muốn tạo ra mộ biểu
tượng sùng bái trong lòng nhân
Quần thể
dân, vua Sjailendra đã huy động
đền tháp
rất nhiều nhân lực, vật lực để
Borobudu
xây một ngôi đền tháp Phật giáo
r
hùng vĩ này. Trong một số phù
điêu miêu tả cuộc đời của Phật
tổ có sự xuất hiện nhà cửa, đền
miếu, cơng trình kiến trúc của tổ
tiên người Java.
25