Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Bài thu hoạch lớp Đảng viên mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.03 KB, 16 trang )

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐẢNG ỦY KHỐI CÁC CƠ QUAN TW
---***---

BÀI THU HOẠCH
BỒI DƯỠNG ĐẢNG VIÊN MỚI NĂM 2021

Tên học viên : Nguyễn Thành Thái
Chi bộ
: Viện Nghiên cứu Chính sách và Phát
triển Truyền thông

Hướng dẫn viết thu hoạch: G/v Trịnh Thị Tâm
Hà Nội, tháng 4 năm 2021


Câu hỏi 1: Phân tích, làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự
vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách
mạng Việt Nam?
Kế hoạch của đồng chí về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh?
Câu hỏi 2: Vai trị của giáo dục và đào tạo đối với sự phát triển đất
nước? Phân tích tư tưởng chỉ đạo phát triển giáo dục và đào tạo trong thời kỳ
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta?
Đồng chí cần làm gì để góp phần xây dựng văn hoá, con người Việt
Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững?
Câu hỏi 3: Phân tích vị trí, vai trò của đảng viên Đảng Cộng sản Việt
Nam? Nhiệm vụ thực hiện công tác dân vận của đảng viên phải như thế nào?
Đồng chí phải làm gì để xứng đáng với danh hiệu đảng viên Đảng
Cộng sản Việt Nam?
Bài làm


Câu 1: Phân tích, làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự
vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn
cách mạng Việt Nam.
Từ chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin,
tiếp thu bản chất khoa học và cách mạng của học thuyết này. Từ đó, trong
suốt q trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người đã vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin để giải quyết thành công những vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng
lợi khác. Người đã có nhiều phát triển sáng tạo, làm phong phú thêm kho
tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự kế thừa các giá trị truyền
thống tất đẹp của dân tộc. Đó là truyền thống u nước, ý chí độc lập, tự
cường; đồn kết, nhân ái, khoan dung, tinh thần cộng đồng; lạc quan u đời,
cần cù, thơng minh, sáng tạo... Hồ Chí Minh là người Việt Nam yêu nước
trước khi trở thành một chiến sĩ cộng sản. Tư tưởng Hồ Chí Minh còn là kết
quả của việc tiếp thu tinh hoa và văn hóa nhân loại. Trong suốt cuộc đời, đặc
biệt trong q trình bơn ba tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln
tìm tịi, học hỏi và tiếp thu có chọn lọc, có phê phán các quan điểm của các
trường phái triết học, quan điểm tư tưởng cổ, kim, đông, tây; tinh thần cách
mạng, tinh thần độc lập tự do của các dân tộc; kinh nghiệm của các cuộc
cách mạng…vận dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam và trở thành tư
tưởng của mình.
1


Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đó là sản phẩm sàng lọc nghiêm khắc
của lịch sử đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam, trong Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tại Đại hội
VII năm 1991 đã chỉ rõ: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động...”

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng ta đã vận dụng những
nội dung, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng của nước ta.
Chủ nghĩa Mác-Lênin vẫn còn nguyên giá trị. Khi vận dụng một quan
điểm cụ thể của chủ nghĩa Mác- Lênin phải nắm chắc bối cảnh ra đời, phạm
vi nhiệm vụ mà tư tưởng, ngun lý đó được xác định khơng chỉ dựa vào một
câu nói, một luận điểm tư tưởng của C. Mác, Ph. Ăngghen, V. I. Lênin, Chủ
tịch Hồ Chí Minh để áp đặt vào tình hình thực tiễn. Những câu nói bài viết
của các nhà kinh điển ln gắn liền với hồn cảnh thực tiễn của nó.
Khi vận dụng, phải nắm chắc đặc điểm thực tiễn của đất nước, xác
định rõ những yêu cầu và nhiệm vụ thực tiễn đặt ra trong từng giai đoạn và
bối cảnh quốc tế.
Phải đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, tham khảo có
chọn lọc kinh nghiệm các nước, từ đó khái quát thành những bài học cho
cách mạng nước ta trong từng giai đoạn, từng thời kỳ.
Việc vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều
kiện thực tiễn nước ta hiện nay đang là vấn đề được Đảng ta hết sức quan
tâm, coi đó là một trong những nhiệm vụ hàng đầu. Sự nghiệp đổi mới ở
nước ta hiện nay đang đi vào chiều sâu, nhiều vấn đề mới như kinh tế thị
trường, kinh tế tri thức, nhà nước pháp quyền, hội nhập… là những vấn đề
rất mới, cần được nghiên cứu, giải đáp về lý luận và thực tiễn, tại đại hội X
đã xác định: Phải chăm chú phát hiện, tổng kết thực tiễn để tìm ra cái mới
của lý luận, bổ sung cho kho tàng lý luận MácXít, dùng nó như một kim chỉ
nam dẫn đường, chứ không phải kinh thánh để rơi vào giáo điều.
Muốn vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh cần phải nắm vững hệ thống các quan điểm và mục tiêu, yêu
cầu từng giai đoạn, gắn chặt với tổng kết thực tiễn, như vậy chúng ta mới có
thể phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh một cách đúng
đắn và khoa học.
Bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết phải
bảo vệ các nguyên lý lý luận của nó, đấu tranh có hiệu quả những luận điểm

phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cần nắm chắc nội
dung, bản chất từng luận điểm gắn với hoàn cảnh lịch sử và yêu cầu cụ thể
2


cần giải quyết, đồng thời phải tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới, đưa tư tưởng và quan điểm đó vào
thực tế cuộc sống thực hiện thắng lợi mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã
hội cơng bằng, dân chủ, văn minh”, đó là cách tốt nhất để bảo vệ chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Kiên quyết đấu tranh chống tư tưởng cơ hội và bảo thủ, chống chiến
lược “Diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa của các thế lực thù
địch nhằm phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, xuyên tạc, bôi đen những thành
quả của chủ nghĩa xã hội và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đấu tranh với các hành động xuyên tạc hoặc đối lập tư tưởng Hồ Chí
Minh với chủ nghĩa Mác-Lênin, bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh hơn ai hết đảng viên phải là người đi đầu, kiên quyết bảo vệ nền
tảng, đường lối, bảo vệ sự lãnh đạo của Đảng.
Tóm lại, đảng viên phải tăng cường học tập lý luận chính trị, qua đó có
lập trường tư tưởng vững vàng, không dao động thực hiện đúng Cương lĩnh,
Điều lệ Đảng và pháp luật của Nhà nước; kiên định những vấn đề và quan
điểm có tính ngun tắc của Đảng.
Kế hoạch của đồng chí về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh.
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn
hiện nay, bản thân tôi nhận thấy rằng, mỗi cán bộ, đảng viên phải trung thành
với mục tiêu lý tưởng của Đảng, của dân tộc, tham gia tích cực vào việc đẩy
mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội
cơng bằng, dân chủ, văn minh.
Suốt đời hy sinh phấn đấu vì nước, vì dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh

chỉ có một mong muốn, mong muốn tột bậc là đất nước ta được hoàn toàn
độc lập, dân ta được hưởng tự do, "đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc,
ai cũng được học hành". Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh chúng ta cần:
- Trung thành vô hạn với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo
vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, nền văn hoá, bảo vệ Đảng, chế độ
và sự nghiệp đổi mới, bảo vệ lợi ích của đất nước, dân tộc.
- Có ý thức giữ gìn đồn kết dân tộc, đoàn kết trong Đảng, trong nhân
dân; kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng trước mọi mưu đồ chia rẽ
dân tộc, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, chia rẽ Đảng với nhân dân của
các thế lực thù địch, cơ hội.
3


- Có tinh thần trách nhiệm cao đối với cơng việc, có lương tâm nghề
nghiệp trong sáng; ham học hỏi, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
- Giải quyết đúng đắn mối quan hệ cá nhân - gia đình - tập thể - xã hội;
quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi theo lời dạy của Bác: "Việc gì có lợi cho
dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh".
Hai là, thực hiện đúng lời dạy: ''Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ
tư", nêu cao phẩm giá con người Việt Nam trong thời kỳ mới.
- Tích cực lao động, học tập, công tác với tinh thần lao động sáng tạo
có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao; sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn của
Nhà nước, của tập thể, của chính mình một cách có hiệu quả.
- Quý trọng công sức lao động và tài sản của tập thể, của nhân dân;
không xa hoa, lãng phí, khơng phơ trương, hình thức.
- Kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, không để
cho lợi ích cá nhân chi phối. Chống thói chạy theo danh vọng, địa vị, giành
giật lợi ích các mình, lạm dụng quyền hạn, chức vụ để chiếm đoạt của công;
cục bộ địa phương, thu vén cho gia đình, cá nhân.

- Thẳng thắn, trung thực, bảo vệ chân lý, bảo vệ đường lối quan điểm
của Đảng, bảo vệ người tốt; chân thành, khiêm tốn; khơng chạy theo chủ
nghĩa thành tích, bao che, giấu giếm khuyết điểm...
- Kiên quyết chống bệnh lười biếng, chạy theo lối sống hưởng thụ, vị
kỷ, nói khơng đi đơi với làm, nói nhiều, làm ít, làm dối, làm ẩu. Có thái độ rõ
ràng, lên án và quyết đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, loại trừ mọi biểu
hiện vơ liêm, bất chính ra khỏi đời sống xã hội.
Ba là nâng cao ý thức dân chủ và kỷ luật, gắn bó với nhân dân, vì nhân
dân phục vụ
- Mỗi đảng viên của Đảng phải đặt mình trong tổ chức, trong tập thể,
phải tôn trọng nguyên tắc, pháp luật, kỷ cương.
- Coi trọng tự phê bình và phê bình, "phải nghiêm khắc với chính
mình". Phê bình có mục đích trong sáng, có lý, có tình. Khắc phục bệnh
chuộng hình thức, thích nghe lời khen (thậm chí xu nịnh), tâng bốc nhau,
khơng dám nói thẳng, nói thật... để giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, đồng thời, cần
phê phán những biểu hiện xuất phát từ những động cơ cá nhân, vụ lợi mà
"đấu đá"; nhân danh phê bình để đả kích, lơi kéo, chia rẽ, làm rối nội bộ.
Bốn là học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần phát
huy chủ nghĩa yêu nước gắn chặt với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, đoàn kết,
hữu nghị giữa các dân tộc, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
4


Nâng cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, tự hào, tự tôn dân
tộc; đấu tranh chống biểu hiện của dân tộc hẹp hòi, tự ti; đồng thời phê phán
tư chủ nghĩa tư tưởng ngoại lai, vong bản, vọng ngoại, ảo tưởng trước chủ
nghĩa tư bản.
Câu hỏi 2: Vai trò của giáo dục và đào tạo đối với sự phát triển đất
nước:
Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển xã hội,

muốn phát triển xã hội phải chăm lo nhân tố con người về thể chất và tinh
thần, nhất là về học vấn, nhận thức về thế giới xung quanh để họ có thể góp
phần xây dựng và cải tạo xã hội. Bác Hồ đã từng nói: “Một dân tộc dốt là
một dân tộc yếu” bởi khơng có tri thức, hiểu biết về xã hội, tự nhiên và chính
bản thân mình, con người sẽ luôn lệ thuộc, bất lực trước những thế lực và sức
mạnh cản trở sự phát triển của dân tộc, đất nước mình.
Nelson Mandela, cố tổng thống Nam Phi đã có câu nói rất nổi tiếng:
“Hủy diệt một quốc gia không cần bom nguyên tử hay tên lửa tầm xa. Chỉ
cần hạ thấp chất lượng giáo dục và dung túng gian lận thi cử. Bệnh nhân
mất mạng chỉ vì thầy thuốc học từ đó mà ra. Nhà sập chỉ vì kỹ sư học từ đó
mà ra. Tiền của mất sạch chỉ vì nhà kinh tế, nhà kế tốn học từ đó mà ra.
Nhân tính mất hẳn chỉ vì những nhà tơn giáo học từ đó mà ra. Cơng lý cũng
khơng cịn chỉ vì quan tịa học từ đó mà ra. Thất bại của nền giáo dục là sự
suy vong của một quốc gia”.
Trên cơ sở nhận thức chung về vai trò đặc biệt của giáo dục và đào tạo
đối với sự phát triển bền ông đất nước, Đại hội XII của Đảng đã nêu rõ:
“Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Giáo dục góp phần
nâng cao dân trí ở mọi quốc gia, dân tộc. Trong nền kinh tế tri thức hiện nay,
tri thức là sản phẩm của giáo dục và đào tạo, đồng thời là tài sản quý giá nhất
của con người và xã hội. Sở hữu tri thức trở thành sở hữu quan trọng nhất
được các nước thừa nhận và bảo hộ. Nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội ở
mỗi quốc gia, dân tộc từ tài nguyên, sức lao động cơ bắp là chính chuyển
sang nguồn lực con người có tri thức là cơ bản nhất.
Giáo dục và đào tạo góp phần bảo vệ chế độ chính trị của mỗi quốc
gia, dân tộc bởi giáo dục - đào tạo góp phần xây dựng đội ngũ lao động có
trình độ cao làm giàu của cải vật chất cho xã hội đồng thời có bản lĩnh chính
trị vững vàng, đủ sức đề kháng chống lại các cuộc “xâm lăng văn hóa” trong
chính q trình hội nhập quốc tế và toàn cầu.
5



Giáo dục - đào tạo cung cấp nguồn nhân lực có trình độ góp phần phát
triển kinh tế của mỗi quốc gia. Việt Nam đang tiến hành phổ cập giáo dục
trung học cơ sở, trình độ lao động phổ thơng cịn thấp, ít được đào tạo nghề,
vẫn cịn khoảng gần 60% lao động nông nghiệp, nên hiện mới bước đầu xây
dựng kinh tế tri thức. Giáo dục - đào tạo nhằm phát huy năng lực nội sinh
“đi tắt, đón đầu” rút ngắn thời gian cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Vai trò của giáo dục và đào tạo được thể hiện rõ trong quan điểm của
Đảng ở các kì đại hội. Tại Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII) đã khẳng
định: “Phát triển giáo dục và đào tạo là nền tảng, động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế, xã hội trong giai đoạn đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
hiện nay”. Tiếp đó, Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ X cũng nhấn mạnh: giáo
dục và đào tạo là một trong những động lực thúc đẩy sự nghiệp cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ
bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Cương lĩnh
xây dựng và phát triển đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) tiếp tục khẳng định: giáo dục và đào tạo có sứ
mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp
phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hoá và con người Việt
Nam. Trong chiến lược phát triển kinh tế, xã hội giai đoạn 2011-2020 được
thông qua tại Đại hội XI, vai trò của giáo dục và đào tạo lại được làm rõ:
giáo dục và đào tạo cần tập trung vào việc phát triển nhanh nguồn nhân lực,
nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Đến Nghị quyết Trung ương 8 (khoá
XI) tiếp tục khẳng định: giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự
nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư
cho phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát
triển kinh tế, xã hội.
Xuyên suốt các kì Đại hội, Đảng ta luôn coi giáo dục và đào tạo là yếu
tố quyết định sự phát triển của đất nước, là phương tiện chủ yếu để quyết

định chất lượng con người, là nền tảng của chiến lược con người. Từ thực
tiễn phát triển của các nền kinh tế tiên tiến trên thế giới đang trong quá trình
thực hiện bước chuyển tiếp trình độ phát triển từ kinh tế cơng nghiệp sang
hậu công nghiệp và kinh tế tri thức. Những thành tựu của cách mạng khoa
học - công nghệ hiện đại đã biến tri thức thành yếu tố quan trọng bên trong
quá trình sản xuất và quyết định sự phát triển của nền kinh tế. Trong bối cảnh
đó, giáo dục đã trở thành nhân tố quyết định nhất đối với sự phát triển kinh
tế, xã hội.
Phân tích tư tưởng chỉ đạo phát triển giáo dục và đào tạo trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
6


Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống thơng minh và hiếu học, truyền
thống đó đã tạo nên những nét đẹp của nền văn hiến Việt Nam và được nhân
lên trong thời đại mới với sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa
năm 1945. Những thành tựu của nền giáo dục Việt Nam trên nửa thế kỷ qua
là hết sức to lớn, là cơ sở là điều kiện để thực hiện thành cơng sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong bối cảnh hiện nay, giáo dục ngày càng có vị trí, vai trị đặc biệt
quan trọng, là nhân tố quyết định tương lai của dân tộc. Chính vì vậy, Đảng
ta đã khẳng định: cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là
quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài. Đây là chính sách lớn, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong quá trình xây dựng
đất nước, điều này đã khẳng định vị trí, vai trị của cơng tác giáo dục đối với
sự phát triển con người, của mỗi quốc gia cũng như toàn nhân loại. Giáo dục
là tiền đề quan trọng bậc nhất để giữ gìn, bảo tồn và phát triển văn hóa, văn
minh, cuộc sống của loài người. Sự phát triển, tiến bộ của xã hội phụ thuộc
rất lớn vào giáo dục. Có giáo dục, con người lĩnh hội được những giá trị tốt
đẹp, nhân văn, những kiến thức, kinh nghiệm qúy báu từ xa xưa truyền lại.

Nhờ giáo dục mà mỗi cá nhân, cộng đồng ngày càng hoàn thiện hơn...
Trong những thập kỷ qua, Đảng và Nhà nước đã đặt sự nghiệp giáo
dục đúng với tầm và đòi hỏi của thực tiễn, do vậy sự nghiệp giáo dục đã có
nhiều khởi sắc: chất lượng, quy mô giáo dục ngày càng được nâng cao. Giáo
dục Việt Nam đã khẳng định được “thương hiệu” của mình qua các kỳ thi
Olympic trong khu vực và trên thế giới, qua các cơng trình nghiên cứu khoa
học, qua trính độ tay nghề của nguồn nhân lực... Tất cả những thành tựu to
lớn của giáo dục đã góp phần đẩy nhanh “cỗ xe kinh tế” Việt Nam đi đến bến
bờ thắng lợi. Tuy nhiên trước những thách thức của bối cảnh quốc tế và sự
đòi hỏi ngày càng cao của công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt để
thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giáo dục nước ta
đang đứng trước những nhiệm vụ hết sức nặng nề. Vì vậy mà giáo dục phải
khơng ngừng “làm mới” và hồn thiện chính mình.
Quan điểm phát triển giáo dục và dào tạo Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 8 khóa XI “Về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng
u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” xác định bảy quan điểm phát
triển giáo dục và đào tạo giai đoạn tới:
Thứ nhất, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu.
Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng,
Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo đục và đào tạo là đầu tư phát
7


triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội.
Thứ hai, đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo
Đổi mới căn bản, toàn điện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn
đề lớn, cất lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội
dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi

mới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, hoạt động quản trị của các
cơ sở giáo dục - đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội,
bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học.
Trong quá trình đổi mới, cần kế thừa, phát huy những thành tựu, phát
triển những nhân tố mới, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế
giới; kiên quyết chấn chỉnh những nhận thức, việc làm lệch lạc.
Đổi mới phải bảo đảm tính hệ thống, tầm nhìn đài hạn, phù hợp với
từng loại đối tượng và cấp học; các giải pháp phải đồng bộ, khả thi, có trọng
tâm, trọng điểm, lộ trình, bước đi phù hợp.
Thứ ba, chuyển từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn
diện năng lực và phẩm chất người học.
Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến
thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi
với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục
gia đình và giáo dục xã hội.
Thứ tư, gắn giáo dục và đào tạo với nhu cầu phát triển kinh tế - xã
hội và bảo vệ Tổ quốc.
Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế
- xã hội và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ; phù hợp quy
luật khách quan. Chuyển phát triển giáo dục và đào tạo từ chủ yếu theo số
lượng sang chú trọng chất lượng và hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu số
lượng.
Thứ năm, tiếp tục thực hiện và đổi mới phương thức liên thông.
Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thơng giữa
các bậc học, trình độ, giữa các phương thức giáo dục và đào tạo. Chuẩn hóa,
hiện đại hóa giáo dục và đào tạo.
Thứ sáu, chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của
cơ chế thị trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phát triển hài hịa, hỗ trợ giữa giáo dục cơng lập và ngồi cơng lập,

giữa các vùng, miền. Ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo đối với
các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng
sâu, vùng xa và các đối tượng chính sách. Thực hiện dân chủ hóa, xã hội hóa
giáo dục và đào tạo.
8


Thứ bảy, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế về giáo dục và đào
tạo.
Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào
tạo, đồng thời giáo đục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để
phát triển đất nước.
Đồng chí cần làm gì để góp phần xây dựng văn hoá, con người Việt Nam
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững:
Gần 90 năm hình thành và phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam dù
trong bất cứ hoàn cảnh nào, cũng đều quan tâm đến vấn đề văn hóa, vấn đề
con người.
Bước vào sự nghiệp đổi mới hôm nay, đất nước ta đã thực sự bước
sang thời kỳ lịch sử mới. Đó là thời kỳ tiến hành cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, thời kỳ hội
nhập quốc tế. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã
hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh. Việc xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng
yêu cầu phát triển bền vững đất nước hướng đến phát triển toàn diện thấm
nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học là vô cùng cần thiết.
Với trách nhiệm của mình tơi thấy: Văn hóa là nền tảng tinh thần của
xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải
được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. Xây dựng và phát triển
văn hóa là sự nghiệp của tồn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân

dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trị quan trọng. Để góp
phần xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững đất nước chúng ta cần phải thực hiện đồng thời các
nhiệm vụ sau:
Xây dựng và phát huy lối sống “Mỗi người vì mọi người, mọi người vì
mỗi người”; hình thành lối sống có ý thức tự trọng, tự chủ, sống và làm việc
theo Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ mơi trường; kết hợp hài hịa tính tích
cực cá nhân và tính tích cực xã hội; đề cao trách nhiệm cá nhân đối với bản
thân, gia đình và xã hội. Khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực,
cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn.
Tăng cường giáo dục nghệ thuật, nâng cao năng lực cảm thụ thẩm mỹ
cho nhân dân, đặc biệt là thanh niên, thiếu niên. Phát huy vai trò của văn học
- nghệ thuật trong việc bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm của con người. Bảo đảm
quyền hưởng thụ và sáng tạo văn hóa của mỗi người dân và của cộng đồng.
Nâng cao thể lực, tầm vóc con người Việt Nam, gắn giáo dục thể chất với
giáo dục tri thức, đạo đức, kỹ năng sống, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
9


Đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống
các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền
văn hóa, làm tha hóa con người. Có giải pháp khắc phục những mặt hạn chế
của con người Việt Nam.
Mỗi địa phương, cộng đồng, cơ quan, đơn vị, tổ chức phải là một mơi
trường văn hóa lành mạnh, góp phần giáo dục, rèn luyện con người về nhân
cách, lối sống. Gắn kết xây dựng mơi trường văn hóa với bảo vệ môi trường
sinh thái. Đưa nội dung giáo dục đạo đức con người, đạo đức công dân vào
các hoạt động giáo dục của xã hội.
Gắn các hoạt động văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội. Coi con

người thực sự là trung tâm trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, bảo
đảm quốc phòng, an ninh, với chương trình xây dựng nơng thơn mới, đơ thị
văn minh. Từng bước thu hẹp khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa các vùng
miền, giữa các giai tầng xã hội, giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng
và miền núi, vùng sâu, vùng xa. Xây dựng, hồn thiện đi đơi với nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động của các thiết chế văn hóa. Tạo điều kiện để
nhân dân chủ động tổ chức các hoạt động văn hóa cộng đồng.
Huy động sức mạnh của toàn xã hội nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị
văn hóa truyền thống, khích lệ sáng tạo các giá trị văn hóa mới, tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại, làm giàu văn hóa dân tộc.
Phát triển văn hóa nhằm khai thác và phát huy những tiềm năng và giá
trị đặc sắc của văn hóa Việt Nam. Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật, đi
đơi với giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt; tạo mọi điều kiện cho sự tìm tịi,
sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ để có nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và
nghệ thuật phản ảnh chân thật, sinh động, sâu sắc đời sống, lịch sử dân tộc và
công cuộc đổi mới đất nước.
Chủ động mở rộng hợp tác văn hóa với các nước, thực hiện đa dạng
các hình thức văn hóa đối ngoại, đưa các quan hệ quốc tế về văn hóa đi vào
chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực; tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế
giới, làm phong phú thêm văn hóa dân tộc.
Xây dựng và phát triển văn hóa, con người là sự nghiệp trọng đại
nhưng cũng rất khó khăn. Khó khăn đầu tiên và chủ yếu nhất là ở khâu nhận
thức. Điều này đã được khẳng định khi Nghị quyết Trung ương 9 đã chỉ ra
những nguyên nhân dẫn đến những yếu kém trong quá trình triển khai: “Chủ
yếu là do nhiều cấp ủy, chính quyền chưa quan tâm đầy đủ lĩnh vực này;
lãnh đạo, chỉ đạo chưa thật quyết liệt...”. Để khắc phục sự yếu kém đó,
chúng ta phải coi văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của
xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Sự phát triển văn hóa và con người sẽ tạo nên mọi sức mạnh

vật chất và tinh thần để bảo vệ Tổ quốc, xây dựng và phát triển đất nước.
Cha ông ta thường dạy: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Nguyên
khí thịnh thì thế nước mạnh rồi lên cao. Ngun khí suy thì thế nước yếu rồi
10


xuống thấp”. Vì vậy phải coi xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một bộ phận quan trọng của sự nghiệp
cách mạng xã hội chủ nghĩa của nước ta, địi hỏi ý chí cách mạng kiên định,
trình độ chí tuệ và tính tự giác cao. Mỗi cán bộ, Đảng viên nêu cao vai trò
gương mẫu của người cộng sản, động viên, tổ chức nhân dân thực hiện thắng
lợi Nghị quyết, làm theo lời Bác Hồ “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội,
trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”.
Câu 3: Phân tích vị trí, vai trị của đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Đảng viên là chiến sỹ cách mạng trong đội quân tiên phong của giai
cấp công nhân Việt Nam, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.
- Đội ngũ đảng viên là những người có trách nhiệm góp phần xây
dựng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; đồng thời có trách nhiệm
tổ chức thực hiện mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng.
- Đảng viên dù ở cương vị nào, cũng vừa là người lãnh đạo, vừa là
người phục vụ quần chúng.
- Đảng viên là người kiên định bảo vệ Đảng, bảo vệ đường lối, chủ
trương của Đảng.
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam được thông qua tại Đại hội XI của
Đảng khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp
công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc
Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và của dân tộc”. Người đảng viên ĐCS VN có vị trí và vai trị rất quan
trọng là chiến sỹ, người xây dựng, người lãnh đạo và là người phục vụ. Cụ
thể vị trí, vai trị của người đảng viên như sau:

Đảng viên là chiến sĩ cách mạng trong đội quân tiên phong của giai
cấp công nhân Việt Nam, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam,
phấn đấu vì lợi ích của giai cấp. Tồn bộ sức mạnh, năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng đều được tạo thành từ từng người đảng viên.
Đảng viên là người tiên tiến nhất trong nhân dân lao động và của dân
tộc. Đảng viên đặt lợi ích của giai cấp và dân tộc lên trên hết, trước hết.
Đảng viên là người tiên phong, gương mẫu trước quần chúng nhân dân.
Đội ngũ đảng viên là những người có trách nhiệm góp phần xây dựng
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; đồng thời có trách nhiệm tổ
chức thực hiện mọi đường lối, chủ trương, chính sách đó.
Mỗi đảng viên của Đảng đều có trách nhiệm trong việc xây dựng
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Đảng viên phải nêu cao vai trò
tiên phong gương mẫu trong việc chấp hành các chủ trương, chính sách của
11


Đảng và pháp luật của Nhà nước, làm tấm gương tốt cho quần chúng noi
theo. Đảng viên dù ở cương vị nào cũng vừa là người lãnh đạo, vừa là người
phục vụ quần chúng. Đảng viên là người lãnh đạo, giác ngộ lý tưởng của
Đảng, đem tư tưởng, đường lối, chủ trương, chính sách và pháp luật tuyên
truyền cho quần chúng
Đảng viên là người đầy tớ của nhân dân, “Mỗi người đảng viên, mỗi
người cán bộ từ trên xuống dưới đều phải được hiểu rằng; mình vào Đảng để
làm đầy tớ cho nhân dân.
Là Đảng viên luôn luôn đứng vững trên lập trường, quan điểm của
Đảng để lãnh đạo, giáo dục quần chúng, nâng cao trình độ của quần chúng.
Mỗi đảng viên đều phải bảo vệ tính vững chắc, tính kiên định, tính trong
sạch của Đảng và phải cố gắng làm cho danh hiệu và ý nghĩa của đảng viên
ngày càng cao hơn lên mãi.
Đảng viên là người kiên định bảo vệ Đảng, bảo vệ đường lối, chủ

trương của Đảng. Trong cuộc đấu tranh chống các thế lực thù địch, đặc biệt
chống chiến lược “diễn biến hịa bình” hiện nay, giữ vững và tăng cường vai
trò lãnh đạo của Đảng là yếu tố có tính chất quyết định thắng lợi của cách
mạng Việt Nam. Thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới
đã khẳng định tính đúng đắn của đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng
và lãnh đạo.
Nhiệm vụ thực hiện công tác dân vận của đảng viên:
Trong quá trình tìm đường cứu nước, giải pháp dân tộc, Chủ tịch Hồ
Chí Minh luôn đặc biệt quan tâm Đến công tác dân vận. Trong bài “Dân
vận”, lần đầu tiên đăng trên báo Sự thật, số ra ngày 15/10/1949, Chủ tịch Hồ
Chí Minh viết “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người
dân khơng để sót một người dân nào, góp phần thành lực lượng tồn dân, để
thực hiện những công việc nên làm, những công việc không nên làm, những
cơng việc Chính phủ và Đồn thể đã giao cho”, “Dân vận kém thì việc gì
cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành cơng”, hay câu nói khác của
Bác“Khó trăm lần khơng dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
Vì vậy, cơng tác dân vận rất quan trọng, là một nhiệm vụ chính trị của
Đảng và cả hệ thống chính trị; Cơng tác Dân vận khơng chỉ là vận động nhân
dân thực hiện các đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, mà cịn phải tìm mọi các cách giải thích cho dân hiểu, dân tin việc
làm đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm. Tuyên
truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục mọi người dân thực hiện đúng chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Dân vận
cịn có nghĩa là làm gương trước dân. Mục tiêu cao nhất của công tác dân
12


vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh chính là vì dân. Do đó, mọi hành động của
chúng ta phải vì dân và mang lại hiệu quả thiết thực cho dân. Thực hiện tốt
công tác dân vận nhằm phát huy được sức mạnh đại đồn kết tồn dân, góp

phần quan trọng vào việc xây dựng và củng cố hệ thống chính trị, xây dựng
Đảng, chính quyền ngày càng vững mạnh. Sức mạnh của một cộng đồng
được tạo nên bởi các thành viên trong cộng đồng đó bảo vệ, giúp đỡ, tương
trợ, tôn trọng lẫn nhau, tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển; các thành viên
hy sinh lợi ích riêng vì lợi ích chung hoặc chấp nhận, tơn trọng lợi ích riêng
của các thành viên khác, không để ảnh hưởng đến lợi ích chung.
Trong q trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn luôn xác
định phát huy sức mạnh toàn dân tộc là nguồn lực chủ yếu để đấu tranh giành
độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại hội VI của Đảng xác định:
trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân
làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao
động”. Đại hội VIII khẳng định: “Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng
kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng.
Cũng do nhân dân hưởng ứng đường lối đổi mới, dũng cảm phấn đấu, vượt
qua biết bao khó khăn, thử thách mà cơng cuộc đổi mới đạt được những
thành tựu hôm nay”. Đại hội IX của Đảng một lẩn nữa nhấn mạnh: “Động
lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên
minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài
hồ các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn
lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội”. Đại hội X nhấn mạnh
nhiệm vụ phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đưa vấn đề phát huy sức mạnh
toàn dân tộc là một trong bốn thành tố của chủ đề Đại hội; coi đó là “nguồn
sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố quyết định bảo đảm thắng lợi bền
vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” trong giai đoạn mới. Tiếp
tục đường lối được xác định trong các đại hội trước, Đại hội XI khẳng định:
“Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hịa quan hệ
lợi ích giữa các thành viên trong xã hội. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là
cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đồn kết tồn dân tộc. Các cấp uỷ
đảng và chính quyền phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp
thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc của nhân dân; tin dân, tơn

trọng những người có ý kiến khác; làm tốt cơng tác dân vận, có cơ chế, pháp
luật để nhân dân bày tỏ chính kiến, nguyện vọng và thực hiện quyền làm chủ
của mình”
Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: “Mặt trận
Tổ quốc Việc Nam, các đồn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự
13


nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đại diện, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân...”. Đại hội XII nhấn
mạnh yêu cầu trong giai đoạn cách mạng hiện nay là phải “tạo sinh lực mới
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”.
Quan điểm phát huy sức mạnh toàn dân tộc của Đảng ta qua các kỳ đại
hội được thể hiện qua các nội dung sau:
Một là, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc Đại đoàn kết toàn
dân tộc dựa trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối chiến lược của
cách mạng Việt Nam; là động lực và nguồn sức mạnh to lớn, là nhân tố có ý
nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây đựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Hai là, đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống
chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng, được thực hiện bằng
nhiều biện pháp, hình thức, trong đó các chủ trương của Đảng và chính sách,
pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Ba là, vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc bắt đầu từ sự đặt đúng vị trí của
yếu tố lợi ích, theo quan điểm được xác định từ Nghị quyết Trung ương 8B
khóa VI là: “Động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích
thiết thực của nhân dân và kết hợp hài hoà các lợi ích, thống nhất quyền lợi
và nghĩa vụ cơng dân”.
Bốn là, thực hiện dân chủ và phát huy chủ nghĩa yêu nước là những

yếu tố quan trọng để củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Chủ nghĩa yêu nước luôn luôn là động lực lớn nhất của dân tộc ta trong quá
trình lịch sử. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng.
Để xứng đáng với danh hiệu đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam bản
thân tơi nhận thấy:
- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thốt khỏi nghèo nàn lạc
hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hồ bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Có ý thức tập thể, đồn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực,
nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý
thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
14


- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo,
năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chun mơn,
trình độ thẩm mỹ và thể lực.

15



×