Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

CƠ sở lý LUẬN về QUẢN lý HOẠT ĐỘNG dạy học môn TOÁN THEO HƯỚNG TÍCH hợp ở các TRƯỜNG TRUNG học cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.92 KB, 47 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
DẠY HỌC MƠN TỐN THEO HƯỚNG TÍCH HỢP
Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Tổng quan tình hình nghiên cứu về hoạt động dạy
học THCS và quản lý hoạt động dạy học THCS ở nước
ngoài và ở trong nước.
Vấn đề hoạt động dạy học và quản lý hoạt động dạy
học mơn Tốn ở ngồi nước.
Như chúng ta đã biết tốn học có nguồn gốc xuất phát
từ thực tiễn. Số học ra đời trước hết do nhu cầu đếm. Hình
học phát sinh do việc cần thiết phải đo lại ruộng đất bên bờ
sông Nin (Ai cập) sau những trận lụt hàng năm. Khi nói đến
nguồn gốc thực tiễn của Toán học cũng cần nhấn mạnh cả
về nguồn gốc thực tiễn của chính các quy luật của logic
hình thức được sử dụng trong tốn học. Lênin viết: “Những
hình thức và quy luật logic không phải là cái vỏ trống rỗng
mà là sự phản ánh thế giới khách quan, thực tiễn của con
người, được lặp đi lặp lại hàng nghìn triệu lần, sẽ được củng


cố vào ý thức người ta dưới những hình thức của logic
học”.
Theo Ăng ghen, “Đối tượng của Toán học thuần túy là
những hình dạng khơng gian và những quan hệ số lượng
của thế giới khách quan” [11].
Trong hoạt động dạy học mơn Tốn cần có những mơ
hình học tập sẽ giúp các học sinh tiếp thu bài học nhanh
hơn, theo V.A.Stoff (Stoff 1966) thì mơ hình học Tốn nhất
thiết phải có ba đặc trưng cơ bản; tính đơn giản (đơn giản
về mặt tri giác), tính đẳng cấu (mơ hình phản ánh đúng một


cách đẳng cấu những thuộc tính nhất định nào đó của đối
tượng nghiên cứu mà những thuộc tính ấy là đối tượng nhận
thức của học sinh), tính khác với nguyên bản (để trong dạy
học dễ dàng đạt được mục đích đề ra).
Các nhà nghiên cứu giáo dục Nga đã khẳng định rằng:
“Kết quả toàn bộ hoạt động quản lý của nhà trường phụ
thuộc rất nhiều vào việc tổ chức đúng đắn và hợp lý hoạt
động giảng dạy của đội ngũ giáo viên” [10]. P.V.Zimin,
M.I.Konđakôp, N.I.Saxerđôtôp đi sâu nghiên cứu việc lãnh
đạo trong công tác giảng dạy, giáo dục ở nhà trường và xem
đây là khâu then chốt trong hoạt động quản lý của người


Hiệu trưởng. V.A.Xukhomlinxki, Jaxapob nêu ra một số vấn
đề quản lý của Hiệu trưởng trường phổ thông như sự phân
công nhiệm vụ giữa Phó Hiệu trưởng và Hiệu trưởng. Các
tác giả thống nhất khẳng định người Hiệu trưởng phải là
người lãnh đạo tồn diện và chịu trách nhiệm chính trong
cơng tác quản lý nhà trường. Về việc tổ chức dự giờ và phân
tích sư phạm bài giảng, tác giả V.A.Xukhomlinxki nhấn
mạnh hoạt động dự giờ thăm lớp và đưa ra nhiều cách phân
tích sư phạm bài dạy cho giáo viên. Ơng cho rằng đó là địn
bẩy nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên.
Khổng Tử (551-479 trước công nguyên) với quan
điểm dạy học gắn liền với PPDH mơn Tốn hiện nay là:
“Dùng cách gợi mở, đi từ gần tới xa, từ đơn giản đến phức
tạp, nhưng vẫn địi hỏi người học phải tích cực suy nghĩ.
Địi hỏi học trị phải tập luyện, phải hình thành nề nếp, thói
quen học tập” và “học khơng biết chán, dạy khơng biết mỏi”
[12]. Theo ông muốn mang lại hiệu quả trong dạy học thì

phải đề cao đến các quy định về nề nếp dạy học, bên cạnh
đó cần nâng cao trình độ của người dạy, lựa chọn được
những phương pháp dạy học theo hướng đề cao năng lực tự
học, tự phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của
người học.


Vấn đề hoạt động dạy học, quản lý hoạt động dạy học
mơn Tốn ở trong nước
Ngồi hoạt động dạy học mơn Tốn được tổ chức trên
lớp học cịn có thể tổ chức những hoạt động thực hành Tốn
ngồi nhà trường như ở đồng ruộng, nhà máy, công xưởng, kể
cả những hoạt động có tính chất tập dượt nghiên cứu bao gồm
cả các khâu thu thập và xử lí dữ liệu, xử lí mơ hình để tìm lời
giải, xây dựng mơ hình, đối chiếu lời giải với thực tế để kiểm
tra và điều chỉnh.
Đề cập đến phương tiện trực quan trong hoạt động dạy
học mơn Tốn: “Phương tiện trực quan tượng trưng là một
hệ thống kí hiệu quy ước nhằm biểu diễn tính chất muốn
nghiên cứu tách rời khỏi tất cả các tính chất khác của đối
tượng và hiện tượng”.
Trong cơng tác bồi dưỡng học sinh giỏi mơn Tốn, tác
giả Phạm Văn Hoàn cho rằng cần tạo lập cho học sinh tác
phong, phương pháp nghiên cứu và thói quen tự đọc sách.
Theo tác giả Phạm Văn Hồn, trong cơng tác dạy học,
phụ đạo học sinh yếu kém mơn Tốn, thầy giáo nên coi
trọng tính vững chắc của kiến thức, kĩ năng. Không nên
chạy theo mục tiêu đề cao, mở rộng kiến thức.



Tài liệu “Những khái niệm cơ bản về quản lý giáo
dục” của tác giả Nguyễn Ngọc Quang; Tài liệu “Cơ sở của
khoa học quản lý giáo dục” của tác giả Nguyễn Minh Đạo;
tài liệu “Quản lý, quản lý giáo dục tiếp cận từ những mơ
hình” của tác giả Đặng Quốc Bảo là những tài liệu mà trong
đó trình bày về khái niệm quản lý, quản lý giáo dục và quản
lý giáo dục được tiếp cận từ những mơ hình.
Tài liệu “Khơi dậy tiềm năng sáng tạo” của GS.TS.
Nguyễn Cảnh Toàn có đề cập đến việc dạy học tính sáng tạo
cho HS thơng qua mơn Tốn. Nghiên cứu về quản lý nhà
trường nói chung và quản lý hoạt động dạy học nói riêng có
các tác giả như: Nguyễn Ngọc Quang, Phạm Viết Vượng,
Nguyễn Văn Lê, Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt…
Các cơng trình khoa học nói trên với tầm vóc và qui
mô về giá trị lý luận, thực tiễn đã và đang được ứng dụng
rộng rãi và mang lại hiệu quả nhất định trong phát triển sự
nghiệp giáo dục. Song, phần lớn các cơng trình trên chủ yếu
đi sâu vào nghiên cứu về lý luận có tính chất tổng quan về
quản lý giáo dục, quản lý trường học, vấn đề quản lý hoạt
động dạy học mơn Tốn ở trường THCS chưa được đề cập
nhiều.


Trước yêu cầu bức xúc của thực tiễn ở các trường THCS
là đổi mới công tác quản lý hoạt động dạy học, trong đó có
quản lý hoạt động dạy học mơn Tốn, nhiều học viên cao học
quản lý giáo dục đi vào nghiên cứu thực trạng quản lý hoạt
động dạy học ở các trường THCS, THPT, đồng thời đề xuất
những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả trong
công tác quản lý hoạt động dạy học chẳng hạn như các Luận

văn thạc sỹ chuyên ngành quản lý giáo dục của các tác giả:
Triệu Thứ Hiệp với đề tài “Quản lý hoạt động dạy học ở các
trường THCS trên địa bàn huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc”
(2013),Vũ Văn Dương với đề tài “Biện pháp quản lý hoạt
động dạy học tại trường THCS Thái Thịnh, Hà Nội theo
chuẩn kiến thức, kỹ năng” (2012), Đỗ Thị Mai Hương với đề
tài “Quản lý hoạt động dạy - học ở trường THCS Quài Cang Huyện Tuần Giáo - Tỉnh Điện Biên trong giai đoạn hiện nay”
(2015), Nguyễn Văn Nguyên với đề tài “Quản lý hoạt động
dạy học ở các trường THCS huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc
đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục” (2013), Phạm Trung Kiên
với đề tài “Quản lý hoạt động dạy học mơn Sinh học theo
hướng tích hợp ở Trường trung học phổ thơng chun Thái
Bình” (2015), ... .


Từ các cơng trình nghiên cứu kể trên, chúng tơi nhận
thấy chưa có cơng trình nào nghiên cứu sâu về thực trạng
quản lý hoạt động dạy học mơn Tốn theo hướng tích hợp ở
các trường THCS huyện Mỹ Đức, Thành phố Hà Nội.
Một số khái niệm cơ bản của đề tài
Hoạt động dạy học
Hoạt động
Theo từ điển Tiếng Việt - Hoàng Phê (1996), hoạt
động là việc làm (làm một việc) cụ thể nhằm một mục đích
nhất định. Hành động là kết quả của hoạt động tư duy.
Hành động là tiến hành những việc làm có quan hệ với
nhau chặt chẽ nhằm một mục đích nhất định trong đời sống
xã hội; Hành động là thực hiện một chức năng nhất định
trong một chỉnh thể; là vận động, cử động nhằm một mục
đích nhất định. Hoạt động là tồn bộ hành vi của một sinh

thể.
Theo Triết học, “ hoạt động là quá trình diễn ra giữa con
người với giới tự nhiên, một q trình trong đó bằng hoạt
động của chính mình, con người làm trung gian, điều tiết và
kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên”.


Con người sống luôn luôn hoạt động. Hoạt động là
phương thức tồn tại, đồng thời cũng là con đường hình
thành và phát triển nhân cách. Theo Tâm lý học, cuộc sống
con người là một dòng hoạt động, con người là chủ thể của
các hoạt động thay thế nhau. Đó là q trình chuyển hóa
năng lực lao động cùng các phẩm chất tâm lý khác của bản
thân thành sự vật và thành thực tế. Quá trình ngược lại là
quá trình tách những thuộc tính của sự vật, của thực tế quay
trở về với chủ thể, biến thành vốn liếng tinh thần của chủ
thể.
Tóm lại, chúng ta có thể hiểu: Hoạt động của con
người là quá trình tác động qua lại giữa con người và thế
giới xung quanh để tạo ra sản phẩm cả về phía thế giới và
cả về phía con người.
Trong q trình tác động qua lại đó, có hai quá trình
diễn ra đồng thời, thống nhất và bổ sung cho nhau:
Quá trình thứ nhất là chủ thể chuyển năng lực của
mình thành sản phẩm hoạt động và tâm lí của con người
được bộc lộ, được khách quan hóa trong quá trình làm ra
sản phẩm. Quá trình này được gọi là q trình đối tượng
hóa (q trình xuất tâm).



Quá trình thứ hai là chủ thể chuyển nội dung khách thể
(quy luật bản chất của sự vật) vào bản thân của mình tạo nên
tâm lí, ý thức, nhân cách của bản thân và con người chiếm
lĩnh (lĩnh hội) thế giới. Quá trình này là quá trình hình thành
tâm lý ở chủ thể cịn gọi là q trình chủ thể hóa (q trình
nhập tâm).
Tóm lại, trong hoạt động con người vừa tạo ra sản
phẩm về phía thế giới, vừa tạo ra tâm lý của chính mình.
Như vậy, tâm lý của con người chỉ có thể được bộc lộ, hình
thành trong hoạt động và thông qua hoạt động.
Hoạt động dạy học là một trong những hoạt động giao
tiếp mang ý nghĩa xã hội – chủ thể của quá trình dạy là giáo
viên và chủ thể của hoạt động học là học sinh, tiến hành các
hoạt động khác nhau nhƣng không phải là những hoạt động
đối lập nhau mà song song tồn tại, phát triển trong cùng một
quá trình thống nhất, cùng hướng tới một mục đích.
Hoạt động dạy của thày là truyền thụ tri thức, tổ chức
chỉ đạo, điều khiển, hướng dẫn hoạt động chiếm lĩnh tri
thức của học sinh.
Hoạt động học của học sinh là hoạt động nhận thức
dưới tác động của người dạy, hoạt động học thực sự có ý


nghĩa khi nó là hoạt động tự giác, tích cực với sự nỗ lực của
học sinh.
Dạy và học là hai hoạt động có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau. Kết quả học tập của học sinh không chỉ là kết quả
của việc học mà còn là kết quả của hoạt động dạy. Không
thể tách rời kết quả học tập của trò trong việc đánh giá kết
quả dạy của thầy.

Hoạt động dạy học
Hoạt động dạy học là hoạt động được thực hiện theo
một chương trình đã được thiết kếm sẵn, tác động đến
người học với mục đích hướng tới việc hình thành và phát
triển năng lực và phẩm chất của người học. Giáo viên (GV)
xây dựng và thiết kế hoạt động dạy học càng chi tiết, càng
đầy đủ và cụ thể bao nhiêu thì cơng việc dạy học càng hiệu
quả bấy nhiêu. Bởi mọi GV đều mong muốn đạt được thành
công và hiệu quả trong các giờ dạy nên họ thường bỏ qua
việc xây dựng chiến lược hoạt động một cách lơgic và khoa
học, có định hướng. Khi nói về hoạt động dạy học của GV,
thông thường người ta dễ nghĩ đến sự hồn chỉnh có tính
đơn phương của nó. Từ đó, xây dựng những “quy tắc vàng”
bắt buộc mỗi giáo viên phải tuân thủ một cách đầy đủ,


nghiêm ngặt. Thực tế này dẫn đến tình trạng, trong khá
nhiều giờ học trở nên nhàm chán, sa vào việc truyền thụ tri
thức một chiều, chưa hoặc không đáp ứng được nhu cầu cá
nhân người học. Thực chất, những “quy tắc vàng” trong dạy
học phải đảm bảo tính tương tác giữa thầy và trò. Ý kiến
của Davydov: “Các hoạt động dạy- học là các hoạt động
cùng nhau của thầy và trò” đã chỉ ra sự tương tác trong hoạt
động dạy học mang tính đặc thù.
Nói là đặc thù vì: một là, hoạt động dạy học nằm trong
chuỗi các hoạt động của con người nhưng đó là hoạt động
nghề nghiệp, khơng phải là hoạt động của mọi người.
Người hoạt động dạy học phải có tiêu chuẩn và năng lực
nghề nghiệp mới có thể tham gia được hoạt động này.
Thứ hai, hoạt động dạy học là hoạt động tương tác.

Giáo viên tác động vào học sinh, dẫn đến học sinh phát
triển. Giáo viên căn cứ vào sự thay đổi ở học sinh để điều
chỉnh hoạt động dạy học của mình. Từ đó cho thấy, sự
tương tác trong hoạt động dạy học không phải là sự tương
tác giữa các cá nhân hay nhóm xã hội với nhau như trong
hoạt động chính trị, kinh tế, hay các hoạt động xã hội khác.
Trong khi đó, hoạt động dạy học là “hoạt động cùng nhau
của thầy giáo và học sinh”. Thầy và trò cùng hướng đến


một mục tiêu. Năng lực của hoạt động dạy của người thầy
và năng lực học của học sinh được thể hiện ở các mức độ
đạt được của mục tiêu chương trình giáo dục đề ra. Chính vì
vậy, hoạt động dạy có kết quả khi nó tác động cùng hướng
với hoạt động học. Hoạt động dạy học có tính tương tác ở
chỗ, nó phải bắt nhịp cùng người học, là người tham gia
hoạt động học cả về trí tuệ và tình cảm.
Thứ ba, hoạt động dạy học nhìn từ góc độ hoạt động
của người thầy trong tương tác với họat động học của học
sinh là hướng dẫn, tổ chức và điều khiển hoạt động học của
HS. Trong cuốn Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm,
các tác giả đã định nghĩa: “Hoạt động dạy là hoạt động của
người lớn tổ chức điều khiển hoạt động của trẻ nhằm giúp
chúng lĩnh hội nền văn hóa xã hội, tạo ra sự phát triển tâm
lý, hình thành nhân cách của chúng” [13]
Tóm lại, trong hoạt động dạy học, hoạt động của giáo
viên là một khâu quan trọng. Nói rõ hơn về hoạt động của
giáo viên trong hoạt động dạy học, 2 tác giả Nguyễn Minh
Thuyết và Hồng Hịa Bình trong cơng trình Phương pháp
dạy học tiếng Việt nhìn từ tiểu học, khi đề cập phương pháp

tổ chức hoạt động trong dạy học đã xác định rõ hoạt động


của GV là “hệ thống các hành động” (7) nhằm tổ chức hoạt
động cho HS.
Hoạt động dạy học được xem xét trong tương quan
giữa hoạt động của người thầy - người lớn, và “hoạt động
của học sinh” - người học. Trong tương quan giữa hoạt
động của người dạy và hoạt động của người học, hoạt động
dạy học của người thầy hướng về mục tiêu của hoạt động
dạy học: “… hoạt động dạy và học là nhằm hình thành và
phát triển nhân cách ở người học” (8). Định nghĩa của nhóm
các tác giả Lê Văn Hồng, Nguyễn Văn Thành, Lê Ngọc
Lan, đã chú trọng đến khâu tổ chức và điều khiển của giáo
viên trong hoạt động dạy học: “Hoạt động dạy là hoạt động
của người lớn tổ chức điều khiển hoạt động của trẻ”.
Lí luận giáo dục hiện đại đã chỉ ra tính đặc thù của
hoạt động dạy học. Hoạt động dạy học chính là hoạt động
tương tác. Thầy và trị là những chủ thể cùng nhau hoạt
động, duy trì, tiếp nối hoạt động. Đối tượng của hoạt động
học tập là lĩnh hội các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo. Xem xét
hoạt động của thầy đều có liên quan đến hoạt động của trị
và ngược lại. Nhìn từ góc độ tính chủ thể của hoạt động sư
phạm, để hoạt động dạy của GV và hoạt động học của HS
được tiến hành thì khơng thể thiếu vai trị của chủ thể. Mục


tiêu của hoạt động dạy học là hình thành và phát triển nhân
cách, năng lực của người học. Trong hoạt động dạy học, chủ
thể hoạt động là người dạy (giáo viên) và người học (học

sinh). Người học là chủ thể của hoạt động học, người dạy là
chủ thể của hoạt động dạy. Chính vì hoạt động dạy và học
có chung mục tiêu cho nên hoạt động dạy và học luôn
tương tác trong mối quan hệ “cung - cầu”, “nhân - quả”...
Khơng thể nói đơn giản thầy hay trị đóng vai trò “chủ
động” hay “thụ động”. Hoạt động dạy học của GV mang ý
nghĩa là phương tiện, là công cụ hỗ trợ thúc đẩy hoạt động
học của HS đúng hướng và hiệu quả. Đã là hoạt động thì
tính chủ động là thuộc tính của cả hai bên. Thầy tích cực,
chủ động trong hoạt động dạy và trị tích cực, chủ động
tham gia hoạt động học. “Năng lực người giáo viên là khả
năng thực hiện các hoạt động dạy học với chất lượng cao”
[16].
Hoạt động học tập:
Khi nói đến hoạt động học cần làm rõ khái niệm học
và khái niệm hoạt động học. Trong cuộc sống đời thường
con người ln ln có q trình tích tiếp thu, tích luỹ
những kinh nghiệm sống và trên cơ sở đó tạo nên những tri
thức tiền khoa học, đồng thời làm cơ sở tiếp thu những khái


niệm khoa học ở trong nhà trường. Đó chính là việc học.
Việc học là cách học theo phương pháp của cuộc sống
thường ngày, giống như con người khi sinh ra đến khi chết
học ăn học nói học gói học mở, đi một ngày đàng học một
sàng khôn…Trên thực tế, chỉ có phương thức đặc thù (các
nhà trường) mới có khả năng tổ chức để cá nhân tiến hành
hoạt động đặc biệt đó là hoạt động học, từ đó hình thành ở
cá nhân những tri thức khoa học, năng lực mới phù hợp với
đòi hỏi của thực tiễn; hoạt động học là khái niệm chính

được dùng để chỉ hoạt động học diễn theo phương thức đặc
thù, nhằm chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng, kĩ xảo trong tâm lý
học sư phạm.
Bản chất của hoạt động học: Hoạt động học tập là hoạt
động chuyên hướng vào sự tái tạo lại tri thức ở người học.
Sự thuận lợi cho người học ở đây đó là con đường đi mà để
phát hiện lại đã được các nhà khoa học tìm hiểu trước, giờ
người học chỉ việc tái tạo lại. Sự tái tạo ở đây hiểu theo
nghĩa là phát hiện lại. Và để tái tạo lại, người học khơng có
cách gì khác đó là phải huy động nội lực của chính bản thân
(động cơ, ý chí, sự quyết tâm…), càng phát huy cao bao
nhiêu thì việc tái tạo lại càng diễn ra tốt bấy nhiêu. Vì vậy,
hoạt động học làm thay đổi chính người học. Người nào học


thì người đó phát triển, khơng ai học thay thế được, người
học cần phải có trách nhiệm với chính bản thân trong quá
trình học.
Hoạt động học là hoạt động tiếp thu những tri thức lý
luận, khoa học. Tức là việc học không chỉ dừng lại ở việc
nắm bắt những khái niệm đời thường mà học tập phải tiến
đến những lĩnh hội những tri thức khoa học, những tri thức
có tính chọn lựa cao, đã được khái quát hoá, hệ thống hố.
Hoạt động học tập ngồi việc hướng vào tiếp thu những
tri thức, kĩ năng, kĩ xảo còn hướng vào việc tiếp thu cả những
tri thức của chính bản thân hoạt động học. Muốn hoạt động
học đạt kết quả cao, người học phải biết cách học, phương
pháp học, nghĩa là phải có những tri thức về chính bản thân
hoạt động học.
Hoạt động học là hoạt động chủ đạo của lứa tuổi học

sinh. Vì vậy nó giữ vai trị chủ đạo trong việc hình thành và
phát triển tâm lý của người học trong lứa tuổi này.
Đối tượng của hoạt động học: Nếu xem chủ thể của
hoạt động học là người học thì đối tượng của hoạt động học
muốn hướng tới đó là tri thức. Song, tri thức mà học sinh
phải học được lựa chọn từ những khoa học khác nhau, theo


những nguyên tắc nhất định nào đó, làm thành những môn
học tương ứng, và được cụ thể ở những đơn vị cấu thành
như: khái niệm, kĩ năng, thái độ… Đối tượng của hoạt động
học có liên quan chặt chẽ với đối tượng của khoa học.
Nhưng có sự khác nhau về nguyên tắc giữa hoạt động học
và hoạt động nghiên cứu khoa học. Có thể nói: đối tưởng
của hoạt động học là cái mới với cá nhân nhưng không mới
đối với nhân loại. Hoạt động học là hoạt động tái tạo lại
những tri thức đã có từ trước ở người học, cịn hoạt động
nghiên cứu khoa học đó là phát hiện những chân lý khoa
học mà loài người chưa biết đến.
Hoạt động giảng dạy
Hoạt động giảng dạy là quá trình tự tổ chức và điều
khiển tối ưu sự chiếm lĩnh khoa học; bằng cách đó phát
triển nhân cách, hình thành cấu trúc tâm lý. Vai trò chủ thể
của HS trong hoạt động học tập thể hiện
Mối quan hệ giữa dạy và học
Hoạt động dạy và học luôn tồn tại song song, phát
triển trong cùng một quá trình thống nhất, quan hệ biện
chứng, đồng thời thúc đẩy lẫn nhau nhằm kích thích động
lực bên trong của mỗi thành tố để cùng phát triển.



Quản lý hoạt động giảng dạy cần quan tâm đúng mức
mối quan hệ biện chứng giữa dạy và học, mà trong đó hoạt
động giảng dạy có vai trị chủ đạo và hoạt động học tập có
vai trị chủ động.
Quản lý hoạt động dạy học
Quản lý
Quản lý:
Khoa học quản lý xuất hiện cùng với sự phát triển của xã hội loài
người. Nó là phạm trù tồn tại khách quan, được ra đời một cách tất yếu
do nhu cầu của mọi chế độ xã hội, mọi tổ chức, mọi Quốc gia, mọi thời
đại. Lao động quản lý là một lĩnh vực lao động trí tuệ và thực tiễn phức
tạp nhất của con người nhằm điều khiển lao động thúc đẩy xã hội phát
triển trên tất cả các bình diện, khoa học quản lý gắn liền với tiến trình
phát triển của xã hội lồi người, mang tính lịch sử, giai cấp, dân tộc, thời
đại. Quản lý là một khoa học sử dụng tri thức của nhiều môn khoa học xã
hội, đồng thời quản lý cịn là một nghệ thuật địi hỏi sự khơn khéo và tinh
tế cao độ để đạt được mục đích. Chính vì vậy người ta có thể tiếp nhận
khái niệm quản lý theo nhiều cách khác nhau. Theo C.Mác, quản lý là
chức năng được sinh ra từ tính chất xã hội hóa lao động. Quản lý có tầm
quan trọng đặc biệt vì mọi sự phát triển của xã hội đều thông qua quản lý.
Người viết: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào
tiến hành trên quy mơ tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ
đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện như chức năng
chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự
vận động của những khí quản độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm
tự điều khiển lấy mình, cịn dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng” [15].


Ngày nay, thuật ngữ quản lý đã trở nên khá phổ biến nhưng có nhiều

quan điểm khác nhau với những góc độ khác nhau phụ thuộc vào cái nhìn
chủ quan và tính mục đích của hoạt động. Chúng ta có thể điểm qua một số
khái niệm:
Theo F.W.Taylo (1856 - 1915) “Quản lý là biết được chính xác
điều mình muốn người khác làm và sau đó biết được họ làm việc đó có
tốt hay khơng, có rẻ nhất khơng” [26].
Henri Fayol (1841 - 1925) xuất phát từ các loại hình quản lý cho
rằng: “Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận
dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo và kiểm
tra” [26].
Các nhà nghiên cứu người Mỹ Harold Koontz, Cyril O’Donnell,
Heinz Weihrich trong cuốn “Những vấn đề cốt yếu trong quản lý” thì cho
rằng “Quản lý là một loại hoạt động thiết yếu nhằm đảm bảo sự phối
hợp, nỗ lực của các nhân hướng vào mục tiêu tổ chức - Đó là hình thành
một mơi trường có những điều kiện tốt nhất, thời gian ít nhất, cơng sức
bỏ ra ít nhất, sự bất mãn cá nhân ít nhất để đạt hiệu quả cao nhất” [26] .
Theo Mary Parker Follett (Mỹ): “Quản lý là nghệ thuật khiến
công việc được thực hiện thông qua người khác”, “…Trong quản lý cần
chú trọng tới
những người lao động với toàn bộ đời sống của họ, cả yếu tố kinh
tế lẫn yếu tố tinh thần và tình cảm …” .
Theo M.I.Kondakop “Quản lý xã hội một cách khoa học khơng
phải cái gì khác mà chính là việc tác động một cách hợp lý đến hệ thống
xã hội, việc làm cho hệ thống đó phù hợp với quy luật vốn có của nó” .
Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu cũng có những định nghĩa khác
nhau về thuật ngữ “Quản lý” tùy theo cách tiếp cận khác nhau:


Theo tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc: “Hoạt
động quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản

lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) - trong
một tổ chức - nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích
của tổ chức” [16].
Thuật ngữ “quản lý” (tiếng Việt gốc Hán) đã lột tả được bản chất
của hoạt động này trong thực tiễn. Quản lý bao gồm hai q trình tích
hợp vào nhau, q trình “quản” gồm coi sóc, giữ gìn, duy trì ở trạng thái
“ổn định”, quá trình “lý” gồm sự sửa sang, sắp xếp, đổi mới, đưa tổ chức
vào thế “phát triển”. Nếu người đứng đầu trong một tổ chức chỉ lấy việc
“quản” làm chính thì tổ chức dễ bị trì trệ, ngược lại nếu chỉ quan tâm đến
“lý” thì sự phát triển của tổ chức khơng bền vững. Vì vậy, người quản lý
phải luôn xác định và phối hợp tốt, sao cho trong trạng thái của hệ thống
mình quản lý ln ln ở trạng thái cân bằng động.
Như vậy, từ cách tiếp cận trên ta thấy khái niệm quản lý bao hàm
một số ý nghĩa chung: Quản lý là quá trình hoạt động lao động có mục
đích để điều khiển lao động. Có sự tương tác giữa chủ thể quản lý và
khách thể quản lý. Liên quan tới môi trường xác định.
Từ các dấu hiệu chung đó, có thể khái quát như sau: Quản lý là
một hoạt động nhằm thực hiện những tác động hướng đích của chủ thể
quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả những tiềm năng, các cơ hội của tổ
chức nhằm đạt đến mục tiêu của tổ chức đặt ra trong một môi trường
luôn luôn thay đổi.
Quản lý hoạt động dạy học
Hiệu trưởng chỉ đạo hoạt động giảng dạy của GV thông qua ba
hướng:


Một là chỉ đạo trực tiếp; hai là thông qua việc chỉ đạo hoạt động tổ
chuyên môn; ba là phối hợp với các tổ chức chức năng trong nhà trường.
Hiệu trưởng chỉ đạo trực tiếp hoạt động dạy của GV
Biện pháp quản lý chung

Thống nhất với phó hiệu trưởng phụ trách chuyên môn triển khai
thực hiện kế hoạch chuyên môn.
Họp Hội đồng giáo dục đầu năm học: giao nhiệm vụ cho GV, phổ
biến những nội quy, quy định về chuyên mơn trong đó nêu rõ u cầu
của dạy học theo định hướng phát triển năng lực HS.
Những quy định chuyên mơn phải được GV nắm vững, Hiệu
trưởng và phó Hiệu trưởng chỉ đạo các tổ trưởng chuyên môn theo dõi
nhắc nhở việc thực hiện của GV:
Có kế hoạch kiểm tra thường xuyên việc GV thực hiện các quy
định
Xây dựng những biểu mẫu báo cáo, thống kê về tình hình giảng
dạy.
Hiệu trưởng xây dựng một số hồ sơ để quản lý chuyên môn.
Các văn bản pháp quy về dạy học và thực hiện chương trình.
Quản lý GV thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể sau:
Quản lý GV thực hiện chương trình dạy học. Hiệu trưởng hoặc
phó hiệu trưởng chun mơn tiếp thu sự chỉ đạo về chuyên môn của Sở
Giáo dục
và Đào tạo vào đầu năm học.
Họp Hội đồng nhà trường triển khai những nội dung chỉ đạo về
việc thực hiện chương trình trong năm học.
Giao nhiệm vụ cho Phó hiệu trưởng phụ trách chun mơn về
quản lý chương trình, thực hiện chương trình, điều chỉnh theo dõi việc
giảng dạy, dạy thay của GV…


Hiệu trưởng quản lý công tác chuẩn bị giờ lên lớp của GV.
Việc chuẩn bị giờ dạy trên lớp quyết định đến chất lượng giờ dạy
trên lớp và chất lượng quá trình dạy học. Việc GV tự chuẩn bị cho các giờ
lên lớp là việc quan trọng nhất trong quy trình lao động sư phạm và là một

khâu lao động trí óc độc lập. Quản lý việc chuẩn bị giờ lên lớp là một hoạt
động quản lý cần thiết để nâng cao hiệu quả của việc dạy và học. Để giúp
GV chuẩn bị giờ dạy tốt, hiệu trưởng phải kịp thời đáp ứng những yêu cầu
của GV về: sách giáo khoa, sách hướng dẫn giảng dạy, trang thiết bị đồ
dùng thiết bị dạy học…
Biện pháp quản lý:
Hướng dẫn GV lập kế hoạch soạn bài.
Phổ biến những yêu cầu của việc chuẩn bị bài giảng.
Quy định chất lượng của một bài soạn đối với từng loại bài.
Tổ chức bồi dưỡng cho GV về đổi mới PPDH và ứng dụng công
nghệ thông tin trong dạy học.
Có kế hoạch mua sắm đồ dùng dạy học, tài liệu tham khảo, các
phương tiện kỹ thuật, thiết bị dạy học phục vụ giảng dạy theo hướng
phát triển năng lực HS cho GV.
Thường xuyên kiểm tra công tác chuẩn bị bài dạy của GV.
Hiệu trưởng quản lý giờ dạy trên lớp của GV
Giờ học là yếu tố quan trọng cơ bản có tính chất quyết định kết
quả đào tạo giáo dục của nhà trường. Do vậy trong mỗi giờ học thể hiện
được yêu cầu về phát triển năng lực HS. Trước hết, giờ học mang tính
bắt buộc đối với mọi HS, trên cơ sở chương trình do Bộ Giáo dục - Đào
tạo ban hành, giờ học chiếm phần lớn thời gian của quá trình đào tạo.
Hoạt động dạy học được thể hiện chủ yếu bằng hình thức dạy học trên
lớp với những giờ lên lớp và hệ thống bài học.
Biện pháp quản lý giờ dạy trên lớp của GV.


Hiệu trưởng cần có những biện pháp để GV lên lớp có hiệu quả,
mặt khác hiệu trưởng cùng với bộ phận giúp việc tìm các biện pháp tác
động trực tiếp đến giờ lên lớp của GV. Đó là tư tưởng chỉ đạo hành động
quản lý giờ lên lớp của người hiệu trưởng. Để nâng cao chất lượng giờ

dạy trên lớp của giáo viên, người hiệu trưởng cần thực hiện một số biện
pháp cơ bản sau:
Một là, Xây dựng tiêu chuẩn giờ lên lớp. Chuẩn này trước hết là cơ
sở để GV tự đánh giá kết quả cơng việc của mình mà phần lớn khơng có
người chứng kiến ngồi HS tham gia lớp học, nhưng ý nghĩa và tác dụng
đối với sự tiến bộ nghề nghiệp, đối với chất lượng dạy học là rất lớn. Chuẩn
này cũng có thể dùng để hiệu trưởng đánh giá việc giảng dạy của GV.
Chuẩn giờ lên lớp cũng là một quyết định quản lý của hiệu trưởng, nó gắn
liền với thực tế trình độ của GV trong từng giai đoạn, chính vì vậy cần thấy
rõ sự vận động của các tiêu chuẩn và làm cho nó càng chính xác hơn nữa.
Đối với dạy học phát triển năng lực khi xây dựng tiêu chuẩn giờ lên lớp cần
xác định rõ và đúng mục tiêu phát triển năng lực và khảo sát cũng cần khảo
sát năng lực đạt được sau tiết học.
Hai là, Tổ chức việc dự giờ và phân tích đánh giá giờ dạy của GV.
Quản lý hoạt động dạy học thông qua việc dự giờ GV và phân tích sư
phạm giờ dạy để trên cơ sở đó đề ra những quyết định quản lý hợp lý
nhằm thúc đẩy mọi hoạt động chuyên môn của nhà trường đó là chức
năng trung tâm của hiệu trưởng, đây cũng là nét đặc thù của quản lý
trường học. Quan điểm chỉ đạo đối với việc quản lý giờ dạy trên lớp tác
động trực tiếp được vào giờ dạy trên lớp càng tốt, do đó dự giờ dạy của
GV là biện pháp trực tiếp nhất và quan trọng nhất trong các biện pháp
quản lý giờ lên lớp. Xukhômlinxky đã viết: “ Kinh nghiệm khẳng định
rằng việc dự giờ và phân tích các bài học là cơng việc quan trọng nhất
của người hiệu trưởng, rất nhiều điều phụ thuộc vào trình độ khoa học,


năng lực của hiệu trưởng, sự phong phú trí tuệ trong đời sống của tập thể
sư phạm, nghệ thuật nghiệp vụ của nhà giáo dục, tính nhiều mặt trong
nhu cầu và hứng thú của học sinh” [9].
Hiệu trưởng quản lý việc GV tổ chức kiểm tra, đánh giá kết quả

học tập của HS. Trong quá trình dạy học, việc tổ chức kiểm tra và đánh
giá kết quả học tập của HS là một khâu quan trọng với mục tiêu xác định
thành tích học tập và mức độ chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, năng lực, thái
độ học tập của HS, nó vừa đóng vai trị bánh lái vừa giữ vai trị động lực
của dạy học. Tức là nó có tác dụng định hướng, thúc đẩy mạnh mẽ hoạt
động dạy học và hoạt động quản lý hoạt động dạy học theo hướng phát
triển năng lực HS.
Biện pháp quản lý của hiệu trưởng
Nâng cao nhận thức của GV về ý nghĩa tầm quan trọng, chức năng
và các yêu cầu sư phạm của việc tổ chức kiểm tra, đánh giá kết quả học
tập của HS theo hướng phát triển năng lực.
Tổ chức cho GV học tập nắm vững quy định về kiểm tra, đánh giá,
xếp loại học lực của HS theo đúng các văn bản hướng dẫn.
Tổ chức thi, kiểm tra đúng quy chế.
Quy định giáo viên chấm bài, trả bài đúng thời hạn, có nhận xét
chung cho cả lớp và nhận xét riêng cho từng bài kiểm tra, khi trả bài cần
yêu cầu HS tự sửa lỗi trong bài kiểm tra.
Quy định GV thực hiện đúng việc ghi, sửa chữa điểm trong sổ điểm,
chế độ bảo quản, lưu trữ sổ điểm lớp, việc ghi điểm, ghi nhận xét vào học
bạ của HS.
Hiệu trưởng chỉ đạo hoạt động tổ chun mơn
TCM là hình thức tổ chức nghề nghiệp đã có từ lâu trong nhà
trường. Đây là đơn vị cơ sở trực tiếp nhất với các hoạt động của GV.
TCM là một tổ chức trong nhà trường, tập hợp các GV có cùng hoặc gần


chuyên môn giúp họ hành động theo định hướng chung. Hoạt động của
TCM là tạo điều kiện cho GV hoàn thành nhiệm vụ của mình trong quá
trình dạy học – giáo dục. Thông qua TCM, hiệu trưởng sẽ nắm được sâu
sát hoạt động của GV, đồng thời phát huy cao độ sự thống nhất giữa hiệu

trưởng với các thành viên trong tập thể nhà trường. Qua chỉ đạo TCM
hướng dẫn và chỉ đạo GV thực hiện và đạt được mục tiêu hoạt động dạy
tiêu theo hướng phát triển năng lực.
Một số biện pháp chỉ đạo hoạt động TCM
Quy định chế độ sinh hoạt chuyên môn hàng tháng. Căn cứ vào
yêu cầu trọng tâm trọng điểm của chương trình trong từng thời gian, căn
vào nội dung các hoạt động của TCM, hiệu trưởng chỉ đạo các tổ đi sâu
vào nội dung cụ thể cho phù hợp.
Hiệu trưởng chỉ đạo các tổ trưởng chuyên môn tổ chức các hoạt
động chuyên môn. Hàng tháng, thậm chí hàng tuần hiệu trưởng hoặc phó
hiệu trưởng họp các tổ trưởng chuyên môn, chỉ đạo các TCM thực hiện
kế hoạch chuyên môn của trường và kế hoạch của các TCM. Đồng thời
yêu cầu các tổ trưởng chuyên mơn báo cáo tình hình giảng dạy của GV
và tình hình học tập của HS trong phạm vi tổ quản lý.
Hiệu trưởng thường xuyên kiểm tra hoạt động của TCM nhằm
đảm bảo các TCM hoạt động đúng kế hoạch dạy học đạt mục tiêu dạy
học đề ra, đặc biệt chú ý tới các năng lực của học sinh.
Hiệu trưởng phối hợp với các tổ chức xã hội trong nhà trường để
quản lý hoạt động dạy của GV:
Phối hợp với Chi đồn GV là lực lượng nịng cốt trong tập thể sư
phạm trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của nhà trường. Phối hợp
với tổ chức Cơng đồn nhà trường động viên cán bộ giáo viên hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao, tham gia quản lý chuyên môn trong nhà
trường.


×