Tải bản đầy đủ (.docx) (181 trang)

luận án tiến sĩ nhân vật hoàng đế trong văn học trung đại việt nam từ thế kỉ x đến thế kỉ XV

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (766.46 KB, 181 trang )

BỘ

GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

TRỊNH HUỲNH AN

NHÂN VẬT HOÀNG ĐẾ TRONG VĂN HỌC
TRUNG ĐẠI VIỆT NAM TỪ THẾ KỈ X ĐẾN
THẾ KỈ XV

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

NGHỆ AN - 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

TRỊNH HUỲNH AN

NHÂN VẬT HOÀNG ĐẾ TRONG VĂN HỌC
TRUNG ĐẠI VIỆT NAM TỪ THẾ KỈ X ĐẾN
THẾ KỈ XV

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 9220121

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học:



GS.TS. Trần Nho Thìn
TS. Lê Thanh Nga

NGHỆ AN - 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tơi dưới
sự hướng dẫn của GS. TS Trần Nho Thìn và TS. Lê Thanh Nga. Những số liệu sử dụng
trong luận án là trung thực. Các kết quả rút ra từ cơng trình nghiên cứu chưa từng được
cơng bố. Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về cơng trình nghiên cứu này.
Nghệ An, ngày 25 tháng 5 năm 2021
Tác giả

Trịnh Huỳnh An


LỜI CẢM ƠN
Được sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của các nhà khoa học, tơi đã hồn thành
luận án. Tơi bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc của mình đến GS.TS Trần Nho Thìn - giảng
viên Trường Đại học KHXH & NV ĐHQG Hà Nội và TS. Lê Thanh Nga - giảng viên
trường Đại học Vinh.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các nhà khoa học thuộc bộ môn Văn
học Việt Nam, Viện Sư phạm xã hội, Phòng Đào tạo Sau Đại học Trường Đại học
Vinh, Trường Đại học Bình Dương cùng bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã giúp đỡ
tơi trong q trình hoàn thành luận án.
Xin trân trọng cảm ơn!
Nghệ An, ngày 25 tháng 5 năm 2021
Tác giả luận án


Trịnh Huỳnh An


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài.................................................................................................. 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................... 3
4. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................... 3
5. Đóng góp của luận án.......................................................................................... 5
6. Cấu trúc của luận án........................................................................................... 5
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT
CỦA ĐỀ TÀI................................................................................................................ 6
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu.....................................................................6
1.1.1. Nghiên cứu chung về nhân vật hoàng đế trong văn học từ thế kỉ X đến thế kỉ XV 6
1.1.2. Nghiên cứu về một số nhân vật hoàng đế tiêu biểu trong văn học từ thế kỉ X
đến thế kỉ XV.....................................................................................................9
1.2. Cơ sở lí thuyết của đề tài................................................................................ 16
1.2.1. Lý thuyết loại hình......................................................................................... 16
1.2.2. Lý thuyết về mối quan hệ giữa văn hoá – tư tưởng và văn học......................18
1.2.3. Lý thuyết liên văn bản.................................................................................... 19
1.2.4. Lý thuyết diễn ngôn........................................................................................ 21
Tiểu kết chương 1...................................................................................................... 23
Chương 2. CƠ SỞ HÌNH THÀNH NHÂN VẬT HỒNG ĐẾ TRONG VĂN HỌC
TRUNG ĐẠI VIỆT NAM TỪ THẾ KỈ X ĐẾN THẾ KỈ XV.................................24
2.1. Giới thuyết về nhân vật hoàng đế.................................................................. 24
2.1.1. Khái niệm nhân vật hoàng đế........................................................................ 24
2.1.2. Sự khác nhau giữa “Đế” và “Vương”........................................................... 26
2.1.3. Mơ hình hồng đế lý tưởng trong tư duy chính trị Việt Nam trung đại..........28

2.2. Những tiền đề của sự xuất hiện nhân vật hoàng đế trong văn học Việt Nam
từ thế kỉ X đến thế kỉ XV...................................................................................... 32
2.2.1. Tiền đề lịch sử, xã hội.................................................................................... 32
2.2.2. Tiền đề văn hố, chính trị.............................................................................. 35
2.2.3. Tiền đề văn học.............................................................................................. 38
2.3. Vị thế của nhân vật hoàng đế trong văn học trung đại Việt Nam...............43
2.3.1. Giai đoạn từ thế kỉ X đến thế kỉ XV................................................................ 43
2.3.2. Giai đoạn từ sau thế kỉ XV đến thế kỉ XIX..................................................... 44
Tiểu kết chương 2...................................................................................................... 46


Chương 3. ĐẶC ĐIỂM NHÂN VẬT HOÀNG ĐẾ TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI

VIỆT NAM TỪ THẾ KỈ X ĐẾN THẾ KỈ XV......................................................... 47
3.1. Nhân vật hoàng đế với tư cách là cái tơi tự biểu hiện.................................. 47
3.1.1. Nhân vật hồng đế - thiên tử trong ý thức chính trị....................................... 47
3.1.2. Nhân vật hoàng đế - thiền nhân trong những suy tư mang màu sắc tơn giáo 63
3.1.3. Nhân vật hồng đế - thi sĩ trong cảm quan thẩm mĩ......................................70
3.2. Nhân vật hoàng đế với tư cách khách thể phản ánh....................................79
3.2.1. Nhân vật hoàng đế “thập toàn” của đấng “chăn dân” trong cảm hứng ngợi ca
.........................................................................................................................................79

3.2.2. Nhân vật hoàng đế “bất toàn” trong cảm hứng phê phán, phúng gián.........92
Tiểu kết chương 3..................................................................................................... 107
Chương 4. PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN NHÂN VẬT HOÀNG ĐẾ TRONG VĂN HỌC

TRUNG ĐẠI VIỆT NAM TỪ THẾ KỈ X ĐẾN THẾ KỈ XV................................108
4.1. Sự thể hiện nhân vật hồng đế nhìn từ việc lựa chọn thể loại...................108
4.1.1. Thơ............................................................................................................... 108
4.1.2. Phú............................................................................................................... 114

4.1.3. Văn chính luận............................................................................................. 121
4.2. Sự thể hiện nhân vật hồng đế và những lựa chọn ngơn từ......................127
4.2.1. Hệ thống ngơn từ bộc lộ khẩu khí của đế vương.......................................... 127
4.2.2. Hệ thống ngôn từ thể hiện nhãn quan chính trị............................................ 129
4.2.3. Hệ thống ngơn từ thể hiện quan niệm thẩm mĩ............................................ 131
4.3. Sự vận dụng bút pháp.................................................................................. 135
4.3.1. Bút pháp sử ký............................................................................................. 135
4.3.2. Bút pháp trữ tình.......................................................................................... 142
4.3.3. Bút pháp khoa trương.................................................................................. 144
Tiểu kết chương 4..................................................................................................... 146
KẾT LUẬN............................................................................................................... 147
CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN. . .151
PHỤ LỤC 1.............................................................................................................. 165
PHỤ LỤC 2.............................................................................................................. 170


1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Sau hơn một ngàn năm Bắc thuộc, chiến thắng của Ngô Quyền trước quân
Nam Hán trên sông Bạch Đằng đã mở ra kỉ nguyên tự chủ cho dân tộc. Đất nước
bước vào thời kì xây dựng nền quân chủ chuyên chế tồn tại mười thế kỉ. Trên bình
diện chính trị - văn hóa - xã hội, Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV ở vào giai
đoạn đầu của chế độ qn chủ chun chế - mơ hình nhà nước mà ở đó hồng đế
(vua) đứng đầu triều đình, nắm quyền lực điều hành mọi phương diện của đất
nước, chi phối sâu sắc đến sự an nguy, thịnh suy, tồn vong của cả một chế độ, một
triều đại. Hoàng đế, theo đó cũng trở thành đối tượng phản ánh, thể hiện của văn
học. Nghiên cứu văn học giai đoạn đầu thời trung đại từ thế kỉ X đến thế kỉ XV, vì
thế khơng thể bỏ qua việc nghiên cứu về nhân vật hoàng đế.
1.2. Là một kiểu nhân vật văn học - văn hóa đặc biệt, nhân vật hồng đế hàm

chứa trong nó nhiều nội dung chính trị, xã hội, văn hóa, văn học rất cần được
nghiên cứu. Về đường lối chính trị, hồng đế tồn tại và hoạt động trong xã hội quân
chủ chuyên chế chủ yếu theo đức trị. Vậy kiểu hồng đế như thế đã có vai trị lịch
sử tích cực nào và có những hạn chế nào? Về mặt văn học, điều ngày nay cần quan
tâm là các lý tưởng của người xưa, trước hết của trí thức nho sĩ, về một bậc quân
vương đã được thể hiện như thế nào, bằng những phương tiện nghệ thuật gì, với
những thể loại văn học nào để vừa chuyển tải được những vấn đề đạo đức chính trị
của hồng đế mà lại vừa an toàn thân mệnh trong một kiểu xã hội mà một chữ viết
nhầm trong bài thi cũng có thể dẫn đến án tử? Thêm nữa, các hoàng đế thời trung
đại trực tiếp sáng tác văn chương không chỉ để khoe tài mà chủ yếu hướng đến
mục đích phục vụ chính trị. Họ dùng văn chương để khẳng định, bảo vệ tính chính
danh của triều đại, của bản thân ngơi vị hồng đế. Đây là một loại diễn ngơn quyền
lực độc đáo trong văn hóa chính trị thời trung đại. Câu hỏi đặt ra là mục đích sáng
tác văn chương đó đã được thực hiện bằng các phương tiện nghệ thuật nào, cũng
như các vấn đề của hồn cảnh sáng tác, cảm hứng, tư tưởng, mơi trường xướng
họa…
1.3. Thế giới nhân vật trong văn học trung đại Việt Nam rất phong phú, đa dạng.
Nổi bật trong văn học từ thế kỉ X đến thế kỉ XV là các loại hình nhân vật: thiền sư,
nho sĩ, hồng đế, liệt nữ. Tuy nhiên, khi tiến hành nghiên cứu nhân vật trong văn
học trung đại giai đoạn này, cho đến nay, phần lớn các cơng trình đều tìm hiểu các


2
nhân vật là nhà nho, thiền sư, liệt nữ. Chưa có cơng trình nghiên cứu nào có cái
nhìn bao qt và mang tính hệ thống về nhân vật hồng đế trong văn học trung đại
Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV. Vì thế vấn đề này vẫn cịn nhiều khía cạnh
mới, cần được quan tâm nghiên cứu.
1.4. Việc tìm hiểu ngọn nguồn, những đặc điểm của nhân vật hoàng đế, mối
quan hệ giữa nhân vật văn học này với bối cảnh lịch sử - xã hội đương thời… sẽ
góp phần mang đến những bài học kinh nghiệm trị quốc an dân đối với hệ thống

chính trị đương đại.
Những vấn đề nêu trên lý giải tính chất cấp thiết của đề tài luận án. Bên cạnh
việc nghiên cứu về hồng đế ở các góc độ: chính trị, qn sự, ngoại giao… thì việc
nghiên cứu hồng đế dưới góc độ văn học là việc làm cần thiết, vừa có ý nghĩa
khoa học vừa mang giá trị thực tiễn. Vì thế chúng tơi chọn nghiên cứu đề tài: Nhân
vật hồng đế trong văn học trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV.
2.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

2.1.

Đối tượng nghiên cứu
Như tên đề tài đã xác định, đối tượng nghiên cứu của luận án là nhân vật

hoàng đế trong văn học trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV.
2.2.

Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận án tập trung ở các sáng tác văn học giai đoạn từ

thế kỉ X đến thế kỉ XV có xuất hiện nhân vật hồng đế. Dĩ nhiên, chúng tôi cũng
nhận thức được rằng, luận án chưa hẳn đã tái hiện nhân vật này đến mức chân xác,
chi tiết tuyệt đối như đã được thể hiện trong các sáng tác văn học quá khứ, bởi văn
học giai đoạn này mặc dù đông đảo về lực lượng sáng tác, đồ sộ về số lượng tác
phẩm nhưng vì nhiều lí do mà khơng cịn được lưu trữ đầy đủ.
Tuy nhiên, những cơng trình biên tuyển văn học trung đại cũng có thể cung cấp
đủ tư liệu để thực hiện đề tài: Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam, Tổng tập văn
học Việt Nam (tập I – V), Nguyễn Trãi toàn tập, Tổng tập văn học Hán – Nơm, Thơ
văn Lí – Trần, và các tuyển tập: Tuyển thơ các vua Trần, Thơ văn Lê Thánh Tông,

Cổ tâm bách vịnh…
Khác với văn chương hiện đại, văn chương trung đại mang nặng tư duy nguyên
hợp với tinh thần văn – sử – triết bất phân. Một tác phẩm chức năng hành chính quan
phương có thể được viết bằng một một hình thức nghệ thuật đậm chất văn học như Dụ
chư tỳ tướng hịch văn, Bình Ngơ đại cáo; trong một bộ sử như Đại Việt sử ký toàn thư


3
cũng có thể tìm thấy những trang ghi chép có tính chất văn học; một ghi chép có tính
chất sử học như Lam Sơn thực lục cũng có những đoạn đậm chất văn chương. Tam tổ
thực lục tuy có tên gọi thể loại “thực lục” song không hề tương đồng với kiểu “thực
lục” của sử học mà có tính cách như một tập chân dung bằng văn học. Luận án, vì thế,
khơng chỉ nghiên cứu các thể loại thuần túy văn học mà cịn quan sát, phân tích các tài
liệu có tính ngun hợp: Đại Việt sử kí tồn thư, Tam tổ thực lục, Lam Sơn thực lục.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1.

Mục đích nghiên cứu
Mục đích chính của luận án là nghiên cứu, rút ra những khái quát về đặc

điểm nội dung và hình thức biểu hiện nhân vật hoàng đế trong văn học trung đại
Việt Nam giai đoạn này thế kỷ X đến thế kỷ XV. Qua đó, luận án cũng chỉ ra mối
quan hệ giữa văn học và chính trị thời trung đại - thời kì mà các nhà văn đồng thời
là những trí thức nhập thế, hành đạo (nhà nho) hoặc được triều đình coi là quốc sư
(nhiều vị thiền sư). Đồng thời, luận án phác họa một bức tranh các loại hình nhân
vật bên cạnh nhân vật hoàng đế.
3.2.


Nhiệm vụ nghiên cứu
Căn cứ mục đích nghiên cứu đã đề ra, luận án giải quyết những nhiệm vụ

nghiên cứu sau:
-

Trình bày một cách tổng quan về tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết

của đề tài.
-

Khảo sát và chỉ ra các cơ sở hình thành nhân vật hoàng đế trong văn học

trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV
-

Khảo sát và phân tích những đặc điểm nhân vật hồng đế trong văn học

trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV.
-

Khảo sát, phân tích và chỉ ra các phương thức thể hiện nhân vật hoàng đế

trong văn học trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV.
Cuối cùng rút ra kết luận về nhân vật hoàng đế trong văn học trung đại Việt
Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV và đề xuất một số vấn đề nghiên cứu có liên quan.
4.

Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện được nhiệm vụ đã đề ra của đề tài Nhân vật hoàng đế trong văn

học trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV, tác giả luận án vận dụng nhiều
phương pháp nghiên cứu khác nhau, trong đó chủ yếu là các phương pháp sau:


4
4.1. Phương pháp liên ngành: Để có thể lí giải được các vấn đề liên quan đến
nhân vật hoàng đế trong văn học từ thế kỉ X đến thế kỉ XV, luận án đã vận dụng tri
thức của các lĩnh vực khác như: văn hóa học, triết học, luật học, tâm lý học, ngôn ngữ
học... nhằm tham chiếu, soi rõ các nội dung được đề cập trong luận án.
4.2. Phương pháp lịch sử - xã hội: Đây là phương pháp nghiên cứu văn học quá
khứ, gồm quy luật hình thành, phát triển của các hiện tượng và quá trình văn học diễn
ra trong những điều kiện lịch sử – xã hội nhất định như tác phẩm, tác giả, thể loại, trào
lưu, các giai đoạn đã qua của nền văn học dân tộc. Phương pháp này giúp cho việc tái
hiện những nét chính về bối cảnh lịch sử – văn hóa – xã hội có ảnh hưởng đến việc
hình thành nhân vật hoàng đế. Đồng thời phương pháp này cũng giúp đưa ra những
kết luận về sự vận động và phát triển của nhân vật hoàng đế.

4.3. Phương pháp phân loại – thống kê: Phương pháp này vận dụng các thao
tác phân loại – thống kê, xác lập dữ liệu khoa học làm cơ sở để góp phần bổ sung
tính chặt chẽ của các luận điểm. Từ việc vận dụng phương pháp này, luận án đi đến
xác định những đặc điểm cơ bản của các kiểu tác gia tác phẩm, thể loại văn học thể
hiện nhân vật hồng đế qua góc nhìn tự biểu hiện và là đối tượng được phản ánh.
4.4. Phương pháp phân tích – tởng hợp: Phương pháp này được sử dụng để
phân tích các tác phẩm, các vấn đề, trên cơ sở đó, tổng hợp theo định hướng nghiên
cứu của luận án. Từ những tư liệu tổng hợp được, luận án tiến hành phân tích các
tác phẩm theo khung thể loại, theo nhóm tác giả, theo giai đoạn lịch sử… để làm
tiền đề so sánh, đối chiếu về sự vận động và phát triển hệ thống tư tưởng Nho –
Phật – Đạo gắn với sự biến đổi, vận động của mẫu hình nhân vật hồng đế. Luận

án phân tích khả năng giao thoa, chuyển hóa, tiếp nối và hỗn dung giữa các tư
tưởng trong cùng một loại hình tác gia hồng đế.
4.5. Phương pháp so sánh – loại hình: Phương pháp loại hình là phương
pháp nghiên cứu những sự việc, hiện tượng có chung những đặc trưng nào đó để có
thể khái qt và phân loại tìm ra quy luật của sự tương đồng. Trong nghiên cứu văn
học, để làm nổi bật bản chất của hiện tượng được đem ra so sánh, có thể so sánh
hiện tượng văn học đó với các hiện tượng cùng loại hoặc có thể so sánh với cả các
hiện tượng đối lập. Phương pháp này được dùng để đối chiếu, so sánh mẫu hình
hồng đế trong giai đoạn văn học này qua các loại hình tác giả tham gia viết về
hồng đế. Đồng thời, luận án bước đầu so sánh mẫu hình hoàng đế của giai đoạn
này với các giai đoạn sau trong văn học trung đại Việt Nam; so sánh mẫu


5
hình hồng đế Việt Nam và các nước Đơng Á nói chung, Trung Quốc nói riêng để
thấy được sự tương đồng và khác biệt.
4.6. Phương pháp cấu trúc – hệ thống: Phương pháp này được dùng để liên
kết, xâu chuỗi, hệ thống các vấn đề nghiên cứu trong tính thống nhất chỉnh thể. Nó
giúp luận án đưa ra những góc nhìn đa diện về nhân vật hồng đế một cách thống
nhất theo hệ thống.
5. Đóng góp của luận án
Luận án là một nỗ lực lần đầu tiên nghiên cứu không phải một nhân vật
hoàng đế của một triều đại xác định mà là kiểu loại hình nhân vật hồng đế trong
văn học một giai đoạn cụ thể.
Nỗ lực nghiên cứu đó được thực hiện qua thao tác hệ thống hóa tư liệu nghiên
cứu. Luận án đã rà lại hệ thống các sáng tác văn học thể hiện cái nhìn chủ quan, tự
thuật (cái nhìn từ bên trong) của các bậc hồng đế và cái nhìn khách quan (cái nhìn
từ bên ngồi) của giới trí thức thiền sư và nho gia về một bậc hồng đế lý tưởng.
Từ hai điểm nhìn với hai bộ phận sáng tác này, luận án góp phần phác họa hình
tượng nhân vật hồng đế, một loại nhân vật quan trọng bậc nhất của hệ thống chính

trị xã hội Việt Nam trung đại giai đoạn văn học thế kỷ X đến thế kỷ XV.
Luận án trình bày hệ thống các yếu tố, phương diện nghệ thuật liên quan đến
nhân vật hoàng đế, một hệ thống cho đến nay chưa được chú ý đúng mức.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung của luận án được
triển khai trong 4 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết của đề tài
Chương 2. Cơ sở hình thành nhân vật hoàng đế trong văn học trung đại Việt
Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV
Chương 3. Đặc điểm nhân vật hoàng đế trong văn học trung đại Việt Nam từ
thế kỉ X đến thế kỉ XV
Chương 4. Phương thức thể hiện nhân vật hoàng đế trong văn học trung đại
Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV


6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Nghiên cứu chung về nhân vật hoàng đế trong văn học từ thế kỉ X đến thế kỉ XV

Mặc dù đã có một số bài viết, luận án, luận văn nghiên cứu về nhân vật
hoàng đế trong văn học trung đại Việt Nam nhưng nhìn chung các cơng trình này
mới chỉ dừng lại ở mức đề cập sơ lược về mẫu hình hồng đế hoặc khảo sát một
nhân vật hồng đế trong một tác phẩm cụ thể. Các cơng trình nghiên cứu về nhân
vật hồng đế được tập trung vào các vấn đề sau:
Trong cơng trình Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung (in lần
đầu 1997), Trần Ngọc Vương đã có bài viết về “Mẫu hình hồng đế và con đường
tìm kiếm sự thể hiện bản ngã trong triết học và văn học khu vực Đông Á”. Ở bài

viết này, tác giả đã đi sâu tìm hiểu loại hình nhân vật hồng đế trong triết học và
văn học khu vực Đông Á. Theo tác giả: “Ý niệm đế – như là vị quân chủ độc nhất,
duy nhất và toàn quyền – đã xuất hiện từ rất sớm và có một q trình hồn thiện
lâu dài cả về lý thuyết lẫn thực tiễn” [215; 49]. Tác giả đã khái qt về nhân vật
hồng đế từ mẫu hình hồng đế Trung Hoa với mơ hình “tam vị nhất thể”: thiên
mệnh – thiên hạ – thiên tử. Với vị trí bất khả xâm phạm, hoàng đế đã tồn tại nhiều
thế kỉ, ở nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam: “Loại hình nhân cách hồng đế là
một loại hình nhân cách đặc biệt, có tác động vơ cùng to lớn chi phối lịch sử hình
thành và phát triển các loại hình nhân cách khác trong xã hội phương Đơng” [215;
53]. Hoàng đế là thiên tử: “Đã là thiên tử – hồng đế, kẻ duy nhất có mệnh (chân
mệnh đế vương), tức là kẻ duy nhất đươc Thiên phụ giao cho thay mặt mình cai trị
thiên hạ, thì có thể và phải thâu tóm mọi quyền lực vào tay” [215; 52]. Hồng đế
được trời trao cho thiên mệnh nhưng địi hỏi người nhận được mệnh trời phải là
người có đức: “Trời giao nước, về nguyên tắc cho người có đức, có đại đức, mà đại
đức là hiếu sinh, là biết thương xót chăm sóc ni dưỡng cho các sinh mệnh khác.
Bám vào nguyên lý đó, mà trong suốt lịch sử tồn tại của mình, Nho giáo ln nhắc
nhở đề cao, nhấn mạnh hay quyết liệt đòi hỏi người làm vua phải ln tự thể hiện
là người chí đức” [215; 53].


7
Trong bài viết này Trần Ngọc Vương còn đi đến phác họa lại cấu trúc lý
thuyết của mơ hình nhân cách hồng đế. Ơng cho rằng “Với một nhân cách nửa
trần gian, nửa thượng giới, hoàng đế – thiên tử khống chế và khống chế có hiệu
quả sự xuất hiện của bất kì một loại nhân cách độc lập nào” [215; 61]. Theo đó,
hồng đế là con trời và được sở hữu quyền lực tuyệt đối trong trị vì thiên hạ. Mỗi
hồng đế cần phải có các yếu tố: Chí hiếu, chí nhân, chí minh, chí thành chí kính.
Tuy chưa đề cập đến thi pháp khắc họa nhân vật hoàng đế trong văn học trung đại
Việt Nam nhưng bài viết này là một phần cơ sở lí luận để chúng tơi tham khảo
trong suốt q trình thực hiện đề tài luận án.

Trong cơng trình Văn học Việt Nam thế kỉ X – XIX – Những vấn đề lí luận
và lịch sử do Trần Ngọc Vương chủ biên (2006), Đỗ Lai Thuý với bài viết “Loại
hình các nhân vật trong lịch sử văn học Việt Nam thế kỉ X đến thế kỉ XIX” đã phân
ra ba loại hình nhân vật: Loại hình nhân vật mang tính vơ ngã, loại hình nhân vật
quân tử và loại hình nhân vật tài tử. Theo đó, tác giả nhận định hồng đế thuộc về
loại hình nhân vật quân tử: “Trong xã hội quân chủ Nho giáo, chí ít là ở Việt Nam,
nhà vua vẫn thuộc loại hình nhà nho, những dị biệt chỉ ở sắc thái nên không đáng
kể. Bởi lẽ, trước khi anh ta lên ngơi vua, trở thành hồng đế trị vì thì anh ta đã là
nhà nho rồi” [216; 474].
Lịch sử nghiên cứu về nhân vật hồng đế cịn ghi nhận những đánh giá,
nhận xét mang tính khái quát chung về một vương triều hay giai đoạn nhất định.


Con người nhân văn trong thơ ca Việt Nam sơ kì trung đại, Đồn Thị Thu Vân

(2007) đã nhận định: “Những đặc điểm nổi bật của giai đoạn sơ kì trung đại khơng
chỉ ở đường lối chính trị thân dân, sức mạnh đồn kết tồn dân và những thành tựu
rực rỡ có từ đó, mà cịn ở tinh thần rộng mở đặc biệt khó lặp lại ở đời
sau. Chưa có một sự phân chia đẳng cấp khắc nghiệt giữa vua quan, quý tộc và
“trăm họ”. Trong những lễ hội truyền thống, vua quan và thứ dân cùng tham gia
vui chơi” [197; 12 - 13]. Qua nhận định của tác giả có thể thấy được tinh thần thân
dân, trọng dân của các hoàng đế Đại Việt từ thế kỉ X đến thế kỉ XV mà “khó lặp lại
ở đời sau”.
Cơng trình nghiên cứu của Đồn Thị Thu Vân khơng đi tìm kiếm mẫu hình
nhân vật hoàng đế hoặc đưa ra những nhận định về đặc điểm của nhân vật này.


8
Tác giả chỉ hướng đến đối tượng là con người nhân văn trong văn học trung đại
Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV. Tuy nhiên, những con người nhân văn mà tác

giả khảo sát chính là các hoàng đế Đại Việt từ thế kỉ X đến thế kỉ XV. Khi nhận xét
về vẻ đẹp của sự điềm tĩnh và thông tuệ của các nhà cầm quyền trị nước thời Lý,
tác giả cho rằng: “Vô vi như một triết lí chính trị đơn giản mà ảo diệu, bài học
khơng chỉ cho một đời mà nhiều thế hệ. Đó là vẻ đẹp của con người trong hành xử
chính trị ở vị trí nắm giữ trọng trách quốc gia” [197; 20]. Về các hoàng đế triều
Trần, tác giả đánh giá: “Chinh chiến là việc không thể không làm, khi cần thiết bảo
vệ cõi bờ, lãnh thổ, dù người cầm vũ khí tha thiết u hồ bình. Vua quan, tướng
lĩnh và quân dân thời Trần đã làm như thế, dũng cảm, hết mình, khơng tiếc máu
xương” [197; 33]. Tác giả đánh giá cao tinh thần phản tỉnh của các hoàng đế triều
Trần: “Dưới thời phong kiến, những lỗi lầm của một vị hồng đế trong q trình
cầm quyền khơng phải là ít nhưng sự nhận ra và quan trọng hơn, dũng cảm thừa
nhận, ăn năn về những lỗi lầm đó lại khơng phải là nhiều, nếu muốn nói là rất
hiếm” [197; 36]. Thế mà các hoàng đế triều Trần đã làm được điều đó: “đặt lương
tâm con người lên trên lịng tự tôn và quyền lực của một vị quân vương để tự trói
mình trong nỗi đau suốt đời” [197; 36].
Trịnh Văn Định trong Tự do và quyền lực (2018) đã nhận xét: “thiết chế
chuyên chế mà đại diện hoàng đế là nhân vật có quyền uy tối thượng, chi phối toàn
xã hội ở dưới gầm trời, cả thế quyền và thần quyền” [43; 11].
Luận án tiến sĩ Hệ thống nhân vật và thi pháp thể hiện chúng trong văn học
trung đại Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ thứ X đến thế kỉ thứ XV (2014) của Nguyễn
Thị Giang cũng đã khái quát hệ thống nhân vật trong văn học trung đại Việt Nam
dưới góc nhìn thi pháp. Luận án đã hệ thống hoá ba loại nhân vật: Thiền sư, liệt nữ
và hồng đế. Trong đó, nhân vật hồng đế cũng đã được tác giả khai thác và đưa ra
những đặc điểm khái quát. Tuy nhiên về cơ bản, luận án chỉ khái quát đặc điểm
nhân vật hoàng đế qua những sáng tác của Lê Thánh Tơng.
Có thể nói việc nghiên cứu mẫu hình nhân vật hồng đế cịn nhiều mới mẻ.
Bởi phần lớn các hoàng đế đều được nghiên cứu dưới góc độ khảo cổ học, chính trị
học, văn hố học… mà chưa có cơng trình nghiên cứu nào có cái nhìn tổng thể về
nhân vật hồng đế dưới góc nhìn là một nhân vật văn học – nhân vật trữ tình.



9
1.1.2. Nghiên cứu về một số nhân vật hoàng đế tiêu biểu trong văn học từ thế kỉ
X đến thế kỉ XV
Cho đến nay vẫn thiếu những cơng trình nghiên cứu tổng thể và hệ thống về
nhân vật hoàng đế trong văn học Việt Nam giai đoạn từ thế kỷ X đến thế kỷ XV.
Các cơng trình chỉ đi vào nghiên cứu văn học Lý – Trần, Lê sơ hoặc phân tích
riêng rẽ một số hồng đế tiêu biểu. Có thể nói Trần Thái Tơng, Trần Nhân Tơng, Lê
Thánh Tơng là những trường hợp tiêu biểu cho mẫu hình hồng đế trong giai đoạn
từ thế kỉ X đến thế kỉ XV. Cuộc đời, sự nghiệp chính trị và sự nghiệp văn học của
các hoàng đế này đủ để tạo nên một mẫu hình nhân vật văn hố chính trị và văn
học. Ngồi sự nghiệp chính trị vẻ vang, những hồng đế này còn là tác giả của
nhiều áng văn chương đặc sắc. Văn chương của họ khơng chỉ có tính chức năng mà
còn giàu chất nghệ thuật. Người viết sẽ điểm qua sơ lược những cơng trình về ba
hồng đế tiêu biểu này.
Hồng đế Trần Thái Tơng: Đây là hồng đế đầu tiên của triều Trần. Có
nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan đến vị hoàng đế này nhưng phần lớn đều gắn
liền với cả giai đoạn văn học Lý – Trần. Quốc Chấn trong cơng trình Những vua
chúa Việt Nam hay chữ (2009) nhận xét: “Thái Tông đã không đi tu ở chùa, mà làm
vua cai trị cả một quốc gia để vừa học hành, nghiền ngẫm triết lí của đạo Phật, vừa
ứng dụng vào cuộc sống của bản thân và cuộc sống xã hội” [11; 16].
Các tác giả Lịch sử tư tưởng Việt Nam văn tuyển (tâp II) (2014) đánh giá về
Trần Thái Tơng: “Ơng đưa ra nhiều quan điểm mới về vai trò của Phật giáo, chức
năng của Nho giáo, tam giáo đồng nguyên. Đó là quan điểm thân dân, trách nhiệm
của bậc nhân quân, quan niệm về nghĩa và lý theo Nho giáo” [208; 10].
Bài viết “Kiểu tác gia Hoàng đế – Thiền sư – Thi sĩ Trần Thái Tơng” (2015)
của Nguyễn Hữu Sơn có nhiều góc độ liên quan đến đề tài luận án. Nguyễn Hữu
Sơn nhận định: “Hồng đế Trần Thái Tơng nằm trong mẫu hình tác gia hồng đế
phương Đơng, đặc biệt tương đồng với mẫu hình hồng đế vùng Đơng Á. Các bậc
hồng đế này có uy quyền tuyệt đối và thường sử dụng thi ca để nói chí và tun

truyền cho vương triều và vị thế của mình” [151]. Trên cơ sở khảo sát các tác phẩm
của Trần Thái Tông, Nguyễn Hữu Sơn coi Trần Thái Tông là người mở đầu cho
loại hình tác gia hồng đế – thiền sư – thi sĩ của triều Trần: “Mặc dù với số


10
lượng thơ viết về vị thế hoàng đế cũng như thơ thế sự thơng qua cách nhìn của bậc
hồng đế không nhiều song những dấu hiệu tư duy nghệ thuật đã nêu cũng đủ xác
định vị thế mẫu hình tác gia hồng Trần Thái Tơng – người mở đầu cho loại hình
tác gia hồng đế – thiền sư – thi sĩ triều Trần” [151]. Đưa ra những lập luận thuyết
phục trên cơ sở khảo sát các tác phẩm của Trần Thái Tơng, tác giả đã chỉ ra được
sự dung hồ giữa vương quyền và thần quyền của hoàng đế này: “Từ vị thế hồng
đế, Trần Thái Tơng đã mở rộng đường biên tư tưởng và đạt tới sự hòa hợp Nho –
Phật, dung hòa giữa đời sống thế tục vương quyền và tâm linh thần quyền” [151].
Tác giả đánh giá cao những sáng tác của Trần Thái Tông, cho rằng chúng không
phải là những tác phẩm chỉ dừng lại ở văn học chức năng: “Trần Thái Tông không
chỉ là một nhà tư tưởng nhân văn mà còn tiếp tục mở rộng cảm quan thẩm mỹ bằng
những sáng tạo thi ca và ngay cả phương tiện ngôn ngữ truyền giáo cũng đậm chất
thi ca. Mặc dù các tác phẩm của ông còn in đậm dấu ấn chức năng, chưa nhiều
những sáng tác hướng về cuộc sống đời thường nhưng cũng đủ cho thấy những
khía cạnh chính yếu để hồn chỉnh một kiểu tác gia hoàng đế – thiền sư – thi sĩ”
[151].

Mặc dù Nguyễn Hữu Sơn chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu về hồng đế Trần

Thái Tơng nhưng bài viết này có gợi ý quan trọng để người viết tiếp tục nghiên cứu
về mẫu hình hồng đế – thiền sư – thi sĩ.
Từ những đánh giá mang giá trị khoa học của Nguyễn Hữu Sơn và các tác
giả khác có thể kết luận văn chương Trần Thái Tông nghiêng hẳn về Phật giáo
nhưng vẫn rất giàu tính văn chương. Những tác phẩm của Trần Thái Tông đã

truyền tải được những suy tư về thế sự về xây dựng, bảo vệ vương triều và hoằng
dương Phật giáo.
Hồng đế Trần Nhân Tơng: Ông là một triết gia lớn của Phật học Việt Nam
và là người sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm. Trần Nhân Tơng vừa là một triết gia,
một hồng đế anh minh vừa là một nhà thơ, nhà văn hoá lớn. Trần Nhân Tơng được
giới nghiên cứu quan tâm tìm hiểu ở nhiều góc độ. Riêng góc độ văn chương, thơ
Thiền của ông được nghiên cứu nhiều hơn. Tuy nhiên phần nhiều các nghiên cứu
này đều nằm rải rác trong các cơng trình chung về giai đoạn văn học Lý – Trần.


11
Trong Trần Nhân Tơng nhân cách văn hố lỗi lạc (2003), Đỗ Thanh Dương
khảo sát về hoàng đế Trần Nhân Tơng qua ba phương diện: chính khách kiệt xuất –
thi sĩ trác việt – vua phật. Tác giả nhận xét: “Thơ Trần Nhân Tơng cao khúc khải
hồn ca chiến thắng ngoại xâm, nhưng cũng dìu dặt khúc ca nhân nghĩa u hồ
bình” [33; 56]. Những dẫn chứng tác giả đưa ra trong cơng trình nghiên cứu đã
thêm cơ sở thuyết phục cho mẫu hình hồng đế – thiền sư – thi sĩ trong sáng tác
của Trần Nhân Tông: “Cảm hứng yêu nước anh hùng, cảm hứng nhân sinh thế sự,
cảm hứng thiên nhiên và cảm quan Phật là những chủ đề lớn trong thơ Trần Nhân
Tông. Các cảm hứng ấy có sự hồ quyện đan xen, đều tốt lên tâm hồn tư tưởng
của một nhân cách lớn Minh quân – Phật tử – Triết gia” [33; 74 - 75].
Các tác giả của Lịch sử tư tưởng Việt Nam văn tuyển (tập II), (2004) đánh
giá về Trần Nhân Tông: “Các tư tưởng cơ bản của Trần Nhân Tông là tư tưởng tự
hào dân tộc, quan niệm về hữu – vô; an nhiên tự tại, xa lánh bụi trần; đề cao giá trị
đạo đức Phật giáo; Phật tại gia, tại tâm” [208; 96 - 97].
Trong bài viết “Căn rễ văn hoá của nền văn học thời Lí - Trần”, (quyển Văn
học Việt Nam thế kỉ X – XIX - Những vấn đề lí luận và lịch sử do Trần Ngọc
Vương chủ biên năm 2006), Nguyễn Hữu Sơn nhận định: “Trần Nhân Tông là
người kết tinh truyền thống văn hoá Phật giáo thời Trần, đóng vai trị quyết định
trong việc xác lập diện mạo và truyền thống Phật giáo Đại Việt… người có tư

tưởng thân dân, chủ trương nới sức dân… bản thân ông có được sự kết hợp nhuần
nhị giữa tư cách một hoàng đế anh minh, một thiền sư – thi sĩ mẫu mực” [216; 94].
Đoàn Thị Thu Vân, trong Con người nhân văn trong thơ ca Việt Nam sơ kì
trung đại (2007), dành riêng một phần để viết về Trần Nhân Tông. Bài viết đánh
giá cao những rung cảm tế vi và nhạy bén tâm hồn của hoàng đế này. Tác giả nhận
xét: “Các nhà thơ đời Trần đã có những vần thơ viết về thiên nhiên mới lạ và tươi
đẹp với thần thái rất riêng, để lại một ấn tượng khó nhầm lẫn với đời sau. Trong đó,
những bài thơ thiên nhiên của Trần Nhân Tông, ông vua – thiền gia – thi sĩ có thể
xem là đặc sắc vào loại bậc nhất” [197; 50].
Quốc Chấn đánh giá về Trần Nhân Tông trong Những vua chúa Việt Nam
hay chữ (2009): “Lên làm vua, Nhân Tông vẫn suy ngẫm về giáo lí đạo Phật bởi


12
thấy có những điều giúp cho con người biết tu thân, xử thế, yêu nước, thương dân.
Trong thời gian trị vì, cũng như suốt cuộc đời, nhà vua đã chủ trương đức trị thần
dân, xem nhẹ địa vị, vinh hoa, coi trọng thiện tâm nhân ái và lấy đó làm phương
châm xử thế” [11; 30].
Nhận xét về tính nhân văn trong tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông, Bùi
Huy Du cho rằng: “Tinh thần nhân văn ấy chính là quan điểm khẳng định và tin
tưởng vào bản tính tốt đẹp vốn có trong tâm can mỗi con người; là quan điểm đề
cao vai trò, trách nhiệm của con người đối với non sông đất nước; là quan điểm
quan tâm đến đời sống của dân, dưỡng dân giáo dân; cao hơn nữa, đó là tinh thần
đánh giặc cứu nước, cứu dân, xây dựng một xã hội lý tưởng, thanh bình thịnh trị
[29].
Nhìn chung những cơng trình nghiên cứu chưa quan tâm hồng đế Trần Nhân
Tơng như là một nhân vật văn học. Những cơng trình phần lớn tập trung góc độ chính
trị, triết học hoặc thơ Thiền của Trần Nhân Tơng trong văn học Lý – Trần.

Hồng đế Lê Thánh Tơng: Trải qua q trình tìm kiếm nhiều thế kỷ, có thể

nói đến thế kỉ XV dưới sự trị vì của Lê Thánh Tơng, Việt Nam đã tìm được mẫu
hình hồng đế lí tưởng. Nhà nước phong kiến Đại Việt đạt đến đỉnh cao dưới thời
trị vì của Lê Thánh Tơng. Từ tầm vóc chính trị đến nền văn chương khá đồ sộ,
hồng đế Lê Thánh Tơng được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu.
Có nhiều cơng trình, luận án, luận văn nghiên cứu về nhân vật hoàng đế Lê
Thánh Tơng. Trong đó, tiêu biểu phải kể đến cơng trình Hồng đế Lê Thánh Tơng
nhà chính trị tài năng, nhà văn hóa lỗi lạc, nhà thơ lớn (1998). Cơng trình này tập
hợp nhiều bài viết có cái nhìn tổng thể về hồng đế Lê Thánh Tơng trên cả ba
phương diện: chính trị, văn hóa và văn học.
Về góc độ chính trị, Lê Thánh Tơng được xem là vị hồng đế có cơng lớn
trong sự nghiệp mở mang bờ cõi. Trong bài viết “Sự nghiệp mở mang bờ cõi xuống
phương Nam của Lê Thánh Tơng”, tác giả Đặng Việt Bích nhận xét: “Giữ vững
biên cương phía Bắc, mở rộng lãnh vực xuống phía Nam, đó là cơng việc mà Lê
Thánh Tơng đã làm được trong suốt thời gian trị vì” [15; 176]. Hồng đế Lê Thánh
Tơng đã thống lĩnh qn đội chinh phạt Chămpa, vượt Trường Sơn đánh chiếm
Bồn Man và Lão Qua để mở mang bản đồ Đại Việt. Không chỉ giỏi trong


13
việc dựng nước, việc giữ nước cũng được Lê Thánh Tơng thực hiện hồn thành tốt
sứ mệnh “thiên tử”. Trong bài viết “Lê Thánh Tơng trong chính sách đối ngoại và
bảo vệ lãnh thổ Đại Việt”, Tạ Ngọc Liễn nhận xét: “Lê Thánh Tơng đã thực hiện
một chính sách đối ngoại tích cực, khơn khéo, biểu lộ qua những biện pháp đối
phó, cách giải quyết những vấn đề gay cấn, phức tạp nẩy sinh trong quan hệ giữa
nước ta với nước láng giềng phương Bắc, phương Nam mà quan trọng nhất là vấn
đề biên giới, vấn đề bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của nước Đại Việt” [15; 152].
Lê Thánh Tơng đã kiến tạo một nhà nước được quản lí bởi pháp luật. Trần
Trọng Hựu trong bài viết “Lê Thánh Tơng với việc hình thành một nhà nước pháp
luật” đã có nhận xét: “Quốc triều hình luật là sự pháp điển hóa hồn chỉnh nhất và



trình độ cao nhất pháp luật của Nhà nước phong kiến Việt Nam” [15; 189 - 190].

Vũ Ngọc Lý trong bài viết “Lê Thánh Tông và bộ Quốc triều hình luật” đã đưa ra
kết luận: “Lê Thánh Tơng tỏ rõ là một ơng vua có vai trị tích cực trong việc củng
cố Nhà nước phong kiến quan liêu, đồng thời cũng có tác dụng tích cực trong sự
nghiệp bảo vệ, xây dựng đất nước vào nửa sau thế kỉ XV” [15; 230].
Về góc độ văn hóa, giáo dục, Lê Thánh Tơng được xem là hồng đế có
nhiều đổi mới trong quan điểm giáo dục, khoa cử. Đặc biệt, dưới triều đại của ông,
Nho học đã bước sang giai đoạn thịnh trị. Trong bài viết “Lê Thánh Tơng và thời
thịnh trị của Nho học”, Trần Đình Hượu đã nhận xét: “Nho học Việt Nam đến thời
Lê Thánh Tông đã đạt đến điểm cực thịnh” [15; 276]. Lê Thánh Tơng dùng đạo
Nho để trị nước. Ơng quan tâm đến việc tìm kiếm nhân tài, mở các khoa thi để
chọn người tài phụng sự cho đất nước. Dưới thời Lê Thánh Tông giáo dục phát
triển mạnh bởi những chính sách tiến bộ của nhà vua. Vũ Ngọc Khánh trong bài
viết “Thử tìm hiểu quan niệm và đường lối giáo dục của Lê Thánh Tơng” có nhận
xét: “Nhà vua có ý thức giáo dục khá tồn diện, bao hàm cả phần chất, phần văn cả
phương hướng mục tiêu và cả biện pháp điều hành” [15; 302].
Hoàng đế Lê Thánh Tơng có nhiều đóng góp lớn cho nền văn học dân tộc.
Ngoài việc sáng tác khối lượng lớn tác phẩm có giá trị, ơng cịn sáng lập ra Hội Tao
đàn – hội thơ xướng họa ở cung đình. Bùi Duy Tân trong bài viết “Hội Tao đàn –
Quỳnh uyển cửu ca và vai trị Lê Thánh Tơng” có nhận xét: “Từ Lê Thánh Tông
đến Quỳnh uyển cửu ca, đến Hội Tao đàn, khẳng định những thành tựu mà


14
thi xã, thi phẩm, thi gia đã cống hiến cho sự phát triển của văn học dân tộc” [15;
380]. Sự nghiệp sáng tác của Lê Thánh Tông rất phong phú. Ông có nhiều tác
phẩm được viết bằng chữ Hán lẫn chữ Nôm, phong phú thể loại từ thơ ca đến
truyện kí văn học. Trong bài viết “Thánh Tơng di thảo – Bước đột khởi trong tiến

trình phát triển của thể loại truyện ngắn Việt Nam trung cổ” tác giả Vũ Thanh nhận
định những bước đột phá của Thánh Tông di thảo khi tác phẩm thoát khỏi ảnh
hưởng quá lớn từ văn học dân gian: “Thánh Tơng di thảo chính là bước đột phá đầu
tiên nhằm dần thoát khỏi những ảnh hưởng thụ động và lệ thuộc ấy. Các chất liệu
huyền thoại, thần kỳ mờ nhạt dần và hạt nhân hiện thực, vốn đã chứa đựng ít nhiều
trong các tập truyện trước đó, ngày càng có vai trị to lớn trong các tác phẩm” [15;
423]. Lê Thánh Tông là một trong những vị hồng đế tiên phong trong việc sử
dụng ngơn ngữ dân tộc vào sáng tác văn chương. Vũ Đức Phúc trong bài viết “Về
một số bài thơ Nôm của Lê Thánh Tơng” kết luận: “Ơng đã sử dụng thơ văn Nơm
trong cơng việc triều đình và cả thờ cúng trang nghiêm, dụng thành bia đá, biển
thờ. Bản thân ông là một nhà thơ tiếng Việt lớn có phong cách riêng biệt vừa giản
dị vừa cao cả, giàu cảm xúc và lòng yêu dân, xứng đáng với thơ của một đế vương
hay chữ và sáng suốt” [15; 482].
Cho đến nay, quyển Lê Thánh Tông - Về tác gia và tác phẩm (2001) do Bùi
Duy Tân biên soạn, tập hợp vẫn được xem là “cẩm nang” dành cho những ai quan
tâm, tìm hiểu vị minh quân thánh đế này. Trong bài viết “Lê Thánh Tơng - Vị
hồng đế anh minh, nhà văn hóa lỗi lạc, một văn hào dân tộc”, Bùi Duy Tân đã
cung cấp cho độc giả một cái nhìn khá tồn diện về Lê Thánh Tơng. Xét về góc độ
văn học, Bùi Duy Tân đánh giá Lê Thánh Tông là một văn hào dân tộc: “Là một
văn hào dân tộc, đồng nghĩa một nhà thơ lớn, nhà văn lớn, Lê Thánh Tơng có một
sự nghiệp văn chương linh ứng với ngơi vị một hồng đế anh minh và thấm đậm
thân mệnh một nhà văn hoá lỗi lạc” [160; 35]. Về thiên nhiên trong thơ Lê Thánh
Tông, Bùi Duy Tân nhận định: “Vị thi sĩ - hoàng đế này thả tâm hồn theo vẻ đẹp
của thiên nhiên đất nước, song dịng suy nghĩ lại ln gắn chặt với cảnh tượng thái
bình, thịnh trị của xã hội và đường lối nhân chính ái dân của nhà vua” [160; 62].
Qua những nhận định của Bùi Duy Tân có thể thấy sự dung hồ giữa thi sĩ và
hồng đế trong Lê Thánh Tơng. Ơng khơng chỉ là một hồng đế tài ba mà còn là


15

một thi sĩ có nhiều đóng góp ở cả hai mảng sáng tác: chữ Hán và chữ Nôm. Cũng
trong công trình này, trong bài viết “Lê Thánh Tơng và bước phát triển mới của văn
học trung đại Việt Nam”, Bùi Duy Tân đã có sự đề cao vai trị của Lê Thánh Tông
trong nền văn học trung đại dân tộc. Ơng so sánh vai trị thi sĩ của các hồng đế và
rút ra kết luận: “Riêng Lê Thánh Tơng, có phần nổi trội hơn cả, ở chỗ sáng tác văn
học của ông như cột mốc, đánh dấu bước phát triển của văn học trung đại” [160;
349].
Nguyễn Huệ Chi đánh giá về văn chương Lê Thánh Tông (trong bài viết
“Những vấn đề đặt ra trong hội thảo khoa học về Lê Thánh Tơng”): “Ơng xứng
đáng với danh hiệu Tao đàn ngun s khơng chỉ vì ơng là vị hồng đế đương
triều mà chính vì những tìm tịi nghệ thuật có giá trị hàng đầu trong sáng tác” [160;
156].
Nguyễn Hữu Sơn trong bài viết “Lê Thánh Tông – Đời thơ và những dấu hiệu
trữ tình” đã nhận định: “ơng vừa hướng thượng đóng vai một vị hồng đế để có
những bài thơ thắng thưởng vịnh đề mang đầy tính khoa trương... vừa phần nào
bộc lộ tâm sự riêng qua loạt bài tự thuật, ngẫu thành, cảm hồi... Lê Thánh Tơng
bộc lộ mình với tất cả sự siêng năng, bổn phận và trách nhiệm” [160; 414].
Đặng Thanh Lê nhận xét về Lê Thánh Tơng trên cả tư cách chính trị và tư
cách văn chương: “Danh hiệu nhà vua - nhà thơ là chưa thích đáng đối với nhân vật
lịch sử có gương mặt đẹp đẽ hào hùng như Lê Thánh Tông. Vinh hiệu Thánh chúa
– Thi nhân có thể sẽ biểu đạt được tầm vóc lịch sử của con người mà hơm nay
chúng ta trân trọng...” [160; 603].
Sự nghiệp chính trị và văn học của Lê Thánh Tông là đề tài được giới nghiên
cứu dày cơng khảo sát. Tuy nhiên, những cơng trình có giá trị khoa học ấy vẫn
chưa đưa đến được một kết luận chung về mẫu hình nhân vật hồng đế trong văn
chương.
Qua việc điểm lại các cơng trình nghiên cứu có thể kết luận: tuy đã có khơng
ít các nghiên cứu lớn nhỏ về các vị hoàng đế cụ thể nhưng các cơng trình trên mới
chỉ đề cập đến các phương diện tiểu sử, sự nghiệp sáng tác. Chưa có cơng trình nào
nghiên cứu về các vị hồng đế này trên phương diện hình tượng tác giả văn học.



16
1.2. Cơ sở lí thuyết của đề tài
1.2.1. Lý thuyết loại hình
Loại hình học là khoa học nghiên cứu về các loại hình để tìm ra quy luật về
sự tương đồng. Phương pháp loại hình được áp dụng từ những năm 20 của thế kỉ
XX. Đến những năm 70 của thế kỉ XX, phương pháp này mới được nhiều học giả
chú ý vận dụng. Có thể liệt kê những cơng trình tiêu biểu: N.I. Konrad với Phương
Đơng và phương Tây, D. X. Likhachop với Bảy thế kỉ trong văn học Nga, B.L.
Riptin với Loại hình học và các mối quan hệ qua lại của các nền văn học trung đại.
Theo M.B. Khrapchenko, nghiên cứu văn học bằng phương pháp loại hình là
“tìm hiểu những nguyên tắc và những cơ sở cho phép nói tới tính cộng đồng nhất
định về mặt văn học – thẩm mĩ, tới việc một hiện tượng nhất định thuộc về một
kiểu, một loại hình nhất định” [42; 43].
Nguyễn Văn Dân nhận định: “Phương pháp loại hình có hai phương pháp áp
dụng: Dùng phương pháp loại hình để phân loại các hiện tượng văn học trên cơ sở
của việc chứng minh các nhóm hiện tượng giống nhau theo một tiêu chuẩn nào đó;
từ những đặc điểm chung của một loại hiện tượng văn học, ta có thể chứng minh
cho sự tồn tại của một loại hình văn học nào đó, biện hộ cho quyền tồn tại và hiệu
quả thẩm mỹ của nó” [27; 294].
Về khái niệm loại hình, Biện Minh Điền viết: “Khái niệm chỉ tập hợp những
sự vật, hiện tượng cùng có chung những đặc trưng cơ bản nào đó. Chỉ có thể nói
đến loại hình (type) khi các hiện tượng cùng có một quan hệ cộng đồng giá trị” [42;
42-43]. Ở góc độ nghiên cứu văn chương bằng phương pháp loại hình “khơng đơn
giản liệt kê, miêu tả sự tương đồng, giống nhau bề ngoài của các hiện tượng văn
học. Điều quan trọng hơn nhiều, là phải tìm cho ra được tính quy luật của sự tương
đồng, giống nhau ấy…” [42; 44].
Như vậy, lý thuyết loại hình là nghiên cứu và tìm ra “mẫu số chung” của các
hiện tượng văn học. Nghiên cứu văn học bằng phương pháp loại hình sẽ đưa ra

được những kết quả mang tính đặc thù của một đối tượng văn học cụ thể. Từ yêu
cầu của đề tài nghiên cứu, luận án sẽ vận dụng lý thuyết loại hình học để làm sáng
tỏ một số góc độ sau:


17
Với mục tiêu nghiên cứu của luận án, lý thuyết về loại hình tác giả sẽ được
vận dụng nhìn từ góc độ ý thức hệ tư tưởng văn hố. Ở góc nhìn này, loại hình tác
giả trong văn học trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV sẽ bao gồm hai kiểu
tác giả: Thiền gia và Nho gia. Ở thời Lý, kiểu tác giả cơ bản là các thiền sư. Đến
thời Trần, kiểu tác giả tiêu biểu là hoàng đế – thiền sư – thi sĩ, bắt đầu xuất hiện
kiểu tác giả nhà nho. Đến thế kỉ XV, khi Nho giáo có địa vị như là quốc giáo, văn
chương đã định hình được kiểu tác giả Nho gia. Mỗi kiểu tác giả sẽ đưa vào văn
chương những quan niệm liên quan đến tư tưởng chính thống như: kiểu tác giả
thiền sư sẽ gắn liền với quan niệm “sắc, không”, “sinh, lão, bênh, tử”, “sống gửi
thác về”... kiểu tác giả hoàng đế – thiền sư – thi sĩ đưa vào văn chương quan niệm
về mối quan hệ giữa đạo và đời, về nhân nghĩa, đạo hiếu trung… khơng chỉ tu thiền
mà cịn tích cực tham gia mọi mặt của đời sống. Kiểu tác giả nhà nho hành đạo gắn
liên với tư tưởng quân – thần, tam cương, ngũ thường, thi dĩ ngơn chí, văn dĩ tải
đạo... cịn đối với kiểu tác giả nhà nho ẩn dật sẽ gắn với quan niệm về ẩn dật, nhàn,
“đắc thú lâm tuyền”... Mỗi kiểu tác giả đóng góp những quan niệm văn chương để
đúc kết nên những đặc điểm về nhân vật hoàng đế trong văn học giai đoạn này.
Phần lớn các tác phẩm văn học giai đoạn này hướng đến mục đích phục vụ
chính trị. Vì thế, nhân vật trong văn học giai đoạn này được phân loại dựa trên góc
độ xã hội. Có hai loại hình nhân vật phổ biến trong văn học trung đại Việt Nam từ
thế kỉ X đến thế kỉ XV: loại hình nhân vật thiền sư, loại hình nhân vật hồng đế.
Việc vận dụng lý thuyết loại hình sẽ tìm ra quy luật tương đồng của từng loại hình
nhân vật từ đó giải quyết được vấn đề đặt ra ở mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Việc vận dụng lý thuyết loại hình trong nghiên cứu nhân vật hoàng đế là cần
thiết, bởi nhân vật hồng đế vừa hội tụ những tiêu chí về những đặc điểm chung

vừa có những đặc điểm đặc thù khác biệt so với các kiểu nhân vật khác. Lý thuyết
về loại hình thực sự đã trở thành mã khố quan trọng để người viết đi sâu vào tìm
ra những đặc điểm của nhân vật hoàng đế.


18
1.2.2. Lý thuyết về mối quan hệ giữa văn hoá – tư tưởng và văn học
Từ buổi bình minh của nền văn học viết, văn học trung đại Việt Nam đã chịu
sự ảnh hưởng và chi phối mạnh mẽ từ nền văn học Trung Hoa – nền văn học ngay
từ thời cổ đại đã gắn liền những vấn đề văn hóa – tư tưởng: triết học, tơn giáo, đạo
đức, chính trị... Thực tế này đã thể hiện rất rõ trong văn học Việt Nam sơ kì trung
đại.
Khổng Tử - ơng tổ của đạo Nho chủ trương quan niệm văn chương gắn liền
với xã hội, chính trị. Theo đó, thơ ca khơng phải là phương tiện để bày tỏ tình cảm
cá nhân mà là dùng để bày tỏ chí. Nó phải gắn liền với những vấn đề chính trị, gắn
với quốc kế dân sinh. Trong Kinh Thi, Khổng Tử cho rằng: “Từ nước Bội trở xuống,
có nước bình trị, có nước loạn lạc khơng đồng nhau, có người hiền, có người chẳng
hiền khác nhau. Niềm rung cảm mà phát ra lời thơ có tà có chính, có phải có trái
khơng đều nhau” [192; 34]. Thi đại tự – bài tựa của Kinh Thi cũng khẳng định thơ là
tiếng vọng của thời đại “âm thanh thịnh thì n vui, vì chính sự thời ấy ơn hồ. Âm
thanh thời loạn thì ốn mà giận vì chính sự thời ấy sai trái”. Nhà nho đã rất xem
trọng yếu tố văn hố, chính trị trong văn chương.


thiên Thời Tự trong Văn tâm điêu long, Lưu Hiệp đã bàn đến sự chuyển

biến của văn chương qua các triều đại “cố tri biến nhiễm hồ thế tình, hưng phế hồ
thời tự”. Văn chương hưng thịnh, mạnh hay suy đều gắn liền với yếu tố chính trị.
Lưu Hiệp đã đưa ra những minh chứng cụ thể về mối quan hệ này. Thời Đường
Nghiêu: “Văn chương thời ấy đẹp quá! Bởi vì tâm tình vui vẻ thì âm thanh thư

thái”. Từ thời Hiến Đế dời đơ: “Đó là thời thế loạn ly, phong tục suy vi, nhân tâm
sầu oán. Người làm văn suy nghĩ sâu xa, bút mực tung hồnh, văn chương khảng
khái mà nhiều khí lực” [64; 495].


Trung Hoa từ Tiên Tần đến Lưỡng Hán đã đặt văn chương trong mối quan

hệ mật thiết với văn hố chính trị. Tiếp thu sự ảnh hưởng từ nền văn học
Trung Hoa, văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV cũng đã đề cập rất nhiều
đến văn hố chính trị. Theo Trần Nho Thìn, “sáng tác văn học trước hết là một hành
động văn hoá. Tác phẩm văn học, sự kiện văn học là một loại chứng tích văn hố”
[177; 5]. Có thể nói văn học và văn hố có mối quan hệ khăng khít và khơng thể
tách rời. Văn học thể hiện văn hoá và chịu sự quy định của văn hoá. Để giải


19
mã chính xác một tác phẩm văn học cần có nhiều góc độ khác nhau, tuy nhiên
khơng thể bỏ qua góc nhìn từ khơng gian văn hố mà tác phẩm đó ra đời. Văn hố
có sức sống lâu bền hơn chính trị. Thể chế chính trị có thể thay đổi nhưng nền văn
hố của thể chế cũ khơng thể thay thế ngay lập tức mà kéo dài cả một quá trình.
Kiểu xã hội chuyên chế đã chi phối mạnh mẽ đến hành vi ứng xử và sáng tác của
các tác giả văn học văn học giai đoạn này. Xã hội chuyên chế không đặt vấn đề pháp
trị mà tập trung đề cao vai trị của đức trị. Bởi vì pháp trị địi hỏi sự bình đẳng của
tất cả mọi người trước pháp luật, điều khơng thể có được trong xã hội chuyên chế.


thời Thịnh Đường, tư tưởng văn chương gắn với chính trị xã hội cũng

được bắt gặp trong tứ thơ Bạch Cư Dị. Trong Thư gửi Nguyên Chẩn, tác giả cho
rằng giá trị của văn thơ nằm ở chỗ phúng thích chính trị “vì vua vì tơi vì vật mà viết

chứ khơng vì văn mà viết vậy”.
Giải mã một tác phẩm văn chương phải quan tâm đến không gian xã hội mà
tác phẩm thể hiện. Trong văn học trung đại, khơng gian xã hội phổ biến chính là
khơng gian mang màu sắc chính trị. Nhất là ở giai đoạn đầu của nền văn học viết,
không gian sáng tác chủ yếu tập trung ở cung đình và lực lượng sáng tác cũng chính
là các nhân vật chính trị. Từ đó, khơng gian chính trị đã chi phối phần lớn những
sáng tác văn học. Xã hội Đại Việt xem trọng văn chương và dùng văn chương làm
thước đo đánh giá tài năng. Các hoàng đế đã sớm ý thức được con đường trị nước
bằng văn trị, đức trị. Văn chương trở thành hình thức để tuyển chọn nhân tài, là
phương tiện để quan lại, vua chúa bộc lộ tài năng. Từ đó, văn chương từng bước trở
thành phương tiện để thực hiện các nhiệm vụ của văn hoá.
Nghiên cứu văn học dưới góc nhìn văn hố chính trị phù hợp với văn học
trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XV. Văn học giai đoạn này hướng đến một
xã hội đức trị lấy nhân vật trung tâm là những con người gắn liền với đời sống
chính trị. Đây còn là giai đoạn mà quan niệm văn chương hướng hồng đế đến mơ
hình thánh nhân qn tử với lí tưởng thân dân.
1.2.3. Lý thuyết liên văn bản
Liên văn bản là khái niệm xuất hiện từ những năm 60 của thế kỉ XX. Liên
văn bản được xem là một thủ pháp, một phương thức tồn tại của tác phẩm văn


×