Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Rèn kĩ năng nhận biết biện pháp tu từ so sánh cho học sinh lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (805.99 KB, 23 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HẬU LỘC

TRƯỜNG TIỂU HỌC THÀNH LỘC

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

RÈN KĨ NĂNG NHẬN BIẾT BIỆN PHÁP
TU TỪ SO SÁNH CHO HỌC SINH LỚP 3

Người thực hiện:
Chức vụ:
Đơn vị công tác:
Sáng kiến thuộc môn:

Phạm Thị Vinh
Giáo viên
Trường Tiểu học Thành Lộc
Tiếng Việt

HẬU LỘC, NĂM 2021


MỤC LỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: “RÈN KỸ NĂNG NHẬN BIẾTBIỆN PHÁP
TU TỪ SO SÁNH CHO HỌC SINH LỚP 3”.
STT

Nội dung

1


1.Mở đầu
Lýdo chọn đề tài

Trang
1

2

1.1

3

1.2 Mục đích nghiên cứu

2

4

1.3 Đối tượng nghiên cứu

2

5

1.4 Phương pháp nghiên cứu

2

6
7

8
9
10
11
12
13
14
15
16

2. Nội dung
2.1 Cơ sở lý luận

1

2
2

2.2 Thực trạng việc dạy biện pháp tu từ so sánh
Lớp 3
2.2.1 Thực trạng
2.2.2 Kết quả của thực trang
2.3. Một số giải pháp, biện pháp nâng cao chất
lượng dạy tu từ so sánh.
2.3.1 Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp tu từ so sánh
cho học sinh thông qua việc dạy theo các mơ hình.

3

2.3.2. Phát huy tính sáng tạo của học sinh.

2.3.3. Lựa chọn các phương pháp, hình thức dạy học
và đồ dùng trực quan phù hợp với từng tiết dạy
2.3.4. Dạy tích hợp biện pháp tu từ so sánh qua các
môn học khác.
2.4. Hiệu quả và giá trị khoa học của vấn đề nghiên
cứu

10
13

3. Kết luận

19

17

3
4
4
4

17
18

18

3.1

Kết luận


19

19

3.2

Đề xuất

20


1. Mở đầu
1.1.Lý do chọn đề tài
Tiếng Việt là một mơn học ở trường phổ thơng có nhiệm vụ hình thành năng
lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh với tư cách là một phân môn thực hành của
môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học.Luyện từ và câu là phân mơn có tính chất
khởi đầu của các phân mơn khác. Qua tiết Luyện từ và câu học sinh có khả năng
diễn đạt bằng lời nói rõ ràng, cụ thể sinh động mọi sắc thái biểu cảm. Nói và viết
đó là những hình thức giao tiếp rất quan trọng, thơng qua đó các em thực hiện
q trình tư duy- chiếm lĩnh tri thức, trao đổi tư tương, tình cảm, quan điểm,
giúp các em hiểu nhau, cùng hợp tác trong cuộc sống. Luyện từ và câu có nhiệm
vụ hình thành và phát triển cho học sinh năng lực sử dụng từ và câu trong giao
tiếp và học tập.Đây là nhiệm vụ chính yếu, cuối cùng cùa dạy từ và câu ở tiếu
học. Dạy luyện từ chính là dạy thực hành từ ngữ trên quan điểm giao tiếp, dạy từ
trên bình diện phát triển lời nói. Đó chính là cơng việc làm giàu vốn từ cho học
sinh, giúp học sinh mờ rộng, phát triển vốn từ , nắm nghĩa của từ, luyện tập sử
dụng từ. Từ đó giúp học sinh nói năng đúng chuẩn, phù hợp với mục đích và
mơi trường giao tiếp đồng thời góp phần rèn luyện tư duy và giáo dục thấm mĩ
cho học sinh.Trong đó biện pháp tu từ so sánh góp một phần khơng nhỏ làm lên
điều này. So sánh có khả năng khắc họa hình ảnh và gây ấn tượng mạnh mẽ làm

nên một hình thức miêu tả sinh động, mặt khác so sánh cịn có tác dụng làm cho
lời nói rõ ràng, cụ thể hấp dẫn, diễn đạt được mọi sắc thái biểu cảm. So sánh tu
từ cịn là phương thức bộc lộ tâm tư tình cảm một cách kín đáo và tế nhị. Như
vậy đối với tác phẩm văn học nói chung so sánh mang chức năng nhận thức và
biểu cảm.
Có ai sinh ra mà không biết rằng:
“Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ngời ngời Biển Đơng.”
(Ca dao)
Nếu khơng có so sánh chúng ta khó có thể cảm nhận được nỗi nhớ của
chàng trai trong câu ca dao:
“ Nhớ em như nhớ vết thương
Trong lòng như vỡ mảnh gương trong lòng.”
(Ca dao)
Nhờ những hình ảnh bóng bẩy, ước lệ, dùng cái này để đối chiếu cái kia
nhằm diễn tả những ngụ ý nghệ thuật mà tu từ so sánh được sử dụng phổ biến
trong thơ ca, đặc biệt là thơ viết cho thiếu nhi.Biện pháp tu từ so sánh giúp các
em hiểu và cảm nhận được những bài thơ, bài văn hay, từ đó góp phần mở mang
tri thức làm phong phú về tâm hồn, tạo hứng thú khi viết văn, rèn luyện ý thức,
yêu quý Tiếng Việt giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt cho học sinh.
Do khả năng tư duy của học sinh còn dừng lại ở mức độ tư duy đơn giản, trực
quan nên việc cảm thụ nghệ thuật tu từ so sánh còn hạn chế, phần lớn học sinh
chỉ mới biết một cách cụ thể nghĩa của từ nên khi tiếp thu về nghệ thuật so sánh
tu từ rất khó khăn. Vấn đề đặt ra là người giáo viên dạy Luyện từ và câu như thế
nào để nâng cao chất lượng, đáp ứng được khả năng tiếp thu bài của học sinh?
1


Cách thức tổ chức, tiến hành tiết dạy Luyện từ và câu ra sao để đạt hiệu quả như
mong muốn. Điều đó khiến tơi ln suy nghĩ: Làm thế nào? Bằng những cách gì

đề khơi gợi ở học sinh hứng thú, say mê học tập môn Luyện từ và câu. Vì thế
đây là vấn đề tơi băn khoăn, trăn trở, khiến tôi tiến hành nghiên cứu và thực
nghiệm đề tài “Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp tu từ so sánh cho học sinh lớp
3” trong phân môn Luyện từ và câu
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Đề xuất phương hướng ứng dụng một số phương pháp dạy học vào việc hình
thành những hiểu biết ban đầu và rèn luyện kỹ năng sử dụng phép tu từ so sánh
cho học sinh lớp 3.
Thiết kế quy trình dạy học các dạng bài tập về phép tu từ so sánh trong phân
môn Luyện từ và câu
Hướng dẫn học sinh vận dụng phép tu từ so sánh trong các giờ Tập đọc và
Tập làm văn, nâng cao hứng thú và kết quả học tập về phép tu từ so sánh cho
học sinh.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Kỹ năng nhận biết biện pháp tu từ so sánh ở phân môn Luyện từ và câu lớp 3.
Học sinh lớp 3A trường Tiểu học Thành Lộc năm học 2020-2021.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện được nhiệm vụ nêu trên, sáng kiến đã sử dụng những phương
pháp sau đây:
- Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận nhằm thu thập các thơng tin về lý
luận có liên quan đến sáng kiến.
- Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn nhằm điều tra thực trạng dạy
học phép tu từ so sánh để phát hiện vấn đề cần nghiên cứu, cần tìm ra những giải
pháp.
- Nhóm phương pháp phân tích thống kê nhằm xử lý những số liệu thu được.
- Phương pháp quan sát, phương pháp trò chuyện với học sinh, giáo viên.

2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận:
Ngơn ngữ nói chung, Tiếng Việt nói riêng có quan hệ mật thiết với phương

pháp dạy học Tiếng Việt. Phương pháp dạy học Tiếng Việt là một bộ môn khoa
học giáo dục nên nó phụ thuộc vào qui luật chung của qui luật này. Lí luận dạy
học đại cương cung cấp cho phương pháp dạy học Tiếng Việt những hiểu biết về
các qui luật chung của việc dạy môn học. Nó vận dụng cơ bản của lí luận dạy
học theo đặc trưng của mình.
Với mục tiêu chung của mơn Tiếng Việt thì mục tiêu của phân mơn Luyện từ
và câu lớp 3, cụ thể là việc dạy biện pháp tu từ so sánh nhằm giúp học sinh nhận
diện được phép tu từ so sánh thông qua viêc giải các bài tập chỉ ra được hình
ảnh, nhân vật hoặc chi tiết được sử dụng trong bài đồng thời hiểu được tác dụng
của phép tu từ so sánh.
Phép tu từ so sánh gồm có so sánh lơ gíc và so sánh tu từ. Trong đó so sánh
lơ gíc là một biện pháp nhận thức trong tư duy của con người, là việc đặt hai hay
2


nhiều sự vật, hiện tượng vào các mối quan hệ nhất định nhằm tìm ra sự giống
nhau và khác biệt giữa chúng.
Ví dụ: “Hồ này rộng hơn cái đầm ở làng.”
(Tiếng Việt 3-Tập1-trang131).
Cơ sở của phép so sánh lơ gíc dựa trên tính đồng chất, đồng loại của các sự
vật, hiện tượng và mục đích của sự so sánh này là xác lập sự tương đương giữa
hai đối tượng. Còn so sánh tu từ (cịn gọi là so sánh hình ảnh) là một biện pháp
tu từ trong đó người ta đối chiếu các sự vật với nhau miễn là giữa các sự vật có
một nét tương đồng nào đó gợi ra hình ảnh cụ thể, những cảm xúc thẩm mĩ trong
nhận thức người đọc, người nghe.
Ví dụ:
“Bà như quả ngọt chín rồi
Càng thêm tuổi tác càng tươi lịng vàng”.
(Tiếng Việt 3-Tập1-trang 58)
Như vậy so sánh tu từ khác so sánh lơ gíc ở tính hình tượng, tính biểu cảm và

tính dị loại của sự vật. Nếu như giá trị của so sánh lơ gíc là xác lập sự tương
đương giữa hai đối tượng thì giá trị của so sánh tu từ là sự liên tưởng, sự phát
hiện và gợi cảm xúc thẩm mĩ ở người đọc, người nghe.
Đối với chương trình phân mơn Luyện từ và câu lớp 3, biện pháp nghệ thuật
tu từ so sánh chủ yếu học phần so sánh tu từ, được học dưới các dạng so sánh
hơn kém và so sánh ngang bằng.
Ngoài việc nắm được các dấu hiệu và hiểu được giá trị của phép tu từ so
sánh, chương trình cịn u cầu học sinh biết vận dụng so sánh tu từ vào việc
nói, viết, biết dùng những hình ảnh sinh động trong giao tiếp, trong làm văn hay
khi kể lại một câu chuyện mà các em được nghe, được đọc. Đây cũng là một
cách chuẩn bị dần để các em sử dụng thành thạo hơn phép tu từ so sánh khi làm
bài văn kể chuyện, miêu tả ở lớp 4, lớp 5.
2.2 Thực trạng việc dạy biên pháp tu từ so sánh ở lớp 3:
2.2.1 Thực trạng
* Thuận lợi:
- Luôn được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Ban giám hiệu nhà trường, của
các tổ chun mơn đã có vai trị tích cực đến giáo viên đi đungs nội dung
chương trình của phân mơn Luyện từ và câu.
- Học sinh ham học, có ý thức trong việc chuẩn bị bài khá chu đáo trước khi
đến lớp, một số em đã biết dùng từ đặt câu, diễn đạt tương đối lưu loát.
- Đời sống kinh tế của nhân dân ngày càng cải thiện và nâng cao nên việc đàu
tư cho con cái học tập cũng có những cái thuận lợi nhất định.
* Khó khăn
- Về sách giáo khoa:Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 3 hiện nay nói chung và
phân mơn Luyện từ và câu nói riêng cịn tồn tại một số điểm chưa hợp lý: Mặc
dù sách giáo khoa đã chú trọng phương pháp thực hành nhưng những bài tập
sáng tạo vẫn cịn ít, đơn điệu, gò ép. Nhiều bài, nhiều tiết, mảng kiến thức dạy
cho học sinh cịn mang tính trừu tượng, thiếu hình ảnh minh hoạ, bắt buộc học
sinh tự làm bài tập dưới sự hướng dẫn của giáo viên rồi rút ra kết luận cần thiết.
Vì thế học sinh cịn gặp nhiều khó khăn trong q trình lĩnh hội các kiến thức

mới. trong các mơn tự nhiên, Tốn dược coi là một mơn học khó thì trong các
3


môn xã hội phân môn Luyện từ và câu lại được coi là một mơn học vừa khơ vừa
khó. Đây là môn học mà cả người dạy và người học cảm thấy khó khưn khi
truền đạt cũng như khi lĩnh hội kiến thức
- Về giáo viên: Nhìn chung giáo viên cịn gặp khơng ít khó khăn như cơ sở vật
chất, phương tiện dạy học và tài liệu tham khảo còn ít. Một bộ phận nhỏ giáo
viên vẫn chưa chú trọng quan tâm đến việc lồng ghép trong quá trình dạy học
giữa các phân môn của môn Tiếng Việt với nhau, cũng như các môn học khác để
khơi dậy sự hứng thú học tập và sự tị mị của phân mơn này với phân môn khác
trong môn Tiếng Việt. Bên cạnh đó một vài giáo viên chưa phối hợp một cách
khéo léo giữa các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học nên dẫn đến hiệu
quả giờ dạy chưa cao. Thời gian bố trí cho từng hoạt động chưa phù hợp, hệ
thống câu hỏi và hình thức thực hành bài tập chưa đảm bảo yêu cầu, chưa phân
loại được đối tượng học sinh để bồi dưỡng học sinh có năng khiếu và phụ đạo
học sinh yếu kém trong từng tiết học.
- Về học sinh: Do khả năng tư duy của học sinh Tiểu học còn dừng lại ở mức
độ tư duy đơn giản, trực quan nên việc cảm thụ nghệ thuật tu từ so sánh còn hạn
chế. Vốn kiến thức văn học của học sinh cịn ít ỏi và nghèo nàn. Một số em chưa
có khả năng nhận biết về nghệ thuật, học sinh chỉ mới dừng lại nắm bắt các sự
vật, các vấn đề một cách đơn giản, cụ thể nên khi tiếp thu về nghệ thuật tu từ so
sánh rất khó khăn. Vì vậy địi hỏi người giáo viên phải có những thủ thuật trong
dạy học để các em nắm bài tốt.
2.2.2: Kết quả của thực trang
Qua khảo sát chất lượng về kỹ năng nhận biết biện pháp tu từ so sánh của
học sinh lớp 3|B trong học kỳ 1- năm học 2019 - 2020 tôi đã thu được kết quả
như sau:
Lớp


3A

Sĩ số

34

Hoàn thành tốt

Hoàn thành

Chưa hoàn thành

SL

TL

SL

TL

SL

TL

4

11,7%

26


76,4%

4

11,7%

Từ kết quả khảo sát trên, tôi đã mạnh dạn áp dụng đổi mới phương pháp và
hình thức tổ chức dạy học thực nghiệm trên lớp 3A năm học: 2020-2021.
2.3. Một số giải pháp, biện pháp nâng cao chất lượng dạy tu từ so sánh
Nhằm khắc phục tình trạng trên và nâng cao chất lượng dạy và học, tôi đưa ra
một số giải pháp và biện pháp cụ thể trợ giúp học sinh lĩnh hội được kiến thức
về biện pháp tu từ so sánh ở lớp 3 một cách tốt nhất.
2.3.1 Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp tu từ so sánh cho học sinh thông
qua việc dạy theo các mô hình.
Phục vụ cho việc giảng dạy đạt kết quả cao cũng như việc nghiên cứu từng
bài giảng của phân môn Luyện từ và câu, tơi đã thống kê, phân tích biện pháp tu
từ so sánh ở phân môn Luyện từ và câu trong chương trình lớp 3 như sau:

4


Kiến thức lý thuyết và phần bài tập thực hành về phép tu từ so sánh được
đưa vào giảng dạy ở tập một- sách Tiếng Việt lớp 3 bao gồm 8 bài nằm ở các
tuần: 1, 3, 5,7, 10, 12, 15 và ơn tập ở tuần 18 được phân tích trình bày theo các
quy trình và mơ hình sau:
* Mơ hình 1: So sánh: Sự vật – Sự vật.
* Mơ hình 2: So sánh: Sự vật – Con người.
* Mơ hình 3: So sánh: Hoạt động –Hoạt động.
* Mơ hình 4: So sánh: Âm thanh – Âm thanh

Học sinh học tốt được biện pháp tu từ so sánh , việc đầu tiên giáo viên phải
giúp học sinh nắm vững được từ chỉ sự vật, từ chỉ đặc điểm của sự vật, từ chỉ
hoạt động của sự vật.
Ví dụ:
+ Bài 1 ( trang 6- sách giáo khoa Tiếng Việt 3 – tập 1).
Lệnh bài đưa ra là: Tìm các từ chỉ sự vật trong khổ thơ sau:
“ Tay em đánh răng
Răng trắng hoa nhài
Tay em chải tóc
Tóc ngời ánh mai.”
Ta có thể thay lệnh bài như sau:
a, Tìm các từ chỉ sự vật trong khổ thơ sau?
b, Tìm các từ chỉ sự vật mà em thường gặp hàng ngày?
c, Đặt câu với các từ chỉ sự vật vừa tìm được?
+ Hay là từ chỉ đặc điểm của sự vật:
Bài tập 2 ( trang 117- Tiếng Việt 3- tập 1)
Lệnh của bài tập là: Tìm các từ chỉ đặc điểm trong những câu thơ sau:
“ Em vẽ làng xóm
Tre xanh lúa xanh
Sơng máng lượn quanh
Một dòng xanh mát
Trời mây bát ngát
Xanh ngắt mùa thu”.
Giúphọc sinh dễ hiểu, dễ tìm ta có thể thay lệnh bài như sau:
Tìm các từ chỉ đặc điểm của các sự vật có trong các câu thơ sau?
Qua việc hoàn thành các bài tập trên, giáo viên giúp học sinh nắm chắc và
hiểu rõ hơn thế nào là những từ ngữ chỉ sự vật, từ chỉ đặc điểm của sự vật. Học
sinh tìm được những từ chỉ sự vật và biết đặt câu với từ chỉ sự vật đã tìm được.
Từ đó khi chuyển sang học dạng bài so sánh: “Sự vật với sự vật; sự vật với con
người” thì các em nắm bài một cách dễ dàng hơn. Nắm được đặc điểm chung

của các sự vật được so sánh với nhau.
Biện pháp tu từ so sánh ở lớp 3 các bài tập được chia làm 2 loại bài:
+ Loại bài một: Bài tập theo mẫu(Bài tập nhận biết) là phần trọng tâm
+ Loại bài hai: Bài tập sáng tạo (Bài tập vận dụng)
Loại bài một là dạng bài tập đơn giản. Chủ yếu là nhận biết các sự vật so
sánh thông các bài tập. Dạng này chiếm đa số trong chương trìnhvà được xây
dựng dựa trên bốn mơ hình:.
5


2.3.1.1, Mơ hình một:
So sánh Sự vật - Sự vật
Mơ hình này được trình bày dưới các dạng như sau:
* Dạng 1: Sự vật A như sự vật B
Dạng này đã xuất hiện ở các bài tập đầu tiên của chương trình và xun suốt
đến cuối chương trình.
Ví dụ :
Tìm những sự vật được so sánh với nhau trong các câu thơ, câu văn dưới đây:
"Quạt nan như lá
Chớp chớp lay lay
Quạt nan rất mỏng
Quạt gió rất dày"
( Luyện từ và câu lớp 3- Trang 13- Sách tham khảo)
"Đêm ấy trời tối như mực"
"Giàn hoa mướp vàng như đàn bướm đẹp"
Học sinh phải xác định được các từ chỉ sự vật từ đó các em sẽ tìm được từ chỉ
sự vật nào được so sánh và từ chỉ sự vật nào dùng để so sánh.
Có 2 phương án thực hiện dạng bài tập này
Phương án 1: Gạch chân các từ chỉ sự vật được so sánh trong các câu trên
bằng bút chì vào vở bài tập.

Phương án 2: Giáo viên phát phiếu học tập nhóm đơi. Các nhóm điền vào
phiếu
Câu
Sự vật 1
Từ so sánh
Sự vật 2
a)
Quạt nan
như

b)
Trời đêm
như
mực
c)
Giàn hoa mướp
như
đàn bướm đẹp
Học sinh trình bày :
+ "quạt nan" được so sánh với "lá"
+ "trời đêm" được so sánh với "mực".
+ "giàn hoa mướp" được so sánh với "đàn bướm đẹp"
Từ sự nhận biết trên giáo viên giúp học sinh tìm hiểu vì sao:
“ Quạt nan” được so sánh với “ lá”?
Hay vì sao nói: “ Giàn hoa mướp” như “ đàn bướm đẹp”?
Nhiệm vụ của người giáo viên phải hướng học sinh tìm xem các sự vật được
so sánh nhau này đều có điểm nào giống nhau, chẳng hạn:
+ Quạt nan và lá đều mỏng và to, đưa gió đến cho con người.
+ Giàn hoa mướp và đàn bướm đều màu vàng, cánh hoa mướp cũng mỏng
mảnh như cánh bướm.

* Dạng 2: Sự vật A là sự vât B:
Dạng này học sinh rất dễ nhầm lẫn giữa câu so sánh với câu giới thiệu. Bởi
lẽ, cả 2 kiểu câu này đều có từ “ là ”

6


Ví dụ : Tìm các hình ảnh so sánh trong những câu văn, câu thơ sau :
“ Cánh diều no gió
Tiếng nó chơi vơi
Diều là hạt cau
Phơi trên nong trời”.
(Luyện từ và câu lớp 3- trang13- sách tham khảo)
“Mắt của trời đêm là các vì sao.”
Trong trường hợp này, cần phải cho học sinh xác định từ chỉ sự vật trong
câu thơ : (diều – hạt cau ); (Mắt của trời đêm - các vì sao). Từ so sánh là từ “ là”
Giáo viên giải thích cho học sinh điểm tương đồng giữa các từ chỉ sự vật được
so sánh với nhau:
Cánh diều và hạt cau đều có hình dáng cong cong mà tác giả tưởng tượng
cánh diều giống như hạt cau đang phơi trên cái nong- cái nong đó là bầu trời,
học sinh cịn có thể hiểu được vào ban đêm khơng có ánh trăng trên bầu trời chỉ
có những vì sao lấp lánh mà tác giả tưởng tựơng các vì sao chính là ánh mắt của
bầu trời. Từ sự so sánh đó học sinh liên tưởng đến sự yên tĩnh, thanh bình của
bầu trời đêm trên quê hương.
Các câu trên hoàn toàn khác với câu:
‘Trường em là trường Tiểu học Thành Lộc”.
Từ “là” trong câu này có tác dụng giới thiệu về, tên tuổi địa chỉ. Từ đó các em
phân biệt được sự khác nhau giữa dạng so sánh “ Sự vật A là sự vật B” với mẫu
câu “ Ai là gì? ”
* Dạng 3: Sự vât A X sự vật B:

Đối với dạng bài này học sinh phải xác định rõ từ chỉ sự vật và các sự vật
được so sánh với nhau khi từ so sánh bị triệt tiê
Ví dụ: Tìm các sự vật được so sánh trong các khổ thơ sau:
“Thân dừa bạc phếch tháng năm
Quả dừa- đàn lợn con nằm trên cao.
Đêm hè hoa nở cùng sao
Tàu dừa- chiếc lược chảỉ vào mây xanh”.
( Sách giáo khoa-Tiếng việt 2- Tập 2- tr88)
“Trường Sơn: chí lớn ơng cha
Cửu Long: lịng mẹ bao la sóng trào”.
(Lê Anh Xn)
Thơng qua ví dụ giáo viên hướng dẫn học sinh tìm ra được các từ chỉ sự vật
có điểm tương đồng với nhau khi khơng có từ so sánh
+ “ Quả dừa” với “ đàn lợn con” đều trịn trịa mũm mĩm. Những quả dừa
dày chin chít nằm quanh cổ dừa mà ta tưởng tượng giống như những chú lợn
con đang vây quanh bụng mẹ
+ “ Tàu dừa” được so sánh với “chiếc lược”. Tàu dừa có nhiều lá nhỏ dài,
đều nhau theo một chiều, cuống lá hơi cong cong giống như chiếc lược đang
chải vào mái tóc bầu trời.
+ “ Dãy Trường Sơn” được so sánh với “ chí lớn ơng cha”.
+ “ Dịng sơng “Cửu Long” được so sánh với “ tình mẹ” dành cho con.
7


Hai câu thơ này sự vật so sánh mang tính trừu tượng khi từ so sánh chỉ bằng
“dấu hai chấm”. Vậy giáo viên giúp học sinh hiểu được ý chí dựng nước và giữ
nước của ông cha rất lớn cũng như tình u thương của mẹ dành cho con như
dịng nước sông Cửu Long dạt dào
Từ sự nhận biết trên, giáo viên giúp học sinh thay thế dấu “ hai chấm”, dấu
“gạch ngang” bằng những từ so sánh như: tựa, tựa như, giống như…Chẳng hạn:

“ Thân dừa bạc phếch tháng năm
Quả dừa tựa như đàn lợn con nằm trên cao.
Đêm hè hoa nở cùng sao
Tàu dừa giống như chiếc lược chải vào mây xanh.”
Hay
“ Trường Sơn như chí lớn ơng cha
Cửu Long như lịng mẹ bao la sóng trào.”
Qua đó học sinh thấy được sau khi thay thế các từ so sánh thì nội dung của
đoạn thơ khơng thay đổi. Như vậy dấu hai chấm, dấu gạch ngang cũng có tác
dụng như các từ so sánh: như, như thể, tựa như…, song cách gieo vần, ngắt nhịp
của đoạn thơ bị phá vỡ. Vì thế việc dùng từ so sánh hay dùng dấu gạch ngang
phải phù hợp với đối tượng, ngữ cảnh cần nói đến. Ngồi các bài tập trong sách
giáo khoa theo u cầu cần làm, tơi đưa ra các
Ví dụ : Đặt câu có hình ảnh so sánh với các cặp từ sau
Hoa lựu – đốm lửa.
Vầng trăng – quả chuối.
Chẳng hạn:
Hoa lựu nở đỏ như đốm lửa.
2.3.1.2: Mô hình 2:
So sánh: Sự vật – Con người
Dạng của mơ hình này là: A như B
A là B
A: có thể là con người
B: Sự vật đưa ra làm chuẩn để so sánh.
Ví dụ : Tìm các hình ảnh so sánh trong các câu thơ sau
“ Cây pơ mu đầu dốc
Im như người lính canh”.
(Tiếng việt 3- tập 1-trang 58)
“ Ngơi nhà như trẻ nhỏ
Lớn lên với trời xanh”.

(Tiếng việt 5-Tập 1-trang 148)
Với dạng bài tập này học sinh sẽ dễ dàng tìm được sự vật so sánh với con
người nhưng các em chưa giải thích được"Vì sao?" Chính vì vậy mà người giáo
viên cần hướng dẫn, giúp đỡ học sinh tìm được đặc điểm chung của sự vật và
con người. Chẳng hạn: "Cây pơ mu" giống như "Người lính canh". Vì nó đều
thể hiện lên sự nghiêm trang, bền vững, tinh thần bảo vệ chung cho sự bình yên
của mọi người ở nơi địa đầu của Tổ quốc. Qua đó học sinh tìm hiểu được các sự
vật được so sánh với con người thông qua các từ so sánh: “ Như, như là, giống
như” một cách dễ dàng.
Song dạng bài so sánh sự vật với con người thông qua từ so sánh “ là” mà
một số học sinh cũng dễ nhầm lẫn với mẫu câu: Ai- là gì?
8


Ví dụ : Gạch một gạch dưới các sự vật được so sánh, gạch hai gạch dưới từ
so sánh trong các câu sau
“ Những ngơi sao thức ngồi kia
Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con
Đêm nay con ngủ giấc trịn
Mẹ là ngọn gió của con suốt đời”.
(Tiếng việt 2- Tập 1- trang 101)
Dạng bài tập này học sinh chỉ cần thực hiện được hai yêu cầu :
- Xác định sự vật so sánh ( ngôi sao thức -mẹ ), (mẹ - ngọn gió)
- Xác định từ so sánh ( Chẳng bằng , là )
Xác định được hai yêu cầu trên là học sinh đã xác định được hình ảnh so sánh
Ở đây hình ảnh người mẹ được ví như ngọn gió lành suốt cuộc đời mang lại sự
dịu dàng, niềm hạnh phúc cho con.
2.3.1.3 Mơ hình 3: So sánh Hoạt động – Hoạt động
Mơ hình có dạng sau:
Hoạt động của sự vật A x Hoạt động của sự vật B.

Hoạt động của sự vật A như hoạt động của sự vật B.
Ví dụ: Trong các đoạn trích sau, những hoạt động nào được so sánh với
nhau:

“Con trâu đen lông mượt
Cái sừng nó vênh vênh
Nó cao lớn lênh khênh
Chân đi như đập đất”

Dạng bài này giáo viên giúp học sinh nắm chắc được từ chỉ hoạt động, từ đó
học sinh sẽ tìm được các hoạt động được so sánh với nhau. Chẳng hạn: Hoạt
động “đi” so sánh với hoạt động “đập đất” qua từ “như”.

“Cây cau cao mãi
Cành vươn giữa trời
Như tay ai vẫy
Hứng làn mưa rơi”

9


Dạng bài tập yêu cầu học sinh tạo lập các hình ảnh, các câu thơ sử dụng
biện pháp nghệ thuật so sánh dựa trên ngữ liệu có sẵn hoặc một phần do học
sinh phải tự tạo lập. Hoạt động “vươn” của tàu lá cau giống hoạt động “vẫy”
tay của con người.

“Con mẹ đẹp sao
Những hòn tơ nhỏ
Chạy như lăn tròn
Trên sân trên cỏ”


Hoạt động “chạy” so sánh với hoạt động “lăn tròn” qua từ “như”. Hoạt
động chạy của những chú gà con được miêu tả giống như hoạt động lăn trịn của
những hịn tơ nhỏ. Có thể miêu tả bằng cách so sánh như vậy vì những chú gà
con thường có lơng màu vàng óng như tơ, thân hình lại tròn nên các chú chạy
giống như những hòn tơ đang lăn.
2.3.1.4. Mơ hình 4: So sánh Âm thanh – Âm thanh
Mơ hình này có dạng: A như B A là âm thanh thứ nhất
B là âm thanh thứ hai.
Ví dụ : Tìm những âm thanh được so sánh với nhau trong các câu sau
- Từ xa, tiếng thác dội về nghe như tiếng hát.
-Tiếng chuyện trị của bầy trẻ ríu rít như tiếng chim.
-Tiếng sóng biển rì rầm như tiếng ai đang nói chuyện.
Với dạng bài này giúp học sinh nhận biết được âm thanh thứ nhất và âm thanh
thứ hai đựơc so sánh qua từ “ như”.
Âm thanh của “Tiếng thác” được so sánh với âm thanh của “Tiếng hát”.
Hay “Tiếng trò chuyện” của bầy trẻ được so sánh với “Tiếng chim” tạo nên
sự hồn nhiên, nhí nhảnh, sự ngây thơ trong trắng của tuổi thơ.
2.3.2.Phát huy tính sáng tạo của học sinh :
Đây là dạng tập sáng tạo (Bài tập vận dụng). Mục tiêu của dạng bài này giúp
học sinh biết cách sử dụng biện pháp tu từ so sánh mang tính tư duy, sáng tạo
cao hơn. Tuy nhiên, dạng bài tập này trong sách giáo khoa rất ít, nó tập trung ở
cuối chương trình học kỳ một gồm 2 bài tập
2.3.2.1. Nhìn tranh đặt câu:
10


Tương tự Bài tập 3/sách giáo khoa trang126: Ta có thể đưa ra bài tập sau :
Ví dụ : Quan sát từng cặp trong tranh rồi viết các câu có hình ảnh so sánh


Yêu cầu học sinh quan sát hình ảnh các cặp trong mỗi bức tranh và tìm ra
những nét tương đồng của các sự vật. Từ đó học sinh tự đặt câu có hình ảnh so
sánh về các sự vật đã cho:
- Xe ô tô lao nhanh như tên bắn
.
- Đèn điện toả sáng như ánh trăng.
- Cây thông cao như ngọn tháp .
- Nụ cười của cô ấy xinh như bông hoa hồng .
- Thỏ hiền hơn báo.
2.3.2.2. Dạng bài tập điền khuyết :
Ví dụ : Điền từ vào chỗ chấm trong các câu sau để tạo thành hình ảnh so sánh
- Các cơ gái đi dự lễ hội đẹp như ………………
- Nước biển xanh như ……………….
- Đường mềm như …………………….
- Uốn mình dưới cây xanh.
Ở mỗi câu, giáo viên nên để học sinh xác định sự vật đã cho (được so sánh)
và có thể tìm nhiều từ (để so sánh, song phải phù hợp với đối tượng đưa ra.
Các bài tập mang tính sáng tạo này rất ít nên trong q trình dạy, nhất là các
tiết Tiếng Việt (tăng cường) giáo viên nên đưa thêm những bài tập tương tự hai
dạng trên để học sinh khắc sâu kiến thức .
2.3.2.3. Phân biệt được các kiểu so sánh
Ngồi các mơ hình so sánh trên học sinh cịn được làm quen với kiểu so
sánh: Ngang bằng và hơn kém. Kiểu so sánh này thường gặp các từ so sánh
như: Tựa, giống, giống như, không thua, không khác. (So sánh bằng) và các từ
hơn ,kém, thua, chẳng bằng (so sánh hơn kém).
11


Ví dụ: Tìm các hình ảnh so sánh trong các câu thơ, câu văn sau và cho biết
nó thuộc kiểu so sánh nào?

-“Bế cháu ông thủ thỉ:
Cháu khỏe hơn ông nhiều.
Ông là buổi trời chiểu
Cháu là ngày rạng sáng”
(Tiếng việt 2- tâp 1-trang 83)
“ Cánh đồng lúa quê em đẹp như một tấm thảm màu vàng khổng lồ”.
Dựa vào các từ so sánh học sinh nêu được các hình ảnh thuộc kiểu so sánh
hơn kém là: “Cháu khỏe hơn ông nhiều”. Ba hình ảnh so sánh cịn lại thuộc kiểu
so sánh ngang bằng. Bên cạnh đó học sinh cịn phân biệt rõ câu có hình ảnh so
sánh với từ so sánh là từ“bằng” với câu có bộ phận trả lời cho câu hỏi” bằng
gì?” (chỉ phương tiện).
Ví dụ: “Quả chanh này to bằng quả trứng gà”.
Đây là câu có hình ảnh so sánh sự vật với sự vật mà từ so sánh là từ “bằng”.
Hoàn toàn khác với câu: “Con búp bê này làm bằng len”.
Từ “bằng” trong câu nàychỉ phương tiện, chất liệu làm nên con búp bê.
2.3.2.4. Trò chơi học tập :
Đây là hình thức hấp dẫn nhất trong đó chơi là phương tiện, học là mục đích.
Thơng qua hình thức chơi mà học, học sinh sẽ được hoạt động, tự củng cố kiến
thức. Tuy nhiên, muốn tổ chức trị chơi có hiệu quả, cần xác định mục đích của
trị chơi, hình thức chơi cũng phải đa dạng, cách chơi cần phải đơn giản, dễ hiểu.
Ví dụ: Trị chơi “Thử tài so sánh”
Mục đích:
- Rèn kĩ năng sử dụng từ ngữ bằng cách tạo nhanh các cụm từ có hình ảnh so
sánh đúng .
- Luyện phản ứng nhanh, trau dồi trí tưởng tượng, liên tưởng về hoạt động hay
đặc điểm, tính chất ...của sự vật.
Chuẩn bị :
- Làm các bộ phiếu bằng giấy ( Kích thước : 3 x 4 cm)
- Mỗi bộ phiếu gồm 3-5 từ chỉ hoạt động, trạng thái, đặc điểm, màu
sắc ... của sự vật ( tuỳ thời gian chơi, nội dung bài học). Lớp 3 chủ yếu là từ chỉ

hoạt động, trạng thái, đặc điểm, tính chất
+ Bộ phiếu A( 5 từ chỉ hoạt động,trạng thái) : Đọc, viết, cười, nói, khóc
( Dành cho Tiết 7: ôn tập từ chỉ trạng thái , tính chất )
+ Bộ phiếu B ( 5 từ chỉ màu sắc )Trắng, xanh, đỏ, vàng, đen
( Dành cho tiết 15: Luyện đặt câu có hình ảnh so sánh )
+ Bộ phiếu C ( 5 từ chỉ đặc điểm , tính chất): đẹp, cao, khoẻ, nhanh, chậm
(Dành cho tiết 14, 17: ôn tập từ chỉ đặc điểm )
- Phiếu được gấp tư để “bốc thăm”
- Cử trọng tài, thư kí theo dõi cuộc thi .
Tiến hành :
-Trọng tài để một bộ phiếu lên bàn cho học sinh xụng phong lên thử tài so
sánh
12


(1 bộ phiếu 5 từ thì dành cho 5 người “thử tài”).
- Học sinh 1 (HS1) lên “bốc thăm”, mở phiếu đọc từ cho các bạn nghe rồi nêu
thật nhanh cụm từ có hình ảnh so sánh để làm rõ nghĩa từ đó.
Chẳng hạn: HS1: “bốc thăm” được từ trắng – Có thể nêu cụm từ so sánh:
trắng như tuyết, trắng như vơi, (hoặc: trắng như trứng gà bóc).
- Trọng tài cùng cả lớp chứng kiến và xác nhận kết quả Đúng- Sai
+ Đúng được bao nhiêu kết quả được bấy nhiêu điểm .
+ Trọng tài đếm từ 1-5 vẫn khơng nêu được kết quả thì khơng có điểm .
- Lần lượt 5 học sinh lên bốc thăm thử tài. Hết 5 phiếu thì về chỗ, thư kí
cơng bố kết quả .
- Mỗi bộ phiếu sẽ chọn ra 1 người có tài so sánh cao nhất là người thắng
cuộc.
* Cách tiến hành này có thể thay đổi tùy sự linh động của giáo viên. Cũng có
thể mỗi học sinh bốc lần lượt cả 5 phiếu. Mỗi phiếu chỉ cần nêu một cụm từ.
Người sau không được nêu lặp cụm từ của người trước. Hoặc có thể bốc cả năm

phiếu và tiến hành theo nhóm. Nhóm nào tìm được nhiều từ là nhóm thắng cuộc.
2.3.2.5, Phát huy khả năng cảm thụ văn học của học sinh
Ví dụ: Đọc khổ thơ sau:
“ Thân dừa bạc phếp tháng năm
Quả dừa- đàn lợn con nằm trên cao
Đêm hè hoa nở cùng sao
Tàu dừa- chiếc lược chải vào mây xanh”.
(Trần Đăng Khoa)
Khổ thơ trên tác giả đã dùng biện pháp nghệ thuật gì? Biện pháp đó giúp các
em cảm nhận được điều gì mới mẻ về sự vật?
Học sinh đưa ra ý kiến cá nhân, giáo viên giúp các em thấy được bằng biện
pháp nghệ thuật so sánh, Trần Đăng Khoa giúp ta cảm nhận được vẻ kỳ lạ ngộ
nghĩnh của những quả dừa, nét đẹp và lạ của tàu dừa. Từ đó giúp các em có thể
viết được những câu, đoạn văn thêm sinh động, gợi cảm giàu hình ảnh.
Ví dụ : Trong bài thơ “ Mẹ vắng nhà ngày bão” có đoạn viết:
Thế rồi cơn bão qua
Bầu trời xanh trở lại
Mẹ về như nắng mới
Sáng ấm cả gian nhà.
Em hãy tìm hình ảnh so sánh trong đoạn thơ trên và nêu cái hay của hình ảnh
đó?
Học sinh tìm được hình ảnh so sánh và giải thích được vì sao tác giả lại so
sánh được như vậy và đó chính là cái hay của sự so sánh. Vai trị vị trí của mẹ
trong gia đình giống như tia nắng mới đem lại sự ấm áp, bình yên và hạnh phúc
cho cả gia đình.
2.3.3.Lựa chọn các phương pháp, hình thức dạy học và đồ dùng trực quan
phù hợp với từng tiết dạy
2.3.3.1Lựa chọn phương phápdạy học phù hợp:
Có nhiều phương pháp để dạy Luyện từvà câu lớp3.Tuy nhiên, khi dạy nội
dung so sánh ta thường hay sử dụng hai phương pháp cơ bản đó là trực quan và

13


giảng giải. Trong các bài tập của sách Tiếng Việt 3 các câu văn, thơ trích dẫn đều
thuộc loại so sánh tu từ (so sánh hình ảnh) nhằm diễn tả một cách có hình ảnh
đặc điểm của sự vật,sự việc. Trong khi đó tư duy của trẻ tiểu học là tư duy trực
quan cụ thể. Có em chưa hề nhìn thấy cánh diều, có em sẽ khó khăn khi liên tưởng
(dấu hỏi) với “Vành tai nhỏ” hoặc “Những chùm dừa”với hình ảnh "đàn lợn
con” nằm quây quanh bụng mẹ. Bởi vậy trực quan tranh hoặc hình ảnh động về
cánh diều, vành tai hay cây dừa sai quả ....sẽ góp phần đắc lực giúp các em dễ
dàng nhận thấy các hình ảnh so sánh đó thật chính xác, sinh động và gợi tả

Tuy nhiên có những hình ảnh so sánh khơng thể dùng trực quan để giảng giải
vì nó thuộc kiểu so sánh khác loại (so sánh cái cụ thể với cái trừu tượng)
Ví dụ: “Cơng cha nghĩa mẹ như núi cao biếnrộng”.
Hay:
“Đêm nay con ngủ giấc trịn
Mẹ là ngọn gió của con suốt đời”
Khi đó giáo viên phải dùng phương pháp giảng giải, mô tả để học sinh phát
huy tư duy trừu tượng của mìnhhình dung, tưởng tượng ra đặc điểm giống nhau
giữa cái cụ thế và trừu tượng ấy. (Ý nói cơng ơn sinh thành ni dưỡng dạy bảo
của cha mẹ giành cho con như biển nước, biển không bao giờ khơ cạn. Hoặc:
Hình bóng mẹ, tình cảm của mẹ luôn là nguồn động viên an ủi con, là ngọn gió
lành thối mát tâm hồn con đến suốt cuộc đời). Tuy nhiên để giờ học sinh động
giáo viên cần linh hoạt phối hợp cả hai phương pháp trên và các phương pháp
khác, đa dạng hóa các hoạt động họctập.
2.3.3.2. Sử dụng linh hoạt các hình thức dạy học
Trong mỗi giờ học, giáo viên cần đa dạng hóa các hoạt động học tập nhằm
kích thích được tính chủ động sáng tạo và gây hứng thú học tập cho các em, giáo
viên có thể phối hợp các hoạt động học tập như học cá nhân, học theo cặp, học

theo nhóm để tránh sự nhàm chán của học sinh.
Việc tổ chức tốt các hình thức dạy học nhằm cuốn hút học sinh vào các hoạt
động học tập một cách chủ động tích cực.
Giáo viên sử dụng các hình thức tổ chức dạy học như: học sinh thảo luận
nhóm, đàm thoại với nhau hoặc hoạt động cá nhân về một vấn đề. Qua đó học
sinh lĩnh hội kiến thức, tích cực, tự giác. Khơng khí học thoải mái khiến học sinh
14


mạnh dạn, tự tin khi nói. Các em có khả năng diễn đạt, phát biểu ý kiến trước đông
người một cách lưu lốt, rành mạch.
Ví dụ: Tìm các thành ngữ và tục ngữ có chứa hình ảnh so sánh.
Dạng bài tập này giáo viên cho học sinh thảo luận theo nhóm đơi, sau đó
các nhóm thi nhau trình bày kết quả của nhóm.
Đối với những yêu cầu cao hơn giáo viên có thể cho các em thảo luận theo
nhóm lớn. Ví dụ: Hãy đặt câu có chứa các thành ngữ hoặc tục ngữ vừa tìm
2.3.3.3. Tăng cường sử dụng đồ dùng trực quan phù hợp gây hứng thú học
tập cho học sinh
Các kiến thức trong phân môn Luyện từ và câu nói chung trong dạy học
kiểu bài so sánh nói riêng được cung cấp qua hệ thống bài tập nên áp dụng
nguyên tắc trực quan trong quá trình dạy học là hết sức cần thiết. Với mỗi bài
tập giáo viên có thể chép sẵn ngữ liệu hoặc đáp án ra bảng phụ trước khi bước
vào giờ học và sử dụng bảng phụ hợp lý với tiến trình giờ học. Sau khi đã yêu
cầu học sinh làm bài tập cá nhân hoặc theo nhóm, giáo viên yêu cầu học sinh
lên bảng chữa trực tiếp, có thể dùng giấy khổ to để ghi lại nội dung bài tập, nếu
bảng phụ không đủ. Tương tự như bảng phụ và giấy khổ to, các bảng giấy
hoặc thẻ từ ghi sẵn ngữ liệu cũng là những đồ dùng dạy học hiệu quả nên được
sử dụng linh hoạt trong tiết Luyện từ và câu. Đặc biệt ngày nay công nghệ
thông tin đang phát triển, chúng ta có thể áp dụng trong dạy kiểu bài so sánh
bằng cách đưa ra các hình ảnh động hoặc tranh ảnh để học sinh cảm nhận rõ sự

giống và khác nhau giữa các sự vật. Từ đó các em sẽ dễ dàng so sánh các sự
vật một cách chính xác, chắc chắn giờ học sẽ sinh động và hiệu quả. Tuy nhiên
giáo viên cần phải biết sử dụng khéo léo hợp lý đồ dùng với từng bài tập, không
quá lạm dụng hình ảnh. Ngồi ra, trong q trình dạy học, giáo viên có thể thiết
kế và sử dụng phiếu bài tập nhằm thay đổi hình thức tổ chức dạy học, tạo hứng
thú cho các em trong giờ học. Trong các tiết Luyện từ và câu ta có thể sử dụng
nhiều đồ dùng dạy học khác nhau để giờ học sinh động, hấp dẫn, không tẻ
nhạt. Giáo viên phải biết phối hợp sử dụng các đồ dùng dạy học một cách linh
hoạt. Có như vậy hiệu quả tiết dạy mới được như mong muốn. Giáo viên cần
nắm vững và tích cực vận dụng đổi mới phương pháp dạy học khi dạy Luyện từ
và câu; Để học sinh tự thực hành các bài tập, làm quen khám phá kiến thức.
Cuối bài giáo viên có thể tóm tắt (chốt kiến thức) thật ngắn gọn để học sinh
nắm chắc bài.
Ví dụ: Bài 1/ trang 24, sau khi học sinh luyện tập tìm được các hình ảnh
so sánh trong những khổ thơ sau:
“Em yêu nhà em
Hàng xoan trước ngõ
Hoa xao xuyến nở
Như mây từng chùm”
(Tô Hà)
15


Giáo viên cho các em bước đầu cảm nhận được trong mỗi hình ảnh so
sánh các sự vật đều có những nét tương đồng (đặc điểm giống nhau)

(Đưa hình ảnh động hoặc tranh ảnh Hoa xoan - mây)
Trên thực tế có những học sinh chưa từng được nhìn thấy hoa xoan. Do vậy
hình ảnh hoa xoan - mây sẽ giúp học sinh thấy được đặc điểm giống nhau giữa hai
sự vật và qua đó cảm nhận được cái hay, cái đẹp. Hoa xoan nhỏ li ti, màu tím

ngắt, nở thành chùm. Khi hoa xoan nở rộ gợi cho ta cảm giác chúng như những
chùm mây tím xốp đang bồng bềnh trơi. Sau khi các em tìm được các từ so sánh
trong những câu trên: tựa, là, như (có thể thay bằng những từ khác : tựa như,
giống như, y như). Giáo viên có thể chốt bài:
Trong mỗi hình ảnh so sánh trên thường có mấy sự vật được so sánh với
nhau; Các sự vật được so sánh có những đặc điểm như thế nào với nhau ? (ngang
bằng, giống nhau).
Để thực hiện sự so sánh ngang bằng (giống nhau) ta thường dùng những từ chỉ
sự so sánh nào ? (là, tựa, như, tựa như...).
- Ngoài ra, trong những giờ nghỉ giải lao hoặc trong các buổi sinh hoạt ngoại
khoá,... giáo viên có thể sưu tầm những câu chuyện có nói đến tác dụng của
phép so sánh, những đoạn văn, khổ thơ có những hình ảnh so sánh đẹp kể và đọc
cho các em nghe.
Ví dụ: Câu chuyện xưa nói về vua Ngu Vương và Huệ Tử – một người ăn
nói rất giỏi. Nhờ tài giỏi ví von, so sánh Huệ Tử đã thoát chết, được vua Ngu
Vương trọng dụng và hậu thưởng.
(Sưu tầm trong báo Văn học và Tuổi trẻ – Số 152 tháng 12, năm 2007)
Bên cạnh đó, tơi còn yêu cầu các em thi đua sưu tầm những câu thơ, câu văn
có hình ảnh so sánh hay phù hợp nội dung buổi ngoại khoá để cho các em thi
nhau đọc.
- Trong giờ học các em càng trở nên hứng thú hơn khi giáo viên sử dụng lời
“khen” đúng lúc và thường xuyên “thưởng điểm” cho các em. Điều đó khích lệ
lịng hăng say, niềm hứng khởi, tự tin khi các em thực hành. Giáo viên nên tuân
theo một nguyên tắc “coi học sinh là chủ thể luyện tập” tôn trọng cái “tôi” của
các em. Bên cạnh những việc làm trên, có thể tổ chức nhiều trị chơi học tập để
thay đổi khơng khí lớp học để giúp các em hiểu kĩ hơn các loại hình bài tập về
biện pháp tu từ so sánh.Nhờ vậy giờ học trở nên nhẹ nhàng, sinh động và rất
hiệu quả bởi nó phù hợp với tâm lí lứa tuổi của các em.
- Trong mỗi giờ dạy, giáo viên tăng cường sử dụng các thiết bị dạy học, sưu
tầm thêm tranh, ảnh, vật thực làm cho tiết dạy thêm sinh động, hiệu quả.

16


Từ những việc làm trên, tôi đã dần giúp các em u thích mơn Tiếng Việt
đặc biệt là với phân mơn Luyện từ và câu.
2.3.4. Dạy tích hợp biện pháp tu từ so sánh qua các mơn học khác:
2.3.4.1.Tích hợp trong môn Tiếng Việt
Khi dạy các phân môn thuộc bộ môn Tiếng Việt, giáo viên cần lồng ghép
giữa các phân môn trong môn Tiếng Việt với nhau.
* Đối với phân môn Tập đọc:
Khi dạy bài Tập đọc: "Hai bàn tay em" SGK Tiếng Việt 3 tập I (Trang 7).
Trong bài này có rất nhiều hình ảnh tu từ so sánh giáo viên cần nhấn mạnh để
gây hứng thú cho tiết tiếp theo của phân môn: "Luyện từ và câu". Giáo viên có
thể cho học sinh tìm các câu thơ có sử dụng biện pháp tu từ so sánh .
Hay dạy bài Tập đọc “Cửa Tùng” (SGK Tiếng Viêt 3- tâp I -trang 109) để
giải thích nghĩa của các từ ngữ (chiếc thau đồng ,chiếc lược đồi mồi) GV có
thể cho học sinh tìm câu văn có sử dụng biện pháp so sánh. Học sinh sẽ rất dễ
dàng tìm ra câu :
- Mặt trời như chiếc thau đồng đỏ ối chiếu xuống mặt biển .
- Người xưa đã ví bờ biển Cửa Tùng giống như một chiếc lược đồi mồi
cài vào mái tóc bạch kim của sóng biển.
Với những câu văn hay như thế, học sinh đã tìm được thì sẽ nhớ rất lâu và
sẽ áp dụng tốt trong việc viết văn của mình.
*Đối vơi phân mơn Tập làm văn:
Để học sinh vận dụng tốt biện pháp tu từ so sánh không những dạy trong tiết
luyện từ và câu mà dạy cả trong giờ học Tập làm văn, tần số sử dụng càng nhiều
thì thẻ hiện sự thành cơng càng lớn.
Đề bài Tập làm văn (tuần 3):
Hãy viết một đoạn văn (từ 5 đến 7 câu) kể về gia đình em.
Giáo viên có thể gợi ý cho học sinh biết cách dùng biện pháp tu từ so sánh

khi nói về mỗi thành viên trong gia đình mình. Giúp học sinh thấy được sự hấp
dẫn sinh động, thể hiện sắc thái biểu cảm khi câu văn có sử dụng biện pháp tu từ
so sánh qua bài văn cụ thể của học sinh.
Bài Tập làm văn ở tuần 11:
Đề bài: Em hãy viế một đoạn văn (từ 8 đến 10 câu) kể về quê hương em.
Khi nói quang cảnh quê hương em học sinh đã miêu tả
“Quê em là một vùng đồi núi. Làng em nằm dọc theo chân núi. Sau làng là
những dãy núi trùng trùng điệp điệp nối đuôi nhau như một bức thành che chở
cho làng. Trước làng là cánh đồng lúa rộng mênh mông đang vào mùa gặt hái
chạy dài tít tắp giống như một tấm thảm vàng khổng lồ. Ơm lấy cánh đồng là
dịng kênh ngoằn ngo, uốn lượn như một con trăn khổng lồ đưa nước về tưới
tắm cho đồng ruộng. Dọc theo con đường bê tông là hai hàng cây giống như
những cái ô che mát cho dân làng.”
2.3.4.2. Tích hợp trong mơn Tự nhiên xã hội :
Khi dạy bài “ Các thế hệ trong gia đình’’ SGK Tự nhiên và xã hội 3 (trang
38) giáo viên có thể cho học sinh tìm những câu tục ngữ, ca dao, thành ngữ nói
về tình cảm của những ngưịi thân trong gia đình. Học sinh đại trà tìm tự do.
17


Học sinh năng khiếu, giáo viên có thể yêu cầu cao hơn (có sử dụng biện pháp so
sánh )
- Anh em như thể tay chân
- Con hơn cha là nhà có phúc
- Cơng cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
2.4. Hiệu quả và giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
Qua việc vận dụng đồng loạt các giải pháp, biện pháp cũng như sự kết hợp
hài hịa giữa các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, tôi thấy chất lượng
học tập của học sinh về biện pháp tu từ so sánh ở phân môn Luyện từ và câu lớp

3 được nâng lên một cách rõ rệt. Cũng như việc dùng từ đặt câu, viết đoạn văn
trong phân môn Tập làm văn giàu hình ảnh, sinh động, hấp dẫn được thể hiện ở
kết quả bài khảo sát cuối học kỳ I năm học: 2020 – 2021 với phiếu bài tập như
sau:
Trường Tiểu học Thành Lộc:
Học tên học sinh
Lớp: 3A – năm học: 2020- 2021
Đề khảo sát chất lượng phân môn Luyện từ và câu
Thời gian: 40 phút
Câu 1: Đọc đoạn thơ sau:
“Chiều đi học về
Chúng em qua ngôi nhà đang xây dở
Giàn giáo tựa cái lồng che chở
Trụ bê tông nhú lên như một mầm cây
Bác thợ nề ra về còn huơ huơ cái bay:
Tạm biệt!”
(Đồng Xuân Lan)
a, Gạch một gạch dưới các sự vật được so sánh, gạch hai gạch dưới các từ
so sánh?
b, Các hình ảnh so sánh trong đoạn thơ trên đã góp phần diễn tả nội dung
thêm sinh động, gợi tả như thế nào?
Câu 2: Viết mộ đoạn văn (khoảng 7 đến 10 câu) kể về quang cảnh trường em
vào buổi sáng mùa xuân (có dùng biện pháp tu từ so sánh).
Lớp

3A

Sau khi chấm bài khảo sát tôi thu được kết quả như sau:
Sĩ số Hoàn thành tốt
Hoàn thành

Chưa hồn thành

34

SL

TL

SL

TL

SL

TL

24

70,5%

10

29,5%

0

0

Qua q trình nghiên cứu, thực hiện đề tài, việc dạy học phân môn Luyện
từ và câu đạt được kết quả khả quan, học sinh mạnh dạn tự tin hơn trong học

tập, vốn từ của học sinh phong phú hơn, nhận biết kiểu bài so sánh trong phân
mơn chính xác, chắc chắn, rõ ràng, mạch lạc.
18


Với kết quả như nói ở trên phần nào đã nâng cao chất lượng chung của
môn Luyện từ và câu tồn trường mà tơi đã triển khai, áp dụng trong tổ chuyên
môn. Bước đầu nhận thấy được sự chuyển biến đáng kể trong tinh thần học
tập của học sinh thông qua các tiết dự giờ thăm lớp, thao giảng, những phản
hồi của đồng nghiệp … đặc biệt qua kết quả thể hiện trong sổ Theo dõi chất
lượng học sinh.
3. Kết luận
3.1. Kết luận:
Tiếng Việt là môn học công cụ, giúp cho học sinh nắm được những tri thức
cơ bản của khoa học Việt ngữ. Luyện từ và câu là phân mơn cơ bản trong
chương trình Tiếng Việt tiểu học, là chìa khóa để học tốt các mơn học khác. Vì
vậy dạy Luyện từ và câu không những giúp các em biết tìm hình ảnh so sánh, từ
để so sánh, các sự vật được so sánh chính xác, rõ ràng, mạch lạc, lưu lốt có sức
cuốn hút lịng người. Đặc biệt biết biến đổi tri thức văn hóa, dụng ý của đề bài
thành vốn kinh nghiệm nhiều mặt để tìm hiểu chân lí, giá trị thẩm mĩ đích thực
của cuộc sống mn hình mn vẻ.
Qua kinh nghiệm rèn kỹ năng nhận biết biện pháp tu từ so sánh cho học sinh
lớp 3. Bản thân tôi thấy rằng cần hướng và rèn cho học sinh những kỹ năng sau:
* Về phía học sinh:
- Chuẩn bị kĩ bài trước khi đến lớp .
- Học sinh tự củng cố vốn kiến thức của mình bằng cách đọc nhiều sách báo
phù hợp với lứa tuổi, xem băng hình, quan sát tranh...
- Cho học sinh giao lưu trực tiếp với các bạn trong lớp, trong trường sau mỗi
bài học: "Luyện từ và câu" dạng này để học sinh khắc sâu kiến thức.
- Khi làm bài tập yêu cầu học sinh đọc kỹ đề bài, xác định đúng yêu cầu của

bài, phân biệt được chúng thuộc kiểu bài so sánh dạng nào rồi mới bắt tay vào
làm bài.
- Khi quan sát sự vật, cần quan sát thận tinh tế để tìm ra những điểm giống
nhau, những nét tương đồng .
* Về phía giáo viên :
- Sau mỗi bài học, giáo viên phải dành thời gian cho phần dặn dị bài sau thật
cụ thể . Có như vậy học sinh mới chuẩn bị tốt bài mới .
- Luôn có sự kiểm tra phần chuẩn bị bài của học sinh. Nhận xét cụ thể.
- Chuẩn bị tốt nội dung bài dạy. Định hướng cụ thể phương pháp và hình thức
tổ chức cho từng hoạt động. Phân bố thời gian hợp lí cho từng hoạt động .
- Ln gắn lí thuyết với thực hành.
- Phải trực quan, không thể thiếu đồ dùng dạy học (Mơ hình, kí hiệu, đồ dụng,
- Hệ thống ngôn ngữ phải trong sáng, gần gũi, dễ hiểu
19


- Nếu dự định tổ chức trò chơi học tập thì phải chuẩn bị kĩ. Lường trước các
tình huống sư phạm có thể xảy ra.( Học sinh có thể dùng từ thiếu tính sư phạm)
khơng chơi ngẫu hứng, tuỳ tiện.
3.2. Đề xuất:
Nhà trường tạo điều kiện tốt nhất phục vụ cho công việc giảng dạy: tài liệu
tham khảo…Thường xuyên tổ chức các hoạt động ngoại khóa tạo cơ hội cho đội
ngũ giáo viên nâng cao chuyên môn nghiệp vụ.
Bên cạnh đó quan điểm tích hợp trong dạy học khơng phải là một phương
pháp nhưng nó là một quan điểm cơ bản chủ yếu nhất là khi phối hợp quá trình
dạy học môn Tiếng Việt trong nhà trường phổ thông, cùng với việc thay đổi sách
giáo khoa thì đây là một quan điểm mới đối với giáo viên. Theo tôi vẫn cịn một
số ít giáo viên chưa thực sự quan tâm tới việc dạy tích hợp giữa các mơn học
cũng như chưa nắm bắt hết được dụng ý của sách giáo khoa cho nên dẫn đến
chất lượng giờ dạy chưa cao.

Trên đây chỉ là ý kiến nho nhỏ của bản thân tôi, chắc chắn trong bài viết
không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự góp ý chân thành của bạn
đọc và đồng nghiệp.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn ban giám hiệu nhà trường, tổ chuyên
môn, các đồng nghiệp cùng các em học sinh đã giúp đỡ tôi hồn thành đề tài
này.
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị
Tơi xin cam đoan sáng kiến kinh
nghiệm này do tôi tự viết ra, không sao
chép của người khác.
Thành Lộc ngày 20 tháng 3 năm 2021
Người viết
Phạm Thị Vinh

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 2, lớp 3, lớp 5,
2. Sách Luyện từ và câu lớp 3
3. 35 đề ôn luyện Tiếng Việt 3
4.25 đề kiểm tra học sinh giỏi lớp 3
5. Tài liệu trên mạng Internet



×