Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Căng thẳng nghề nghiệp và một số yếu tố ảnh hưởng ở điều dưỡng lâm sàng tại hai bệnh viện Hùng Vương và Từ Dũ đang học liên thông lên đại học năm 2019

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (400.37 KB, 9 trang )

Nguyễn Thái Quỳnh Chi và cộng sự

Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 04-2020)
Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.04-2020)

BÀI BÁO NGHIÊN CỨU GỐC

Căng thẳng nghề nghiệp và một số yếu tố ảnh hưởng ở điều dưỡng lâm
sàng tại hai bệnh viện Hùng Vương và Từ Dũ đang học liên thông lên
đại học năm 2019
Nguyễn Thái Quỳnh Chi1*, Lê Minh Sang2

TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu thực hiện nhằm mô tả mức độ căng thẳng nghề nghiệp của đối tượng nghiên cứu
(ĐTNC) và một số yếu tố ảnh hưởng năm 2019 tại hai bệnh viện Hùng Vương và Từ Dũ đang học liên
thông lên đại học.
Phương pháp nghiên cứu: Đây là nghiên cứu cắt ngang phân tích, kết hợp định lượng và định tính,
được thực hiện từ tháng 4-8/2019 trên các điều dưỡng lâm sàng của hai bệnh viện Hùng Vương và Từ
Dũ đang học liên thông lên đại học tại trường Đại học Nguyễn Tất Thành.
Kết quả: Số liệu định lượng thu thập từ bộ câu hỏi phát vấn (tham khảo bộ công cụ Expanded Nursing
Stress Scale) với 232 điều dưỡng và được phân tích bằng SPSS 20.0. Thơng tin định tính thu thập từ
02 cuộc thảo luận nhóm và được phân tích theo chủ đề. Kết quả cho thấy căng thẳng nghề nghiệp của
ĐTNC ở mức trung bình (điểm trung bình chung là 2,14). Có 03 nhóm yếu tố gây căng thẳng nhiều nhất
là “đối mặt với cái chết của người bệnh”, “vấn đề liên quan đến gia đình người bệnh”, và “khối lượng
cơng việc”. Nhóm yếu tố ảnh hưởng đến mức độ căng thẳng nghề nghiệp của ĐTNC bao gồm: yếu tố cá
nhân, yếu tố gia đình, và yếu tố học tập.
Kết luận và khuyến nghị: Khoa/bệnh viện nên có chính sách bảo đảm hài hịa khối lượng cơng việc
để giảm bớt áp lực, đảm bảo điều dưỡng vẫn hoàn thành nhiệm vụ trong q trình đi học. Ngồi ra, cần
thiết có các khóa tập huấn kỹ năng ứng phó với những tình huống liên quan đến người bệnh và người
nhà người bệnh.
Từ khóa: căng thẳng nghề nghiệp, điều dưỡng, vừa làm vừa học, ENSS.



ĐẶT VẤN ĐỀ
Căng thẳng liên quan đến nghề nghiệp là
một trong những vấn đề gây ra các vấn đề
sức khỏe tâm thần cho người lao động. Tình
trạng căng thẳng kéo dài liên tục làm ảnh
hưởng đến chất lượng công việc, giảm năng
suất lao động của người lao động. Theo
khảo sát của Viện Quốc gia Sức khỏe và An
tồn nghề nghiệp của Hoa Kỳ, năm 2007 có
40% người được hỏi cho rằng căng thẳng
*Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Thái Quỳnh Chi
Email:
1
Trường Đại học Y tế công cộng
2
Trường Đại học Nguyễn Tất Thành

là nguyên nhân chính khiến người lao động
phải đi bệnh viện (1).
Nghề Y là một nghề đặc biệt, do đối tượng
trực tiếp là con người, đồng thời đây cũng
nghề tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây căng thẳng,
trong đó phải kể tới người làm cơng tác điều
dưỡng (ĐD). Nhiều nghiên cứu về căng thẳng
nghề nghiệp ở ĐD đã chỉ ra việc phải đối mặt
với các vấn đề liên quan đến người bệnh trong
quá trình làm việc là những nguyên nhân gây
Ngày nhận bài: 01/8/2020
Ngày phản biện: 12/8/2020

Ngày đăng bài: 29/12/2020

53


Nguyễn Thái Quỳnh Chi và cộng sự

Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 04-2020)
Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.04-2020)

căng thẳng nhất trong cơng việc của người ĐD
(1-3). Ngồi ra, mâu thuẫn với bác sĩ, người
bệnh và gia đình người bệnh, cơng việc quá
tải cũng là những yếu tố gây căng thẳng và
chán nản trong công việc của ĐD (3, 4). Đối
với ĐD lâm sàng vừa đi học và đi làm, nghiên
cứu của Leodoro Jabien Labrague (2013) đã
chỉ ra yếu tố gây căng thẳng nhất là kỳ thi, bài
tập và công việc quá tải ở bệnh viện kết hợp
với những yêu cầu học ở trường (5).
Ở Việt Nam, các nghiên cứu về yếu tố gây căng
thẳng ở ĐD đã có khá nhiều; tuy nhiên, nghiên
cứu trên đối tượng ĐD đang học liên thông từ
trung cấp lên đại học lại khá hiếm. Nghiên cứu
này của chúng tơi tập trung vào nhóm ĐD lâm
sàng của hai bệnh viện Hùng Vương và Từ Dũ
đang học liên thông lên đại học tại trường Đại
học Nguyễn Tất Thành nhằm mơ tả tình trạng
stress nghề nghiệp của họ và một số yếu tố ảnh
hưởng đến tình trạng này.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Thiết kế cắt ngang phân tích, nghiên cứu
kết hợp cả hai phương pháp định lượng và
định tính.
Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu thực hiện ở bệnh viện phụ sản
Hùng Vương và Từ Dũ (thành phố Hồ Chí
Minh và trường Đại học Nguyễn Tất Thành.
Thời gian thực hiện từ tháng 4-8/2019.
Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện với các ĐD lâm
sàng của hai bệnh viện phụ sản Hùng Vương
và Từ Dũ (thành phố Hồ Chí Minh) và đang
theo học liên thơng lên đại học (năm 1 và năm
2) tại trường Đại học Nguyễn Tất Thành.

54

Cỡ mẫu và cách chọn mẫu
Số liệu định lượng thu thập trên phiếu phát
vấn 250 ĐD. Số liệu định tính được thu thập
từ 02 cuộc thảo luận nhóm (TLN) với ĐD
trưởng tua trực của hai bệnh viện.
Phương pháp thu thập số liệu và công cụ
nghiên cứu
Nội dung căng thẳng nghề nghiệp của bộ
câu hỏi phát vấn sử dụng thang đo Expanded
Nursing Stress Scale (ENSS) đã được chuẩn
hóa tại Việt Nam (6). Số liệu định lượng

được quản lý và phân tích bằng phần mềm
SPSS20.0. Thơng tin định tính làm rõ các yếu
tố ảnh hưởng và được phân tích theo chủ đề
(khơng sử dụng phần mềm).
Đối với việc xác định tình trạng căng thẳng
nghề nghiệp của ĐD, bộ câu hỏi ENSS được
chia làm 8 nhóm yếu tố: 1/ Đối mặt với cái
chết của người bệnh (7 câu); 2/ Mẫu thuẫn
với bác sĩ (5 câu); 3/ Chưa có sự chuẩn bị về
cảm xúc khi chăm sóc người bệnh (3 câu); 4/
Các vấn đề liên quan đến đồng nghiệp điều
dưỡng (6 câu); 5/ Các vấn đề liên quan đến
cấp trên (7 câu); 6/ Khối lượng công việc (9
câu); 7/ Không chắc chắn về hướng điều trị
cho người bệnh (9 câu); 8/ Vấn đề liên quan
đến gia đình người bệnh (8 câu). Bộ câu hỏi
ENSS đánh giá mức độ stress nghề nghiệp
bằng thang đo Likert 4 mức độ: 1=Chưa bao
giờ căng thẳng; 2=Thỉnh thoảng căng thẳng;
3=Thường xuyên căng thẳng; 4=Vô cùng
căng thẳng. Điểm trung bình tổng của điểm
căng thẳng được tính bằng tổng các điểm
của từ câu trong mỗi lĩnh vực chia cho tổng
số câu của nhóm yếu tố đó. Theo đó, điểm
trung bình của lĩnh vực nào cao cho thấy
mức độ căng thẳng của ĐD ở nhóm yếu tố
đó cao. Mức độ căng thẳng được xác định
như sau (6):



Nguyễn Thái Quỳnh Chi và cộng sự

Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 04-2020)
Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.04-2020)

Điểm trung bình

Mức độ căng thẳng

1.00 - < 2.00

Thấp

2.00 - 3.00

Trung bình

> 3.00 - 4.00

Cao

Đạo đức nghiên cứu

Nguyễn Tất Thành là nữ (99,1%), độ tuổi
từ 40 trở xuống (83,6%), số năm công tác
trong nghề dưới 20 năm (93,1%). 75,4%
hiện đang làm việc tại Khoa Cấp cứu, phịng
mổ… 53,9% số ĐD chưa có nhà riêng. Tỷ lệ
ĐD phản ánh họ là người mang lại thu nhập
chính trong gia đình là 55,2%. Dưới 40% số

ĐD có con nhỏ dưới 5 tuổi và phải chăm sóc
người thân già yếu/bệnh tật. Phần lớn trong
số họ đều có mối quan hệ hịa hợp trong gia
đình (94,8%).

Nghiên cứu được Hội đồng Đạo đức của
Trường Đại học Y tế Công cộng thông
qua theo Quyết định số 210/2019/YTCC-HĐ3.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Căng thẳng nghề nghiệp ở điều dưỡng
lâm sàng
Tổng số có 232/250 phiếu định lượng (92%)
đạt yêu cầu để đưa vào phân tích. Đa phần
ĐD lâm sàng của hai bệnh viện Hùng Vương
và Từ Dũ đang học liên thông tại Đại học

Căng thẳng nghề nghiệp của ĐTNC ở mức
độ trung bình (với điểm trung bình chung
là 2,14).

Bảng 1. Mức độ căng thẳng nghề nghiệp của điều dưỡng (n=232)
Điểm
trung bình

Nhóm yếu tố gây căng thẳng

Mức độ căng
thẳng

Đối mặt với cái chết của người bệnh


2,49

Trung bình

Vấn đề liên quan đến gia đình người bệnh

2,41

Trung bình

Khối lượng cơng việc

2,21

Trung bình

Mâu thuẫn với bác sĩ

2,15

Trung bình

Chưa có sự chuẩn bị về cảm xúc khi chăm sóc người bệnh

2,06

Trung bình

Khơng chắc chắn về hướng điều trị cho người bệnh


2,04

Trung bình

Các vấn đề liên quan đến đồng nghiệp điều dưỡng

1,89

Thấp

Các vấn đề liên quan đến cấp trên

1,89

Thấp

2,14

Trung bình

Trung bình chung

Có 6/8 lĩnh vực gây căng thẳng cho ĐD lâm
sàng ở mức độ trung bình, cịn lại là mức độ
thấp. Trong sáu lĩnh vực gây ra mức độ căng
thẳng cho ĐD lâm sàng, việc phải “đối mặt

với cái chết của người bệnh” có điểm trung
bình cao nhất và cũng được các ĐD đề cập

trong các TLN. Đối mặt với cái chết của người
bệnh đề cập đến các vấn đề như: cảm giác bất
55


Nguyễn Thái Quỳnh Chi và cộng sự

Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 04-2020)
Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.04-2020)

lực khi không cứu được người bệnh, bác sĩ
khơng có mặt khi người bệnh tử vong, chứng
kiến sự chịu đựng của người bệnh, thấy người
bệnh tử vong…
“Một trong những điều sợ hãi nhất của ĐD là
chứng kiến cái chết của người bệnh, đặc biệt
là cái chết của các sản phụ trẻ tuổi, vì sinh con
mà gặp tai biến sản khoa, người mẹ mất đi để
lại đứa bé trên đời, đặc biệt thương tâm hơn là
khi chứng kiến cảnh người chồng ơm con nhỏ
khóc người vợ đã ra đi vĩnh viễn” (TLN1).
“Tụi em cũng như các bác sĩ đều đã trải
nghiệm qua những giây phút bàng hồng,
cảm thấy bất lực khi khơng cứu chữa được
cho người bệnh đang phó thác tính mạng cho
mình cũng như đang khẩn cầu sự trợ giúp từ
phía mình” (TLN2).
Căng thẳng nghề nghiệp đến từ “vấn đề liên
quan đến gia đình người bệnh” cũng được
phản ánh gây ra mức độ căng thẳng với điểm

trung bình cao thứ hai. Lĩnh vực này đề cập
đến các vấn đề liên quan đến người bệnh và
gia đình người bệnh như người bệnh/gia đình
có những địi hỏi khơng hợp lý, phải làm việc
với người bệnh/gia đình hung hăng/bạo lực/
có lời lẽ lăng mạ/sỉ nhục, phải làm việc với
sự cư xử tồi tệ từ phía gia đình người bệnh…
Các yếu tố này cũng được khẳng định trong
hai cuộc TLN là yếu tố gây căng thẳng nhiều
cho ĐD trong q trình làm việc.
“Có nhiều trường hợp người bệnh và gia đình
người bệnh rất khó chịu, có nhiều lời lẽ lăng
mạ, sỉ nhục thậm chí hung hăng, bạo lực, gây
rất nhiều căng thẳng cho nhân viên y tế, đặc
biệt là ở khoa cấp cứu và phòng mổ, là nơi
xảy ra nhiều biến cố” (TLN1).
“Nhu cầu dịch vụ chăm sóc, điều trị ngày
càng cao mà bệnh viện thì khơng đáp ứng
được tất cả, do đó người nhà người bệnh cảm
thấy người thân của họ khơng được chăm sóc
tốt hoặc bị bỏ bê. Kết hợp với việc không hiểu
56

về chuyên mơn y khoa (cũng có lỗi từ nhân
viên y tế không giáo dục sức khỏe đến nơi
đến chốn cho gia đình người bệnh - cũng có
thể là khơng có thời gian), từ đó sinh ra các
vụ thưa kiện, tố cáo từ gia đình người bệnh.
Rất mệt mỏi!” (TLN2).
Kết quả trong bảng 1 cũng cho thấy nhóm

yếu tố “Khối lượng cơng việc” là nhóm gây
ra mức độ căng thẳng nghề nghiệp cao thứ ba
cho ĐD đang làm việc tại hai bệnh viện Hùng
Vương và Từ Dũ, đồng thời cũng đang theo
học liên thông tại Đại học Nguyễn Tất Thành.
Áp lực đến với các ĐD làm việc tại Khoa Cấp
cứu, phòng mổ… nhiều hơn.
“ĐD vừa làm vừa học phải mất nhiều sức lực
cho việc học. Nếu bệnh nhân q đơng, có
lúc chúng tơi cảm thấy kiệt sức khó có thể
hồn thành tất cả nhiệm vụ được giao một
cách trọn vẹn” (TLN2).
“Việc thiếu nhân viên làm việc lúc bệnh rất
đông là một chuyện, chuyện khác chúng tôi
phải gồng gánh công việc trong khoa với
nhau để cho các bạn được đi học nên cũng
mệt” (TLN1).
Kết quả từ nghiên cứu này cũng cho thấy hai
nhóm yếu tố gây mức độ căng thẳng thấp nhất
là các vấn đề liên quan đến đồng nghiệp và
cấp trên.
“ĐD trưởng bệnh viện có chính sách khuyến
khích nhân viên đi học nâng cao trình độ, tụi
em hiện tại đang theo học lớp này là do có
được sự động viên đi học từ ĐD trưởng khoa
và ĐD trưởng bệnh viện” (TLN1).
“ĐD trưởng cư xử khéo léo trong việc phê
bình nhân viên, ít gây tổn thương cho nhân
viên” (TLN2).
“Khơng khó để làm việc với đồng nghiệp

khác giới, thậm chí chúng em cịn cảm thấy
vui khi mơi trường làm việc phải có nam
và nữ. Vấn đề ở chỗ là chúng em ít có thời


Nguyễn Thái Quỳnh Chi và cộng sự

Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 04-2020)
Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.04-2020)

gian để đồng nghiệp cùng gặp nhau chia sẻ
những khó khăn trong cơng việc cũng như
những cảm xúc khi chăm sóc người bệnh”
(TLN2).
Yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng căng thẳng
nghề nghiệp của điều dưỡng lâm sàng
Nhóm các yếu tố ảnh hưởng đến tình trạng
căng thẳng nghề nghiệp của ĐD lâm sàng
được đề cập trong TLN với đối tượng nghiên
cứu bao gồm: yếu tố cá nhân, yếu tố gia đình,
và yếu tố học tập.
Yếu tố cá nhân
ĐD làm việc tại Khoa Cấp cứu, phịng mổ,
ĐD trẻ tuổi và có thâm niên cơng tác tại bệnh
viện ngắn hơn có mức độ căng thẳng nghề
nghiệp cao hơn các ĐD khác. Các ý kiến
được ghi nhận từ hai cuộc TLN nhóm đã góp
phần khẳng định điều này.
“ĐD làm việc tại khoa bệnh nặng như Cấp
cứu, Hồi sức, Phòng mổ sẽ dễ bị căng thẳng

hơn so với các khoa bệnh khác. Căng thẳng
đến từ các khoa này khơng chỉ từ tình trạng
bệnh nặng, đột ngột nặng hoặc tử vong mà
còn áp lực từ tâm lý của người nhà người
bệnh” (TLN1).
“Các anh chị ĐD lớn tuổi và có nhiều năm
kinh nghiệm trong nghề trải qua những
trường hợp gây lo sợ một cách dễ dàng hơn
so với ĐD có ít năm kinh nghiệm. ĐD trưởng
khoa có sự tơn trọng của người bệnh nhiều
hơn, điều này sẽ tạo thuận lợi trong giao tiếp
với đồng nghiệp, với người bệnh và gia đình
người bệnh. Do đó các anh chị vững vàng và
tự tin vượt qua được những thách thức, khó
khăn trong cơng việc cũng như trong ứng
xử” (TLN2).
Yếu tố gia đình
Theo đánh giá của các ĐD tham gia nghiên
cứu, ĐD có nhà riêng, khơng phải chăm sóc

con nhỏ dưới 5 tuổi cũng người thân bị đau
yếu/bệnh tật, không phải lo thu nhập chính
trong gia đình là những người có mức độ
căng thẳng nghề nghiệp thấp hơn những
người khác.
“Nếu ĐD mang thêm áp lực là người lo kinh
tế chính trong gia đình thì lại càng tăng thêm
căng thẳng trong công việc do sự cộng hưởng
của căng thẳng từ cuộc sống” (TLN1).
“ĐD có nhà riêng thì sẽ an cư lạc nghiệp, n

tâm cơng tác, chun tâm vào cơng việc chăm
sóc người bệnh tại bệnh viện. ĐD không quá
căng thẳng về việc lo kinh tế gia đình sẽ đỡ bị
căng thẳng trong nghề nghiệp” (TLN2).
“ĐD có con nhỏ dưới 5 tuổi thì ngồi việc
chăm sóc người bệnh tại bệnh viện cịn phải
chăm sóc con nhỏ tại nhà, do đó sẽ mang
thêm gánh nặng cơng việc gia đình, lo toan
cho con nhỏ … có thể sẽ gây phân tâm trong
khi làm việc” (TLN1).
Yếu tố học tập
ĐTNC của chúng tôi là ĐD lâm sàng đang
học liên thông lên đại học, ngồi những yếu
tố ảnh hưởng đến tình trạng căng thẳng nghề
nghiệp như yếu tố cá nhân, yếu tố gia đình,
yếu tố vừa đi làm vừa đi học cũng được ghi
nhận là một yếu tố gây căng thẳng cho họ.
“ĐD vừa làm việc vừa phải học tập nên rất
vất vả, có nhiều khi khơng thể sắp xếp được
thời gian để đến lớp học vì lý do đang trong
ca làm việc (mỗi ngày có 2-3 ca làm việc)
(TLN1).
“ĐD vừa làm vừa học thì rất vất vả. Ngồi ra
cịn phải lo cho con nhỏ và chăm sóc người
lớn tuổi trong gia đình nên hầu như về đến
nhà là khơng thể học bài được. Vì vậy hầu hết
kiến thức có được là tiếp thu từ trên lớp học.
Nếu hôm nào giảng viên cho bài tập về nhà
thì thực sự rất mệt mỏi” (TLN2).
57



Nguyễn Thái Quỳnh Chi và cộng sự

Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 04-2020)
Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.04-2020)

“Điều gây ra căng thẳng nhất cho ĐD là khi
có lịch kiểm tra hoặc lịch thi trùng với lịch
làm việc tại bệnh viện. Mặc dù ĐD trưởng
khoa đã tạo điều kiện tốt nhất để tụi em có
thể tham gia khóa học, tuy nhiên thỉnh thoảng
cũng khơng thể được vì lý do số lượng người
bệnh đông không thể giải quyết được. Lúc
này tụi em căng thẳng lắm” (TLN2).

triển nặng xảy ra đột ngột do tai biến, biến
chứng trong và sau phẫu thuật cùng với tâm
lý người nhà chưa chấp nhận sự thật đã gây
áp lực rất lớn đến tâm lý của ĐD. Do đó,
để vượt qua căng thẳng liên quan đến nhóm
yếu tố này, ĐD lâm sàng cần chuẩn bị tâm lý
vững vàng, kiên định, trang bị kỹ năng xử lý
tình huống tốt để sẵn sàng ứng phó với mọi
tình huống cấp cứu, tử vong có thể xảy ra.

BÀN LUẬN

Nhóm yếu tố gây ra mức độ căng thẳng có
điểm trung bình cao thứ hai trong nhóm 8

yếu tố của bộ câu hỏi ENSS là nhóm về “vấn
đề liên quan đến gia đình người bệnh”. Mức
độ căng thẳng của ĐD do người bệnh và gia
đình người bệnh có điểm trung bình 2,41. Kết
quả này tương đương với nghiên cứu của Vũ
Thanh Tâm và cộng sự (điểm trung bình là
2,12) (7), và cao hơn nghiên cứu của tác giả
Nijole Galdikiene và cộng sự (điểm trung
bình là 2,08) (3). Xã hội Việt Nam ngày càng
phát triển, nhu cầu dịch vụ chăm sóc ngày
càng cao mà cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế
tại bệnh viện không kịp đầu tư để đủ đáp ứng
được cho tất cả. Thêm vào đó là lực lượng
ĐD khơng đủ đảm bảo về số lượng và cả chất
lượng để phục vụ chăm sóc cho người bệnh
tồn diện. Do vậy, gia đình người bệnh cảm
thấy người thân của họ khơng được chăm
sóc tốt, khi gặp tình huống tai biến hoặc biến
chứng xảy ra, họ sẵn sàng thể hiện sự phẫn
nộ, trút tất cả sự tức giận lên ĐD.

Căng thẳng nghề nghiệp ở điều dưỡng
lâm sàng
Căng thẳng nghề nghiệp của ĐD trong
nghiên cứu này ở mức độ trung bình (điểm
trung bình chung là 2,14), cao hơn kết quả
nghiên cứu của Vũ Thanh Tâm và cộng sự
(2020) tại bệnh viện Quân đội 7A (thành phố
Hồ Chí Minh) với điểm trung bình chung là
1,77 (7). Trong nghiên cứu này, có hai nhóm

yếu tố gây ra mức độ căng thẳng nhiều nhất
cho các ĐD lâm sàng là “đối mặt với cái chết
của người bệnh” và “vấn đề liên quan đến
gia đình người bệnh”. Việc phải “đối mặt
với cái chết của người bệnh” là yếu tố gây
mức độ căng thẳng lớn nhất cho ĐD lâm
sàng tại hai bệnh viện Hùng Vương và Từ
Dũ (có điểm trung bình là 2,49). Kết quả
này thấp hơn nghiên cứu của Elizabeth M.
Andal ở Philippines (2006) (có điểm trung
bình là 2,78) (8), cao hơn nghiên cứu của
Nijole Galdikiene và cộng sự ở Lithuania
(2014) (có điểm trung bình là 2,32) (3), và
cao hơn nghiên cứu của Vũ Thanh Tâm và
cộng sự (2020) (có điểm trung bình là 1,91)
(7). Điều này cho thấy sự tiến triển bệnh
của người bệnh có ảnh hưởng lớn đến ĐD,
những người người trực tiếp chăm sóc, theo
dõi tình trạng của người bệnh hàng ngày, đặc
biệt là khi tình trạng người bệnh tiến triển
xấu đi và tử vong xảy ra. Ngoài ra, trong
những trường hợp tình trạng người bệnh tiến
58

Ngồi ra, một số người bệnh/người nhà
chưa có hiểu biết về vấn đề, cách xử sự cũng
khơng được hịa nhã, lịch thiệp, từ tốn. Họ
có thể dùng đến vũ khí để gây sát thương
cho nhân viên y tế khi họ cảm thấy khơng
hài lịng về cách đón tiếp và chăm sóc người

thân của họ. Điều này đã xảy ra nhiều lần,
nhiều nhất là ở Khoa Cấp cứu của các bệnh
viện, và đã có trường hợp nhân viên y tế bị
tử vong sau khi bị người nhà người bệnh tấn
công bằng dao sắc nhọn.


Nguyễn Thái Quỳnh Chi và cộng sự

Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 04-2020)
Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.04-2020)

“Khối lượng công việc” quá tải là nhóm yếu
tố thứ ba gây căng thẳng cho ĐD (với điểm
trung bình là 2,21). Điểm trung bình này
cao hơn so với kết quả nghiên cứu của Vũ
Thanh Tâm và cộng sự (1,71) (7), cao hơn
nghiên cứu của Nijole Galdikiene và cộng
sự (1,81) (3), nhưng thấp hơn so với nghiên
cứu của tác giả Raeda F. Abualrub trên 263
ĐD người Mỹ (2,77) và 40 ĐD gốc nước
ngoài sống ở Mỹ (2,31) (9). Nghiên cứu của
chúng tôi là bệnh viện chuyên khoa sản, các
nghiên cứu khác thực hiện tại bệnh viện đa
khoa và tại trung tâm chăm sóc sức khỏe ban
đầu. Ở bệnh viện chuyên khoa sản, số lượng
người bệnh đông hơn, khối lượng công việc
tương ứng cũng nhiều hơn. Đối với các bệnh
viện tuyến đầu và chuyên khoa như hai bệnh
viện Hùng Vương và Từ Dũ, việc cân nhắc

bổ sung thêm nguồn nhân lực là cần thiết.
Ngoài ra, việc bố trí, đào tạo cho các ĐD
về các cơng việc cần hợp lý hơn, tránh tình
trạng kiêm nhiệm quá nhiều việc, khơng
đảm bảo về chất lượng chăm sóc.
Kết quả trong nghiên cứu này cũng chỉ ra hai
nhóm yếu tố gây ra căng thẳng cho ĐD lâm
sàng ở mức độ thấp là nhóm vấn đề liên quan
đến đồng nghiệp và nhóm liên quan đến cấp
trên. Điểm trung bình của hai nhóm yếu tố
này đều là 1,89, cao hơn kết quả nghiên cứu
của Vũ Thanh Tâm và cộng sự (1,55) (7) và
nghiên cứu của Trần Thị Ngọc Mai và cộng
sự (2014) (với điểm trung bình của hai nhóm
yếu tố này lần lượt là 1,13 và 0,85) (10). Kết
quả từ nghiên cứu định lượng tương đồng
với kết quả của TLN, theo đó, các ĐD trong
nghiên cứu này khơng gặp nhiều khó khăn
trong mối quan hệ với đồng nghiệp. Ngồi ra,
họ cịn có được sự động viên, hỗ trợ từ cấp
trên đối với việc nâng cao trình độ để làm tốt
hơn nữa việc chăm sóc người bệnh.
Yếu tố ảnh hưởng đến căng thẳng nghề
nghiệp của điều dưỡng

Yếu tố cá nhân
Kết quả TLN của nghiên cứu này cho thấy
ĐD nhỏ tuổi khó kiềm chế được cảm xúc khi
đối diện với các tình huống khó xử sẽ gây
căng thẳng cho họ. Kết quả này phù hợp với

kết quả nghiên cứu của tác giả Milutinovic và
cộng sự (2012), đó là có mối liên quan giữa
yếu tố tuổi và căng thẳng nghề nghiệp (11);
tương đồng với kết quả nghiên cứu của tác
giả Mai Hòa Nhung (2014) cho thấy ĐD từ
30 tuổi trở xuống có biểu hiện căng thẳng gấp
6,6 lần so với nhóm từ 30 tuổi trở lên (12).
Kết quả TLN cho thấy ĐD làm việc ở những
khoa như Hồi sức tích cực, Cấp cứu, phịng
mổ dễ bị căng thẳng nhất. Kết quả này phù
hợp với kết quả nghiên cứu của Milutinovic
và cộng sự (2012) và kết quả của Nijole
Galdikiene và cộng sự (2014) (3, 11). Ngoài
ra, ĐD có nhiều năm kinh nghiệm trong nghề
nghiệp sẽ kiểm sốt được tình trạng căng
thẳng tốt hơn ĐD có ít năm kinh nghiệm. Kết
quả này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu
của tác giả Lê Thành Tài và cộng sự (2008)
(13) và nghiên cứu của Mai Hòa Nhung
(2014) (12).
Yếu tố gia đình
Kết quả TLN của nghiên cứu này đã cho thấy
ĐD có nhà riêng ít bị căng thẳng hơn; ĐD có
con nhỏ dưới 5 tuổi, chăm sóc người thân già
yếu/bệnh tật, là người lo kinh tế chính trong
gia đình có mức độ căng thẳng cao hơn. Kết
quả nghiên cứu này phù hợp với kết quả
nghiên cứu của tác giả Dương Thành Hiệp
(2014) tìm thấy được mức độ căng thẳng
cao hơn gấp 1,9 lần so với những người

khơng có hồn cảnh này (14). Điều này cho
thấy, bệnh viện và tổ chức cơng đồn cần có
những chính sách quan tâm, chia sẻ, hỗ trợ
nhân viên nghèo, có hồn cảnh gia đình thực
sự khó khăn để giúp họ có động lực vượt qua
những khó khăn trong cuộc sống, giữ được
59


Nguyễn Thái Quỳnh Chi và cộng sự

Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 04-2020)
Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.04-2020)

sức khỏe để tiếp tục cống hiến, gắn bó lâu
dài với bệnh viện.
Yếu tố học tập
Trong nghiên cứu này, ĐTNC là các ĐD
đang làm việc tại bệnh viện, đối mặt với
nhiều căng thẳng của cơng việc; đồng thời,
họ cũng đang theo khóa học liên thông lên
đại học và điều này cũng làm gia tăng mức
độ căng thẳng cho họ. Là những người vừa
làm vừa học, họ được bệnh viện tạo điều
kiện cho đi học, nâng cao trình độ; tuy nhiên,
khối lượng cơng việc tại bệnh viện họ vẫn
phải đảm nhận phần nào đó, khơng thể bỏ
hồn tồn cơng việc để đi học. Do vậy, áp
lực đặt lên họ là rất lớn. Vừa căng thẳng với
công việc tại bệnh viện, vừa lo lắng việc học

hành, kiểm tra thi cử góp phần làm gia tăng
mức độ căng thẳng của họ trong công việc.
KẾT LUẬN
Căng thẳng nghề nghiệp của ĐD lâm sàng ở
hai bệnh viện Hùng Vương và Từ Dũ đang
học liên thông lên đại học ở mức trung bình
(với điểm trung bình chung là 2,14). Trong
8 nhóm yếu tố được dùng để đo lường mức
độ căng thẳng nghề nghiệp của bộ câu hỏi
ENSS, 3 nhóm yếu tố gây căng thẳng nhiều
nhất (có điểm trung bình cao nhất) cho đối
tượng nghiên cứu là “đối mặt với cái chết của
người bệnh”, “vấn đề liên quan đến gia đình
người bệnh”, và “khối lượng cơng việc” (với
điểm trung bình lần lượt là 2,49; 2,41; 2,21).
Các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ căng
thẳng của đối tượng nghiên cứu được chia
làm ba nhóm: yếu tố cá nhân (tuổi, thâm
niên cơng tác, làm việc tại Khoa Cấp cứu,
phòng mổ…); yếu tố gia đình (khơng có
nhà riêng, phải chăm sóc con nhỏ <5 tuổi
và/hoặc chăm sóc người thân đau ốm/bệnh
tật, là người mang lại thu nhập chính cho gia
60

đình); và yếu tố học tập (ĐD vừa đi làm vừa
đi học). Để hỗ trợ các ĐD lâm sàng vừa đi
làm vừa đi học, khoa/bệnh viện nên có chính
sách bảo đảm hài hịa khối lượng công việc
để giảm bớt áp lực, đảm bảo ĐD vẫn hồn

thành nhiệm vụ trong q trình đi học. Ngồi
ra, cần thiết có các khóa tập huấn kỹ năng
ứng phó với những tình huống liên quan
đến người bệnh (bệnh tiến triển nặng hơn,
tử vong) và người nhà người bệnh (xung đột
trong quá trình khám chữa bệnh).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.

3.

4.

5.

6.

7.

8.
9.

Bộ Y tế. Chương trình hành động quốc gia về
tăng cường dịch vụ điều dưỡng, hộ sinh giai
đoạn 2012 - 2020, Hà Nội. 2012.
Fukuda H, Ichinose T, Kusama T, Yoshidome A,
Anndow K, Akiyoshi N, et al. The relationship
between job stress and urinary cytokines
in healthy nurses: a cross-sectional study.

Biological research for nursing. 2008;10(2):18391.
Galdikiene N, Asikainen P, Balciunas S,
Suominen T. Do nurses feel stressed? A
perspective from primary health care. Nursing
& Health Sciences. 2014;16.
Thanh ĐTN. Các yếu tố liên quan đến sự chán
nản công việc của người ĐD tại khoa hồi sức
tích cực của các bệnh viện đa khoa TP.HCM.
Kỷ yếu đề tài nghiên cứu khoa học Điều dưỡng
toàn quốc lần thứ 4. Hà Nội: Nhà xuất bản Giao
thông vận tải; 2008.
Labrague L. Stress, Stressors, and Stress
Responses of Student Nurses in a Government
Nursing School. Health Science Journal.
2013;7:424-35.
Ha NN. Effect of job stress, role con ict and
role ambiguity on job satisfaction among stress
nurses in Thai Nguyen provincial general
hospitals, Vietnam [Master Degree of Nursing
Science]: Burapha University; 2011.
Tam VT, Giang TTH, Kha TM, Tri LQ.
Occupational stress of the medical nurses
in 7A Military Hospital. Medical Science.
2020;24(103):6.
EM A. A pilot study quantifying Filipino nurses
perception of stress. Californian Journal of
Health Promotion. 2006;4(4):88-95.
Abualrub R. Job Stress, Job Performance, and



Nguyễn Thái Quỳnh Chi và cộng sự

Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 04, Số 04-2020)
Journal of Health and Development Studies (Vol.04, No.04-2020)

Social Support Among Hospital Nurses. Journal
of nursing scholarship: An of cial publication
of Sigma Theta Tau International Honor Society
of Nursing/Sigma Theta Tau. 2004;36:73-8.
10. Mai TTN, Hùng NH, Hương TTT. Thực trạng
stress nghề nghiệp của điều dưỡng lâm sàng
đang học hệ cử nhân vừa làm vừa học tại trường
Đại học Thăng Long và Thành Tây. Tạp chí Y
học thực hành. 2013;Số 4/2014(914):6.
11. Milutinović D, Golubović B, Brkić N, Prokeš
B. Professional stress and health among critical
care nurses in Serbia. Arhiv za higijenu rada i
toksikologiju. 2012;63(2):171-80.

12. Nhung MH. Tình trạng stress nghề nghiệp của
điều dưỡng viên tại bệnh viện Giao thông vận
tải [Luận văn thạc sĩ Y tế công cộng]. Hà Nội:
Trường Đại học Y tế công cộng; 2014.
13. Tài LT, Xuân TN, Linh TT. Tình trạng stress
nghề nghiệp của nhân viên điều dưỡng. Tạp chí
Y học thành phố Hồ Chí Minh 2008;12(4):21620.
14. Hiệp DT. Tình trạng stress nghề nghiệp của điều
dưỡng, hộ sinh ở 8 khoa lâm sàng tại Bệnh viện
Nguyễn Đình Chiểu Bến Tre và một số yếu tố
liên quan [Luận văn Thạc sĩ Quản lý bệnh viện].

Hà Nội: Trường Đại học Y tế công cộng; 2014.

Occupational stress and associated factors among clinical nurses from Hung
Vuong and Tu Du hospitals, who are studying bachelor degree, in 2019
Nguyen Thai Quynh Chi1, Le Minh Sang2
1
Hanoi University of Public Health
2
Nguyen Tat Thanh University
This cross-sectional study using quantitative and quailitative methods conducted among
clinical nurses from Hung Vuong and Tu Du hospitals, who are studying bachelor degree at
Nguyen Tat Thanh University. The study was implemented from April to August 2019 and
aimed at describing occupational stress of clinical nurses and associated factors. Quantitative
data (applying Enxpanded Nursing Stress Scale) were collected from 232 nurses and analyzed
by SPSS 20.0. Qualitative information from 02 focus group discussions were analyzed by
themes. Results showed that occupational stress of clinical nurses was moderate (with total
average score of 2.14). The most 3 stressful components were: Facing the patient fatality, Issues
related to the patients’ relatives, Workload. Asociated factors included: individual, family, and
studying factors.
Key words: Occupational stress, nursing, working-studying nurse, ENSS.

61



×