Tải bản đầy đủ (.docx) (100 trang)

ON TAP PHAN LY THUYET NGU VAN 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (787.15 KB, 100 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b> KHÁI QUÁT VHVN TỪ 1945 ĐẾN HẾT TK XX</b>


<b>Câu 1. Nêu hoàn cảnh lịch sử, văn hố, xã hội có ảnh hưỏng tới nền văn học Việt Nam từ sau cách</b>
<b>mạng tháng Tám đến năm 1975.</b>


- VH vận động và phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.


- VH tồn tại và phát triển trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt: kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
<i>quốc Mĩ kéo dài 30 năm, xây dựng CNXH ở miền Bắc. </i>


- Đ/k giao lưu văn hoá chỉ giới hạn trong một số nước xã hội chủ nghĩa (Liên Xô, Trung Quốc).
<b>Câu 2. Nêu tóm tắt các chặng phát triển và thành tựu mỗi chặng của văn học Việt Nam từ sau</b>
<b>cách mạng tháng Tám đến năm 1975.</b>


Chia ba giai đoạn. Mỗi giai đoạn có đặc điểm riêng và thành tựu nhất định.
<b>a. G/đoạn 1945 –1954 (kháng chiến chống Pháp) </b>


- Tập trung phản ánh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, ca ngợi Tổ quốc và quần chúng ND,
kêu gọi tinh thần đoàn kết tồn dân, biểu dương những tấm gương qn mình vì nước.


- Thơ, truyện, kịch, kí, lí luận văn học đạt nhiều thành tựu.


- Tác giả - tác phẩm tiêu biểu: Việt Bắc - Tố Hữu, Tây Tiến – Quang Dũng, Đôi mắt - Nam Cao, Đất
<i>nước đứng lên - Ngun Ngọc, Truyện Tây Bắc - Tơ Hồi,…</i>


<b>b. G/đoạn 1955–1964 (xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước)</b>


- Ca ngợi cuộc sống mới, con người mới và sự đổi đời. Nỗi đau chia cắt hai miền đ/ nước và khát
vọng thống nhất đất nước.


- Truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ có những thành tựu mới, kịch nói phát triển.



Tác giả tác phẩm tiêu biểu: Mùa lạc Nguyễn Khải, Gió lộng Tố Hữu, Ánh sáng và phù sa
-Chế Lan Viên, Người lái đị sơng Đà - Nguyễn Tuân,…


<b>c. G/đoạn 1965–1975 (kháng chiến chống đế quốc Mĩ): </b>


<b>- Tập trung viết về cuộc chống Mĩ, ca ngợi tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng CM. </b>
- Văn xi, thơ, kịch nói và nhiều cơng trình phê bình, lí luận có giá trị xuất hiện.


- Tác giả - tác phẩm tiêu biểu: Những đứa con trong gia đình - Nguyễn Thi, Rừng xà nu – Nguyễn
Trung Thành, Dấu chân người lính - Nguyễn Minh Châu, Mặt đường khát vọng – NKĐ, Ra trận, Máu
<i>và hoa - Tố Hữu,…</i>


<b>Câu 3. Nêu và phân tích ngắn gọn những đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam từ sau cách mạng</b>
<b>tháng Tám đến năm 1975, trong đó đặc điểm nào được xem là quan trọng nhất?</b>


a) Nền VH v/động theo hướng CM hố, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước.
b) Nền văn học hướng về đại chúng


c) Nền văn học chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
Đặc điểm thứ nhất là đặc điểm quan trọng nhất chi phối những đặc điểm còn lại.


<b>Câu 4. Tr/bày ngắn gọn về khuynh hướng sử thi và c/hứng lãng mạn của nền VHVN 1945 – 1975.</b>
<i><b> - Khuynh hướng sử thi: được thể hiện trong vh ở các mặt sau:</b></i>


+ Đề tài: Tập trung phản ánh những vấn đề có ý nghĩa sống còn của đất nước: Tổ quốc còn hay mất,
tự do hay nơ lệ.


<b>+ Nhân vật chính: là những con người đại diện cho phẩm chất và ý chí của dân tộc; gắn bó số phận</b>
cá nhân với số phận đất nước; luôn đặt lẽ sống của dân tộc lên hàng đầu.



<b>+ Lời văn mang giọng điệu ngợi ca, trang trọng và đẹp tráng lệ, hào hùng.</b>
<b>+ Người cầm bút có tầm nhìn bao qt về lịch sử, dân tộc và thời đại</b>


- Cảm hứng lãng mạn: Tuy còn nhiều khó khăn gian khổ, nhiều mất mác, hy sinh nhưng lòng vẫn
tràn đầy mơ ước, vẫn tin tưởng vào tương lai tươi sáng của đất nước. Cảm hứng lãng mạn đã nâng đỡ
con người VN vượt lên mọi thử thách hướng tới chiến thắng.


<b>Câu 5. Nêu thành tựu cơ bản của VHVN 1975-2000.</b>


- Từ 1975 nhất là từ năm 1986, VHVN vận động theo hướng dân chủ hóa, mang tính nhân bản, nhân
văn. Văn học phát triển đa dạng hơn về thủ pháp nghệ thuật, đề cao cá tính sáng tạo của nhà văn, mang
tính chất hướng nội, quan tâm nhiều đến số phận cá nhân trong những hoàn cảnh phức tạp đời thường.


- Tác giả - tác phẩm tiêu biểu: Đàn ghita của Lor-ca – Thanh Thảo, Ai đặt tên cho dịng sơng –
Hoàng Phủ Ngọc Tường, Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu, Hồn Trương Ba, da hàng thịt –
LQV,…


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>Câu 6. Trình bày ngắn gọn quan điểm sáng tác của Hồ Chí Minh.</b>


- HCM coi văn học là vũ khí chiến đấu lợi hại, phụng sự đắc lực cho sự nghiệp CM. Nhà văn cũng
phải có tinh thần xung phong như người chiến sĩ ngoài mặt trận.


- HCM ln chú trọng tính chân thật và tính dân tộc của vh. Nhà văn cần tránh lối viết cầu kì xa lạ,
chú phát huy cốt cách dân tộc, ngơn từ phải chọn lọc.


- Người đặc biệt coi trọng mục đích, đối tượng thưởng thức rồi mới lựa chọn nội dung và hình thức.
Người ln đặt ra những câu hỏi: Viết cho ai? Viết để làm gì? Viết cái gì? Viết như thế nào?


<b>Câu 7. Trình bày ngắn gọn sự nghiệp văn chương của Hồ Chí Minh.</b>


<i>HCM đã để lại một sự nghiệp vh lớn lao về tầm vóc, đa dạng về thể loại</i>


<b>- Văn chính luận: nhằm mục đích đấu tranh chính trị. Điển hình như: Bản án chế độ thực dân Pháp,</b>
<i>Tuyên ngôn độc lập, Lời kêu gọi tồn quốc kháng chiến... </i>


<b>- Truyện và kí: Tố cáo tội ác của TDP và phong kiến tay sai, đề cao những tấm gương yêu nước.</b>
Chủ yếu viết bằng tiếng. Điển hình như: Lời than vãn của bà Trưng Trắc, Vi hành, Những trò lố hay
<i>Varen và Phan Bội Châu...</i>


- Thơ ca: Là lĩnh vực nổi bật, phản ánh khá phong phú tâm hồn và nhân cách cao đẹp của người
chiến sĩ CM trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Điển hình như: Nhật kí trong tù, Thơ HCM, Thơ chữ Hán
<i>HCM....</i>


<b>Câu 8. Trình bày ngắn gọn phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh.</b>


<i>HCM có phong cách nghệ thuật độc đáo, đa dạng. Ở mỗi loại Người lại có phong cách riêng:</i>
<b>- Văn chính luận: ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng chứng đầy thuyết phục,</b>
giàu tính luận chiến và đa dạng về bút pháp.


<b>- Truyện kí rất hiện đại, thể hiện tính chiến đấu mạnh mẽ và nghệ thuật trào phúng sắc bén chủ động</b>
và sáng tạo. Tiếng cười tuy nhẹ nhàng, hóm hỉnh nhưng thâm thuý, sâu cay.


<b>- Thơ ca thể hiện sâu sắc vẻ đẹp tâm hồn của Bác. Chia làm 2 loại:</b>


+ Thơ tuyên truyền CM: giản dị, dễ nhớ, dễ thuộc, mang màu sắc d/g hiện đại.


+ Thơ nghệ thuật bằng chữ Hán: mang đặc điểm thơ cổ phương Đơng, có sự kết hợp hài hồ
giữa màu sắc cổ điển với bút pháp hiện đại, giữa chất trữ tình và tính chiến đấu


<b>Câu 9. Hồn cảnh ra đời và mục đích sáng tác của bản Tun ngơn Độc lập.</b>



<b>- HCST: Ngày 19/ 8/ 1945 chính quyền thủ đô về tay nhân dân. Ngày 26. 8, chủ tịch HCM từ chiến</b>
khu Việt Bắc về tới HN. Tại căn nhà số 48, phố Hàng Ngang, Người soạn thảo bản TNĐL. Ngày
2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình - HN trong hoàn cảnh: thù trong giặc ngoài, vận mệnh Tổ quốc ngàn
cân treo sợi tóc Người đã thay mặt Chính phủ lâm thời nước VNDCCH đọc bản TNĐL, trước 50 vạn
đồng bào.


- MĐST: Tuyên bố nền độc lập, tự do của dân tộc, khai sinh ra nước VN dân chủ cộng hịa. Bác bỏ
dứt khốt luận điệu xảo trá và ngăn chặn âm mưu xâm lược nước ta của TDP, đ/quốc Mỹ. Tranh thủ sự
đồng tình ủng hộ của ND thế giới đối với sự nghiệp chính nghĩa của dt


<b>Câu 10. Cho biết đối tượng và giá trị (ý nghĩa văn bản) của bản Tuyên ngôn Độc lập?</b>


- Giá trị lịch sử: TNĐL là một văn kiện có giá trị lịch sử to lớn: tuyên bố chấm dứt chế độ thực dân
phong kiến ở nước ta và mở ra kỉ nguyên độc lập tự do của dân tộc và khẳng định quyết tâm bảo vệ nền
độc lập, tự do ấy.


- Giá trị văn học: Bản tuyên ngôn là một bài văn chính luận ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ,
đanh thép, lời lẽ hùng hồn và đầy sức thuyết phục - áng văn bất hủ.


- Giá trị tư tưởng: kết tinh l/tưởng đấu tranh g/phóng d/tộc và t/thần yêu chuộng độc lập, tự do.
<i><b>(Nếu câu hỏi là ý nghĩa vb thì bỏ những chữ “giá trị ls, giá trị vh, giá trị tư tuởng. Còn lại viết </b></i>
<i><b>hết). </b></i>


<b>- Đối tượng hướng đến: TNĐL khơng chỉ hướng tới đồng bào cả nước mà cịn hướng tới nhân dân</b>
toàn thế giới và đặc biệt là: thực dân Pháp, đế quốc Mỹ cùng các nước Đồng minh.


<b>Câu 11. Giải thích vì sao bản Tun ngơn Độc lập của Việt Nam lại mở đầu bằng việc trích dẫn</b>
<b>hai bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng</b>
<b>Pháp ?</b>



- Trong bản Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh trích dẫn hai bản Tun ngơn của Mỹ và của Pháp để
làm căn cứ pháp lý cho bản Tun ngơn của Việt Nam.


- Đó là những Tun ngơn tiến bộ, có tính chân lý được cả thế giới thừa nhận.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

sau đó buộc tội Pháp lợi dụng lá cờ, tự do, bình đẳng, bác ái đến cướp nước ta, làm trái với tinh thần tiến
bộ của chính bản Tun ngơn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp


<b>“NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU, NGƠI SAO SÁNG TRÊN BẦU TRỜI ....”-PHẠM VĂN ĐỒNG</b>
<b>Câu 12. Trình bày những nét cơ bản về tác giả Phạm Văn Đồng.</b>


<b>- PVĐ (1906 – 2000) quê ở Quãng Ngãi. Ông tham gia CM từ rất sớm, có nhiều cống hiến cho đất</b>
nước trong hai cuộc kh/ch chống Pháp và chống Mĩ, từng giữ những chức vụ quan trọng trong Trung
ương Đảng.


- Phạm Văn Đồng khơng chỉ là nhà hoạt động chính trị, ơng cịn là nhà giáo dục tâm huyết và một
nhà lý luận văn hóa văn nghệ lớn, có những đóng góp to lớn về lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, góp phần
vào sự phát triển của nền văn học nước nhà.


- T/phẩm tiêu biểu: HCM một con người, một dân tộc; NĐC, ngôi sao sáng trên bầu trời VNDT,...
<b>Câu 13. Cho biết HCST và mục đích sáng tác, giá trị của bài viết “Nguyễn Đình Chiểu ….”</b>


<b>- Hồn cảnh sáng tác: Viết nhân dịp kỉ niệm 75 năm ngày mất của Nguyễn Đình Chiểu (3/7/1888).</b>
Tác phẩm được đăng trên Tạp chí Văn học tháng 7/1963. Hoàn cảnh đất nước: từ 1960 Mĩ leo thang
bắn phá miền Bắc, lê máy chém khắp miền Nam. Đây là giai đoạn lsử đầy đau thương của CMVN


<b>- Mục đích sáng tác: Bằng cách nghị luận xác đáng chặt chẽ, xúc động, thiết tha, hình ảnh ngôn từ</b>
đặc sắc, bài viết trước hết là để tưởng nhớ NĐC, người con trung nghĩa của đất nước để nhớ lại lời thề
thiêng liêng của Người “sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc”; kế đến là để định hướng, điều chỉnh cách


nhìn nhận, đánh giá về thơ văn NĐC, nhất là những giá trị tinh thần lớn lao của thơ văn NĐC đối với
thời đại bấy giờ và ngày nay. Đồng thời cổ vũ đấu tranh chính trị, khơi dậy tinh thần yêu nước thương
nòi, đấu tranh chống đế quốc Mỹ.


- Ý nghĩa văn bản: Khẳng định ý nghĩa cao đẹp của cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu:
cuộc đời của một chiến sĩ phấn đấu hết mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, sự nghiệp văn
học của ông được coi là một minh chứng hùng hồncho địa vị và tác dụng to lớn của văn học nghệ thuật
cũng như trách nhiệm của người cầm bút đối với dân tộc, đất nước.


<b>TÂY TIẾN – QUANG DŨNG</b>


<b>Câu 14. Trình bày những nét chính về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Quang Dũng.</b>
- Quang Dũng (1921-1988) tên khai sinh là Bùi Đình Diệm, quê ở Hà Tây.


- Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc. Nhưng Quang Dũng được
biết đến nhiều là một nhà thơ. Thơ Quang Dũng hồn hậu, phóng khống, đậm chất lãng mạn và tài hoa.
Các tác phẩm chính: Mây đầu ơ, Thơ văn Quang Dũng…


<b>Câu 15. Trình bày hồn cảnh sáng tác bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.</b>


- Tây Tiến vừa chỉ hướng hành quân, vừa là tên một đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947.
- Tây Tiến có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt –Lào, đồng thời đánh tiêu
hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào cũng như ở miền tây Bắc Bộ Việt Nam. Địa bàn đóng
<b>qn và hoạt động của đồn qn TT khá rộng nhưng chủ yếu là ở biên giới Việt – Lào. Chiến sĩ Tây</b>
<b>Tiến phần đông là thanh niên, học sinh, trí thức Hà Nội, chiến đấu trong những hồn cảnh gian khổ</b>
<b>thiếu thốn về vật chất, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội. Tuy vậy, họ sống rất lạc quan và chiến đấu rất</b>
<b>dũng cảm. </b>


- Quang Dũng là đại đội trưởng ở đơn vị Tây Tiến từ đầu năm 1947, rồi chuyển sang đơn vị khác.
Rời đơn vị cũ chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh, Quang Dũng viết bài thơ Nhớ Tây Tiến. Khi in lại, tác


giả đổi tên bài thơ là Tây Tiến. Tây Tiến là một bài thơ xuất sắc, có thể xem là một kiệt tác của Quang
Dũng, xuất hiện ngay trong thời gian đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp


<b>Câu 16. Đặc điểm nổi bật của bài thơ Tây Tiến ? </b>


- Cảm hứng lãng mạn: Tác phẩm đã bày tỏ mạch cảm xúc tràn trề của cái tơi trữ tình - nỗi nhớ nồng
nàn bao bọc cả bài thơ. Sử dụng nhiều hình ảnh gây ấn tượng mạnh, phát huy cao độ trí tưởng tượng
khiến cho bài thơ có nhiều so sánh liên tưởng độc đáo. Đối tượng miêu tả có nhiều nét phi thường, thiên
nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ, dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình, hoang sơ mà ấm áp, người lính Tây Tiến hào
hoa, mộng mơ, lãng mạn. Sử dụng rộng rãi thủ pháp đối lập: đối lập về hình ảnh, thanh điệu, tính cách
của người lính TT.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

đến những mất mác, hi sinh, nhưng trong cái đau thương ấy đã hàm chứa những nét đẹp hùng. Bi mà
không luỵ. Cái bi được thể hiện bằng một giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ, hào hùng.


- Chất lãng mạn hoà hợp với chất bi tráng, tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ.


<b>Câu 17. Nội dung (ý nghĩa văn bản) và nghệ thuật của bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.</b>


- Nội dung: Bài thơ đã khắc hoạ thành cơng hình tượng người lính Tây Tiến trên nền cảnh núi rừng
miền Tây hùng vĩ, dữ dội. Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng sẽ
ln đồng hành trong trái tim và trí óc của mỗi chúng ta.


- Nghệ thuật: bút pháp lãng mạn, sử dụng rộng rãi thủ pháp đối lập cùng những sáng tạo về hình ảnh,
ngơn ngữ và giọng điệu.


<b>VIỆT BẮC – TỐ HỮU</b>


<b>Câu 18. Nêu khái quát những hiểu biết về cuộc đời và con người Tố Hữu?</b>



<b>- Tố Hữu (1920 – 2002 ) tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành quê ở Thừa Thiên – Huế. Xuất thân</b>
trong một gia đình có truyền thống thơ ca, ca dao - dân ca xứ Huế. Chính gia đình, quê hương và thời đại
đã góp phần quan trọng trong việc hình thành và ni dưỡng tâm hồn thơ Tố Hữu.


<b>- Tố Hữu tham gia hoạt động cách mạng từ rất sớm. Năm 1938, ông được kết nạp vào Đảng Cộng</b>
sản. Năm 1939, ông bị thực dân Pháp bắt. Năm 1942, ông vượt ngục tiếp tục hoạt động cách mạng. Năm
1945, Tố Hữu tham gia lãnh đạo khởi nghĩa ở Huế. Trong hai cuộc kh/chiến chống Pháp và chống Mĩ,
cho đến 1986, ông từng giữ nhiều chức vụ cao trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.


<b>- Tố Hữu nhận giải nhất Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1954 – 1955 (tập thơ Việt Bắc), Giải</b>
thưởng ASEAN (1996), Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996).


<b>Câu 19. Tóm tắt các chặng đường thơ Tố Hữu?</b>


<b>1) Từ ấy (1937-1946): là tập thơ đầu tay. Tác phẩm là tiếng reo vui của một thanh niên giác ngộ lí</b>
tưởng, quyết hy sinh phấn đấu cho lí tưởng cách mạng. Tập thơ được chia làm 3 phần: Máu lửa, Xiềng
<i>xích, Giải phóng. Một số bài thơ tiêu biểu: Từ ấy, Tâm tư trong tù, Nhớ đồng...</i>


<b>2) Việt Bắc (1946-1954): là bản hùng ca của cuộc kháng chiến chống Pháp gian lao mà anh dũng</b>
của dân tộc. Tập thơ tập trung ca ngợi Đảng, Bác Hồ, quần chúng công nông binh kháng chiến... Một số
bài thơ tiêu biểu: Lượm, Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Việt Bắc,... Tập thơ VB là một trong những thành
tựu xuất sắc của thơ ca giai đoạn kháng chiến chống Pháp.


<b> 3) Gió lộng (1955-1961): Ca ngợi cơng cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc, hướng tình cảm đến</b>
miền Nam ruột thịt với ý chí thống nhất đất nước. Đây là thời kỳ tràn đầy sức sống và niềm vui, tập thơ
phơi phới tinh thần lãng mạn cách mạng. Một số bài thơ tiêu biểu: Bài ca xuân 61, Ba mươi năm đời ta có
<i>Đảng, Em ơi Ba Lan, ...</i>


<b>4) Hai tập Ra trận (1962-1971), Máu và hoa (1972-1977): Ca ngợi, cổ vũ cuộc chiến đấu chống đế</b>
quốc Mỹ, tập thơ mang đậm tính chính luận, thời sự và chất sử thi. Một số bài thơ tiêu biểu: Bác ơi!, Kính


<i>gửi cụ Nguyễn Du, Mẹ Suốt, Tuổi 25,...(Xẻ dọc Trường Sơn....dậy tương lai).</i>


<b>5) Một tiếng đờn (1992) và Ta với ta (1999): viết khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, nhà thơ thể</b>
hiện những suy ngẫm, chiêm nghiệm về cuộc sống, về lẽ đời. Giọng thơ thấm đượm chất suy tư.


<b>Câu 20. Nêu đặc điểm phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu?</b>
<b>1. Về nội dung:</b>


- Thơ Tố Hữu mang tính trữ tình - chính trị rất sâu sắc. Mọi sự kiện ch/trị qua trái tim nhạy cảm và
cảm hứng ng/thuật của nhà thơ đều kết tinh thành những bài thơ đặc sắc, gợi cảm.


- Thơ Tố Hữu mang đậm tính sử thi: đề tài là những sự kiện chính trị lớn, những vấn đề có ý nghĩa
tồn dân. Cảm hứng chủ đạo là cảm hứng: lịch sử - dân tộc. Con người có phẩm chất phi thường, anh
hùng.


- Những điều đó được thể hiện qua giọng thơ mang tính chất tâm tình ngọt ngào.


<b>2. Về nghệ thuật: thơ Tố Hữu mang tính dân tộc rất đậm đà (“tính dân tộc” là bản sắc riêng</b>
biệt, độc đáo của dân tộc) được biểu hiện qua hai yếu tố:


- Sử dụng nhuần nhuyễn các thể thơ dân tộc (lục bát, song thất lục bát, thơ bảy chữ dễ đi vào lòng
ng)


- Ng/ngữ thơ (dùng từ ngữ, cách nói dân gian, phát huy tính nhạc phong phú của T/Việt, các BPTT,
sử


dụng chất liệu ca dao, tục ngữ, thành ngữ)


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

- Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ kí kết, hịa bình được lập lại, đất nước bước
sang thời kì mới. Tháng 10/1954, những người kháng chiến dời căn cứ từ miền núi trở về miền xi,


Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại Thủ đô Hà Nội, nhân sự kiện có tính chất
lịch sử này, Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc. Bài thơ này nằm trong tập thơ Việt Bắc (1946-1954).


<i>- Ý nghĩa văn bản: Bài thơ Việt Bắc là bản anh hùng ca về cuộc kháng chiến, bản tình ca về nghĩa</i>
tình cách mạng và kháng chiến.


<b>Câu 22. Cho biết kết cấu đặc biệt của đoạn trích Việt Bắc. </b>


Bài thơ Việt Bắc sử dụng hình thức đối đáp giao duyên quen thuộc trong ca dao – dân ca giữa
người ra đi và người ở lại, giữa người cán bộ và người dân Việt Bắc qua cặp đại từ ta và mình. Lối hát
đối đáp và cách cấu tứ này rất thường thấy trong ca dao, dân ca:


<i>- Mình về có nhớ ta chăng</i>


<i>Ta về ta nhớ hàm răng mình cười.</i>


Trong bài thơ, nhà thơ Tố Hữu đã vận dụng hình thức trên một cách linh hoạt, đạt hiệu quả cao.
<i>Mình có khi chỉ người cán bộ miền xi, ta chỉ nhân dân Việt Bắc: </i>


<i>Mình về mình có nhớ ta</i>


<i> Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nơng. </i>


Nhưng có khi mình lại chỉ người người ở lại, ta lại là người đi:
<i>Ta đi ta nhớ những ngày</i>


<i> Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi. </i>


Trong trường hợp khác sự vận dụng mình – ta cịn linh hoạt hơn
<i>Mình đi mình lại nhớ mình</i>



<i> Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu. </i>


Có thể thấy việc thay đổi liên tục ý nghĩa biểu đạt của hai từ ta và mình là một sự sáng tạo độc đáo
của nhà thơ. Hai từ này đã hình thành một cuộc đối đáp thật sự giữa người đi và kẻ ở, cũng có khi đó là
sự phân thân tự vấn của người đi để đáp lại nghĩa tình sâu nặng của kẻ ở. Chính sự đa dạng này giúp tác
giả nói được cái riêng của mình và cái chung của bao người vừa thân mật, vừa kín đáo và trang trọng,
sau nữa đã tạo cảnh tiễn biệt dùng dằng thương nhớ và làm cả bài thơ dài không bị nhàm chán.


<b>Câu 23. Nêu nội dung và nghệ thuật chủ yếu của bài thơ Việt Bắc</b>


a) Nội dung: Tái hiện một thời kháng chiến chống Pháp gian khổ mà anh hùng, nghĩa tình gắn bó
thắm thiết của những người kháng chiến với Việt Bắc, với nhân dân, đất nước. Qua đó, tình cảm thuỷ
chung truyền thống của dân tộc được nâng lên thành tình cảm thời đại, đó là ân tình cách mạng - một cội
nguồn sức mạnh quan trọng tạo nên thắng lợi của cách mạng và kháng chiến.


b) Nghệ thuật: Đậm đà tính dân tộc: thể thơ lục bát truyền thống được sử dụng nhuần nhuyễn, kết
<i>cấu đối đáp thường thấy trong ca dao được sử dụng sáng tạo, cặp đại từ nhân xưng mình – ta với sự</i>
biến hố linh hoạt, những biện pháp tu từ quen thuộc được sử dụng: so sánh, ẩn dụ, nhân hoá, hoán
<i>dụ… Đoạn trích cũng mang chất sử thi đậm nét khi tác giả tạo dựng được hình tượng kẻ ở, người đi đại</i>
diện cho tình cảm của cả cộng đồng.


<b>ĐẤT NƯỚC – NGUYỄN KHOA ĐIỀM</b>
<b>Câu 24. Trình bày ngắn gọn về tác giả Nguyễn Khoa Điềm.</b>


<b>- Nguyễn Khoa Điềm sinh 1943. Quê ở tỉnh Thừa Thiên - Huế. Xuất thân trong một gia đình trí thức</b>
có truyền thống u nước và cách mạng.


- Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư, xúc cảm dồn nén, mang màu sắc chính luận. Năm 2000
được Giải thưởng nhà nước về VHNT. Tác phẩm: Đất ngoại ô, Mặt đường khát vọng,…



<b>Câu 25. Cho biết hồn cảnh sáng tác của đoạn trích “Đất Nước” (trích Trường ca Mặt đường khát</b>
<i><b>vọng-Nguyễn Khoa Điềm)? Trình bày ý nghĩa của đoạn trích.</b></i>


<b>- HCST: Đoạn trích “Đất Nước” thuộc phần đầu chương V của trường ca Mặt đường khát vọng.</b>
Trường ca Mặt đường khát vọng được Nguyễn Khoa Điềm hoàn thành ở chiến khu Trị Thiên năm 1971,
in lần đầu năm 1974. Viết về sự thức tỉnh của thế hệ trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông
đất nước, về sứ


mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh hịa nhịp với cuộc chiến chống Mỹ.


<b>- Ý nghĩa vb: Đoạn trích thể hiện cách cảm nhận mới về Đất Nước, qua đó khơi dậy lòng yêu nước,</b>
tự hào dân tộc, tự hào về nền văn hóa đậm đà bản sắc Việt Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

- Bài thơ là sự cảm nhận, phát hiện Đất Nước trong một cái nhìn tổng hợp và tồn vẹn ở những
phương diện: khơng gian (địa lý), thời gian (lịch sử) và bản sắc văn hóa. Đoạn trích sử dụng sáng tạo các
chất liệu văn hoá, văn học dân gian và rất thích hợp với việc thể hiện tư tưởng “Đất Nước nhân dân”
(ĐN của dân, do nhân dân làm ra).


<b>Câu 27. Trình bày nội dung và nghệ thuật của đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm?</b>
- Nội dung: Đoạn trích thể hiện cái nhìn mới mẻ về Đất Nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm qua
nhiều phương diện: lịch sử, địa lý, văn hóa,… Đất Nước là sự hội tụ và kết tinh bao công sức và khát
vọng của nhân dân. Nhân dân là người làm ra Đất Nước.


- Nghệ thuật: Sự độc đáo đầy phóng túng của thể thơ tự do, giọng thơ trữ tình
-chính luận, sự vận dụng những chất liệu của văn hố và văn học dân gian (ngơn từ,
hình ảnh bình dị, dân dã, giàu sức gợi) làm sáng tỏ thêm tư tưởng Đất Nước của Nhân dân.


<b>SÓNG – XN QUỲNH</b>
<b>Câu 28. Trình bày những nét chính về tác giả Xuân Quỳnh.</b>



- Xuân Quỳnh (1942- 1988) tên khai sinh là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh. Quê ở tỉnh Hà Tây. Xuất thân
trong một gia đình cơng chức. Xn Quỳnh từng là diễn viên múa sau chuyển sang sáng tác vh.


- Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ.
Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân
thành, đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng về hạnh phúc đời thường.


- Tác phẩm chính: Tơ tằm - Chồi biếc (in chung 1963), Hoa dọc chiến hào (1968), Gió Lào cát
<i>trắng (1974), Hoa cỏ may (1989),… Năm 2001, XQ được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ</i>
thuật.


<b>Câu 29. Nêu ý nghĩa nhan đề bài thơ “Sóng”.</b>


“Sóng” là hình tượng đẹp của thiên nhiên. Các thi nhân thường mượn hình tượng sóng để biểu
đạt những sắc thái tình cảm của mình: buồn mênh mang, vui bất tận, hay tình yêu ào ạt của con người…
Sóng là hình tượng trung tâm của bài thơ gắn liền với sức sống và vẻ đẹp của tâm hồn nhà thơ, vừa là
biểu tượng cho tình yêu nồng ấm, dào dạt, tha thiết, bền bĩ và vĩnh hằng.


<b>Câu 30. Nêu hoàn cảnh sáng tác bài thơ “Sóng” – XQ và cho biết ý nghĩa văn bản</b>


Bài thơ “Sóng” được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái
Bình), lúc đó XQ mới 25 tuổi trẻ trung, yêu đời. Đây là một bài thơ đặc sắc viết rất hay về tình yêu, rất
tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh.


<b>Ý nghĩa văn bản: Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu hiện lên qua hình tượng sóng:</b>
tình u thiết tha, nồng nàn, đầy khát vọng và sắt son chung thuỷ, vượt lên mọi giới hạn của đời người.
<b>Câu 31. Nêu nội dung và nghệ thuật cơ bản của bài thơ “Sóng”.</b>


- Nội dung: Bài thơ là sự cảm nhận về tình u từ hình tượng sóng với tất cả những sắc thái, cung


bậc (nỗi nhớ, sự thủy chung, trắc trở) và cả khát vọng vĩnh cửu hóa tình u của một tâm hồn phụ nữ
ln chân thành, khát khao hạnh phúc.


- Nghệ thuật: Thể thơ năm chữ, nhịp điệu thơ đa dạng, linh hoạt tạo nên âm hưởng của những con
sóng: lúc dạt dào sơi nổi, lúc sâu lắng dịu êm rất phù hợp với việc gởi gắm tâm tư sâu kín và những
trạng thái tình cảm phức tạp của tâm hồn. Cấu trúc bài thơ được xác lập theo kiểu đan xen giữa hình
tượng sóng-bờ, anh-em cũng góp phần làm nên nét đặc sắc cho bài thơ.


<b>Câu 32: Nêu ý nghĩa biểu tượng của h/tượng sóng và mối quan hệ giữa hai hình tượng “sóng” và</b>
<b>“em” trong bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh.</b>


- Tựa đề bài thơ là “Sóng”. Đây cũng chính là hình tượng trung tâm của bài thơ. Xuân Quỳnh đã nối
tiếp


truyền thống trong thơ ca là lấy sóng để hình dung tình u, đem sóng nước so sánh với sóng tình:
<i>“Sóng tình dường đã xiêu xiêu/ Xem trong âu yếm có chiều lả lơi” (Nguyễn Du). Dù tiếp nối truyền</i>
thống văn học nhưng “sóng” của Xuân Quỳnh vẫn có những nét độc đáo riêng. Có thể nói, cả bài thơ là
những con sóng tâm tình của một người phụ nữ được khơi dậy khi đứng trước biển cả, đối diện với
những con sóng mn trùng. Tác giả nói với mình, nói với người về tình yêu trẻ trung nồng nhiệt gắn
với khát vọng hạnh phúc muôn thuở của con người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

u soi vào sóng để thấy rõ lịng mình, nhờ sóng biểu hiện những trạng thái của lịng mình. Với hình
tượng “sóng”, Xn Quỳnh đã tìm đuợc một cách thể hiện xác đáng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ
trong tình yêu. Cấu trúc song hành này tạo thành chiều sâu nhận thức và nét độc đáo riêng cho bài thơ.


<b>ĐÀN GHI-TA CỦA LOR-CA – THANH THẢO</b>
<b>Câu 33. Trình bày những nét chính về tác giả Thanh Thảo.</b>


- Thanh Thảo sinh năm 1946. Tên khai sinh là Hồ Thành Công. Quê ở Quảng Ngãi.



- Thanh Thảo là một trong những nhà thơ trưởng thành trong những năm cuối của cuộc kháng chiến
chống Mĩ. Ông đã đem đến cho thơ ca thời đó tiếng nói riêng ấn tượng và được coi là một trong số
không nhiều cây bút luôn nỗ lực cách tân thơ Việt với xu hướng đào sâu vào cái tơi nội cảm, tìm cách
biểu đạt mới qua hình thức thơ tự do, đem đến một mĩ cảm hiện đại cho thơ bằng thi ảnh và ngơn từ mới
mẽ. Thơ ơng là tiếng nói của người trí thức nhiều suy tư, trăn trở về vấn đề xã hội và thời đại và cũng
đặc biệt quan tâm đến những con người tài hoa nhưng có số phận ngang trái, bất hạnh như: NĐC, CBQ,
A-ra-gông, Lor-ca,…


- Tác phẩm tiêu biểu: Những người đi tới biển (1977), Dấu chân qua trảng cỏ (1978), Khối vng
<i>ru-bích (1985),... Năm 2001, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.</i>


<b>Câu 34. Cho biết HCST, thể thơ, nhạc tính và ý nghĩa văn bản của bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca”</b>
<b>của Thanh Thảo.</b>


- HCST: Bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca rút trong tập Khối vng ru-bích. Đây là một trong những
sáng tác tiêu biểu cho kiểu tư duy thơ Thanh Thảo: giàu suy tư, mãnh liệt, phóng túng, nhuốm màu sắc
tượng trưng- siêu thực. Bài thơ lấy cảm hứng từ những giây phút bi phẫn trong cuộc đời của Lor-ca và
câu nói “khi tơi chết hãy chôn tôi với cây đàn” (Ghi nhớ - Lor-ca) để sáng tác bài thơ này.


- Thể thơ: Bài thơ được viết theo thể thơ tự do với phong cách tượng trưng có pha màu sắc siêu thực
rất gần gũi với phong cách thơ Lor-ca: đề nghị lối viết tự động, cho rằng thơ là mạch cảm xúc tuôn tràn
nên dường như khơng mạch lạc, hình ảnh mới lạ, khơng viết hoa đầu dịng, khơng ngắt câu.


- Nhạc tính: Bài thơ như giai điệu một bản nhạc, có phần nhạc đệm của Ghi ta cùng với chuỗi âm li
<i>la li la li la… Mở đầu và kết thúc bài thơ gợi lên tiếng vang giàu nhạc điệu, ngân nga trong lòng người</i>
đọc.


- Ý nghĩa vb: Ca ngợi vẻ đẹp nhân cách, tâm hồn và tài năng của Lor-ca – nhà thơ, nhà cách tân vĩ
đại của văn học Tây Ban Nha và thế giới thế kỉ XX.



<b>Câu 35. Trình bày ý nghĩa câu thơ đề từ: “khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn” </b>


- Đây là câu thơ được rút từ bài thơ “Ghi nhớ” của Lor-ca, được nhà thơ Thanh Thảo lấy làm lời đề
từ cho bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca”. Câu thơ giống như lời di chúc của Lor-ca khi tiên cảm về
cái chết của mình.


- Sau khi chết, Lor-ca muốn được chơn cùng với cây đàn, điều đó cho thấy: Tình u nghệ thuật của
Lor-ca; Tình yêu thiết tha của người nghệ sĩ Lor-ca với xứ sở quê hương TBN.


- Lor-ca biết thi ca của mình một ngày nào đó sẽ trở thành vật cản cho những người đến sau, nên đã
di chúc đối với những người làm nghệ thuật: hãy biết chôn nghệ thuật của ông để sáng tạo, để đem đến
những cái mới cho nghệ thuật.


<b>Câu 36. Trình bày ý nghĩa nhan đề bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” của Thanh Thảo?</b>


- Đàn ghi ta (hay còn gọi là Tây Ban cầm) là nhạc cụ truyền thống của đất nước Tây Ban Nha. Nhan
đề bài thơ gợi liên tưởng đến nền nghệ thuật của đất nước TBN.


- Đàn ghi ta gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp nghệ thuật của Lor-ca. Vì vậy, hình ảnh <i>đàn ghi ta ở</i>
nhan đề bài thơ tượng trưng cho khát vọng sáng tạo nghệ thuật của Lor-ca.


- Nhan đề như một lời khẳng định của nhà thơ Thanh Thảo: Đàn ghi ta của Lor-ca. Điều đó phần
nào cho thấy niềm ngưỡng mộ và tấm lòng đồng cảm của TT đối với người nghệ sĩ thiên tài.


<b>Câu 37. Cho biết n/dung, ngh/thuật của bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” của nhà thơ Thanh Thảo.</b>
<b>1. Nội dung: Bài thơ đã xây dựng được hình tượng Lor-ca với những khía cạnh khác nhau: một nghệ</b>
sĩ tự do và cơ đơn, một cái chết oan khốc, bi phẫn bởi những thế lực tàn ác, một tâm hồn nghệ sĩ bất diệt.
Lor-ca là một hình tượng bi tráng về người nghệ sĩ chân chính trong một mơi trường bạo lực thống trị đã
sống và chết rất cao đẹp. Qua việc thể hiện cái chết đau xót của Lor-ca, bài thơ cịn là tiếng nói tri âm
của Thanh Thảo với nghệ thuật chân chính và nghệ sĩ Lor-ca.



</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<b>NGƯỜI LÁI ĐỊ SƠNG ĐÀ – NGUYỄN TN</b>


<b>Câu 38. Trình bày hồn cảnh sáng tác, ý nghĩa văn bản và phong cách nghệ thuật của Nguyễn</b>
<b>Tuân qua tùy bút Người lái đị Sơng Đà?</b>


- HCST: Người lái đị sơng Đà được in trong tập tùy bút “Sông Đà” (1960). Viết trong thời kì xây
dựng CNXH ở miền Bắc. Đây là kết quả của những chuyến đi thực tế đến Tây Bắc năm 1958 vừa để
thỏa mãn thú phiêu lãng, vừa tìm kiếm vẻ đẹp thiên nhiên và chất vàng mười “thứ vàng mười được thử
<i>lửa” ở tâm hồn những con người lao động và chiến đấu vùng Tây Bắc trong thực tiễn cuộc sống mới.</i>
“Người lái đị Sơng Đà” đã khẳng định: ơng lái đị Lai Châu là hình tượng trung tâm của bài viết.


<b>- Ý nghĩa vb: Tác giả đã giới thiệu, khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên và con người lao</b>
động ở miền Tây Bắc của Tổ quốc; thể hiện tình yêu mến, sự gắn bó thiết tha của Nguyễn Tuân đối với
đất nước và con người Việt Nam.


<b>Câu 39. Nêu ngắn gọn hiểu biết về phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tn qua tùy bút Người lái</b>
<i><b>đị Sơng Đà?</b></i>


PCNT của Nguyễn Tn qua tùy bút Người lái đị Sơng Đà là rất độc đáo: tài hoa, uyên bác, khai
thác được kho cảm giác và liên tưởng phong phú nhằm tìm ra những chữ nghĩa xác đáng nhất, có khả
năng lay động người đọc nhiều nhất. Người lái đị Sơng Đà thể hiện rõ nét sở trường ở thể loại tùy bút
của ngòi bút Nguyễn Tuân.


<b>Câu 40. Nguyễn Tuân đã phát hiện ra những đặc điểm nào của sông Đà? Những thủ pháp nghệ</b>
<b>thuật đặc sắc nào đựơc Nguyễn Tuân vận dụng để làm nổi bật những phát hiện của mình?</b>


- Viết về sông Đà, Ng/ Tuân phát hiện hai nét nổi bật nhất của sông Đà: hung bạo và trữ tình.
- Để làm nổi bật tính chất hung bạo và trữ tình của con sơng, t/g đã v.dụng kết hợp nhiều BPNT:
+ Trước hết, phải kể đến nghệ thuật nhân hóa. Đá trên thác sông Đà mai phục, bày “thạch trận”


để tiêu diệt bất cứ con thuyền nào dám vượt thác. Nước thì kêu rống lên, vào hùa với đá để đánh những
miếng đòn “hiểm độc nhất”.


+ Nghệ thuật trùng điệp và bút pháp trữ tình đã giúp Nguyễn Tuân thể hiện rõ nét trữ tình của con
sơng “tn dài tn dài như áng tóc trữ tình”.


+ sử dụng nhiều cách so sánh những hình ảnh của đá, của nước, của thác, con thuyền, người lái đò,
… Qua ngòi bút của nhà văn, cuộc vượt thác như một trận thủy chiến,…


<b>BÚT KÍ AI ĐẶT TÊN CHO DỊNG SƠNG – HỒNG PHỦ NGỌC TƯỜNG</b>
<b>Câu 41. Ý nghĩa nhan đề bài kí “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?” của n/v Hồng Phủ Ngọc Tường? </b>


- Bài kí lí giải tên dịng sông bằng một huyền thoại mĩ lệ: “Người làng Thành Chung có nghề trồng
<i>rau thơm. Ở đây kể lại rằng vì u q con sơng xinh đẹp, nhân dân hai bờ sơng đã nấu nước của trăm</i>
<i>lồi hoa đổ xuống dịng sơng cho làn nước thơm tho mãi mãi”</i>. Huyền thoại ấy đã trả lời câu hỏi: “Ai đã
<i>đặt tên cho dịng sơng?”. Rất có thể tác giả muốn khẳng đinh: chính những người dân bình thường –</i>
những người sáng tạo ra văn hóa, văn học, lịch sử “đã đặt tên cho dịng sơng”.


- Đặt tiêu đề và kết thúc bằng câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?” để nhằm mục đích:
+ Lưu ý người đọc về cái tên đẹp của dịng sơng: sơng hương, sơng thơm.


+ Nói lên khát vọng của con người muốn đem cái đẹp và tiếng thơm để xây đắp v/hóa và l/sử cho
qhđn.


+ Gợi lên niềm biết ơn đối với những người đã khai phá miền đất này, niềm tự hào về qh. Mặt khác
không thể trả lời vắn tắt trong một vài câu mà phải trả lời bằng cả bài kí dài ca ngợi vẻ đẹp, chất thơ của
dịng sơng.


<b>Câu 42. Vài nét chung về tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường</b>



- Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trí thức u nước, gắn bó mật thiết với xứ Huế, có vốn hiểu biết sâu
sắc trên nhiều lĩnh vực. Có sở trường về tuỳ bút, bút kí


- Lối viết văn có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình với những liên tưởng
mạnh mẽ và một lối hành văn mê đắm, tài hoa.


- Tác phẩm chính: Ngơi sao trên đỉnh Phú Văn Lâu (1971), Rất nhiều ánh lửa (1979), Ai đã đặt tên


cho dòng sông? (1986), Hoa trái quanh tôi (1995),


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<i>phẩm. Tuy nhiên đoạn trích khơng chỉ đề cập tới cảnh quan thiên nhiên sơng Hương xứ Huế mà cịn thấy</i>
được sự gắn bó với lịch sử và văn hóa của cố đô Huế. Tác phẩm tiêu biểu cho văn phong của Hoàng Phủ
Ngọc Tường.


<b>- Nội dung (Ý nghĩa văn bản): Thể hiện những phát hiện, khám phá sâu sắc và độc đáo về sơng</b>
Hương; bộc lộ tình u tha thiết, sâu lắng và niềm tự hào lớn lao của nhà văn đối với dịng sơng q
hương, với xứ Huế thân thương.


<b>- Nghệ thuật: Sức liên tưởng kì diệu, sự hiểu biết phong phú về kiến thức địa lý, lịch sử, văn hoá</b>
nghệ thuật và những trải nghiệm của bản thân. Ngôn ngữ trong sáng, phong phú, uyển chuyển, giàu hình
ảnh, giàu chất thơ, sử dụng nhiều phép tu từ như: so sánh, nhân hố, ẩn dụ,... Có sự kết hợp hài hồ cảm
xúc và trí tuệ, chủ quan và khách quan.


<b>Câu 44. Thơng qua bài kí “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?”, nhà văn Hồng Phủ Ngọc Tường muốn</b>
<b>nhắn gửi đến bạn đọc điều gì?</b>


- Khi đứng trước một dịng sơng văn hố rất cần đến một tư thế và tâm thế văn hoá của con người.
Hãy biết đánh động tình yêu trong tâm hồn mình trước dịng sơng q hương đã ni lớn cuộc đời mình.


- Hãy ln sống trong tâm thế có trách nhiệm với cuộc đời, ln biết ngạc nhiên về cái bí ẩn,


phong phú vô tận của tạo vật.


<b>VỢ CHỒNG A PHỦ - TƠ HỒI</b>


<b>Câu 45.Trình bày những nét chính về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Tơ Hồi</b>


- Tên thật là Nguyễn Sen, sinh năm 1920, ở ngoại thành Hà Nội. Ông chỉ học hết bậc tiểu học rồi vào
đời kiếm sống bằng nhiều nghề. Năm 1943 tham gia Hội Văn hố cứu quốc. Trong kháng chiến chống
Pháp, ơng làm báo và hoạt động văn nghệ ở Việt Bắc.


- Tô Hồi là nhà văn lớn có số lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong văn học hiện đại Việt Nam. Tác phẩm
của ông đa dạng về đề tài và thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kí, tự truyện… Sáng tác của Tơ Hồi
thiên về diễn tả những sự thật của đời thường. Bằng vốn hiểu biết phong phú về đời sống, phong tục, tập
quán, nhà văn luôn hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động, lời văn giàu chất tạo hình
với những trang miêu tả thiên nhiên đặc sắc, có chất thơ…Năm 1996 ơng được tặng Giải thưởng Hồ Chí
Minh về văn học nghệ thuật. Tác phẩm chính: Dế Mèn phiêu lưu kí (1941), Nhà nghèo (1944), Truyện
<i>Tây Bắc (1953),…</i>


<b>Câu 46. Hoàn cảnh sáng tác và ý nghĩa của tác phẩm Vợ chồng A Phủ - Tơ Hồi.</b>


<b>- “Vợ chồng A Phủ” (1952) được in chung trong tập “Truyện Tây Bắc” (1953) của Tơ Hồi, được</b>
giải nhất của Hội Văn nghệ VN 1954-1955. Tập truyện là kết quả chuyến đi thực tế của tác giả cùng bộ
đội vào giải phóng Tây Bắc. Tác phẩm đánh dấu sự chín muồi về tư tưởng và tình cảm của nhà văn. Sau
hơn nửa thế kỉ đến nay, t/phẩm vẫn giữ nguyên giá trị và có sức thu hút đối với nhiều thế hệ người đọc.
Đoạn trích thuộc phần thứ nhất của truyện “Vợ chồng A Phủ”- Tơ Hồi.


- Ý nghĩa văn bản: Tố cáo tội ác của bọn phong kiến, thực dân; thể hiện số phận đau khổ của người
dân lao động miền núi; phản ánh con đường giải phóng và ca ngợi vẻ đẹp, sức sống tiềm tàng, mãnh liệt
của họ.



<b>Câu 47. Trình bày ngắn gọn nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Vợ chồng A Phủ - Tơ Hồi.</b>
<b>- Nội dung: Cuộc sống cơ cực, tối tăm của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng cao dưới ách áp</b>
bức kìm kẹp của thực dân và chúa đất thống trị; quá trình người dân các dân tộc thiểu số thức tỉnh cách
mạng và vùng lên tự giải phóng đời mình, đi theo tiếng gọi của Đảng.


<b>- Nghệ thuật: Tác giả thành công trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, điển hình là nhân vật Mị</b>
có tâm trạng, có diễn biến biến tâm lí phù hợp với hồn cảnh. Tác giả có biệt tài miêu tả cảnh thiên
nhiên, cảnh sinh hoạt, tính cách con người, phong tục tập quán đậm đà màu sắc dân tộc miền núi. Lối
trần thuật uyển chuyển linh hoạt.


<b>VỢ NHẶT – KIM LÂN</b>
<b>Câu 48. Nêu những nét cơ bản về tác giả Kim Lân.</b>


<b>- Kim Lân (1920- 2007) tên thật là Nguyễn Văn Tài, quê ở Bắc Ninh. </b>


- Tác phẩm: Nên vợ nên chồng (tập truyện, 1955), Con chó xấu xí (tập truyện ngắn, 1962),...


- Kim Lân là cây bút chun viết truyện ngắn. Ơng thường viết về nơng thôn và người nông dân với
những trang viết đặc sắc về phong tục và đời sống làng quê. Nói như Ngun Hồng<i>, ơng là nhà văn một</i>
<i>lịng đi về với “đất”, với “người”, với “thuần hậu nguyên thủy” của cuộc sống nông thôn. </i>Năm 2001,
Kim Lân được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

- HCST: “Vợ nhặt” là truyện ngắn xuất sắc của Kim Lân in trong tập “Con chó xấu xí” (1962).
Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu thuyết Xóm ngụ cư - được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám
nhưng cịn dang dở và mất bản thảo. Sau khi hồ bình lập lại (1954), ơng dựa vào một phần cốt truyện
cũ để viết truyện ngắn này.


- Ý nghĩa tựa đề: Nhan đề “Vợ nhặt” đã tạo được ấn tượng, kích thích sự chú ý của người đọc.
Đây khơng phải là cảnh lấy vợ đàng hồng, có hỏi, có cưới xin theo phong tục truyền thống của người
Việt, mà là “ nhặt được vợ” chỉ với một câu hò và bốn bát bánh đúc. Hai chữ “vợ nhặt” cũng nói lên khá


nhiều về cảnh ngộ, số phận của Tràng và cả người đàn bà xa lạ kia. Vợ lại được nhặt như người ta nhặt
cái rơm, cái rác bên đường. Cái giá của con người chưa bao giờ lại rẻ rúng đến như vậy. Chuyện Tràng
nhặt được vợ đã nói lên tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của người dân nghèo trong nạn đói
khủng khiếp năm 1945.


<b>Câu 50. Nội dung (ý nghĩa văn bản) và nghệ thuật chủ yếu của truyện ngắn “Vợ nhặt”.</b>


- Nội dung: tác phẩm khơng chỉ miêu tả tình cảnh thê thảm của người nơng dân nước ta trong nạn
đói khủng khiếp 1945 mà còn thể hiện bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ ngay trên bờ vực của
cái chết, họ vẫn hướng về sự sống, khao khát tổ ấm gia đình và tình yêu thương đùm bọc lẫn nhau.


- Nghệ thuật: Tình huống truyện rất độc đáo, éo le và hấp dẫn, giọng văn mộc mạc giản dị. Xây dựng
nhân vật với tài miêu tả tâm lí sắc sảo của nhà văn. Tác giả dùng những biện pháp phong phú để diễn tả
tâm lí nhân vật (qua những biểu hiện bên ngoài, diễn tả trực tiếp những ý nghĩ bên trong nội tâm nhân
vật). Khắc hoạ nhân vật một cách chân thật, sinh động.


<b>Câu 51. Nhận xét ngắn gọn về tình huống truyện độc đáo của tác phẩm “Vợ nhặt” – Kim Lân.</b>
<b>- Tác phẩm “Vợ nhặt” đã xây dựng được tình huống truyện độc đáo có những nét khác thường, bộc</b>
lộ được nhiều vấn đề khiến độc giả phải chú ý tìm hiểu và suy nghĩ. Tình huống truyện được thể hiện
ngay ở nhan đề tác phẩm: vợ được nhặt như người ta nhặt một cái rơm cái rác bên đường. Kế đó là ngay
trong tác phẩm: Tràng nghèo, xấu xí, thơ kệch lại là dân xóm ngụ cư có vợ trong nạn đói khiến cho xóm
ngụ cư và cả bà cụ Tứ, mẹ Tràng ngạc nhiên và ngay cả Tràng cũng khơng tin đó là sự thật.


- Tình huống này đã làm cho tác phẩm có nhiều mặt giá trị: Giá trị hiện thực của tác phẩm là tố cáo
tội ác của bọn thực dân, phát xít và tay sai gây nên nạn đói khủng khiếp năm 1945 với trên hai triệu
đồng bào ta bị chết đói. Trong hồn cảnh ấy giá trị của con người thật rẻ rúng. Giá trị nhân đạo sâu sắc
của tác phẩm: Tình người và lịng ham sống, bản chất lạc quan của người lao động trong hoàn cảnh khốn
cùng.


<b>Câu 52. Qua truyện ngắn “Vợ nhặt”, Kim Lân muốn gởi đến người đọc ý tưởng gì?</b>



Tố cáo tội ác bọn thống trị đã đẩy nhân dân ta vào nạn đói khủng khiếp 1945. Khẳng định rằng:
Người dân lao động VN dù ở trong tình huống bi thảm như thế nào đi chăng nữa họ vẫn tin tưởng vào
ngày mai tươi sáng.


<b>RỪNG XÀ NU – NGUYỄN TRUNG THÀNH</b>
<b>Câu 53. Trình bày ngắn gọn về tác giả Nguyễn Trung Thành.</b>


- Tên thật là Nguyễn Văn Báu, sinh năm 1932, quê ở Quảng Nam. Bút danh khác là Nguyên Ngọc.
Năm 1950, ông vào bộ đội, sau làm phóng viên báo Quân đội ND.


- Nguyễn Trung Thành là nhà văn trưởng thành trong cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống
Mỹ cũng là nhà văn của vùng đất Tây Nguyên. Trong cả hai cuộc kháng chiến, ơng đều gắn bó với vùng
đất này, hiểu biết về cuộc sống cũng như tinh thần của nhân dân các dân tộc thiểu số, nên có những trang
viết rất hay về đất và người Tây Nguyên. Viết về đề tài Tây Nguyên, ông trở nên bất tử với tiểu thuyết
<i>Đất nước đứng lên (tác phẩm được tặng giải Nhất - Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955),</i>
truyện ngắn Rừng xà nu (1965), Rẻo cao…


- Văn Nguyên Ngọc mang đậm âm hưởng sử thi của núi rừng Tây Ngun. Ở đó, chất thơ hịa quyện
với nét hoành tráng, hùng vĩ của núi rừng, của con người bất khuất, kiên trung với quê hương, đất nước.
Sức sống bất diệt, khả năng trỗi dậy vô tận của con người, sự sống luôn được đề cao trong các sáng tác
của ơng.


<b>Câu 54. Trình bày hồn cảnh sáng tác và ý nghĩa văn bản của truyện ngắn “Rừng xà nu”.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

<b>- Ý nghĩa văn bản: Ca ngợi tinh thần bất khuất, sức mạnh quật khởi của đồng bào các dân tộc Tây</b>
Nguyên nói riêng, đất nước, con người Việt Nam nói chung trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và
khẳng định chân lí của thời đại: để giữ gìn sự sống của đất nước và nhân dân, khơng có cách nào khác là
phải cùng nhau đứng lên cầm vũ khí chống lại kẻ thù.



<b>Câu 55. Cho biết ý nghĩa nhan đề truyện ngắn “Rừng xà nu”.</b>


- “Rừng xà nu” là linh hồn của tác phẩm. Cảm hứng chủ đạo và dụng ý nghệ thuật được khơi nguồn
từ hình tượng này.


- Tựa đề “Rừng xà nu” ẩn chứa khí vị rất riêng của vùng đất Tây Nguyên. Nó gợi vẻ đẹp hùng tráng,
sức sống bất diệt của thiên nhiên và tinh thần bất khuất, phẩm chất anh hùng cao đẹp của người Tây
Nguyên.


- Rừng xà nu gắn bó mật thiết với đời sống vật chất và tinh thần của người dân làng Xơ Man, đồng
thời cịn là biểu tượng cho phẩm chất cao đẹp và sức sống bất diệt của người dân Tây Nguyên trong
những năm chống Mĩ.


<b>Câu 56. M/đầu và kết thúc truyện ngắn “Rừng xà nu” là hình ảnh gì? Cho biết ý nghĩa của điều</b>
<b>đó.</b>


- Mở đầu là hình ảnh rừng xà nu hàng vạn cây bị giặc Mỹ bắn phá dữ dội. Kết thúc là hình ảnh rừng
<i>xà nu nối tiếp chạy tới chân trời.</i>


- Sự lặp lại trong cấu trúc và cách miêu tả chính là dụng ý nghệ thuật của nhà văn. Rừng xà nu là
biểu tượng cho sự mất mát, đau thương của cả dân tộc trong chiến tranh, là biểu tượng về phẩm chất,
truyền thống đấu tranh của dân làng Xơ Man, có sức sống mãnh liệt khơng gì có thể tiêu diệt được.
<b>Câu 57. Cho biết nội dung và nghệ thuật của truyện ngắn “Rừng xà nu”</b>


<b>- Nội dung: Truyện ngắn Rừng xà nu trước hết phản ánh hiện thực đau thương nhưng kiên cường,</b>
bất khuất của người dân Tây Nguyên thông qua hình tượng cây xà nu. Qua câu chuyện bi thương của
của nhân vật Tnú và cuộc nổ dậy của dân làng Xô Man, nhà văn khẳng định : dùng bạo lực cách mạng
để chống lại bạo lực phản cách mạng đấu tranyh vũ trang là con đường tất yếu để tự giải phóng.


<b>- Nghệ thuật: Sắc màu Tây Nguyên được thể hiện ở: bức tranh thiên nhiên; ngôn ngữ, tâm lí, hành</b>


động của các nhân vật. Khắc hoạ thành cơng hình tượng cây xà nu – một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc tạo
nên màu sắc sử thi và cảm hứng lãng mạn bay bổng cho thiên truyện; lời văn giàu tính tạo hình, giàu
nhạc điệu. Xây dựng thành cơng các nhân vật vừa có nét cá tính sống động vừa mang những phẩm chất
khái quát, tiêu biểu cho cộng đồng.


<b>Câu 58. Chất sử thi của truyện ngắn Rừng xà nu.</b>


- Chủ đề mà tác phâm đặt ra có ý nghĩa sống cịn với cách mạng Việt Nam, những sự kiện có tính
chất tồn dân.


- Xây dựng thành cơng hình tượng một tập thể anh hùng. Những anh hùng được kể tới trong đó đều
có tính đại diện cao, mang trong mình hình ảnh của cả một dân tộc.


- Bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, hoành tráng làm bối cảnh cho câu chuyện.


- Giọng văn tha thiết, trang trọng mà tác giả đã sử dụng khi kể về sự tích của làng Xơ Man. Giọng
văn mang âm hưởng vang dội như tiếng cồng tiếng chiêng của đất rừng Tây Nguyên đại ngàn hùng vĩ.
<b>Những câu nói nào của cụ Mết đã ch/minh được chân lý thời đại đánh Mĩ? Ý nghĩa của câu nói</b>
<b>ấy?</b>


- Câu nói của cụ Mết chứng minh được chân lý thời đại đánh Mỹ là: Đảng còn núi nước này cịn,
<i>Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo.</i>


- Những câu nói ấy có ý nghĩa là: biểu lộ lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, với CM và chứng
<i>minh được chân lý của thời đại đánh Mỹ phải cầm vũ khí lên khi kẻ thù đã cầm vũ khí, phải dùng bạo</i>
<i>lực CM để chống lại bạo lực phản CM.</i>


<b>NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH – NGUYỄN THI</b>
<b>Câu 59. Nêu những nét chính về tác giả Nguyễn Thi.</b>



<b>- Nguyễn Thi (1928-1968), bút danh khác là Nguyễn Ngọc Tấn, tên khai sinh là Nguyễn Hoàng</b>


Ca, quê ở Nam Định. Năm 1968, ơng hi sinh tại Sài Gịn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

- Sau khi ông hi sinh, tác phẩm ông được sưu tập và in thành Truyện kí Nguyễn Thi. Năm 2000
ơng được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.


<b>Câu 60. Hoàn cảnh sáng tác và ý nghĩa tác phẩm Những đứa con trong gia đình – Nguyễn Thi</b>
<b>- Hoàn cảnh sáng tác: Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình được hồn thành vào tháng 2</b>
năm 1966, trong những ngày chiến đấu chống Mĩ ác liệt, khi NT cơng tác ở tạp chí <i>Văn nghệ Quân giải</i>
<i>phóng.</i>


<i>- Ý nghĩa văn bản: Qua câu chuyện về những con người trong một gia đình nơng dân Nam Bộ có</i>
truyền thống yêu nước, căm thù giặc, thuỷ chung với quê hương, với cách mạng, nhà văn khẳng định: sự
hồ quyện giữa tình cảm gia đình và tình u nước, giữa truyền thống gia đình và truyền thống dân tộc
đã tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến
chống


Mĩ cứu nước.


<b>Câu 61. Nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Những đứa con trong gia đình – Nguyễn Thi</b>


<b>- Nội dung: Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình phản ánh hiện thực đau thương nhưng rất</b>
đỗi anh dũng, kiên cường của nhân dân miền Nam trong những năm kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Vẻ đẹp tâm hồn của người dân Nam Bộ : lòng yêu nước, căm thù giặc, tình cảm gia đình là sức mạnh
tinh thần to lớn trong cuộc chiến chống Mĩ cứu nước.


<b>- Nghệ thuật: Tình huống truyện: Việt – một chiến sĩ Quân giải phóng – bị thương phải nằm lại</b>
chiến trường. Truyện kể theo dòng nội tâm của Việt khi liền mạch (lúc tỉnh), khi gián đoạn (lúc ngất)
của "người trong cuộc" làm câu chuyện trở nên chân thật hơn; có thể thay đổi đối tượng, khơng gian,
thời gian, đan xen tự sự và trữ tình. Chi tiết được chọn lọc vừa cụ thể vừa giàu ý nghĩa, gây ấn tượng


mạnh. Ngơn ngữ bình dị, phong phú, giàu giá trị tạo hình và đậm sắc thái Nam Bộ. Giọng văn chân thật,
tự nhiên, nhiều đoạn gây xúc động mạnh,...


<b>Câu 62. Truyền thống nào đã gắn bó những con người trong gia đình với nhau trong tác phẩm</b>
<i><b>Những đứa con trong gia đình ( Nguyễn Thi)</b></i>


- Lòng yêu nước, căm thù giặc sâu sắc.
- Tinh thần chiến đấu dũng cảm.


- Giàu tình nghĩa.


<b>Câu 63. Vì sao nói “Nguyễn Thi là nhà văn của người nông dân Nam Bộ”? Những biểu hiện chứng</b>
<b>tỏ Nguyễn Thi là nhà văn của người nông dân Nam Bộ qua “Những đứa con trong gia đình”?</b>
- Nói Nguyễn Thi là nhà văn của người nơng dân Nam Bộ vì ông gắn bó với cuộc sống và con
người Nam Bộ, ông hiểu rõ phong tục tập quán, tính cách, tâm lí và ngơn ngữ của họ.


- Những biểu hiện chứng tỏ Nguyễn Thi là nhà văn của người nông dân Nam Bộ qua Những đứa
<i>con trong gia đình: Nhân vật là những con người yêu nước mãnh liệt, thiết tha và thủy chung đến cùng</i>
với Tổ quốc, với đồng bào. Trong trái tim họ luôn sáng ngời ngọn lửa căm thù ngùn ngụt đối với kẻ thù
xâm lược và tay sai của chúng. Họ cũng vơ cùng gan góc, tinh thần chiến đấu cao ngút. Và họ là những
con người dường như sinh ra để đánh giặc. Họ sống thẳng thắn bộc trực, lạc quan, yêu đời, giàu tình
nghĩa. Khi xúc động họ đều bày tỏ tâm sự bằng những câu hò, tiếng hát, kể Truyện Lục Vân Tiên...
Ngôn ngữ giao tiếp và độc thoại nội tâm của nhân vật đậm chất địa phương Nam Bộ.


<b>CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA - Nguyễn Minh Châu.</b>


<b>Câu 64. Những nét chính về tác giả Nguyễn Minh Châu</b>


- NMC ( 1930– 1989), trước năm 1975 là ngịi bút sử thi có khuynh hướng trữ tình lãng mạn.
- Từ thập kỉ 80 của thế kỉ XX NMC chuyển hẳn sang cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức
và triết lí nhân sinh. Ơng là một trong số những người mở đường tinh anh và tài năng nhất của VHVN


thời kì đổi mới.


<b>Câu 65. Nêu hoàn cảnh sáng tác và ý nghĩa văn bản</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

<b>- Ý nghĩa văn bản: Chiếc thuyền ngoài xa thể hiện những chiêm nghiệm sâu sắc của nhà văn về</b>
nghệ thuật và cuộc đời : nghệ thuật chân chính phải ln ln gắn với cuộc đời, vì cuộc đời ; người nghệ
sĩ cần phải nhìn nhận cuộc sống và con người một cách toàn diện, sâu sắc. Tác phẩm cũng rung lên hồi
chng báo động về tình trạng bạo lực gia đình và hậu quả khơn lường của nó.


<b>Câu 66. Trình bày nội dung và hình thức nghệ thuật </b>


<b>- Nội dung: Từ câu chuyện về bức ảnh nghệ thuật và sự thật về cuộc đời sau bức ảnh, truyện ngắn</b>
Chiếc thuyền ngoài xa đã mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người:
một cái nhìn đa diện nhiều chiều, phát hiện ra bản chất sự thật sau vẻ đẹp bên ngồi của hiện tượng.


<b>- Nghệ thuật: Tình huống truyện độc đáo, có ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống. Tác giả lựa</b>
chọn ngơi kể, điểm nhìn thích hợp, làm cho câu chuyện trở nên gần gũi, chân thực và có sức thuyết
phục.


Ngơn ngữ nhân vật sinh động, phù hợp với tính cách. Lời văn giản dị mà sâu sắc, đa nghĩa.
<b>HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT – LƯU QUANG VŨ</b>
<b>Câu 67. Cuộc đời và sự nghiệp của Lưu Quang Vũ</b>


<i>- Lưu Quang Vũ (1948-1988) quê ở Đà Nẵng. Cha cũng là nhà soạn kịch nên năng khiếu nghệ</i>
thuật bộc lộ ngay từ nhỏ.


- Lưu Quang Vũ là một nghệ sĩ tài hoa đã để lại dấu ấn trong nhiều thể loại: thơ, văn xuôi, vẽ tranh
và đặc biệt là kịch. Kịch là phần đóng góp đặc sắc nhất với những vở gây chấn động dư luận như: Lời
<i>nói dối cuối cùng, Nàng Xi-ta, Chết cho điều chưa có, Bệnh sĩ, Tơi và chúng ta, Hồn Trương Ba, da</i>
<i>hàng thịt,… Lưu Quang Vũ không những là một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch, được coi là nhà</i>


soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật VN hiện đại vào những năm 80 của thế kỉ XX. Ông
mất giữa lúc tài năng đang vào độ chín, hứa hẹn một sự nghiệp văn chương to lớn. Năm 2000, ông được
tặng giải thưởng HCM về văn học nghệ thuật.


<b>Câu 68. Ý nghĩa nhan đề Hồn Trương ba, da hàng thịt </b>


Nhan đề <i>Hồn Trương ba, da hàng thịt gợi cảm giác về độ vênh lệch của hai yếu tố quan trọng</i>
trong một con người. Hồn là phần trừu tượng, da thịt thân xác là cái cụ thể, là cái bình có thể chứa linh
hồn, hồn nào xác ấy. Nhưng ở đây hồn người người này lại ở trong xác người kia. Hồn và xác lại khơng
tương hợp. Về tính cách, hành động, lối sống của Trương Ba và anh hàng thịt trái ngược nhau. Tên gọi
của vở kịch đã thâu tóm được những mâu thuẫn, xung đột bên trong của một con người.


<b>Câu 69. Xuất xứ của vở kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt có gì đặc biệt? Hãy chỉ rõ những điểm</b>
<b>khác biệt giữa truyện cổ dân gian và vở kịch của Lưu Quang Vũ?</b>


Vở kịch được xây dựng dựa vào một câu chuyện dân gian cùng tên, nhưng tác phẩm có những
sáng tạo riêng độc đáo:


+ Trong truyện dg, hồn Trương Ba sống yên ổn trong xác anh hàng thịt. HTB, DHT dg thể hiện
một


tư tưởng đơn giản, ngắn gọn là tuyệt đối hóa linh hồn, đề cao linh hồn, không chú ý đến mối quan hệ
giữa thể xác và linh hồn.


+ Trong vở kịch, LQV đã sáng tạo ở phần kết của vở kịch, đồng thời nhấn mạnh vào sự phản
kháng của linh hồn nhân hậu, thanh cao chống lại sự lấn át và chế ngự của thể xác thô lỗ phàm tục. Vở
kịch tập trung diễn tả tình cảnh trớ trêu, nỗi đau khổ, giày vị của TB từ khi “<i>bên trong một đằng, bên</i>
<i>ngoài một nẻo”. Từ đó đưa đến tư tưởng mới: sự tồn tại độc lập của thân xác đối với linh hồn và khẳng</i>
<i>định một quan niệm đúng đắn về cách sống.</i> Những hư cấu sáng tạo của LQV từ câu chuyện cổ tích dân
gian nhằm truyền đến người đọc thơng điệp của thời đại những vấn đề xã hội mang tính triết lý sâu sắc.


<b>Câu 70. Câu nói của Hồn Trương Ba: “Khơng thể bên trong một đằng, bên ngồi một nẻo được. Tơi</b>
<i><b>muốn được là tơi tồn vẹn” có ý nghĩa như thế nào?</b></i>


- Câu nói cho thấy nỗi đau khổ, giằng xé tột cùng của HTB trước hoàn cảnh hiện tại của bản thân.
- Câu nói cũng cho thấy khát vọng mãnh liệt được sống với ý nghĩa đích thực. Được sống làm người
thật quý giá, nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn với những giá trị mình vốn có và cịn theo
đuổi q giá hơn.


- Câu nói còn thể hiện một tư tuởng triết học sâu sắc: nó phản ánh địi hỏi sự thống nhất giữa nội
dung và hình thức, giữa tư tưởng và biểu hiện hành động.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Qua đoạn trích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”, LQV muốn gởi tới người đọc thông điệp: được sống
và làm người quý giá thật, nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn những giá trị mình vốn có và
theo đuổi cịn q giá hơn. Sự sống chỉ thật sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự hài
hoà giữa thể xác và tâm hồn. Con người phải luôn luôn đấu tranh với những nghịch cảnh, với chính bản
thân, chống lại sự dung tục để hoàn thành nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.


<b>Câu 72. Anh chị có đồng ý với đoạn kết của vở kịch không? Giải thích?</b>


Đọc "Hồn Trương Ba da hàng thịt" càng thêm hiểu cần phải là chính mình. Đọc "Hồn Trương Ba, da
<i>hàng thịt" ta để ý tơi cái chết cuối cùng của nhân vật Trương Ba. Có người nghĩ rằng chết là hết là kết</i>
thúc nhưng với Trương Ba đó lại là sự giải thốt, ơng đã có thể là chính mình. Trương Ba chọn cái chết
để khơng cịn sự dằn vặt bản thân, để trong lòng được thảnh thơi. Vậy cái chết của ông không hề là một
bi kịch mà là sự giải thoát cho bản thân. Qua tác phẩm chúng ta có thể hiểu thêm hãy là chính mình, hãy
sống để không phải hối hận và hãy đứng lên bằng chính đơi chân của mình mà khơng phải dựa dẫm vào
người khác.


<b>PHẦN VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI</b>
<b>THUỐC - Lỗ Tấn</b>



<b>Câu 73. Trình bày hiểu biết về tác giả Lỗ Tấn?</b>


- Lỗ Tấn (1881 – 1936), tên thật là Chu Thụ Nhân, bút danh là Lỗ Tấn là ghép từ họ mẹ (bà Lỗ
Thụy) cùng với chữ “Tấn hành” (đi nhanh lên - một kỉ niệm thời thơ ấu). Quê ở tỉnh Triết Giang, miền
đông nam Trung Quốc.


- Trước khi trở thành nhà văn, ông từng học: hàng hải (mong được đi đây đó để mở rộng tầm mắt),
khai mỏ (mong muốn làm giàu cho đất nước), ngành y (với mong muốn chữa bệnh cho người nghèo, ốm
mà khơng có thuốc như bố ông). Khi đang học y khoa ở Nhật, một lần xem phim, ơng nhìn thấy những
người Trung Quốc khoẻ mạnh đi xem người Nhật chém đầu người Trung Quốc, từ đó ơng mới giật mình
và nhận ra rằng chữa bệnh thể xác không quan trọng bằng chữa bệnh tinh thần và ông chuyển sang làm
văn nghệ.


- Chủ đề trong các sáng tác của Lỗ Tấn là “Phê phán quốc dân tính”. Ơng cho rằng các căn bệnh
tinh thần đã khiến cho quốc dân mê muội, tự thoã mãn, ngủ say trong một “cái nhà hộp bằng sắt khơng
<i>có cửa sổ”. Ơng hát cho đồng bào mình nghe bài hát lạc điệu của họ, chỉ cho họ thấy bước đi sai nhịp</i>
trên con đường hướng về phía tương lai với thái độ phê phán nghiêm khắc. Chủ trương của ông trong tất
cả các sáng tác là dùng ngòi bút phanh phui các căn bệnh tinh thần của dân tộc và lưu ý mọi người
phương chạy chữa. .


- Tác phẩm tiêu biểu: Gào thét, Bàng hoàng, Nấm mồ, Cỏ dại, Chuyện cũ viết theo lối mới,..


- Lỗ Tấn là nhà văn CM hiện thực xuất sắc nổi tiếng của văn học hiện đại Trung Quốc đầu TK XX.
Năm 1981 cả Thế giới kỉ niệm 100 năm sinh và tôn vinh ơng là danh nhân văn hố thế giới.


<b>Câu 74. Trình bày hồn cảnh sáng tác và xuất xứ, ý nghĩa văn bản?</b>


- HCST: Truyện được viết năm 1919, đúng vào lúc bùng nổ phong trào Ngũ tứ. Đây là thời kì Trung
Quốc bị chèn ép bởi các thế lực đế quốc phương Tây. Thuốc được đăng trên tạp chí Tân Thanh Niên
tháng 5 – 1919, sau được in trong tập Gào Thét (1923).



- Ý nghĩa văn bản: Người Trung Quốc cần có một thứ thuốc để chữa trị tận gốc căn bệnh mê muội
về


tinh thần. Nhân dân không nên "ngủ say trong cái nhà hộp bằng sắt" và người cách mạng thì khơng nên
"bơn ba trong chốn quạnh hiu', mà phải bám sát quần chúng để vận động, giác ngộ. Người TQ cần suy
nghĩ nghiêm túc về phương thuốc để cứu dân tộc.


<b>Câu 75. Tóm tắt truyện “Thuốc” và cho biết ý nghĩa nhan đề?</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

nhiên khi thấy trên mộ Hạ Du xuất hiện vòng hoa trắng hồng xen lẫn nhau. Đây điểm sáng để kết thúc
câu chuyện bi thảm, bày tỏ quyết tâm tiếp bước người đã khuất .


<b>- Ý nghĩa tựa đề “Thuốc”: Thuốc là một nhan đề đa nghĩa:</b>


- Nghĩa gốc: chỉ phương thuốc chạy chữa căn bệnh lao: bánh bao tẩm máu người.


- Nghĩa chuyển: chỉ phương thuốc chạy chữa căn bệnh tinh thần cho quốc dân Trung Quốc:
+ Sự ngu muội, lạc hậu, mê tín dị đoan của quần chúng nhân dân.


+ Thái độ thờ ơ, lãnh đạm, xa rời cách mạng của quần chúng.


+ Sự sai lầm trong đường lối hoạt động của cách mạng Tân Hợi – Trung Quốc: hoạt động đơn lẻ, xa
rời quần chúng, chưa tận dụng được sức mạnh của nhân dân...


<b>Câu 76. Hình tượng chiếc bánh bao tẩm máu người</b>


- “Chiếc bánh bao có tẩm máu người” nghe như chuyện thời Trung cổ nhưng vẫn xảy ra ở nước
Trung Hoa trì trệ. Tầng nghĩa thứ nhất – thuốc chữa bệnh lao (Thứ mà lão Hoa Thuyên xem là tiên dược
để cứu thằng con trai mười đời độc đinh nhưng khơng cứu được nó mà ngược lại đã giết chết nó). Đây


cịn là thứ thuốc mê tín dị đoan.


- Trong truyện, bố mẹ thằng Thuyên đã áp đặt cho nó một phương thuốc quái gỡ và đám người
trong quán trà cũng cho rằng đó là thứ thuốc tiên. Tầng nghĩa thứ 2 của nó mang tính khai sáng – đây là
thứ thuốc độc – mọi người cần giác ngộ, cần tỉnh giấc không được ngủ say trong nhà hộp bằng sắt khơng
có cửa sổ.


- Chiếc bánh bao – liều thuốc độc hại lại được pha chế bàng máu của người CM Hạ Du – một
người xả thân vì nghĩa, đổ máu vì sự nghiệp giải phóng nơng dân,... Nhưng những người dân ấy lại dững
dưng mua máu anh như mua máu súc vật. Với hiện tượng này, Lỗ Tấn đã đặt ra vấn đề hệ trọng: ý nghãi
của sự hi sinh. Từ đó dẫn đến tầng nghĩa thứ ba: tìm phương thuốc chữa bệnh cho quần chúng, làm cho
CM gắn bó với quần chúng.


<b>Câu 77. Hình tượng người chiến sĩ cách mạng Hạ Du </b>


Nhân vật Hạ Du xuất hiện gián tiếp qua sự bàn luận của những người trong quán trà.


- Hạ Du là một trong những người cách mạng tiên phong của cách mạng Trung Quốc đầu thế kỉ
XX, anh có lí tưởng rõ ràng: lật đổ ngai vàng và đánh đuổi ngoại tộc giành độc lập cho dân tộc. Hạ Du
hiên ngang đứng trước cái chết, dũng cảm tuyên truyền cách mạng với cả tên cai ngục trong những ngày
ở tù chờ án chém. Thế nhưng tất cả ý chí, mục đích và hành động của anh lại bị nhận thức một cách méo
mó, đầy sai lạc trong con mắt của quần chúng nhân dân và cả người thân trong gia đình.


- Đối với quần chúng thì Hạ Dụ chỉ là "thằng khốn nạn", "nhãi con không muốn sống", "quân
<i>làm giặc", "kẻ điên khùng", "đáng tội chết". Đối với họ hàng thì "may mà tố giác được khơng thì cả nhà</i>
<i>mất đầu". Đối với người bị bệnh thì "may phúc quá" khi lấy được thứ thuốc đặc hiệu. Với những kẻ khác</i>
<i>thì "thích q", "ái chà chà", "nghe như chuyện làm giặc cơ vậy"... Thật xót xa và đau đớn cho hình ảnh</i>
người


chiến sĩ cách mạng trong con mắt của quần chúng mê muội.



- Qua nhân vật Hạ Du, tác giả tỏ thái độ trân trọng đối với người cách mạng, nhưng cũng có
ngầm ý phê phán anh ta xa rời quần chúng, xa rời đến nỗi mẹ anh ta cũng không biết con mình làm cách
mạng. Đây là sai lầm của những người làm cách mạng. Cái chết của Hạ Du là bi kịch của người CM.
<b>Câu 78. Hình ảnh con đường mòn và ý nghĩa vòng hoa trên mộ Hạ Du</b>


- Hình ảnh con đường mịn có 2 ý nghĩa.


+ Vơ tình, những người chiến sĩ CM cũng bị xem là giặc. Con đường mòn là biểu tượng của tập
quán xấu đã trở thành thói quen, trở thành suy nghĩ đương nhiên.


+ Con đường mòn chia cắt nghĩa địa của người chết chém (người phản nghịch, người CM) với
nghĩa địa người chết bệnh (người lao động nghèo khổ). Đây là biểu tượng của ranh giới vơ hình của lịng
người, của những định kiến xã hội.


+ Cuối truyện phải qua thời gian giác ngộ, hai bà mẹ mới bước qua con đường mịn đến với
nhau, hiểu nhau và cảm thơng cho nhau.


<b>- Sự xuất hiện của vịng hoa trên mộ</b>


Ai đó thấu hiểu, tiếc thương, tưởng nhớ đã đặt một vòng hoa trên mộ “một vòng hoa trắng, hoa
<i>hồng nằm khoanh trên nấm mồ”. Hình ảnh này biểu tượng cho lịng cảm phục, kính trọng người CM.</i>
Đồng thời là niếm lạc quan tin tưởng vào tương lai, tiền đồ tươi sáng của CMTQ.


<b>Câu 79. Không gian và thời gian nghệ thuật trong truyện.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Thu qua, xuân tới là qui luật của đất trời. Thu là buổi chiều của năm, mùa thu lá vàng bay để tích nhựa
qua đơng đón xuân đâm chồi nảy lộc. Cái chết của hai con người do u mê, lạc hậu để tích nhựa cho mùa
xuân hy vọng cũng như gieo mầm.



- Không gian; một quán trà lặng lẽ về đêm nhưng ồn ào vào ban ngày, một pháp trường nhốn
nháo và hỗn tạp, một nghĩa địa mênh mông và lạnh lẽo. Đây cũng là không gian của xã hội TQ đương
thời.


<b>Câu 80. Nêu chủ đề, nghệ thuật và ý nghĩa câu nói “Thế này là thế nào?” của mẹ Hạ Du?</b>


<b>- Nghệ thuật: Cốt truyện đơn giản, khả năng lực chọn tình tiết và cách sắp xếp không gian, thời</b>
gian


nghệ thuật cùng cách tạo tính đa nghĩa của ngơn từ và hình tượng.


- Chủ đề: Phê phán sự lạc hậu của quần chúng và bi kịch của người chiến sĩ CM tiên phong. Từ
đó làm bật lên tư tưởng: làm thế nào để tìm phương thuốc chữa bệnh cho dân tộc Trung Quốc


- Câu hỏi “Thế này là thế nào?” được lặp lại như một điệp khúc gợi nhiều day dứt. Câu hỏi
trước hết cho thấy sự bế tắc lạ lẫm vì ngay cả bà cũng không hiểu việc làm của con trai mình. Câu hỏi
cịn là lời tự trách. Đặt câu hỏi ở cuối truyện, tác giả muốn gợi cho người đọc suy ngẫm về cái chết của
<i><b>Hạ Du và gửi gắm sự day dứt về mối quan hệ giữa quần chúng và CM. </b></i>


<b>ƠNG GIÀ VÀ BIỂN CẢ (Trích) Hê – minh - uê.</b>
<b>Câu 81. Vài nét chính về tác giả Hê-minh-uê</b>


- Ơ-nit Hê-minh-uê (1899-1961) là nhà văn hiện thực Mĩ. Từng nhận giải thưởng Pu-lit-dơ
(1953), giải Nơ-ben văn học (1954). Ơng từng tham gia thế chiến thứ I, nội chiến Tây Ban Nha và thế
chiến thứ II với tư cách là người lính, là nhà báo, là phóng viên mặt trận. Sau đó bị thương trở về Hoa
Kì, nhưng ơng hồn tồn thất vọng về xã hội đương thời, tự nhận mình là thế hệ mất mác. Cuối đời ơng
sống ở Cu-Ba.


- Ơng đã góp phần trong việc đổi mới lối viết truyện, tiểu thuyết trong nền văn học thế giới. Văn
phong của Hê-minh-uê giản dị, trong sáng. Dù viết về đề tài nào, ông đều nhằm ý đồ “viết một áng văn


<i>xuôi đơn giản và trung thực về con người” và thực nghiệm thành công về nguyên lý “Tảng băng trôi”</i>
(Như một tảng băng trôi trên biển chỉ có một phần nhỏ nổi trên mặt nước, phần lớn chìm dưới mặt nước.
Nhà văn khơng trực tiếp cơng khai phát biểu ý tưởng của mình mà để người đọc tự rút ra ẩn ý).


-Các tác phẩm: Mặt trời vẫn mọc (1926), Giã từ vũ khí (1929), Chng nguyện hồn ai (1940),…
<b>Câu 82. Tóm tắt, nêu HCST và ý nghĩa văn bản “Ộng già và biển cả”</b>


<b>1. Tóm tắt: Lão Xan-chi-a-gơ 74 tuổi đã lâu không câu được con cá nào. Hôm nay lão quyết</b>
định một mình đi ra biển và câu được một con cá kiếm lớn. Ơng phải chiến đấu với nó suốt ba ngày đến
kiệt sức nhưng nhờ kiên trì và dũng cảm, cuối cùng ơng cũng giết được nó và buộc nó sau thuyền hướng
vào bờ. Bỗng đàn cá mập xuất hiện, tấn công con cá kiếm. Lão lại phải chiến đấu với lũ cá mập hung dữ
và khi con cá mập cuối cùng bị đánh đuổi thì con cá kiếm chỉ cịn trơ lại bộ xương. Ơng cũng mệt ngồi
và lên bờ ngũ mơ về những con sư tử ở Châu Phi.


<b>2. HCST: Sau gần 10 năm sống ở Cu-Ba, ơng cho ra đời tác phẩm “Ơng già và biển cả” (1952).</b>
Bối cảnh là một làng chài yên ả bên cảng La-ha-ba-na. Tác phẩm ra mắt người đọc trước khi
Hê-minh-uê được


giải thưởng Nôben văn học 1954. Tác phẩm có những nét mới mẻ trong lối kể chuyện của Hê-minh-uê.
<b>3. Ý nghĩa văn bản: Hành trình đơn độc và nhọc nhằn của con người vì một khát vọng lớn lao là</b>
minh chứng cho chân lý: “con người có thể bị hủy diệt nhưng không thể bị đánh bại”.


<b>Câu 83. Trình bày giá trị của tác phẩm “Ơng già và biển cả”</b>


Thời gian và nhân vật được thu hẹp đến mức cực hạn, nhưng câu chuyện cực kì đơn giản ấy lại
mở ra nhiều tầng ý nghĩa:


- Một cuộc tìm kiếm con cá kiếm lớn nhất, đẹp nhất đời.
- Hành trình đầy khó nhọc và dũng cảm của người lao động.



- Thể nghiệm thành công và thất bại của người nghệ sĩ đơn độc khi theo đuổi ước mơ sáng tạo.
- Mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

<b>Câu 84. Ý nghĩa hình ảnh những vòng lượn của con cá kiếm? </b>
<b>Câu 85. Hình ảnh con cá kiếm và ý nghĩa biểu tượng của nó?</b>


<b>Câu 86. Thế nào là nguyên lý Tảng băng trôi? Nguyên lý Tảng băng trôi được thể hiện trong đoạn</b>
<b>trích như thế nào?</b>


<b>Câu 87. Ý nghĩa tựa đề Ông già và biển cả?</b>


<b>Câu 88. Trong đoạn trích Ơng già và biển cả của Hê-minh-, ơng lão Xan-ti-a-gơ gặp phải hồn</b>
<b>cảnh khó khăn như thế nào? Ngun nhân nào giúp ơng lão vượt qua những khó khăn ấy ?</b>


- Hồn cảnh của ơng lão: đơn độc giữa đại dương bao la, tuổi già, sức lực cạn dần khi phải đối đầu
với con cá kiếm to lớn.


- Nguyên nhân giúp lão vượt qua hồn cảnh khó khăn là nhờ: có kinh nghiệm, trí tuệ sáng suốt, ý
chí, nghị lực, khát vọng lớn lao.


<b>Câu 89. Đoạn trích truyện Ơng già và biển cả của Hê-minh-uê kể lại sự việc gì ? Nhân vật </b>
<b>Xan-ti-a-go là một người như thế nào qua sự việc ấy?</b>


- Sự việc: Ông lão đánh cá Xan-ti-a-go vất vả săn bắt con cá kiếm lớn nhất, đẹp nhất đời, là vận may.
- Xan-ti-a-go là một ngư phủ lành nghề, là người dũng cảm, mưu trí, kiên trì, giàu ý chí, nghị lực,
giàu khát vọng …


<b>Câu 90. Tóm tắt tác phẩm “Ơng già và biển cả”, nêu nghệ thuật và chủ đề</b> (Chủ đề cũng là ý tưởng
<i>mà nhà văn muốn gởi gắm qua Ông già và biển cả)</i>



<b>SỐ PHẬN CON NGƯỜI HỌC TRONG TÀI LIỆU CŨ</b>


<b>MỘT SỐ ĐỀ VĂN THAM KHẢO </b>


BÀI TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP – HỒ CHÍ MINH


<b>Đề bài</b> Có người nói: “Tun ngơn Độc lập là một văn kiện có giá trị lịch sử to lớn là một bài
<i><b>văn chính luận ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, đanh thép, lời lẽ hùng hồn đầy sức</b></i>
<i><b>thuyết phục”. </b></i>


<b>Mở bài</b> Vào thời điểm chuyển mình của lịch sử dân tộc thường xuất hiện những ánh văn bất hủ,
đánh dấu cho một thời đại. Không phải ngẫu nhiên người ta hay nhắc đến những tuyên ngôn nổi
tiếng thế giới như Tuyên ngôn Độc lập của người Mĩ năm 1776, Tuyên ngôn nhân quyền và
<i><b>dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791. Lịch sử dân tộc VN ta cũng có những bản tun</b></i>
ngơn như vậy. Đó là Bình ngơ đại cáo của Nguyễn Trãi vào thế kỉ XV và Tun ngơn Độc lập
do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo và đọc ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình lịch sử.
<b>HCST</b> Ngày 19/ 8/ 1945 chính quyền thủ đơ về tay nhân dân. Ngày 26. 8 Chủ Tịch HCM từ


chiến khu Việt Bắc về tới HN. Tại căn nhà số 48, phố Hàng Ngang, Người soạn thảo bản
<i>TNĐL. Ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình - HN trong hồn cảnh: thù trong giặc ngồi,</i>
vận mệnh Tổ quốc ngàn cân treo sợi tóc (bọn đế quốc, thực dân đang rắp tâm cướp nước ta lần
nữa), Người đã thay mặt Chính phủ lâm thời nước VNDCCH đọc bản TNĐL, trước 50 vạn
đồng bào.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

<b>lịch sử</b>


<b>v. bản</b> lịch sử to lớn, tuyên bố chấm dứt chế độ thực dân phong kiến ở nước ta và mở ra kỉ nguyên độclập tự do của dân tộc. Có thể nói bản Tun ngơn là kết tinh trí tuệ của thời đại, là kết quả cao
của “bao nhiêu hy vọng, gắng sức và tin tưởng” của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam


Sự kiện trọng đại ấy đã để lại dấu ấn sâu sắc vào lịch sử như một mốc son chói lọi.
Nhưng ta sẽ khơng hiểu hết tầm vóc và ý nghĩa của tác phẩm nếu khơng trở lại với khơng khí


chính trị căng thẳng, nghiêm trọng cách đây hơn nửa thế kỉ. Cho đến đầu mùa thu năm 1945,
tình hình quốc tế có nhiều biến chuyển thật mau lẹ. Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai đang
đi vào những ngày cuối. Sự cáo chung của phe Phát xít và sự thắng trận của quân Đồng minh sẽ
là kết cục không thể đảo ngược. Chớp lấy thời cơ đó, nhân dân ta, dưới sự tổ chức và chỉ đạo
của Việt Minh đã vùng lên cướp lấy chính quyền. Chỉ trong vịng một tuần lễ “Sao vàng năm
<i>cánh” khơng cịn là “mộng” nữa mà đã tung bay trên khắp ba miền. Nhưng cũng chính lúc này,</i>
nhiều đế quốc bắt đầu nhịm ngó Đơng Dương và khơng dấu ý đồ thơn tính nước ta. Không thể
chần chừ, Việt Nam cần phải tuyên bố độc lập!


Bản Tun ngơn vì thế đã đóng vai trị hồn tất một sứ mệnh lịch sử. Khơng cịn nghi
ngờ gi nữa, sự ra đời đúng lúc của bản Tuyên ngôn Độc lập đã chặn đứng âm mưu tái chiếm
Việt Nam của thực dân Pháp, chống lại ý đồ can thiệp vào Việt Nam của đế quốc Mĩ, mở đầu
cho làn sóng giải phóng thuộc địa ở Châu Á, khẳng định chủ quyền và nâng cao giá trị của dân
tộc ta trên trường quốc tế. Bản Tun ngơn cũng đã chính thức chấm dứt 80 năm đô hộ của
Thực dân Pháp, 5 năm cướp bóc, giày xéo của Phát xít Nhật và nghìn năm chế độ phong kiến.
Với ý nghĩa như vậy, bản Tuyên ngôn Độc lập đã thật sự khai sinh ra một nước Việt Nam mới,
mở ra kỉ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc ta.


<b>Giá trị</b>
<b>v/học </b>


Tồn văn bản khơng dài chỉ gói gọn trong khoảng một ngàn chữ nhưng vơ cùng chặt chẽ và
súc tích. Bản tun ngơn chia 3 phần rõ rệt. Lời tuyên bố độc lập dựa trên những cơ sở pháp lí
và thực tế lịch sử. Bên cạnh những giá trị lịch sử to lớn đã nói trên, bản Tun ngơn cịn là một
bài văn chính luận tiêu biểu xuất sắc. Nó được viết trong cơn trở dạ của lịch sử để tạo ra bước
ngoặc vĩ đại của cách mạng Việt Nam, đồng thời nó cũng là kết quả của niềm khao khát tự do,
độc lập cháy bỏng của dân tộc Việt nam đã tích tụ hàng ngàn năm. Bởi vậy, người đọc luôn
luôn bị sự chinh phục lớn lao, mạnh mẽ của một áng hùng văn được kết tinh bởi trí tuệ và tâm
huyết Hồ Chí Minh – Người con ưu tú của dân tộc – và bởi tự thân tác phẩm – tiếng nói chân lí
của thời đại. Mọi chân lí đều hết sức giản dị. Đây cũng là phẩm chất tiêu biểu tạo nên vẻ đẹp


đầu tiên của bản Tuyên ngôn Độc lập. Ít có tác phẩm chính luận nào trong văn học xưa nay lại
có bố cục ngắn gọn, súc tích như vậy. Trước hết , là một thơng điệp chính trị, bản Tun ngơn
hướng tới những mục đích nhất thời, quan trọng có tính cấp thiết, bức bách, nước sơi, lửa bỏng.
Trong một tình thế như vậy, sự ngắn gọn, mạch lạc sẽ tạo nên hiệu quả thơng tin nhanh chóng
và triệt để. Tất nhiên, không phải sự ngắn gọn nào cũng tạo nên tính chất súc tích, cơ đọng và
khơng phải sự cô đọng nào cũng hàm chứa sức mạnh. Bản tun ngơn dường như chỉ xốy sâu
vào hai vấn đề lớn. Thứ nhất: phủ nhận hồn tồn quyền dính líu tới Việt Nam của thực dân
Pháp. Thứ hai: khẳng định quyền độc lập và quyết tâm sắt đá bảo vệ quyền độc lập đó. Vì
những mục tiêu này, các ý tưởng, các kiểu câu đều tuân theo nguyên tắc mạch lạc, ngắn gọn,
sáng sủa.


Như đã nói ở trên, văn kiện lịch sử này không chỉ đọc trước quốc dân, đồng bào mà còn
trước thế giới. Đây còn là thái độ của chúng ta trước kẻ thù. Cho nên, phần đầu của bản


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

quyền bình đẳng, tự do của các dân tộc. Bác nhanh chóng tiến từ quyền con người sang quyền
dân tộc. Đó là đóng góp to lớn về mặt tư tưởng của Bác. Từ đó nhằm nhấn mạnh giá trị hiển
nhiên của độc lập, tự do các dân tộc.


Thực chất đây là sách lược mềm dẻo, tỏ ra khiêm tốn, tôn cao những giá trị bất hủ của
Pháp và Mỹ. Nhưng thật ra, Bác muốn rung hồi chuông cảnh báo, nếu thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ xâm lược VN nghĩa là chúng đã đi ngược lại lời của cha ông chúng, là những kẻ thất
ước. Như vậy cùng một lúc Bác đã bắn một mũi tên trúng nhiều đích. Cái độc đáo và khéo léo
của Bác là đã dùng chiến thuật “gậy ông đập lưng ông”, “dùng lời của kẻ thù để khóa miệng kẻ
<i>thù” để ràng buộc các nước Đồng minh. Kết thúc phần một là một lời chốt ngắn gọn đầy sức</i>
thuyết phục: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được” nhằm khẳng định chắc chắn về
quyền con người và quyền dân tộc. Bác quả là có con mắt sáng nhìn xa trơng rộng (Nhìn bốn
<i>hướng – Trơng lại nghìn xưa, trông tới mai sau – Trông Bắc, trông Nam trơng cả địa cầu).</i>
Tóm lại, bằng phương pháp suy lý diễn dịch, lập luận chặt chẽ, súc tích, ngắn gọn, sáng tạo,
đoạn mở đầu đã tạo nên sức thuyết phục mạnh mẽ.



Để tố cáo thực dân Pháp, tác giả đã vạch năm tội ác về chính trị, bốn tội ác về kinh tế
cùng hàng loạt sự phản bội đê hèn và trắng trợn vào những thời điểm cụ thể nên dù muốn chối
cãi, chúng cũng không thể. Để tránh những mơ hồ, những “mập mờ đánh lận con đen” mà thực
dân Pháp đã cố dựa vào như một nguỵ thuyết để rắp tâm quay trở lại thống trị nước ta, một lần
nữa, tác giả đã vạch rõ: “Mùa thu năm 1940, Phát xít nhật đến xâm lăng Đơng Dương để mở
<i>thêm căn cứ đánh Đồng minh thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước</i>
<i>Nhật” (…) Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không</i>
<i>phải của Pháp nữa. (…) Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải</i>
<i>từ tay Pháp”. Với bút lực mạnh mẽ của một trí tuệ siêu việt, vì sự thấu hiểu tình hình chính trị</i>
một cách sâu sắc, bằng những chứng cứ đầy đủ và xác thực, bản Tuyên ngôn thực sự là bản cáo
trạng đanh thép lên án mạnh mẽ tội ác của thực dân Pháp.


Tuy nhiên, sức mạnh chinh phục của bản Tun ngơn cịn là ở sự chính xác và giàu sức
biểu cảm của hệ thống ngôn từ. Chẳng hạn, sau khi viện dẫn hai bản tuyên ngôn, nhưng không
dừng lại ở nội dung hai bản Tuyên ngôn đó mà suy rộng ra về quyền độc lập dân tộc. Tác giả
khẳng định: “Đó là những lẽ phải khơng ai chối cãi được”. Khi nói về tội ác của thực dân Pháp,
tác giả viết: “Chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào”, “Chúng tắm
<i>các cuộc khởi nghĩa của chúng ta trong những bể máu…”, “Chúng ràng buộc (…) chúng bóc</i>
<i>lột (…) chúng cướp (…) chúng giữ độc quyền (…) chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đơng tù</i>
<i>chính trị …”. Khi tun bố thoát li hẳn với thực dân Pháp, bản Tuyên ngơn có những từ vừa</i>
chính xác vừa chọn lọc: “Xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về (chứ khơng phải với)
nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”. Ngoài ra, việc
sử dụng hàng loạt điệp từ, điệp ngữ vừa tạo hiệu quả cao trong việc khẳng định các ý tưởng,
vừa bảo đảm độ chính xác và sức mạnh cho lí lẽ vừa gợi xúc cảm nhằm tác động đến nhân tâm,
thôi thúc người nghe nhận ra và thừa nhận chân lí.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

<b>BÀI VIỆT BẮC – TỐ HỮU</b>
<b>ĐỀ 1</b>


<b>Đề bài</b> <b>Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu: </b>


<b> “Mình về mình có nhớ ta </b>


<i>Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng</i>
<i>Mình về mình có nhớ khơng</i>


<i>Nhìn cây nhớ núi, nhìn sơng nhớ nguồn?</i>
<i> Tiếng ai tha thiết bên cồn</i>


<i> Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi</i>
<i> Áo chàm đưa buổi phân li</i>


<i> Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay...”</i>


<b>Mở bài</b> Tố Hữu là một trong những nhà thơ lớn, tiêu biểu nhất của nền thi ca VN hiện đại, là
ngọn cờ đầu của thơ ca CM, của lý tưởng cộng sản. Mọi sự kiện chính trị qua trái tim nhạy
cảm và cảm hứng nghệ thuật của ông đều kết tinh thành những bài thơ đặc sắc. Điển hình
nhất là tập thơ “VB”. Tập thơ được xem là đỉnh cao của thơ kháng chống Pháp, trong đó bài
thơ “Việt Bắc” là kết tinh sở trường nghệ thuật ngòi bút Tố Hữu. Bài thơ là khúc hát ân tình
của người kháng chiến đối với quê hương, đất nước, nhân dân CM được thể hiện bằng hình
thức nghệ thuật đậm đà tính dân tộc. Điển hình nhất là tám dòng thơ đầu trong bài thơ “VB”:
“ dẫn chứng thơ 8 dòng đầu”


<b>HCST</b> Việt Bắc là căn cứ CM vững chắc, là cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến chống
Pháp. Đồng bào các dân tộc Việt Bắc đã cưu mang và che chở cho Đảng, cho chính phủ, cho
bộ đội. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ kí kết, hịa bình được lập lại, đất
nước bước sang thời kì mới. Tháng 10/1954, những người kháng chiến rời căn cứ miền núi
trở về miền xuôi, Trung ương Đảng vả Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại Thủ đơ Hà
Nội, nhân sự kiện có tính chất lịch sử này, Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc. Bài thơ này nằm
trong tập thơ Việt Bắc (1946-1954).



<b>GT</b>


<b>đại ý</b>

<b> Đoạn mở đầu bài thơ là lời đối đáp giữa kẻ ở và người về, lời giã biệt giữa Việt Bắc</b>

<b>với người cán bộ kháng chiến về xuôi. Đoạn thơ thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật</b>
<b>thơ Tố Hữu.</b>


<b>P/tích</b>
<b>bốn</b>
<b>dòng</b>


<b>đầu</b>


<b> Mở đầu bài thơ là những câu hỏi của người ở lại (Việt Bắc) với người ra đi (cán bộ</b>
<i><b>kháng chiến) trong buổi chia tay thật bồi hồi tha thiết: </b></i>


<i>Mình về mình có nhớ ta</i>


<i>Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng</i>
<i>Mình về mình có nhớ khơng</i>


<i>Nhìn cây nhớ núi, nhìn sơng nhớ nguồn ?</i>


Điệp từ “nhớ” lặp đi lặp lại trong cấu trúc câu hỏi tu từ đồng dạng cùng với cách đối
đáp “mình – ta” thân mật tình cảm tràn đầy thương nhớ. Ta từng bắt gặp điều này trong ca
dao: “Mình về ta chẳng cho về – Ta nắm dải áo, ta đề câu thơ” hay “Mình về có nhớ ta
<i>chăng - Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

<b>bốn</b>
<b>dòng</b>


<b>sau</b>



<i>Tiếng ai tha thiết bên cồn</i>


<i>Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi</i>
<i>Áo chàm đưa buổi phân li</i>


<i>Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay..</i>


<i> “Ai” là đại từ phiếm chỉ nhưng cũng rất rõ ràng làm cho lời thơ thêm tình tứ và đầy ý</i>
vị. Với cách dùng từ “ai” khiến cho câu thơ mang âm hưởng của ca dao và gợi một không
gian gần gũi, thân thương:


<i> Tiếng ai tha thiết bên cầu… </i>


Hai từ láy “bâng khuâng, bồn chồn” được sử dụng chính xác, diễn tả rất đúng khơng
khí và tâm trạng biệt li, tâm trạng bồi hồi xao xuyến, lưu luyến, nhớ thương,… hòa lẫn cùng
một lúc trong phút chia tay. Bởi mười lăm năm Việt Bắc cưu mang người cán bộ chiến sĩ,
mười lăm năm gian khổ có nhau đầy những kỉ niệm, giờ phải chia tay rời xa để làm nhiệm vụ
mới về tiếp quản tại thủ đô Hà Nội (10/1954), biết mang theo điều gì, biết lưu lại hình ảnh
nào, tâm trạng của người về do vậy không tránh khỏi là nỗi niềm bâng khuâng khó tả. Hai từ
này được dùng cân xứng trong câu thơ tiểu đối tạo âm điệu dìu dặt, xao xuyến.


Cảnh tiễn đưa đầy xúc động qua hình ảnh <i>“Áo chàm đưa buổi phân li”. Tác giả hướng</i>
nỗi nhớ Việt Bắc qua hình ảnh cụ thể “áo chàm”, chiếc áo, màu áo bình dị, đơn sơ, mộc mạc
của vùng quê nghèo thượng du đồi núi nhưng sâu nặng nghĩa tình, đã góp phần khơng nhỏ
vào sự nghiệp kháng chiến cứu nước. “Áo chàm” là màu áo xanh đen đặc trưng của người
miền núi Việt Bắc. Đây là hình ảnh hoán dụ gợi nhớ con người Việt Bắc chân chất, mộc mạc
mà nghĩa tình bền chặt.


Tình cảm lưu luyến ấy cịn được biểu đạt bằng cử chỉ rất cảm động: “Cầm tay nhau biết


<i>nói gì hơm nay…”. Nhịp của câu thơ lục bát này đã có sự xáo trộn (3/3/2) để diễn tả thần tình</i>
cái ngập ngừng, bối rối lúc chia tay. Nhịp điệu ấy gợi ta nhớ tới cảnh chia tay trong câu thơ:
"Bước đi một bước, giây giây lại dừng". “Cầm tay” gợi tình cảm thắm thiết, yêu thương,
không muốn rời xa của người đi, kẻ ở. Ta từng bắt gặp điều này trong bài thơ “Khóc Dương
<i>Khuê” của Nguyễn Khuyến “Cầm tay hỏi hết xa gần”, hay “Thương nhau tay nắm lấy bàn</i>
<i>tay…” (Đồng chí - Chính Hữu). Cịn “Biết nói gì” khơng phải là khơng có điều để giải bày mà</i>
chính vì có q nhiều điều muốn nói nhưng khơng biết phải nói điều gì, hoặc vì xúc động nên
nói khơng nên lời, ngôn ngữ dường như đã trở nên bất lực trong hồn cảnh này. Cái khơng lời
này nhưng thể hiện được nhiều nhất tình cảm dạt dào, dâng trào trong nỗi xúc động. Ba dấu
chấm lửng đặt cuối câu là một nốt lặng trên khn nhạc để tình cảm ngân dài, sâu lắng…
<b>Nhận</b>


<b>xét</b>
<b>chung</b>


Nhìn chung, tám dòng thơ đầu là cảnh chia tay đầy lưu luyến, bịn rịn nhưng là cuộc
<b>chia tay lớn mang tính chất chính trị trọng đại trong hình thức cuộc chia tay tình tứ của</b>
<b>lứa đơi. Đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu - giọng tâm tình như tiếng nói</b>
“đồng tâm, đồng tình, đồng chí”. Lời thơ là tiếng lịng thiết tha: “ Thơ chỉ tràn ra trong trái
<i>tim ta cuộc sống đã thật đầy” (Tố Hữu). Đoạn thơ còn là tiếng lòng thiết tha của nhà thơ với</i>
cuộc đời, với nghĩa tình sâu nặng của nhân dân.


<b>Kết bài</b> Tóm lại, “VB” đã tái hiện một thời kháng chiến chống Pháp gian khổ mà anh hùng,
nghĩa tình gắn bó thắm thiết của những người kháng chiến với Việt Bắc, với nhân dân, đất
nước. Qua đó, tình cảm thuỷ chung truyền thống của dân tộc được nâng lên thành tình cảm
thời đại, đó là ân tình cách mạng - một cội nguồn sức mạnh quan trọng tạo nên thắng lợi của
cách mạng và kháng chiến.


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

<b>ĐỀ 2</b>



<b>Đề bài</b> <b>Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu:</b>
<i>Mình đi, có nhớ những ngày</i>


<i>Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù</i>
<i>Mình về, có nhớ chiến khu</i>


<i>Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?</i>
<i>Mình về, rừng núi nhớ ai</i>


<i>Trám bùi để rụng măng mai để già</i>
<i>Mình đi, có nhớ những nhà</i>


<i>Hắt hiu lau xám, đậm đà lịng son</i>
<i>Mình về, có nhớ núi non</i>


<i>Nhớ khi kháng Nhật, thuở cịn Việt Minh</i>
<i>Mình đi, mình có nhớ mình</i>


<i> Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa</i>


<b>Mở bài</b> Tố Hữu là một trong những nhà thơ lớn, tiêu biểu nhất của nền thi ca VN hiện đại, là
ngọn cờ đầu của thơ ca CM, nhà thơ của lý tưởng cộng sản. Mọi sự kiện chính trị qua trái tim
nhạy cảm và cảm hứng nghệ thuật của ông đều kết tinh thành những bài thơ đặc sắc. Điển
hình nhất là tập thơ “VB”. Tập thơ được xem là đỉnh cao của thơ kháng chống Pháp, trong đó
bài thơ “Việt Bắc” là kết tinh sở trường nghệ thuật ngòi bút Tố Hữu. Bài thơ là khúc hát ân
tình của người kháng chiến đối với quê hương, đất nước, nhân dân CM được thể hiện bằng
hình thức nghệ thuật đậm đà tính dân tộc. Điển hình nhất là mười hai dịng thơ sau trong bài
thơ “VB”. Từ dịng thứ chín đến dòng hai mươi.


“ dẫn chứng thơ 12 dòng tiếp”



<b>HCST</b> Việt Bắc là căn cứ CM vững chắc, là cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến chống
Pháp. Đồng bào các dân tộc Việt Bắc đã cưu mang và che chở cho Đảng, cho chính phủ, cho
bộ đội. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ kí kết, hịa bình được lập lại, đất
nước bước sang thời kì mới. Tháng 10/1954, những người kháng chiến rời căn cứ miền núi
trở về miền xi, Trung ương Đảng vả Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại Thủ đô Hà
Nội, nhân sự kiện có tính chất lịch sử này, Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc. Bài thơ này nằm
trong tập thơ Việt Bắc (1946-1954).


<b>GT</b>
<b>đại ý</b>


Trong bài thơ, sau những lời ướm hỏi ngọt ngào trong khúc dạo đầu ở đoạn trên<b>, mười</b>
<b>hai dòng thơ tiếp theo làm thành sáu câu hỏi tiếp tục là lời của người ở lại gợi nhắc về</b>
<b>những kỉ niệm, những ân tình – mỗi câu hỏi gợi một cái gì thật tiêu biểu, thật ấn tượng</b>
<b>về Việt Bắc. Bao kỉ niệm của một thời gian khổ, chia ngọt sẻ bùi, đầy ân tình được thể</b>
<b>hiện chân thực qua đoạn thơ gợi nhiều cảm xúc cho người đọc.</b>


<b>P/tích</b>
<b>12</b>
<b>dòng</b>


<b>thơ</b>


Trước hết, đoạn thơ gợi về Việt Bắc với những ngày tháng không thể nào quên của một
thời kháng chiến. Nói khác hơn, Việt Bắc nhắc người cán bộ kháng chiến đừng quên những
năm tháng gian lao vất vả, những ngày hoạt động chiến đấu trong điều kiện trang bị tiếp tế
cịn đơn sơ, thiếu thốn.


<i>Mình đi, có nhớ những ngày</i>



<i>Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù</i>
<i>Mình về có nhớ chiến khu</i>


<i>Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?</i>


Hình ảnh thơ giàu sức gợi. “Mưa nguồn suối lũ” là chi tiết tả thực về thiên nhiên khắc
nghiệt nơi núi rừng Việt Bắc; “miếng cơm chấm muối” là phản ánh cảnh sinh hoạt kham khổ,
khó khăn trong buổi đầu của cuộc kháng chiến. Điều này từng thấy trong Bình Ngô đại cáo
của Nguyễn Trãi: “Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần/ Khi Khôi Huyện quân không một đội...”.
Và cách nói “mối thù nặng vai” nhằm cụ thể hóa nhiệm vụ chống thực dân cướp nước, đè
nặng trên vai dân tộc ta.


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

<i>Mình về, rừng núi nhớ ai</i>


<i>Trám bùi để rụng, măng mai để già</i>


“Rừng núi, trám bùi, măng mai” được nhân hóa cùng với hình ảnh “trám rụng – măng
<i>già” không ai thu hái gợi nhiều bơ vơ, man mác buồn thương. Tác giả mượn cái thừa để nói</i>
cái thiếu vắng nhằm biểu đạt kín đáo, sâu sắc cái tình của Việt Bắc với cách mạng, với cán bộ
về xuôi làm cho nỗi nhớ như thắt vào lòng kẻ ở lại.


Vẫn tiếp tục là những câu hỏi tu từ gợi nhớ:
<i>Mình đi, có nhớ những nhà</i>
<i>Hắt hiu lau xám, đậm đà lịng son</i>
<i>Mình về, có nhớ núi non</i>


<i>Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh</i>


Tố Hữu sử dụng hình ảnh tượng trưng, tương phản “lau xám/ lòng son” để ngợi ca


đồng bào Việt Bắc tuy nghèo khó thiếu thốn nhưng vẫn son sắt thủy chung với CM, vẫn “một
<i>dạ khăng khăng đợi thuyền”. Đồng thời nhắc nhở khéo léo tấm “lòng son” của người cán bộ</i>
chiến sĩ: xin đừng quên thời kỳ “kháng Nhật thuở còn Việt Minh”, đừng quên cội nguồn cách
mạng, đừng quên để chăm lo giữ gìn sự nghiệp cách mạng.


<b>P/tích 2</b>
<b>dòng</b>


<b>cuối</b>


Sau cùng, đoạn thơ cịn gợi nhớ về Việt Bắc – chiếc nơi của cách mạng, q hương
cách mạng.


<i>Mình đi, mình có nhớ mình</i>


<i>Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa</i>


Những từ chỉ thời gian: khi… thuở … những địa danh, hình ảnh đã thành lịch sử gợi
cảm xúc thiêng liêng: Tân Trào, Hồng Thái – mái đình, cây đa… giờ trở thành kỉ niệm sâu
sắc trong lòng người đi kẻ ở. Đằng sau đó có lời nhắn nhủ về nghĩa tình thủy chung, đề cao
tình cảm thủy chung, hướng về cội nguồn:


“Mười lăm năm ấy ai quên/ Quê hương cách mạng dựng nên cộng hịa”.
<b>Nhận</b>


<b>xét</b>
<b>chung</b>


<b> Có thể coi đoạn thơ trên là nỗi thương nhớ, là lời tâm tình của Việt Bắc</b>. Đoạn thơ
tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu: giọng điệu thơ ngọt ngào truyền cảm, mang đậm phong


vị ca dao dân gian, đề cập đến con người và cuộc sống kháng chiến. tác giả ca ngợi phẩm chất
cách mạng cao đẹp của quân dân ta, khẳng định nghĩa tình thuỷ chung son sắt của người cán
bộ, chiến sĩ đối với Việt Bắc. Đoạn thơ là bằng chứng khẳng định sức mạnh của thơ trữ tình
chính trị qua tài thơ Tố Hữu. Nó có tác dụng: khơi gợi tình cảm cội nguồn – nghĩa tình thủy
chung.


Về nghệ thuật, nổi bật trong đoạn thơ là khúc hát ân tình thiết tha, xúc động của người
Việt Bắc dành cho người cán bộ kháng chiến sắp lúc về xuôi. Điệp khúc: Mình đi, có nhớ…
<i>Mình về có nhớ… là những câu hỏi tu từ là tiếng lòng tha thiết cất lên khơng chỉ là nhắn nhủ</i>
mà cịn là hồi niệm, gợi nhớ. Giọng điệu tha thiết, ngọt ngào/ tiêu biểu cho giọng điệu thơ Tố
Hữu những tình cảm cách mạng được cất lên thật trữ tình, dễ đi vào lịng người.


<b>Kết bài</b> Tóm lại, “VB” đã tái hiện một thời kháng chiến chống Pháp gian khổ mà anh hùng,
nghĩa tình gắn bó thắm thiết của những người kháng chiến với Việt Bắc, với nhân dân, đất
nước. Qua đó, tình cảm thuỷ chung truyền thống của dân tộc được nâng lên thành tình cảm
thời đại, đó là ân tình cách mạng - một cội nguồn sức mạnh quan trọng tạo nên thắng lợi của
cách mạng và kháng chiến.


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

ĐỀ 3


<b>Đề bài</b> <b>Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu: </b>
“Nhớ gì như nhớ người yêu


<i> Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương</i>
<i> Nhớ từng bản khói cùng sương</i>
<i> Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.</i>


<i>Nhớ từng rừng nứa bờ tre </i>
<i> Ngịi Thia, sơng Đáy, suối Lê vơi đầy.</i>
<i> Ta đi ta nhớ những ngày</i>



<i> Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi</i>
<i> Thương nhau chia củ sắn lùi</i>
<i> Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”.</i>
<b>Mở</b>


<b>bài</b>


Tố Hữu là một trong những nhà thơ lớn, tiêu biểu nhất của nền thi ca VN hiện đại, là
ngọn cờ đầu của thơ ca CM, của lý tưởng cộng sản. Mọi sự kiện chính trị qua trái tim nhạy
cảm và cảm hứng nghệ thuật của ông đều kết tinh thành những bài thơ đặc sắc. Trong số đó,
tập thơ “VB” được xem là đỉnh cao của thơ kháng chống Pháp, mà bài thơ “Việt Bắc” là kết
tinh sở trường nghệ thuật ngòi bút Tố Hữu. Bài thơ là khúc hát ân tình của người kháng chiến
đối với quê hương, đất nước, nhân dân CM được thể hiện bằng hình thức nghệ thuật đậm đà
tính dân tộc. Đặc sắc nhất là đoạn thơ thể hiện sâu sắc nỗi niềm của những người con rời “thủ
<i>đô kháng chiến” với bao lưu luyến nhớ thương. Nỗi nhớ ấy được cất lên thật cảm động:</i>


“ dẫn chứng thơ 12 dòng thơ”


<b>HCST</b> Việt Bắc là căn cứ CM vững chắc, là cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến chống
Pháp. Đồng bào các dân tộc Việt Bắc đã cưu mang và che chở cho Đảng, cho chính phủ, cho
bộ đội. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ kí kết, hịa bình được lập lại, đất
nước bước sang thời kì mới. Tháng 10/1954, những người kháng chiến rời căn cứ miền núi trở
về miền xi, Trung ương Đảng vả Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại Thủ đô Hà Nội,
nhân sự kiện có tính chất lịch sử này, Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc. Bài thơ này nằm trong
tập thơ Việt Bắc (1946-1954).


<b>GT</b>
<b>chung</b>



Sau khi khẳng định tấm lòng trước sau như một, người ra đi nhớ về một Việt Bắc đầy ắp
kỉ niệm. Đoạn thơ trên là những vần thơ đẹp của bản tình ca “Việt Bắc”. Tiếp nối mạch cảm
xúc toàn bài, nỗi nhớ trào dâng được thể hiện sâu sắc và cảm động về tình cảm của người
<b>cán bộ kháng chiến đối với đất và người Việt Bắc. Hình ảnh chiến khu càng sống động bao</b>
nhiêu càng cho thấy nỗi nhớ, tình cảm kẻ đi với người ở tươi mới bấy nhiêu. Cảnh sắc thiên
nhiên, c/sống sinh hoạt, kỉ niệm kháng chiến lần lượt hiện hình nổi sắc chân thực.


<b>PT sáu</b>
<b>dòng</b>


<b>đầu</b>


Trước hết là nhớ cảnh Việt Bắc thanh bình:


<i>Nhớ gì như nhớ người yêu</i>


<i>Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương</i>
<i>Nhớ từng bản khói cùng sương</i>


<i>Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.</i>
<i>Nhớ từng rừng nứa bờ tre</i>


<i> Ngịi Thia, sơng Đáy, suối Lê vơi đầy. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

về con người Việt Bắc.
<b>P/tích</b>


<b>6 dòng</b>
<b>thơ</b>
<b>cuối</b>



Chưa hết, nỗi nhớ những ngày khó khăn gian khổ nhưng đậm đà tình nghĩa tiếp tục
được tái hiện:


<i>Ta đi ta nhớ những ngày</i>


<i>Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...</i>
<i>Thương nhau chia củ sắn lùi</i>


<i>Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng</i>


Đại từ “mình-ta” đan xen kết hợp với từ chỉ vị trí “đây - đó” nhằm thể hiện sự gắn bó,
kề vai sát cánh bên nhau… cùng với thành ngữ “đắng cay ngọt bùi” đã khái quát những gian
khổ, vất vả để nhấn mạnh sự đồng cam cộng khổ. Tuy thiếu thốn, gian khổ nhưng người Việt
Bắc hết sức tình nghĩa chan hịa. Hình ảnh tượng trưng: "Chia củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa,
<i>chăn sui đắp cùng" kết hợp với cách dùng từ cùng nghĩa "chia, sẻ, cùng" diễn tả được mối tình</i>
cảm "chia ngọt sẻ bùi" giữa nhân dân Việt Bắc và cán bộ cách mạng. Biết bao tình nghĩa sâu
nặng trong "củ sắn", "bát cơm", "chăn sui"... mà người cán bộ cách mạng đã chịu ơn Việt Bắc.
Đây là một hình ảnh đậm đà tình giai cấp.


<b>Nhận</b>


<b>xét</b> Bức tranh Việt Bắc hiện lên qua nỗi nhớ của chủ thể trữ tình; trong hồi niệm có ba mảngthống nhất và hòa nhập vào nhau: nỗi nhớ thiên nhiên, núi rừng Việt Bắc – nỗi nhớ con người,
cuộc sống ở Việt Bắc – những kỉ niệm về cuộc kháng chiến gian khổ mà chan chứa nghĩa tình.
Giọng thơ tâm tình, ngọt ngào, tha thiết, điệp từ “nhớ”, điệp ngữ: nhớ gì… nhớ từng… nhớ
<i>sao…nhớ người… trùng điệp, cùng cách ngắt nhịp của câu thơ lục bát tạo nên nét nhạc thơ</i>
thật đằm thắm, những hình ảnh chân thực, bình dị mà giàu sức gợi cảm… Chuyện nghĩa tình
cách mạng, chuyện kháng chiến đến với người đọc bằng tiếng nói của tình yêu. Đọan thơ tiêu
biểu cho phong cách thơ Tố Hữu: trữ tình-chính trị, giọng điệu tâm tình, ngọt ngào và đậm đà
tính dân tộc.



<b>Kết</b>


<b>bài</b> Tóm lại, “VB” đã tái hiện một thời kháng chiến chống Pháp gian khổ mà anh hùng,nghĩa tình gắn bó thắm thiết của những người kháng chiến với Việt Bắc, với nhân dân, đất
nước. Qua đó, tình cảm thuỷ chung truyền thống của dân tộc được nâng lên thành tình cảm
thời đại, đó là ân tình cách mạng - một cội nguồn sức mạnh quan trọng tạo nên thắng lợi của
cách mạng và kháng chiến.


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

<b>ĐỀ 4</b>


<b>Đề bài</b> <b>Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu: </b>
<i>Ta về mình có nhớ ta</i>


<i>Ta về ta nhớ những hoa cùng người</i>
<i> Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi</i>


<i>Ngày xuân mơ nở trắng rừng</i>


<i>Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang</i>
<i>Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng</i>
<i>Ve kêu rừng phách đổ vàng</i>


<i>Nhớ cô em gái hái măng một mình.</i>
<i> Rừng thu trăng rọi hịa bình</i>


<i> Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung</i>
<b>Mở</b>


<b>bài</b>



Tố Hữu là một trong những nhà thơ lớn, tiêu biểu nhất của nền thi ca VN hiện đại, là
ngọn cờ đầu của thơ ca CM, của lý tưởng cộng sản. Mọi sự kiện chính trị qua trái tim nhạy cảm
và cảm hứng nghệ thuật của ông đều kết tinh thành những bài thơ đặc sắc. Điển hình nhất là tập
thơ “VB”. Tập thơ được xem là đỉnh cao của thơ kháng chống Pháp, trong đó bài thơ “Việt Bắc”
là kết tinh sở trường nghệ thuật ngòi bút Tố Hữu. Bài thơ là khúc hát ân tình của người kháng
chiến đối với quê hương, đất nước, nhân dân CM được thể hiện bằng hình thức nghệ thuật đậm
đà tính dân tộc. Đặc sắc nhất là đoạn thơ hồi ức về cảnh đẹp núi rừng Việt Bắc qua bốn mùa
trong năm:


“ viết lại 10 dòng thơ”


<b>HCST</b> Việt Bắc là căn cứ CM vững chắc, là cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Đồng bào các dân tộc Việt Bắc đã cưu mang và che chở cho Đảng, cho chính phủ, cho bộ đội.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ kí kết, hịa bình được lập lại, đất nước
bước sang thời kì mới. Tháng 10/1954, những người kháng chiến rời căn cứ miền núi trở về
miền xi, Trung ương Đảng vả Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại Thủ đô Hà Nội, nhân
sự kiện có tính chất lịch sử này, Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc. Bài thơ này nằm trong tập
thơ Việt Bắc (1946-1954).


<b>GT</b>
<b>chung</b>


Trong nền thơ ca và văn học VN, bức tranh tứ bình xuất hiện khơng ít như khung cảnh
"Trơng bốn bề" của "Chinh phụ ngâm" (Đồn Thị Điểm), đoạn " Buồn trơng" trong "Kiều ở Lầu
Ngưng Bích" (Nguyễn Du), hay trong Truyện Kiều cũng có câu: “Sen tàn cúc lại nở hoa/ Sầu
<i>dài ngày ngắn đông đà sang xuân”, hoặc ở dòng hồi tưởng về quá khứ huy hoàng của con hổ</i>
trong "Nhớ rừng" (Thế Lữ). Thế nhưng, trong VB, bức tranh bốn mùa hiện lên với vẻ đẹp và
<b>sắc thái thiên nhiên rất riêng theo trình tự : Đông - Xuân - Hạ - Thu... Đoạn thơ gồm mười</b>
<b>dòng lục bát đã ghi lại cảnh và người ở Việt Bắc. Nhà phê bình văn học Hồi Thanh từng</b>
nhận xét: “Những câu thơ viết về thiên nhiên trong Việt Bắc có thể so sánh với bất kì đoạn thơ


<i>nào viết về thiên nhiên trong văn học cổ điển”. </i>


<b>Hai</b>
<b>dòng</b>


<b>đầu</b>


Mở đầu đoạn thơ là câu lục bát giới thiệu, mang cảm xúc chung cho tồn đoạn:
<i>Ta về mình có nhớ ta</i>


<i>Ta về ta nhớ những hoa cùng người</i>


<i> Ta là người ra đi và mình là người ở lại. Và câu hỏi tu từ “mình có nhớ ta” là cái cớ để bày</i>
tỏ tấm lòng của người ra về. Người ra về lòng vẫn nhớ, nhớ “hoa và người”. “Hoa ” là thiên
nhiên đẹp tươi sáng và “người” là con người Việt Bắc. Thiên nhiên hòa điệu với con người,
<b>trở thành hai bộ phận không thể tách rời nhau. Hoa và người đặt cạnh nhau càng tôn tạo vẻ</b>
đẹp cho nhau, làm sáng lên cả không gian núi rừng Việt Bắc trùng điệp.


<b>Cảnh</b>
<b>mùa</b>
<b>đông</b>


Tiếp theo, tám dòng lục bát còn lại là bức tranh tứ bình về thiên nhiên và con người
<b>nơi đây. Nhà thơ dùng dòng lục để miêu tả phong cảnh núi rừng qua bốn mùa, mỗi mùa là một</b>
bức tranh thiên thiên với những nét đẹp riêng biệt; Cịn dịng bát dùng cho thể hiện hình ảnh con
người Việt Bắc. Chỉ riêng đoạn thơ này, ta thấy thấm đậm tính dân gian.


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

<i>Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi</i>
<i>Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng</i>



Tại sao lại là mùa đơng? Vì đây là hồi ức của tác giả trong giờ phút chia tay. Chúng ta cịn
nhớ, vào một đêm mùa đơng 1946, Hồ Chí Minh đã kêu gọi tồn dân kháng chiến. Đặc biệt ở
Hà Nội, những người lính lặng lẽ rời thành phố, bí mật theo chân cầu sơng Hồng ngược xi lên
căn cứ cách mạng Việt Bắc cũng vào mùa đông. Sự kiện này, đến tận bây giờ vẫn còn chứng
minh bởi một khúc hát quen thuộc của Lưu Trong Lưu trong bài “Một mùa đông”:


<i> “Đôi mắt em lặng buồn</i>
<i> Nhìn tơi mà khơng nói </i>
<i> Tình đơi ta vời vợi</i>
<i> Có nói cũng vơ cùng</i>
<i> Trời hết một mùa đông</i>
<i> Khơng một lần đã nói…”. </i>


Bức tranh mùa đông Việt Bắc được miêu tả bằng màu xanh bạt ngàn của núi rừng. Giữa
màu xanh biếc đó là màu đỏ rực của hoa chuối như những bó đuốc thắp lên sáng rực và cả màu
vàng của nắng. Chính vì thế, mùa đông ở Việt Bắc không lạnh lẽo mà có phần ấm áp, tn trào
sức sống. Điều này cịn được biểu hiện qua hình ảnh con người lên núi lao động <i>Đèo cao nắng</i>
<i>ánh dao gài thắt lưng. . Đồng bào VB lúc đi rừng, làm rẫy, làm nương đều gài dao ở thắt lưng.</i>
Trên tầm cao của núi đèo, ánh nắng mặt trời chiếu vào những con dao ấy tạo nên sự phản quang
rực rỡ, lấp lánh. Chỉ một câu thơ thơi nhưng ta có thể cảm nhận được hình ảnh mạnh mẽ hào
hùng của con người lao động làm chủ thiên nhiên.


<b>Cảnh</b>
<b>mùa</b>
<b>xuân</b>


<b>Cảnh</b>
<b>mùa</b>


<b>hè</b>



<b>Tiếp theo dòng hồi nhớ là bức tranh mùa xuân ở Việt Bắc :</b>
<i>“Ngày xuân mơ nở trắng rừng</i>


<i>Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”</i>


Thời gian được xác định bởi yếu tố “ngày xuân”. Chính ấn tượng thời gian này tạo sự
vận động, sinh sôi nảy nở. Không gian ở đây như là cổ tích. Mới vừa rồi là màu xanh bạt ngàn
điểm hoa chuối đỏ, giờ nở bung ra những rừng mơ trắng muốt thoảng hương thơm. Cái màu
trắng dìu dịu tinh khiết ấy phủ lên cả cánh rừng, gợi lên trong lòng người đọc một cảm giác thơ
mộng, bâng khuâng. Màu trắng của hoa mơ gợi cái thanh thoát, đem lại cho lịng người sự nhẹ
nhàng, êm dịu. Hình ảnh mơ nở trắng xóa cả một rừng làm ta liên tưởng tới cảnh đẹp thiên nhiên
khi Bác về nước:


<i>" Ôi sáng xuân nay, xuân 41</i>
<i>Trắng rừng biên giới nở hoa mơ</i>
<i>Bác về ... Im lặng, con chim hót</i>
<i>Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ"</i>


(Theo chân Bác - Tố Hữu)
Trong Truyện Kiều, ta cũng bắt gặp hình ảnh tương tự:


<i>"Cỏ non xanh tận chân trời</i>
<i>Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”</i>


Mùa xuân được miêu tả trong câu thơ rất đặc trưng cho mùa xuân của Việt Bắc. Và gắn
với khung cảnh thơ mộng ấy là hình ảnh người lao động rất đẹp :


“Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”.



Chữ “chuốt” là trau chuốt, làm bóng lên, đẹp lên. Chữ “từng” đã gợi tả được đức tính cần
mẫn, tỉ mĩ và chịu khó. Có khéo tay mới chuốt từng sợi giang mỏng và bóng để đan thành những
chiếc nón xinh xắn, vật phẩm đặc trưng của người VB. Con người cần cù, tài hoa ấy thật đáng
yêu, đáng nhớ.


Thế rồi, khoảnh khắc nhàn hạ của mùa xuân cũng qua mau, nhường chỗ cho mùa hè đến :
“Ve kêu rừng phách đổ vàng


<i>Nhớ cơ em gái hái măng một mình”. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

“Thơ thẩn đường chiều một khách thơ
<i>Say nhìn ra rặng núi xanh lơ</i>


<i> Khí trời lặng lẽ và trong trẻo</i>
<i> Thấp thống rừng mơ cơ hái mơ”. </i>


Từ “hái” phù hợp với nét dịu dàng, uyển chuyển, mềm mại của cô gái VB. Cảnh thiên
nhiên tuyệt mỹ giờ lại khắc thêm vào hình ảnh người thiếu nữ trẻ trung, xinh tươi lạc quan làm
việc lại càng có hồn, có sức sống. Rõ ràng thiên nhiên và con người đã hịa quyện vào nhau, tơ
điểm cho nhau.


<b>Cảnh</b>
<b>mùa</b>


<b>thu</b>


Kết thúc đoạn thơ là cảnh rừng đêm trăng thu huyền diệu và thơ mộng:
<i>“Rừng thu trăng rọi hịa bình</i>


<i>Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”</i>



Câu thơ mở ra một không gian tràn ngập ánh trăng thanh bình soi chiếu khắp núi rừng
chiến khu. Nguyễn Khuyến khi miêu tả cảnh thu cũng không quên miêu tả ánh trăng mùa thu:
“Song thưa để mặc bóng trăng vào”… Hồ Chí Minh cũng thế: “Tiếng suối trong như tiếng hát
<i>xa/ Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”. Tuy nhiên, ánh trăng ở đây không chỉ mang vẻ đẹp tự</i>
nhiên mà nó cịn gắn với niềm xúc động của những con người từng trải qua bao năm tháng khốc
liệt, gian khổ của chiến tranh. Trong khu rừng thấm đẫm ánh trăng vàng, bỗng ngân nga lên
tiếng hát ân tình làm rạo rực lòng người. Tiếng hát bộc lộ lòng người, bộc lộ tâm hồn thuỷ
chung, tình nghĩa của con người Việt Bắc, cũng chính là tấm lịng của người về xuôi với chiến
khu. Thế nên ánh trăng dường như cũng ngời sáng hơn và tiếng hát cũng du dương và vang xa
hơn.


<b>Nhận</b>


<b>xét</b> Có thể nói đây là đoạn thơ hay và có giá trị nhất trong bài “Việt Bắc”. Trong nỗi nhớ củangười ra đi kỉ niệm về VB thật sâu đậm, đáng yêu và đáng nhớ. Qua nỗi nhớ, niềm trân trọng tha
thiết của nhà thơ, cảnh và người VB hiện lên thật gần gũi, chân thực mà thơ mộng, trữ tình.
Thơng qua tình cảm riêng của mình, Tố Hữu đã nói lên tình cảm của cả một thế hệ với quê
hương đất nước, đã ngợi ca tình nghĩa thuỷ chung ân tình của nhân dân ta. Đoạn thơ ngắn 10
dịng trên mang âm điệu ngọt ngào, từ ngữ trong sáng giản dị giàu sức gợi, in đậm phong cách
thơ trữ tình - chính trị của Tố Hữu đã bộc lộ sự gắn bó sâu sắc của nhà thơ với Việt Bắc.
<b>Kết</b>


<b>bài</b>


Tóm lại, “VB” đã tái hiện một thời kháng chiến chống Pháp gian khổ mà anh hùng, nghĩa
tình gắn bó thắm thiết của những người kháng chiến với Việt Bắc, với nhân dân, đất nước. Qua
đó, tình cảm thuỷ chung truyền thống của dân tộc được nâng lên thành tình cảm thời đại, đó là
ân tình cách mạng - một cội nguồn sức mạnh quan trọng tạo nên thắng lợi của cách mạng và
kháng chiến.



</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

<b>ĐỀ 5</b>


<b>Đề bài</b> <b>Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu: </b>
<i>“Thương nhau chia củ sắn lùi</i>


<i> Bát cơm sẻ nửa,chăn sui đắp cùng.</i>
<i>Nhớ người mẹ nắng cháy lưng</i>
<i>Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô</i>


<i>Nhớ sao lớp học i tờ</i>


<i> Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan</i>
<i>Nhớ sao ngày tháng cơ quan</i>


<i>Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo</i>
<i>Nhớ sao tiếng mỏ rừng chiều</i>
<i> Chày đêm nện cối đều đều suối xa”.</i>
<b>Mở</b>


<b>bài</b>


Tố Hữu là một trong những nhà thơ lớn, tiêu biểu nhất của nền thi ca VN hiện đại, là
ngọn cờ đầu của thơ ca CM, của lý tưởng cộng sản. Mọi sự kiện chính trị qua trái tim nhạy cảm
và cảm hứng nghệ thuật của ông đều kết tinh thành những bài thơ đặc sắc. Trong số đó, tập thơ
“VB” được xem là đỉnh cao của thơ kháng chống Pháp, mà bài thơ “Việt Bắc” là kết tinh sở
trường nghệ thuật ngòi bút Tố Hữu. Bài thơ là khúc hát ân tình của người kháng chiến đối với
quê hương, đất nước, nhân dân CM được thể hiện bằng hình thức nghệ thuật đậm đà tính dân
tộc. Đặc sắc nhất là đoạn thơ ngợi ca những tình cảm giản dị, nghĩa tình thủy chung sâu sắc của
con người trong những năm tháng kháng chiến đầy gian khổ thể hiện qua đoạn thơ sau:



“ dẫn chứng thơ 12 dòng thơ”


<b>HCST</b> Việt Bắc là căn cứ CM vững chắc, là cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Đồng bào các dân tộc Việt Bắc đã cưu mang và che chở cho Đảng, cho chính phủ, cho bộ đội.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ kí kết, hịa bình được lập lại, đất nước
bước sang thời kì mới. Tháng 10/1954, những người kháng chiến rời căn cứ miền núi trở về
miền xi, Trung ương Đảng vả Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại Thủ đô Hà Nội, nhân
sự kiện có tính chất lịch sử này, Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc. Bài thơ này nằm trong tập
thơ Việt Bắc (1946-1954).


<b>GT</b>
<b>chung</b>


Sau khi khẳng định tấm lòng trước sau như một, người ra đi nhớ về một Việt Bắc đầy ắp kỉ
niệm. Đoạn thơ trên là những vần thơ đẹp của bản tình ca “Việt Bắc”. Tiếp nối mạch cảm xúc
toàn bài, nỗi nhớ trào dâng trong lòng người ra đi được thể hiện sâu sắc và cảm động giữa
<b>cán bộ kháng chiến và đồng bào Việt Bắc</b>

.

<b>Hình ảnh chiến khu càng sống động bao nhiêu</b>
<b>càng cho thấy nỗi nhớ, tình cảm kẻ đi với người ở tươi mới bấy nhiêu. Cảnh sắc thiên</b>
<b>nhiên, c/sống sinh hoạt, kỉ niệm kháng chiến lần lượt hiện hình nổi sắc chân thực. </b>


<b>Hai</b>
<b>hai</b>
<b>dòng</b>


<b>đầu</b>


Hai câu đầu là hình ảnh chân thực về đời sống kháng chiến gian nan, cực khổ:
Thương nhau chia củ sắn lùi


<i>Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng</i>



Hình ảnh tượng trưng: "Chia củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng" kết hợp với
cách dùng từ cùng nghĩa "chia, sẻ, cùng" diễn tả được mối tình cảm "chia ngọt sẻ bùi" giữa nhân
dân Việt Bắc và cán bộ cách mạng. Biết bao tình nghĩa sâu nặng trong "củ sắn", "bát cơm",
"chăn sui"... mà người cán bộ cách mạng đã chịu ơn Việt Bắc. Đây là một hình ảnh đậm đà tình
giai cấp.


<b>P/tích</b>
<b>2 dòng</b>
<b>thơ</b>
<b>tiếp</b>


Hai câu tiếp theo là hình ảnh người mẹ, kết tinh hình ảnh con người và cuộc sống kháng
chiến:


<i>Nhớ người mẹ nắng cháy lưng.</i>
<i>Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

khơng thể phai nhịa trong kí ức của người về xi. Hình ảnh mẹ VB rất giống như hình ảnh bà
mẹ Tây Nguyên trong “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”:


<i> “Mẹ thương akay, mẹ thương bộ đội” (Nguyễn Khoa Điềm).</i>


Nhớ về VB là nhớ về cuộc sống, sinh hoạt kháng chiến một thời không thể nào quên:
Nhớ sao lớp học i tờ


<i>Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan</i>
<i>Nhớ sao ngày tháng cơ quan</i>


<i>Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.</i>


<i>Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều</i>
<i>Chày đêm nện cối đều đều suối xa...</i>


Điệp từ “nhớ” điệp trùng thể hiện nỗi nhớ dạt dào. Cùng hàng loạt những hình ảnh, âm
thanh thân quen: tiếng mõ rừng chiều, chày đêm nện cối, tiếng suối xa, tiếng học i-tờ, ca vang
<i>núi đèo, đồng khuya đuốc sáng… âm thanh thiên nhiên gợi hồn núi rừng Việt Bắc - âm thanh</i>
cuộc sống bình dị, ấm áp mà vui tươi. Đoạn thơ đối ý, nêu bật tinh thần lạc quan yêu đời của cán
bộ, chiến sĩ cách mạng dù cuộc sống còn rất gian khổ, khó khăn :


"Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo"


VB tràn đầy nỗi nhớ của người kh/chiến về xuôi với quê hương CM trong 15 năm “thiết tha
<i>mặn nồng” tình nghĩa. Bao nhiêu chữ “nhớ” vang lên trong bài thơ là bao nhiêu nỗi nhớ của</i>
người ra đi với người ở lại. Nhớ chiến khu, nhớ núi rừng, nhớ mái đình Hồng Thái, cây đa Tân
Trào, nhớ người mẹ, nhớ lớp học, nhớ những ngày gian khổ có nhau,… Sau đoạn này là nhớ
cảnh và người VB, nhớ những đêm quân đi điệp điệp trùng trùng,… tất cả đều tha thiết và sâu
lắng.


<b>Nhận</b>
<b>xét</b>


Bức tranh Việt Bắc hiện lên qua nỗi nhớ của chủ thể trữ tình; trong hồi niệm có ba mảng
<b>thống nhất và hòa nhập vào nhau: nỗi nhớ thiên nhiên, núi rừng Việt Bắc – nỗi nhớ con</b>
<b>người, cuộc sống ở Việt Bắc – những kỉ niệm về cuộc kháng chiến gian khổ mà chan chứa</b>
<b>nghĩa tình. Giọng thơ tâm tình, ngọt ngào, tha thiết, điệp từ “</b><i>nhớ”, điệp ngữ: nhớ gì… nhớ</i>
<i>từng… nhớ sao…nhớ người… trùng điệp, cùng cách ngắt nhịp của câu thơ lục bát tạo nên nét</i>
nhạc thơ thật đằm thắm, những hình ảnh chân thực, bình dị mà giàu sức gợi cảm… Chuyện
nghĩa tình cách mạng, chuyện kháng chiến đến với người đọc bằng tiếng nói của tình u. Đọan
thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu: trữ tình - chính trị, giọng điệu tâm tình, ngọt ngào và
đậm đà tính dân tộc.



<b>Kết</b>
<b>bài</b>


Tóm lại, “VB” đã tái hiện một thời kháng chiến chống Pháp gian khổ mà anh hùng, nghĩa
tình gắn bó thắm thiết của những người kháng chiến với Việt Bắc, với nhân dân, đất nước. Qua
đó, tình cảm thuỷ chung truyền thống của dân tộc được nâng lên thành tình cảm thời đại, đó là
ân tình cách mạng - một cội nguồn sức mạnh quan trọng tạo nên thắng lợi của cách mạng và
kháng chiến.


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

ĐỀ 6


<b>Đề bài</b> <b>Phân tích bức tranh Việt Bắc ra trận của Tố Hữu: “Những đường Việt Bắc của</b>
<i><b>ta...Vui lên VB đèo De, núi Hồng”</b></i>


<b>Mở</b>
<b>bài</b>


Tố Hữu là một trong những nhà thơ lớn, tiêu biểu nhất của nền thi ca VN hiện đại, là
ngọn cờ đầu của thơ ca CM, của lý tưởng cộng sản. Mọi sự kiện chính trị qua trái tim nhạy
cảm và cảm hứng nghệ thuật của ông đều kết tinh thành những bài thơ đặc sắc. Trong số đó,
tập thơ “VB” được xem là đỉnh cao của thơ kháng chống Pháp, mà bài thơ “Việt Bắc” là kết
tinh sở trường nghệ thuật ngòi bút Tố Hữu. Bài thơ là khúc hát ân tình của người kháng
chiến đối với quê hương, đất nước, nhân dân CM được thể hiện bằng hình thức nghệ thuật
đậm đà tính dân tộc. Nổi bật nhất là đoạn thơ hồi ức về bức tranh Việt Bắc ra trận:


“Những đường Việt Bắc của ta
<i> ………..</i>


<i> Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”. </i>



<b>HCST</b> Việt Bắc là căn cứ CM vững chắc, là cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến chống
Pháp. Đồng bào các dân tộc Việt Bắc đã cưu mang và che chở cho Đảng, cho chính phủ, cho
bộ đội. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ kí kết, hịa bình được lập lại,
đất nước bước sang thời kì mới. Tháng 10/1954, những người kháng chiến rời căn cứ miền
núi trở về miền xi, Trung ương Đảng vả Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại Thủ đô
Hà Nội, nhân sự kiện có tính chất lịch sử này, Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc. Bài thơ này
nằm trong tập thơ Việt Bắc (1946-1954).


<b>GT</b>
<b>chung</b>


<i> VB của Tố Hữu không chỉ là khúc ca ân tình, mà cịn là bản tổng kết bằng thơ mười</i>
lăm năm CM. Bên cạnh những đoạn thơ trữ tình ngọt ngào, ta còn bắt gặp những khúc ca
<b>tràn đầy khí thế chiến đấu và chiến thắng của quân dân ta mà tiêu biểu là bức tranh</b>
<b>VB ra trận. Theo dòng hồi tưởng của chủ thể trữ tình, bài thơ dẫn người đọc vào</b>
<b>khung cảnh Việt Bắc chiến đấu với không gian núi rừng rộng lớn, những hoạt động tấp</b>
<b>nập, những hình ảnh hào hùng, những âm thanh sôi nổi, dồn dập, náo nức. Cách mạng</b>
<b>và kháng chiến đã xua tan vẻ âm u, hiu hắt của núi rừng, đồng thời khơi dậy sức sống</b>
<b>mạnh mẽ của thiên nhiên và con người Việt Bắc. Bài thơ tràn đầy âm hưởng anh hùng ca,</b>
mang dáng vẻ một sử thi hiện đại, chỉ vài nét phác hoạ khung cảnh hùng tráng, Tố Hữu đã
cho thấy hào khí ngất trời của cả một dân tộc đứng lên chiến đấu vì Tổ quốc độc lập, tự do.
Họ vừa mới xuất quân mà như đã cầm chắc chiến thắng trong tay.


<b>Hai</b>
<b>dòng</b>


<b>đầu</b>


Hai câu đầu đoạn là nét tả khái quát. Tác giả nói về những đường Việt Bắc ra trận,


những nẻo đường hành quân, những nẻo đường chiến dịch nhưng là để nói lên khí thế dũng
mãnh của người ra trận :


<i>Những đường Việt Bắc của ta</i>
<i>Đêm đêm rầm rập như là đất rung</i>


Những nhịp điệu “đêm đêm”, những điệp thanh “rầm rập” cùng với biện pháp so
sánh “như là đất rung” đã cho ta thấy mặt đất như đang chuyển động dưới bàn chân những
người chiến sĩ trong cuộc hành quân vĩ đại từ khắp các ngả đường của căn cứ địa CM. Đây
là hình ảnh hào hùng, là âm vang của cuộc kháng chiến thần thánh và sức mạnh nhân nghĩa
bốn nghìn năm của dân tộc mà khơng thế lực nào có thể ngăn cản được.


<b>Hai</b>
<b>dòng</b>


<b>3-4</b>


Chưa hết, hình ảnh người lính ra trận hiện lên vừa hiện thực, vừa hào hùng và lãng mạn:
<i>Quân đi điệp điệp trùng trùng</i>


<i>Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan</i>


Hiện thực ở chi tiết những đoàn quân nối tiếp nhau, ở những chiếc mũ nan giản dị. Hào hùng
ở sự trùng điệp được nhân lên “điệp điệp trùng trùng”thật đông đảo, người người lớp lớp
như sóng cuộn và lãng mạn ở hình ảnh “ánh sao đầu súng”, ánh sao đêm phản chiếu vào
nòng súng thép, ánh sao của bầu trời VB, ánh sao của lý tưởng chiến đấu. Đây là tứ thơ vừa
hiện thực, vừa lãng mạn gợi nhiều liên tưởng về vẻ đẹp anh bộ đội cụ Hồ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

<b>dòng</b>



<b>5-6</b> những anh bộ đội cụ Hồ bước đi hùng tráng trong đêm mà cịn có cả hình ảnh những đồndân công ra trận đi tải lương, tải đạn phục vụ tiền tuyến:
Dân công đỏ đuốc từng đồn


<i>Bước chân nát đá, mn tàn lửa bay</i>


Trong chiến tranh, nhân dân ta lấy ngày làm đêm, lấy đêm làm ngày. Bởi thế nên giữa
đêm VB ra quân, cạnh những đoàn quân đi, ta cịn thấy hình ảnh "dân cơng đỏ đuốc từng
<i>đồn". Họ cũng như những người lính, hăng hái ra trận, hăng hái lên đường. Giữa cái cảnh</i>
hào hùng ấy, hình ảnh "mn tàn lửa bay "gợi cho ta một vẻ đẹp rất lãng mạn. Những tàn
lửa bay ra từ những bó đuốc rơi xuống mặt đất thực sự đã làm cho con đường ra trận thêm
lung linh, huyền ảo. Ta có cảm giác con đường ra trận như một đêm đèn hoa đăng rực rỡ.
Khơng chỉ sử dụng các hình ảnh, các từ láy, cách nói cường điệu trong câu thơ "<i>bước</i>
<i>chân nát đá” đã diễn tả sức mạnh của lòng quyết tâm từ hàng vạn con người. Họ sẵn sàng</i>
đạp bằng mọi chông gai để đi đến chiến thắng. Đây là một sự sáng tạo của Tố Hữu khi ông
đã lấy ý tưởng từ câu ca dao:


“Trông cho chân cứng đá mềm
<i> Trời êm bể lặng mới yên tấm lịng ".</i>


Điều đó đã tạo nên một hình ảnh vừa quen thuộc, vừa mới lạ nhằm ca ngợi sức mạnh
của con người Việt Nam chiến đấu và chiến thắng. Ý thơ mang tầm vóc sử thi.


<b>Hai</b>
<b>dòng</b>


<b>7-8</b>


Hai câu thơ cuối của đoạn thơ là hình ảnh của những đồn xe cơ giới, xe tăng, xe tải
chở lính, chở lương thực vũ khí ào ào ra trận:



"Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
<i> Đèn pha bật sáng như ngày mai lên"</i>


Đây là hình ảnh vừa thực nhưng cũng rất lãng mạn. Bỏ đằng sau cái nghĩa thực của
cuộc hành quân xuyên rừng vượt núi, xuyên qua đêm tối sương dày thăm thẳm thì nghĩa
bóng về hình ảnh ngày mai lại thật lạc quan phơi phới "đèn pha bật sáng như ngày mai lên".
Nghệ thuật so sánh lại được nhà thơ sử dụng thật thành cơng. Hình ảnh đèn pha bật sáng
được ví như mặt trời mọc "như ngày mai lên ". Như vậy, ngày mai đến từ trong đêm thăm
thẳm nhờ có đèn pha bật sáng, nhờ có sức mạnh của con người cộng với lý tương cao đẹp :
chiến đấu vì nhân dân, vì đất nước. Câu thơ vừa thể hiện được cái dư vị của cảnh hành quân
hoành tráng, đầy hào khí chiến đấu, chiến thắng, vừa thể hiện một niềm tin, lạc quan phơi
phới: tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc.


<b>Bốn</b>
<b>dòng</b>


<b>cuối</b>


Và niềm tin ấy đã được khẳng định. Những câu còn lại là niềm vui của tác giả, của
nhân dân Việt Bắc trước tin thắng trận trên khắp mọi miền đất nước dồn dập bay về:


<i>Tin vui chiến thắng trăm miền</i>
<i>Hồ Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về</i>
<i>Vui từ Đồng Tháp, An Khê</i>


<i>Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.</i>


Hàng loạt các địa danh được liệt kê: Hồ Bình, Tây Bắc, Điện Biên, Đồng Tháp, An Khê,...
trước đó là: Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng,… mỗi địa danh ghi dấu một chiến
công của dân tộc. Cách gọi tên các địa danh đã diễn tả được tình yêu núi sơng và niềm tự


hào trào dâng trong lịng tác giả khi nghĩ về những chiến công oanh liệt trên khắp mọi miền
đất nước. Cùng với những địa danh ấy là điệp từ “vui” được lặp nhiều lần kèm với các giới
từ “tin vui chiến thắng…vui về…vui từ…vui lên…” gợi tả chiến thắng giòn giã, dồn dập, như
tiếng reo mừng cất lên trong lịng hàng triệu con người từ Bắc chí Nam.


<b>Nhận</b>


<b>xét</b> Như vậy, với bút pháp vừa hiện thực, vừa lãng mạn, chỉ với 12 dòng lục bát, Tố Hữuđã dựng nên bức tranh VB ra trận thật đẹp. Bức tranh không chỉ làm sống dậy những tháng
năm hào hùng của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trên căn cứ địa thần thánh, mà còn
mang đến cho ta niềm tin yêu quê hương CM anh hùng. Có thể gọi đây là bức tranh thành
công về Việt Bắc ra quân. Đoạn thơ 12 câu diễn tả khí thế hào hùng sục sơi của Việt Bắc
kháng chiến. Qua đó, đoạn thơ bộc lộ niềm tự hào sâu sắc của nhà thơ về về sức mạnh đoàn
kết vĩ đại của dan tộc. Đoạn thơ có âm điệu sơi nổi, dồn dập, mạnh mẽ, sử dụng nhiều hình
ảnh phóng đại, là đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu.
<b>Kết</b>


<b>bài</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

đại, đó là ân tình cách mạng - một cội nguồn sức mạnh quan trọng tạo nên thắng lợi của cách
mạng và kháng chiến.


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

<b>BÀI THƠ “ĐẤT NƯỚC” – NGUYỄN KHOA ĐIỀM</b>
ĐỀ 1


<b>Đề bài</b> <b>Phân tích chín dòng thơ đầu trong bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm.</b>
<b>Mở</b>


<b>bài</b>


Đề tài Đất Nước bao trùm trong thơ ca VN giai đoạn 1945 – 1975. Chưa bao giờ trong


dòng chảy của văn học Việt Nam lại xuất hiện nhiều gương mặt thơ với những phát hiện độc
đáo và xúc động viết về quê hương và được thể hiện qua nhiều tác phẩm. Trong số đó, Nguyễn
Khoa Điềm cũng có một đóng góp đặc sắc cho mảng đề tài này mà bài thơ Đất Nước là điển
hình xuất sắc. Bài thơ là sự cảm nhận, phát hiện Đất Nước trong một cái nhìn tổng hợp và tồn
vẹn cả bề rộng của không gian (địa lý), cả chiều dài của thời gian (lịch sử) và bề dày văn hóa.
Đoạn trích sử dụng sáng tạo các chất liệu văn hoá, văn học dân gian và rất thích hợp với việc thể
hiện tư tưởng “Đất Nước nhân dân” (ĐN của dân, do nhân dân làm ra). Trong đoạn trích nổi bật
nhất là hai mươi dòng thơ tiếp theo (từ câu 21 đến câu 29) của đoạn trích.


<b>HCST</b> Đoạn trích “Đất Nước” thuộc phần đầu chương V trong trường ca “Mặt đường khát vọng”
(hoàn thành ở chiến khu Trị Thiên năm 1971 và in lần đầu năm 1974) viết về sự thức của thế hệ
trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống
đường đấu tranh hịa nhịp với cuộc chiến chống Mỹ.


“ĐN” là bài thơ trữ tình - chính luận. Bằng giọng điệu tâm tình, bằng những câu thơ co dũi
rất tự nhiên, nhân vật “anh” đã tâm sự với nhân vật “em” những điều về ĐN. Nó vơ cùng sâu
sắc, thấm thía. Trong đó, đoạn một là sự cảm nhận về Đất Nước trên phương diện văn hoá và tác
giả đã trả lời cho câu hỏi “ĐN bắt đầu từ đâu?”.


<b>Phân</b>
<b>tích</b>


Trái với logic mà chúng ta thường nghĩ, NKĐ nói về nguồn gốc của ĐN rất lạ. Nó khơng
cụ thể như nhà thơ Chế Lan Viên: “Hỡi sơng Hồng tiếng hát bốn ngàn năm”. Nó cũng không
đánh dấu bằng các mốc thời đại như Nguyễn Trãi: “Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền
<i>độc lập”, mà nhà thơ nhìn vào thời điểm hơm nay, nhìn vào những phong tục tập quán, nhìn</i>
những sự vật quen thuộc đang hiện diện hôm nay để bắc một cầu vịng huyền diệu lung linh về
q khứ để truy tìm nguồn gốc của ĐN.


Nguyễn Khoa Điềm, trong phần mở đầu đoạn trích, đã chọn cách nói và các hình ảnh rất


tự nhiên và bình dị:


<i>Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi</i>


<i>Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa... mẹ thường hay kể.</i>
<i>Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn</i>


<i>Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc</i>


Đại từ xưng hô “ta” gợi cho người đọc cảm nhận: “ta” vừa là nhân vật trữ tình, vừa là
mỗi chúng ta, vừa là những người dân đất Việt. Khi mỗi người lớn lên, Đất Nước đã có, tuy
chưa đủ hiểu biết để hiểu những khái niệm trừu tượng như cương vực, lãnh thổ, nhưng Đất
Nước là cái gì rất thân thương và gần gũi.


Tiếp đó, tác giả đã cụ thể hơn bằng cách nêu ra hàng loạt những hình ảnh có ý nghĩa biểu
trưng để trả lời cho câu hỏi: “Đất Nước có từ bao giờ?”. Từ khi nào có những câu chuyện cổ
tích “ngày xửa, ngày xưa” mà mẹ thường kể thì ĐN có từ ngày đó. Nhưng có ai biết được “ngày
<i>xửa, ngày xưa” là từ khi nào và đã có biết bao thế hệ các bà mẹ đã kể chuyện cho con nghe.</i>
Điều đó nhằm khẳng định ĐN có từ lâu đời.


Chưa hết, Đất Nước có từ “miếng trầu dung dị của bà ăn”. Từ ngày tháng năm nào vua
Hùng ban tục lệ ăn trầu, ấy là ngày khai sinh ra Đất Nước. Hình ảnh miếng trầu mở ra cả một
khơng gian văn hóa Việt, gợi nhớ “Sự tích trầu cau”. Đồng thời miếng trầu cịn là biểu hiện cho
vẻ đẹp của thuần phong mĩ tục, cho bản sắc riêng của một dân tộc trọng tình nghĩa hơn của cải
vật chất:


“Miếng trầu là đầu câu chuyện”
<i> “Trầu này trầu nghĩa trầu tình</i>


<i> Cho loan lấy phượng, cho mình lấy nhau”.</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

cậu bé làng Gióng vươn vai lớn lên thành tráng sĩ "Nhổ bụi tre ngà đuổi giặc Ân" (Tố Hữu).
Truyền thuyết xa xưa ấy thể hiện trọn vẹn tinh thần bất khuất, khát vọng tự do của một dân tộc
và sự trưởng thành của một dân tộc biết cầm vũ khí để đấu tranh giành độc lập tự do.


Rồi Đất Nước định hình với những gì rất quen thuộc:
<i>Tóc mẹ thì búi sau đầu</i>


<i>Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn</i>
<i>Cái kèo cái cột thành tên</i>


<i>Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã giần sàng</i>
<i>Đất Nước có từ ngày đó…</i>


Trước hết là ở phong tục tập quán “búi tóc sau đầu của mẹ” gắn với cuộc sống nhọc
nhằn vất vả, với ứng xử nghĩa tình “gừng cay muối mặn” của cha và mẹ. “Gừng cay muối mặn”
đâu chỉ là gia vị trong đời sống hàng ngày của người VN mà cịn là biểu tượng cho tình nghĩa vợ
chồng yêu thương gắn bó, thủy chung, bền chặt:


“Tay nâng đĩa muối chén gừng


<i>Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”.</i>


Tiếp đó, Đất Nước phát triển với ngơn ngữ ‘cái kèo cái cột thành tên”, với hạt gạo “một
<i>nắng hai sương” của nền văn hóa nơng nghiệp lúa nước trong cả quá trình nhọc nhằn, gian khổ</i>
“xay giã giần sàng” đau đớn. Đó là nền tảng để ĐN bắt đầu và lớn lên.


Như vậy, theo NKĐ, Đất Nước có từ khi chúng ta có nền văn hóa. Đất Nước bắt đầu từ
văn hóa, từ văn học, từ phong tục tập quán,… Lời thơ tuy chỉ gợi, chỉ vẽ một vài nét thống nhẹ,
mơ hồ xa xơi nhưng đậm đà ý vị. Đó là sự cảm nhận về Đất Nước rất riêng của thế hệ trẻ chống


Mỹ. Đất Nước hiện ra không xa lạ mà gần gũi và thân thiết biết bao. Giọng thơ thủ thỉ như lời
tâm sự đã chuyển tải suy ngẫm của nhà thơ về Đất Nước.


<b>Mở</b>
<b>rộng</b>


Suốt chín câu thơ, chúng ta thấy ấn tượng nổi bật nhất là hình tượng người phụ nữ: <i>người</i>
<i>mẹ kể chuyện, người bà ăn trầu, búi tóc của mẹ, ngay cả hành động “nâng đĩa muối chén</i>
<i>gừng” và hành động “xay giã dần sàng” cũng thấp thống hình ảnh người phụ nữ. Hơn đâu</i>
hết, nước Việt Nam biểu tượng “Mẹ Việt Nam anh hùng” là chính xác.


<b>Nghệ</b>
<b>thuật</b>


Về nghệ thuật, ở đoạn thơ này, mỗi câu đều bị chi phối bởi chủ đề Đất Nước và cả
khổ thơ đều bị chi phối cho chủ đề Đất Nước. Do đó đoạn thơ mở đầu cũng có thể được coi là
những câu trả lời cho câu hỏi: “Đất Nước có từ bao giờ”. Đặc biệt câu thơ cuối “ĐN có từ ngày
<i>đó” đóng khép đoạn thơ là điệp khúc lặp lại ý mở đầu: “Khi ta lớn lên Đất Nước có rồi” khiến</i>
ta liên tưởng đến dịng thời gian hun hút mà Đất Nước hiện diện. Cùng với các trạng từ: “bắt
<i>đầu, lớn lên” tuy không x/định thời gian cụ thể nhưng cũng đã khẳng định quá trình hình thành</i>
và phát triển lâu đời của Đất Nước. Câu thơ cuối cũng là câu chuyển tiếp từ đoạn đầu văn hóa
sang đoạn thơ tiếp theo cảm nhận Đất Nước về không gian và thời gian.


<b>Nhận</b>
<b>xét</b>


Nhìn chung, đoạn thơ đầu chín câu với 85 chữ nhưng khơng hề có một từ ngữ Hán Việt
nào, ngơn từ bình dị, cách nói biểu cảm, thân mật, đoạn thơ đã nói lên một cách dung dị mà
thấm thía về cội nguồn sâu xa của Đất Nước. Cùng với mức độ đậm đặc của các chất liệu được
lấy từ ca dao, cổ tích, từ truyền thuyết,… đã tạo cho đoạn thơ một âm hưởng đầy quyến rũ và cất


lên “tấm lòng sứ điệp” để ta thêm yêu Đất Nước và tự hào về Đất Nước.


<b>Kết</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

ĐỀ 2


<b>Đề bài</b> <b>Phân tích hai mươi dòng thơ tiếp theo trong bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm:</b>
<b>“Đất là nơi anh đến trường...Nhớ ngày giỗ Tổ”. </b>


<b>Mở</b>
<b>bài</b>


Đề tài Đất Nước bao trùm trong thơ ca VN giai đoạn 1945 – 1975. Chưa bao giờ trong
dòng chảy của văn học Việt Nam lại xuất hiện nhiều gương mặt thơ với những phát hiện độc đáo
và xúc động viết về quê hương và được thể hiện qua nhiều tác phẩm. Trong đó, Nguyễn Khoa
Điềm cũng có một đóng góp đặc sắc cho mảng đề tài này mà bài thơ Đất Nước là điển hình xuất
sắc. Bài thơ là sự cảm nhận, phát hiện Đất Nước trong một cái nhìn tổng hợp và tồn vẹn cả bề
rộng của khơng gian (địa lý), cả chiều dài của thời gian (lịch sử) và bề dày văn hóa. Đoạn trích sử
dụng sáng tạo các chất liệu văn hoá, văn học dân gian và rất thích hợp với việc thể hiện tư tưởng
“Đất Nước nhân dân” (ĐN của dân, do nhân dân làm ra). Nổi bật nhất là hai muơi dòng thơ sau:
“Đất là nơi anh đến trường...Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”.


<b>HCST</b> Đoạn trích “Đất Nước” thuộc phần đầu chương V trong trường ca “Mặt đường khát vọng”
(hoàn thành ở chiến khu Trị Thiên năm 1971 và in lần đầu năm 1974) viết về sự thức của thế hệ
trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống
đường đấu tranh hịa nhịp với cuộc chiến chống Mỹ, của dân tộc đứng trước dòng thác lũ thời
đại.


“ĐN” là bài thơ trữ tình - chính luận. Bằng giọng điệu tâm tình, bằng những câu thơ co dũi
rất tự nhiên, nhân vật “anh” đã tâm sự với nhân vật “em” những điều về ĐN. Nó vơ cùng sâu sắc,


thấm thía. Đặc biệt ở khổ thơ thứ hai, Nguyễn Khoa Điềm đã cảm nhận và định nghĩa về Đất
Nước trong sự thống nhất, hài hoà giữa các phương diện địa lí và lịch sử, khơng gian và thời gian
đã trả lời một cách thuyết phục cho câu hỏi “Đất Nước là gì?”.


<b>Phân</b>
<b>tích</b>
Những


định
nghĩa
về Đất


Nuớc


Ở lần định nghĩa thứ nhất cả Đất và Nước đều là không gian tồn tại rất thân thuộc, rất
riêng tư gắn bó của “anh” và “em”:


<i>Đất là nơi anh đến trường</i>
<i>Nước là nơi em tắm</i>
<i>Đất Nước là nơi ta hò hẹn</i>


<i>Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm...</i>


Ý thơ quay về với hiện thực, với những hình ảnh cụ thể: nơi anh đến trường, nơi em tắm,
<i>nơi ta hò hẹn, nơi em đánh rơi chiếc khăn thương nhớ. Đây là không gian riêng tư chỉ hai người</i>
biết, chỉ hai người hay. Dường như Đất Nước này được sinh ra là vì anh, vì em, vì tình u đơi
lứa chúng ta, song cũng đậm đà hồn quê hương xứ sở. Nét độc đáo trong lần cảm nhận về Đất
Nước là hình ảnh chiếc khăn tương tư, ướt lệ nhớ nhung những đêm dài thao thức của em lại đậu
vào hình hài Đất Nước. Một điều rất khó thấy khi bàn về ĐN. Ở đây, tác giả đã sử dụng chất liệu
của ca dao rất nhuần nhuyễn: Khăn thương nhớ ai/ Khăn rơi xuống đất/ Khăn thương nhớ ai/


<i>Khăn vắt lên vai/ Khăn thương nhớ ai/ Khăn chùi nước mắt. Điều này khiến cho người đọc suy</i>
nghĩ về Đất Nước cứ dâng tràn cảm xúc.


Ở lần định nghĩa thứ hai, từ không gian gần gũi, Đất Nước trở nên xa xôi, mênh mông như
huyền ảo:


<i>Đất là nơi “con chim phượng hồng bay về hịn núi bạc”</i>
<i>Nước là nơi “con cá ngư ơng móng nước biển khơi”.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

Ở lần định nghĩa thứ ba, NKĐ đưa ta trở về với cội nguồn của dân tộc, dòng giống con
người VN:


<i>Đất là nơi Chim về</i>
<i>Nước là nơi Rồng ở</i>
<i>Lạc Long Quân và Âu Cơ</i>


<i>Đẻ ra đồng bào mình trong bọc trứng...</i>


Ở đoạn thơ này những hình tượng quen thuộc trong truyền thuyết như: chim rồng, Lạc Long
<i>Quân và Âu Cơ, bọc trứng cũng hiện về trong trường liên tưởng của nhà thơ. Sự hồi tưởng ấy</i>
làm bật lên ý thơ có tầm khái quát cao: dân tộc ta là “con Lạc, cháu Hồng”, trai tài gái sắc, Đất
Nước ta là đất lành chim về, đất thiêng rồng ở, đồng bào ta là anh em một nhà. Tất cả làm tốt lên
lịng tự hào về non sơng gấm vóc, gắn với lịng biết ơn tổ tiên đã ăn sâu vào tiềm thức từng người
Việt. Hai tiếng “đồng bào” thân thương luôn đánh thức tinh thần đoàn kết hàng ngàn năm của
dân tộc.


Sau khi định nghĩa về Đất Nước như một lẽ tự nhiên, NKĐ hướng đến ý thức trách nhiệm
của các thế hệ đối với Đất Nước:


<i>Những ai đã khuất</i>


<i>Những ai bây giờ</i>


<i>Yêu nhau và sinh con đẻ cái</i>


<i>Gánh vác phần người đi trước để lại</i>
<i>Dặn dò con cháu chuyện mai sau</i>
<i>Hằng năm ăn đâu làm đâu</i>


<i>Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.</i>


Nhà thơ luôn nhắc nhở mọi người phải nhớ về cội nguồn dân tộc, phải biết gánh trên vai
trọng trách nặng nề mà thiêng liêng về Đất Nước: duy trì giống nịi dân tộc (u nhau và sinh
<i>con đẻ cái) và nhất là phải truyền lại cội nguồn văn hóa tâm linh dân tộc (Dặn dị con cháu</i>
<i>chuyện mai sau). Dù sinh kế mọi người có thể làm ăn, sinh sống ở bất cứ đâu nhưng đừng quên</i>
cúi đầu nhớ đến ngày giỗ Tổ vào ngày 10.3 âm lịch hằng năm. “Tổ” ở đây là vua Hùng Vương,
con trai cả của mẹ Âu Cơ, người có cơng dựng nước, cũng là tổ tiên của mỗi gia tộc. Đó chính là
truyền thống uống nước nhớ nguồn, một đạo lí bất di bất dịch của dân tộc.


<b>Nghệ</b>
<b>thuật</b>


Về nghệ thuật, nét độc đáo của đoạn thơ là nhà thơ đã tháo rời hai chữ Đất – Nước, sau đó
lắp ghép lại để hoàn chỉnh một định nghĩa về Đất Nước. Đây là một logic hình thức khó chấp
nhận khi trình bày một vấn đề hệ trọng thiêng liêng. Ấy vậy mà cứ mỗi lần tháo lắp, Đất Nước lại
càng trở nên lung linh, huyền ảo và tác động mạnh đến tình cảm con người.


<b>Nhận</b>
<b>xét</b>


Nhìn chung, Đất Nước qua cảm nhận của NKĐ khơng khơ khan trừu tượng mà tươi rói cảm


xúc. Vẫn là việc s/dụng những chất liệu của văn học dân gian với ngơn ngữ tự nhiên, bình dị làm
cho đoạn thơ vừa có tính sáng tạo mới mẻ vừa mang những nét thân thương, gần gũi, vừa dịnh
nghĩa cụ thể làm rõ về Đất Nước gắn liền với đời sống và số phận từng cá nhân trên mọi phương
diện: chiều dài của lịch sử và chiều rộng của địa lí, chiều sâu của văn hoá và phong tục.


<b>Kết</b>
<b>bài</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

ĐỀ 3


<b>Đề bài Phân tích mười ba dòng thơ tiếp theo trong bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm:</b>
<b>“Trong anh và em hôm nay...Làm nên Đất Nước muôn đời”. </b>


<b>Mở</b>
<b>bài</b>


Đề tài Đất Nước bao trùm trong thơ ca VN giai đoạn 1945 – 1975. Chưa bao giờ trong
dòng chảy của văn học Việt Nam lại xuất hiện nhiều gương mặt thơ với những phát hiện độc
đáo và xúc động viết về quê hương và được thể hiện qua nhiều tác phẩm. Trong đó, Nguyễn
Khoa Điềm cũng có một đóng góp đặc sắc cho mảng đề tài này mà bài thơ Đất Nước là điển
hình xuất sắc. Bài thơ là sự cảm nhận, phát hiện Đất Nước trong một cái nhìn tổng hợp và
tồn vẹn cả bề rộng của không gian (địa lý), cả chiều dài của thời gian (lịch sử) và bề dày văn
<i>hóa. Đoạn trích sử dụng sáng tạo các chất liệu văn hố, văn học dân gian và rất thích hợp với</i>
việc thể hiện tư tưởng “Đất Nước nhân dân” (ĐN của dân, do nhân dân làm ra). Nổi bật nhất
là mười ba dịng thơ sau:: “Trong anh và em hơm nay...Làm nên Đất Nước muôn đời”.
<b>HCST</b> Đoạn trích “Đất Nước” thuộc phần đầu chương V trong trường ca “Mặt đường khát


<i>vọng” (hoàn thành ở chiến khu Trị Thiên năm 1971 và in lần đầu năm 1974) viết về sự thức</i>
của thế hệ trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ
mình, xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến chống Mỹ, của dân tộc đứng trước


dòng thác lũ thời đại.


“ĐN” là bài thơ trữ tình - chính luận. Bằng giọng điệu tâm tình, bằng những câu thơ co
dũi rất tự nhiên, nhân vật “anh” đã tâm sự với nhân vật “em” những điều về ĐN. Nó vơ cùng
sâu sắc, thấm thía. Ấn tượng nhất là ở khổ thơ thứ ba, nhà thơ nói về ý thức trách nhiệm của
<i>thế hệ trẻ đối với Đất Nước. </i>


<b>Phân</b>
<b>tích</b>


Khơng chỉ tiếp cận Đất Nước qua lịch sử, qua địa lý và các mối quan hệ cá nhân-cộng
đồng, Nguyễn Khoa Điềm còn dẫn dắt độc giả trở về với hiện thực trực tiếp của cuộc kháng
chiến chống Mỹ, nói lên tiếng nói đầy trách nhiệm của cả một thế hệ chống Mỹ thật sự trưởng
thành trong nhận thức và tình cảm. Hai dịng đầu, nhà thơ phát hiện chân lý giản dị mà sâu
sắc:


<i>Trong anh và em hôm nay</i>
<i>Đều có một phần Đất Nước.</i>


Giọng thơ tâm tình với lối xưng hơ “anh, em” tha thiết. Thì ra Đất Nước có trong mỗi
cá nhân, Đất Nước kết tinh trong mỗi con người “<i>trong anh”, “trong em”, trong mỗi chúng ta.</i>
Đất Nước không ở đâu xa lạ, không tồn tại khách thể mà kết tinh, hóa thân trong cuộc sống
của mỗi con người. Sự sống mỗi cá nhân không chỉ là riêng của cá nhân mà còn là của Đất
nước, bởi mỗi cuộc đời đều được thừa hưởng những di sản văn hóa tinh thần và vật chất của
dân tộc, của nhân dân. Ý thơ này tương đồng với ý trong bài thơ Quê hương của Giang Nam:


<i>Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm</i>
<i>Có những ngày trốn học bị địn roi</i>
<i>Nay u q hương vì trong từng nắm đất</i>
<i> Có một phần xương thịt của em tơi.</i>


Vẻ đẹp Đất Nước cịn được phát hiện thêm:


<i>Khi hai đứa cầm tay</i>


<i>Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm</i>
<i>Khi chúng ta cầm tay mọi người</i>


<i>Đất Nước vẹn tròn to lớn</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

“Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt
<i> Như mẹ cha ta, như vợ, như chồng</i>
<i> Ôi Tổ quốc nếu cần ta chết</i>


<i> Cho mỗi ngôi nhà ngọn cỏ con sông”. </i>


Từ hiện tại, nhà thơ tiếp tục mạch cảm xúc và suy nghĩ về Đất Nước ở tương lai:
<i>Mai này con ta lớn lên</i>


<i>Con sẽ mang Đất Nước đi xa</i>
<i> Đến những tháng ngày mơ mộng”.</i>


<i>“Tháng ngày mơ mộng” là tương lai đẹp và hạnh phúc, là những ngày thanh bình và</i>
phát triển của Đất Nước. Tác giả thả giấc mơ về phía tương lai, gởi gắm niềm tin vào thế hệ
măng non của Đất Nước sẽ làm cho Đất Nước đi lên có thể sánh vai cường quốc năm châu.
Tuy nhiên, hoàn cảnh hiện tại ĐN bị đe dọa, mất tự do, đắm chìm trong khói lửa ch/tranh,
hạnh phúc khơng thể có.


Từ suy nghĩ đó, nhà thơ lên tiếng kêu gọi ý thức bổn phận, trách nhiệm của mỗi cá nhân
đố với Đất Nước: Em ơi em



<i>Đất Nước là máu xương của mình</i>
<i>Phải biết gắn bó và san sẻ</i>


<i>Phải biết hố thân cho dáng hình xứ sở</i>


Lời thơ trữ tình “Em ơi em” nhỏ nhẹ, trìu mến đã bảo hành chất trữ tình chính luận sâu
sắc cho đoạn thơ. Nhà thơ khẳng định "Đất Nước là máu xương ", là sinh mệnh, là sự sống
của con người. Vận mệnh của Đất Nước chính là vận mệnh của chính bản thân mình, số phận
của cá nhân nằm trong vận mệnh của ĐN. Vì thế, ta cần “Phải biết gắn bó và san sẻ. Phải biết
<i>hố thân cho dáng hình xứ sở”. Điệp ngữ “phải biết” vừa là mệnh lệnh kêu gọi vừa là lời thúc</i>
giục từ trái tim. Từ "hóa thân" chính là sự tự nguyện cống hiến trọn vẹn tinh thần và công sức,
tuổi trẻ của mình vì sự nghiệp giải phóng của dân tộc để “Làm nên Đất Nước muôn đời”, một
ý tưởng hào hùng mang tầm vóc sử thi gợi ta nhớ đến bài thơ của Tố Hữu :


Nếu được làm hạt giống để mùa sau
<i> Nếu lịch sử chọn ta làm điểm tựa</i>
<i> Vui gì hơn làm người lính đi đầu.</i>
<b>Nhận</b>


<b>xét</b>


Nhìn chung, Nguyễn Khoa Điềm viết nên những câu thơ này bằng tất cả sự trải nghiệm
của một người lăn lộn trong phong trào tranh đấu của thanh niên đô thị miền Nam. Nhà thơ đã
thay mặt thế hệ mình để phát biểu tâm tư với tinh thần cơng dân, với nhiệt tình tuổi trẻ. Đó
cũng là lời đáp cho câu hỏi mang tính chính luận về sự trường tồn của Đất Nước. Đất Nước
bất tử chính nhờ ở tinh thần của những con người tràn đầy nhiệt huyết tuổi thanh xuân, biết
sống có trách nhiệm với thời đại và có khát vọng về tương lai trường tồn của Đất Nước.
<b>Kết</b>


<b>bài</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

<b>B. PHẦN 2: (Phần còn lại) Trả lời cho câu hỏi “Đất Nước này là của ai?” và làm rõ tư</b>
<b>tưởng “Đất Nước của nhân dân”</b>


Phần đầu khúc ca, tác giả nói về lịch sử Đất Nước cùng lối định nghĩa bằng thơ theo cách riêng
của mình. Ở phần sau của đoạn trích, nhà thơ đi sâu vào tư tưởng “<i>Đất Nước của Nhân Dân” bẳng cái</i>
nhìn tồn diện các phương diện với những phát hiện nhiều ý nghĩa, thi vị.


<b>1. Trước hết Đất Nước của ai được nhìn từ phương diện địa lý: Tư tưởng ĐN của ND dẫn</b>
nhà thơ đến cái nhìn mới mẻ có chiều sâu về địa lý (khơng gian).


“Những người vợ nhớ chồng cịn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
<i>………..</i>


<i>Những người dân nào đã góp tên cho Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm” </i>
Người đọc được tiếp nhận những phát hiện rất thú vị về những danh lam thắng cảnh trên Đất
Nước ta như: thắng cảnh như Vịnh Hạ Long, những di tích văn hóa như hịn Vọng Phu, núi Bút non
<i>Nghiên, những di tích lịch sử như làng Gióng, Đất Tổ trãi dài trên khắp Đất Nước ta,… Đây khơng chỉ</i>
là địa hình núi sơng thuần túy mà tạo hóa ban tặng mà cịn được là sự đóng góp của ND, sự hóa thân của
những cảnh ngộ, số phận ND thấm đẫm vẻ đẹp tâm hồn ND thủy chung, yêu nước, hiếu học,…


Nếu không có những người vợ VN mịn mỏi, chung thủy đợi chồng qua bao cuộc chiến tranh ly
tán thì khơng thể có những núi Vọng Phu, những hịn Trống Mái, phải chăng Thánh Gióng nhổ tre làng
đánh giặc Ân đã khiến những ao đầm làng xóm lấp lánh vẻ đẹp huyền thoại của lịng u nước. Bởi có
truyền thuyết Hùng Vương nên địa hình núi sơng hùng vĩ của Đất Nước mới được gọi là “99…Hùng
<i>Vương”. Niềm tự hào về mặt đất thiêng, xứ sở thanh bình dạt dào sơng nước đã hóa thành tên gọi Cửu</i>
Long cho dịng sơng xanh thẳm đất Phương Nam. Truyền thống hiếu học của những người VN qua bao
đời đã được tạc ghi trong tên gọi “núi Bút non Nghiên”. Cuộc sống bình dị và sự đóng góp của ND đã
đặt tên cho sơng núi: ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm, cả đến con cóc, con gà cũng góp cho quê
<i>hương thành thắng cảnh, thành ĐN dung dị mà tươi đẹp.</i>



Cảnh núi sông hội tụ lấp lánh qua những dòng thơ đẹp soi bóng tâm hồn và những cuộc dời vơ
danh càng thấm thía một điều bình dị Đất Nước này là Đất Nước của Nhân Dân gần gũi thiêng liêng cao
quý :


<i>Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi</i>
<i>……….</i>
<i>Những cuộc đời đã hóa núi sơng ta.</i>


Ý thơ được nâng lên tầm khái quát: sự hóa thân của nhân dân vào bóng hình Đất Nước. Nhân
dân chính là người đã tạo dựng, đã đặt tên, đã ghi dấu ấn cuộc đời mình lên những ngọn núi dịng sơng,
miền đất q hương. Điệp từ "góp cho" biến mỗi câu thơ thành một lời khẳng định về những vai trò to
lớn của con người nhỏ bé bình dị. Chính họ bằng tình u và nỗi đau, nghị lực và sức sáng tạo của mình
đã làm nên linh hồn cho núi sơng bờ cõi. Từ điểm nhìn về thiên nhiên kì thú, Nguyễn Khoa Điềm đã dạy
cho ta cách "cảm" để yêu thêm vẻ đẹp của đất nước muôn đời .


<b>2. Đất Nước của ai được nhìn từ phương diện thời gian và lịch sử</b>


Tiếp theo, nhà thơ cũng khẳng định tư tưởng Đất Nước nhân dân bằng cách nghĩ về bốn ngàn
năm Đất Nước:


<i>Em ơi em</i>


<i>………...</i>
<i>Nhưng họ làm ra Đất Nước.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

hệ đã bằng xương máu của mình mà đặt tên cho hình sơng thế núi, tạo nên một đất nước đằm thắm nghĩa
tình thủy chung.


<b>3. Đất Nước của ai được nhìn từ phương diện văn hóa</b>



Và để bản trường ca thật sự có chiều sâu, Nguyễn Khoa Điềm cịn làm sáng tỏ tư tưởng Đất
Nước - Nhân Dân của mình qua việc khắc họa Đất Nước ở chiều sâu văn hóa. Nền văn hóa ấy cũng bắt
nguồn từ nhân dân, nền văn hóa ấy lại được lưu giữ và truyền cho ngàn đời sau bởi nhân dân. Truyền
thống ấy kết tinh ở nhân dân... Vậy nên, chính việc nói tới chiều sâu văn hóa dân tộc mình đã giúp
Nguyễn Khoa Điềm làm rõ tư tưởng Đất Nước - Nhân Dân thêm trọn vẹn


<i>"Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng</i>


<i>Họ truyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi</i>
<i>Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân</i>
<i>Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái</i>
<i>Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm</i>


<i>Có nội thù thì vùng lên đánh bại"</i>


Tập tục của một nền nông nghiệp lúa nước được nhà thơ tái hiện qua những câu văn. Từ những
điều tưởng chừng như tầm thường, bé nhỏ như hòn than, con cúi cũng cho thấy một phần nào đó bản sắc
riêng của dân tộc. Người dân Việt Nam là thế, trải qua bao đời họ vẫn giữ trong mình những phẩm chất
riêng khơng thể lẫn vào đâu... Những công việc lao động đã từ ngàn đời nay vẫn còn tồn tại... Rồi truyền
thống yêu nước, căm thù giặc... Tất cả đã làm nên một bản sắc riêng cho dân tộc Việt... Và Nguyễn
Khoa Điềm đã dùng chính những bản sắc ấy, dùng chính những gì là phong tục tập qn ấy, để nói lên
một điều


"Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân


<i>Đất nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại"</i>


Đất Nước - Nhân Dân tư tưởng này đã xuyên suốt bài thơ ở mạch ngầm của văn bản giờ đã được
khẳng định một cách rõ ràng. Đất Nước - Nhân dân không thể tách rời : Nhân Dân đã làm nên Đất Nước,


nhân dân đã gìn giữ và bảo vệ Đất Nước... Những người trẻ hay những người già, chẳng phân biệt gái
trai đều là một trong hàng triệu người đang góp phần vào cơng cuộc giữ vững xây dựng nước nhà... Hai
câu thơ trên có sức lay động mạnh mẽ trong lịng người. Nó như một nguồn ánh sáng thức tỉnh tâm cam
ta, thức tỉnh trong ta về một niềm tự hào dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm đã gói gọn tất cả tư tưởng của
mình chỉ bằng hai câu thơ. Ta hãy nhìn lại vào năm tháng đã qua, đưa mắt theo chiều rộng hướng về
không gian địa lý, rồi lại lắng lịng mình xuống sâu cùng văn hóa quê hương... Tất cả, đều hiểu một điều:
"Đất Nước này là Đất Nước nhân dân"...


Vậy "Đất Nước của ca dao thần thoại"... là như thế nào ?
<i>Dạy anh biết "yêu em từ thuở trong nôi</i>
<i>Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội</i>
<i>Biết trồng tre mà đợi ngày thành gậy</i>
<i>Đi trả thù mà không sợ dài lâu.</i>


Biết bao thi liệu dân gian được lấy từ những câu ca dao mà Nguyễn Khoa Điềm đã gửi gắm vào
đây. Sự uyên bác trong tri thức lẫn tài năng nghệ thuật văn chương đã khiến cho bài thơ của Nguyễn
Khoa Điềm dù sử dụng mật độ khá dày những điển tích dân gian, ca dao dân ca nhưng vẫn uyển chuyển
và không khô cứng...


Con người Việt Nam được thể hiện qua một trái tim yêu, qua câu ca dao rất đáng yêu ý nhị :
<i>"Yêu em từ thuở trong nôi</i>


<i>Em nằm em khóc anh ngồi anh ru"</i>


Con người Việt Nam lại được khắc họa bởi lịng biết q trọng cơng sức lao động:
"Cầm vàng mà lội qua sông


<i>Vàng rơi không tiếc, tiếc cơng cầm vàng"</i>


Và chưa hết, ý chí quyết tâm chống giặc bảo vệ Đất Nước mặc cho thời gian, mặc khó khăn gian


khổ một lần nữa được nhắc đến:


<i>"Thù này ắt hẳn còn lâu</i>


<i>Trồng tre thành gậy, gặp đâu đánh què".</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

quát, thực sự được đưa lên một tầm cao tư tưởng mới và trở thành đóng góp quý giá vào bậc nhất cho
văn học VN.


Đoạn trích khép lại là hình ảnh của dịng sơng, câu hát đem lại cảm nhận Đất nước ta hiền hòa
và vĩnh cửu như dịng sơng chảy vơ tận từ q khứ đến hiện tại, vĩnh hằng cùng tương lai:


<i>Ơi những dịng sông bắt nước từ đâu</i>
<i>………..</i>
<i>Gợi trăm màu trên trăm dáng sơng xi.</i>




Đoạn trích Đất Nước ở chương V của trường ca Mặt Đường khát vọng thì đã khép lại nhưng
những dư âm vẫn luôn gợi mở nhiều suy tư trong mỗi chúng ta. Nguyễn Khoa Điềm từ tình cảnh nước
nhà, đã viết nên bài thơ để thức tỉnh ý thức của tầng lớp trẻ miền Nam. Ông đã đưa vào bản trường ca,
đặc biệt là đoạn trích Đất Nước những gì đẹp nhất và tinh túy nhất của nghệ thuật, của nội dung và giá
trị về tư tưởng. Đó quả thực là sự lao động miệt mài dày công sức và đáng trân trọng. Văn học Việt Nam
sẽ còn ghi tên Nguyễn Khoa Điềm, như một người đầu tiên đem tư tưởng Đất Nước - Nhân Dân với tất
cả thế hệ người đọc và có sức ảnh hưởng mạnh mẽ. Một hồn thơ nặng lòng với Đất Nước, một cây bút
tài hoa cùng những khám phá sâu sắc mới mẻ về tư tưởng Đất Nước - Nhân Dân đã làm những ánh văn
của Nguyễn Khoa Điểm trở thành một kiệt tác nghệ thuật bất hủ...


<b>III. Tổng kết: Ghi nhớ - SGK trang 123</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

<b>BÀI THƠ “SÓNG” – XUÂN QUỲNH</b>
ĐỀ 1


<b>Đề bài Phân tích vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong bài thơ “Sóng” – Xuân Quỳnh.</b>
<b>Mở</b>


<b>bài</b> Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ nữ nổi tiếng, xuất hiện trong thời kỳ chống Mỹcứu nước, cũng là gương mặt đáng chú ý của nền thơ Việt Nam hiện đại. Bản sắc thơ Xuân
Quỳnh tươi tắn, hồn hậu và nồng nhiệt. Nó là tiếng lịng của một tâm hồn gắn bó thiết tha với
cuộc đời, con người, khao khát tình yêu và hạnh phúc bình dị đời thường. Vì thế, thơ tình yêu
là một mảng đặc sắc của Xuân Quỳnh. Sinh thời Xuân Quỳnh đã có một số bài thơ tình xuất
sắc như: Thơ tình cuối mùa thu, Tự hát, Thuyền và biển... Trong đó, bài thơ “Sóng” được xem
là nổi bật hơn cả. Bài thơ này là tiếng thơ bày tỏ trực tiếp những khát khao sôi nổi, mãnh liệt
mà chân thành, tự nhiên của một trái tim phụ nữ trong tình u. Hình tượng “sóng” trong bài
thơ đã thể hiện thật sinh động và hấp dẫn tâm trạng của người con gái đang yêu, bộc lộ vẻ đẹp
tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu.


<b>HCST</b> Bài thơ “Sóng” được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền
(Thái Bình), lúc đó XQ mới 25 tuổi trẻ trung, yêu đời. Đây là một bài thơ đặc sắc viết rất hay
về tình yêu, rất tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh. Ta gặp Xuân Diệu trong thi đàn
với chất men say tình yêu mãnh liệt, nồng nàn của người tự cho là “kẻ uống tình u đến dập
<i>mơi”. Ta gặp Nguyễn Bính “người nhà quê” chân thật, da diết… và thật bất ngờ khi ta gặp nữ</i>
sĩ với tâm hồn dạt dào và say đắm trong tình yêu. Bài thơ in trong tập thơ “<i>Hoa dọc chiến</i>
<i>hào”.</i>


- Hình tượng trung tâm của bài thơ là “Sóng”. Xuân Quỳnh đã nối tiếp truyền thống
trong thơ ca là lấy sóng để hình dung tình u, đem sóng nước so sánh với sóng tình. Dù tiếp
nối truyền thống văn học nhưng “sóng” của Xuân Quỳnh vẫn có những nét độc đáo riêng. Cả
bài thơ là những con sóng tâm tình của một người phụ nữ được khơi dậy khi đứng trước biển
cả, đối diện với những con sóng mn trùng. Tác giả nói với mình, nói với người về tình yêu
trẻ trung nồng nhiệt gắn với khát vọng hạnh phúc muôn thuở của con người.



- Trong bài thơ cịn có một hình tượng trữ tình nữa, đó là “em”. “Em” cũng là “sóng” mà
“sóng” cũng là “em”. “Sóng” là một hình tượng ẩn dụ, là sự hóa thân của cái tơi trữ tình của
nhà thơ. “Sóng” và “em” vừa hịa nhập làm một, lại vừa phân đơi ra để soi chiếu vào nhau.
Tâm hồn của người phụ nữ đang u soi vào sóng để thấy rõ lịng mình, nhờ sóng biểu hiện
những trạng thái của lịng mình. Với hình tượng “sóng”, Xn Quỳnh đã tìm đuợc một cách
thể hiện xác đáng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu. Với cấu trúc song hành
này tạo thành chiều sâu nhận thức và nét độc đáo riêng cho bài thơ.


Mở đầu bài thơ, XQ đã nêu lên đặc điểm của những con sóng:
<i>"Dữ dội và dịu êm</i>


<i>Ồn ào và lặng lẽ</i>


<i>Sơng khơng hiểu nổi mình</i>
<i>Sóng tìm ra tận bể”.</i>


Không kể ở sông hay ở biển, lúc thì sóng “dữ dội”, “ồn ào” lúc lại “dịu êm”, “lặng lẽ”,
dữ dội đấy rồi lại dịu êm đấy, chợt ồn ào rồi chợt lặng lẽ. Sóng ln ln biến đổi với những
trạng thái đối nghịch. Sóng cũng khơng hiểu vì sao mình lại như thế nên muốn “<i>tìm ra tận</i>
<i>bể”. Phải chăng sóng nghĩ rằng nơi biển rộng mênh mơng, nơi trời nước bao la ấy sẽ giúp cho</i>
sóng có thể hiểu được mình. Bằng phép nhân hóa, XQ đã thể hiện những dằn vặt khơng hiểu
nỗi mình của sóng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

bạch.


Tình u của con người mn đời khơng thay đổi, cũng như những con sóng trường
tồn với thời gian không ngừng nghỉ và mệt mỏi. Con sóng ngày xưa thế nào thì con sóng ngày
nay vẫn thế: “Ơi con sóng ngày xưa



<i>Và ngày sau vẫn thế</i>
<i>Nỗi khát vọng tình yêu</i>
<i>Bồi hồi trong ngực trẻ”</i>


Trên mặt đại dương, “sóng<i> ” vĩnh hằng với thời gian, trong đời thường, tình u ln</i>
hiện hữu “Làm sao sống được mà không yêu/ không nhớ không thương một kẻ nào”. Và tình
yêu trở thành khát vọng của loài người, của nhân loại, đặc biệt là trong lịng những người trẻ
tuổi. Tình u khơng bó hẹp trong một phạm vi giới hạn nào nhưng tình yêu thường đi đôi với
tuổi trẻ. (Ở lứa tuổi mùa xuân của cuộc đời này, tình yêu mới phát triển mạnh mẽ và mang
<i>đầy đủ ý nghĩa nhất. Tình yêu tràn đầy hơi thở thanh xuân làm bồi hồi biết bao trái tim tuổi</i>
<i>trẻ) Như vậy khát vọng tình yêu gắn liền với ngực trẻ và chỉ có trái tim tuổi trẻ mới đủ chỗ</i>
cho tình u. Nhà thơ XD có lần viết: “Hãy để trẻ con nói cái ngon của kẹo/ Hãy để tuổi trẻ
<i>nói hộ tình u”. </i>


Trước khơng gian bao la của vũ trụ, biển cả làm sao mà không trăn trở với những câu
hỏi tự ngàn xưa : “Trước mn trùng sóng bể


<i> Em nghĩ về anh, em</i>
<i> Em nghĩ về biển lớn</i>
<i> Từ nơi nào sóng lên”</i>


Điệp từ “em nghĩ” thể hiện sự thao thức, lo lắng. “Nghĩ” và hỏi để rồi cố gắng tìm lời
giải đáp cho sóng, cho tình u. Từ những nhận thức về sóng, cũng là tình yêu, nhà thơ đi tìm
những biểu hiện của tình u qua hình tượng sóng. Trước hết, tình yêu là cái không thể cắt
nghĩa, không thể trả lời:


“Sóng bắt đầu từ gió
<i> Gió bắt đầu từ đâu</i>


<i> </i> <i> Em cũng không biết nữa</i>



<i> Khi nào ta yêu nhau”</i>


Giữa đại dương mênh mông ấy, nơi nào là nơi bắt đầu của sóng, thật khó mà trả lời
cho chính xác. Song vẫn có thể nói: “Sóng bắt đầu từ gió”. Thế “Gió bắt đầu từ đâu” câu trả
lời không dễ dàng, bởi xa hơn nữa vũ trụ có từ đâu.


Soi vào “sóng”, người phụ nữ nghĩ về tình yêu của mình và đi tìm lời đáp cho sự khởi
nguồn tình yêu của mình “Em cũng khơng biết nữa/ Khi nào ta u nhau”. Đó là qui luật
khơng thể lí giải được trong tình u. Nhà thơ XD từng viết “<i>Làm sao cắt nghĩa được tình</i>
<i>u/ có nghĩa gì đâu một buổi chiều/ Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt/ Bằng mây nhè nhẹ gió</i>
<i>hiu hiu”.</i>


Thật ra khi yêu, người ta cứ muốn tìm hiểu, muốn giải thích: Vì sao ta u nhau? Ta
u nhau từ khi nào, từ ngày nào? Hỏi người yêu và cũng tự hỏi mình, nhưng cũng như sóng
biển và gió trời vậy thơi làm sao mà biết được. Tình u cũng như một số quy luật thiên nhiên
có những bí ẩn mà con người khơng dễ tìm câu trả lời. Đoạn thơ bộc lộ tâm hồn thơ phụ nữ
vừa chân thật, vừa dễ thương.


Sang khổ năm, cũng từ hình tượng sóng Xuân Quỳnh nhận thức thêm một đặc trưng
nữa của tình u là nỗi nhớ. Tình u ln đi liền với nỗi nhớ.


<i>“Con sóng dưới lịng sâu</i>
<i>Con sóng trên mặt nước</i>
<i>Ơi con sóng nhớ bờ</i>


<i>Ngày đêm khơng ngủ được”.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

tình yêu: “Nhớ chàng như mảnh trăng đầy/ Đêm đêm vầng sáng hao gầy đêm đêm”; Trong
T.Kiều cũng từng có nỗi nhớ: “Sầu đơng càng lắc càng đầy/ Ba thu dọn lại môt ngày dài ghê”.


Trong VHHĐ, nỗi nhớ t/y khơng ít, như Xn Diệu “Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ
<i>ảnh/ Anh nhớ em anh nhớ lắm em ơi”. </i>


Trong thơ XQ, nỗi nhớ được diễn tả thật độc đáo và sáng tạo. Dù ở khơng gian nào:
“dưới lịng sâu” âm thầm hay “trên mặt nước” dữ dội; Dù ở thời gian nào “ngày” hay “đêm”,
sóng vẫn “nhớ bờ”, sóng vẫn “bồn chồn thao thức và không ngủ được”. T/giả đã lấy không
gian và thời gian để đo nỗi nhớ của em làm cho nỗi nhớ trở nên mãnh liệt, chân thành. Nhà
thơ đã vô cùng tinh tế khi mượn một h/tượng rất động để diễn ta nỗi niềm của người phụ nữ
khi yêu.


Từ hiện tượng sóng xơn xao suốt ngày đêm trên đại dương, nữ sĩ liên tưởng đến tình
u của mình: “Lịng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức”. Một sự so sánh tuyệt vời: sóng
nhớ bờ bất kể ngày đêm thì em nhớ anh cả khi tĩnh lẫn trong mơ. Cái “thức” ở trong mơ đã
nói lên được sự thật của nỗi nhớ. Nỗi nhớ không chỉ chiếm lĩnh ý thức mà còn ăn sâu vào tiềm
thức. “Còn thức” tức là lúc nào em cũng nhìn thấy rõ hình bóng anh, ánh mắt anh... “Lòng em
<i>nhớ đến anh” là câu nói giản dị, chân thành mà nồng nàn, da diết. Có thể nói, với câu thơ ấy,</i>
Xuân Quỳnh đã có thể được xem là thi sĩ tài năng bật nhất của thi ca hiện đại Việt Nam.
<b> Tình u sơi nổi nồng nhiệt của trái tim người phụ nữ cũng lại là một tình yêu chân</b>
thành, trong sáng, một tình yêu hết mình và địi hỏi sự duy nhất tuyệt đối, sự gắn bó thủy
chung:


“Dẫu xuôi về phương bắc
<i>Dẫu ngược về phương Nam</i>
<i> Nơi nào em cũng nghĩ</i>


<i> </i> <i>Hướng về anh - một phương”</i>


“Dẫu xuôi”, “dẫu ngược”, “phương Bắc”, “phương Nam” là những từ cụ thể nói lên độ
dài và những cách trở trong tình u. Gian nan, thử thách là điều không thể tránh khỏi, càng
xa cách, càng gian lao khổ cực, càng khẳng định sự bền vững thủy chung. Giống như những


con sóng dù “xi Bắc, ngược Nam”, sóng vẫn muốn trở về với bờ. Cũng như “em” dù đi đâu
về đâu, dù lên thác xuống ghềnh lòng em vẫn “hướng về anh một phương”, hướng về người
yêu thương nhớ. Hướng về anh thì có thể thay đổi nhưng với lời khẳng định chắc nịch “một
<i>phương” thì nơi em hướng về là bất di bất dịch. Anh đã dành “hệ qui chiếu” của đời em. Cảm</i>
thông cho cuộc đời Xuân Quỳnh, ta càng hiểu thêm tình cảm của nữ sĩ.


<b> Từ quan niệm về tình yêu như thế, khổ thơ thứ bảy vang lên như một lời thề đầy xúc</b>
động nhưng mạnh mẽ, dứt khoát, nêu được sự quyết tâm của người đang yêu:


<i>“Ở ngoài kia dại dương</i>
<i> Trăm ngàn con sóng đó</i>
<i>Con nào chẳng tới bờ</i>
<i> Dù mn vời cách trở”</i>


Những từ ngữ “ở ngồi kia” hay “mn vời” chỉ sự xa cách giữa sóng và bờ, nhưng cả
trăm nghìn con sóng, con nào cũng vượt qua bao cách trở để tới bờ. Một hình ảnh tuyệt đẹp
mà chỉ có tâm trạng của người phụ nữ đang yêu mãnh liệt mới phát hiện ra một cách tinh tế
đến như vậy. Ngày xưa lứa đôi yêu nhau, với sức mạnh của tình yêu, họ cũng quyết tâm vượt
qua mọi thử thách: “Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo. Ngũ lục sông cũng lội, thất bát đèo cũng
<i>qua” để được sống dưới một mái ấm đời đời bên nhau. Cũng giống như Kim Trọng và Thúy</i>
Kiều, Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga, họ tìm đến với nhau sau mn vàng cách trở. XQ
cũng từng khẳng định:


<i>Tình ta như hàng cây đã qua mùa bão gió</i>
<i>Tình ta như dịng sơng đã n ngày thác lũ.</i>


(Thư tình cuối mùa thu)


Sau những trăn trở, suy tư về tình u, về khơng gian, XQ lại suy tư về thời gian, về
cuộc đời:



</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

<i>“Cuộc đời tuy dài thế” vì lúc đó nữ sĩ chỉ mới 25 tuổi còn cả cuộc đời đang ở phía</i>
trước. Tuy vậy XQ vẫn nhận thấy cái ngắn ngủi, hữu hạn của đời người, của thời gian. “Trăm
<i>năm trong cõi người ta” ngỡ như thăm thẳm nhưng thời gian vẫn cuốn ta về với hư vô như</i>
biển kia dẫu rộng vẫn không lưu giữ được những áng mây bay về cõi xa xăm, vơ định. Đoạn
thơ thống một nỗi niềm khắc khoải lo âu về sự trôi chảy của thời gian và cái ngắn ngủi của
cuộc đời.


Trong đoạn thơ tuy không hiện lên thành chữ, thành lời nhưng đó cũng là một thống
lo âu rất chính đáng về tình u: liệu tình u có vượt qua những quy luật tất yếu của cuộc
đời. Tình yêu đẹp là thế, thiêng liêng thế nhưng tình yêu cũng lại là thứ ngắn ngủi, mong
manh khó giữ. Trong thực tế tình u có khi chỉ là một khoảnh khắc: “Hơm nay u mai có
<i>thể xa rồi” (Nói cùng anh-XQ), “Tình yêu đến, tình yêu đi ai biết/ Trong gặp gỡ đã có mầm ly</i>
<i>biệt” (XD), “Anh đã thấy một điều mong manh nhất/ Là tình yêu là tình yêu ngát hương”</i>
(Hương tình yêu-Đỗ Trung Quân). Rõ ràng, tình yêu dường như gắn với cái hữu hạn của đời
người “Cuộc đời chẳng vơ cùng em biết/ Và câu thơ đâu cịn mãi ngày sau” (Nói cùng
anh-XQ).


Vì thế để vượt qua giới hạn ấy, con người chỉ có một cách là hịa tan tình yêu vào thiên
nhiên vĩnh cửu, vào cuộc đời vĩnh hằng để ngàn năm sau những con sóng đại dương vẫn cất
cao lời hát ca ngợi tình yêu bất diệt:


“Làm sao được tan ra


<i> </i> <i> Thành trăm con sóng nhỏ</i>


<i>Giữa biển lớn tình u</i>
<i>Để ngàn năm cị vỗ”.</i>


Nỗi trăn trở đã trở thành bức bách thôi thúc: làm sao được tan ra thành trăm con sóng


nhỏ trong đại dương vơ tận để được tồn tại mãi mãi, sống mãi giữa biển lớn tình u của nhân
loại. Đó là khát vọng một tình u cao thượng, được chia sẻ, được hồ nhập tình yêu cá nhân
vào tình yêu của chung cộng đồng, một ước vọng bay bổng tuyệt vời.


Từ hình tượng “sóng”, Xuân Quỳnh cho ta thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong
tình yêu. Với tình yêu chân thành, thắm thiết, người phụ nữ muốn sống hết mình, sống trọn
vẹn trong tình yêu đẹp. Hai khổ thơ cuối chính là những băn khoăn trăn trở, những suy nghĩ
về thời gian và khát vọng vĩnh cửu hóa tình yêu: yêu và làm thế nào để tình yêu được trường
tồn, bất tử.


Xuân Quỳnh viết bài thơ này vào những năm 1967, khi cuộc kháng chiến của nhân dân
miền Nam ở vào giai đoạn ác liệt, khi thanh niên trai gái ào ào ra trận “Xẻ dọc Trường Sơn đi
<i>cứu nước”, khi sân ga, bến nước, gốc đa, sân trường diễn ra những cuộc chia ly màu đỏ. Cho</i>
nên có đặt bài thơ vào trong hồn cảnh ấy ta mới càng thấy rõ nỗi khát khao của người con gái
trong tình u: “Ơi con sóng nhớ bờ/ Ngày đêm khơng ngủ được”. Đọc xong bài thơ “Sóng” ta
càng ngưỡng mộ hơn những con người phụ nữ Việt Nam, những con người ln thuỷ chung,
ln sống hết mình vì một tình yêu. Xuân Quỳnh xứng đáng là một nhà thơ nữ của tình u
lứa đơi, bà đã làm phong phú hơn cho nền thơ nước nhà.


Hình tượng “sóng” là ẩn dụ độc đáo khiến cho lời thơ vừa thực, vừa l/mạn cùng thể thơ
năm chữ, nhịp điệu thơ đa dạng, linh hoạt tạo nên âm hưởngcủa những con sóng: lúc dạt dào
sơi nổi, lúc sâu lắng dịu êm rất phù hợp với việc gởi gắm tâm tư sâu kín và những trạng thái
tình cảm phức tạp của tâm hồn. Cấu trúc bài thơ được xác lập theo kiểu đan xen giữa hình
tượng sóng-bờ, anh-em cũng góp phần làm nên nét đặc sắc cho bài thơ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

<b>ĐỀ 2</b>


<b>Đề bài Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ “Sóng” – Xuân Quỳnh: “Con sóng dưới lịng</b>
<i><b>sâu....Hướng về anh một phương”.</b></i>



<b>Mở</b>


<b>bài</b> Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ nữ nổi tiếng, xuất hiện trong thời kỳ chống Mỹcứu nước, cũng là gương mặt đáng chú ý của nền thơ Việt Nam hiện đại. Bản sắc thơ Xuân
Quỳnh tươi tắn, hồn hậu và nồng nhiệt. Nó là tiếng lịng của một tâm hồn gắn bó thiết tha với
cuộc đời, con người, khao khát tình yêu và hạnh phúc bình dị đời thường. Vì thế, thơ tình yêu
là một mảng đặc sắc của Xuân Quỳnh. Sinh thời Xn Quỳnh đã có một số bài thơ tình xuất
sắc như: Thơ tình cuối mùa thu, Tự hát, Thuyền và biển... Trong đó, bài thơ “Sóng” được xem
là nổi bật hơn cả. Bài thơ này là tiếng thơ bày tỏ trực tiếp những khát khao sôi nổi, mãnh liệt
mà chân thành, tự nhiên của một trái tim phụ nữ trong tình u. Hình tượng “sóng” trong bài
thơ đã thể hiện thật sinh động và hấp dẫn tâm trạng của người con gái đang yêu, bộc lộ vẻ đẹp
tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu:


<i> dẫn lại hai khổ thơ</i>


<b>HCST</b> Bài thơ “Sóng” được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền
(Thái Bình), lúc đó XQ mới 25 tuổi trẻ trung, yêu đời. Đây là một bài thơ đặc sắc viết rất hay
về tình yêu, rất tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh. Ta gặp Xuân Diệu trong thi đàn
với chất men say tình yêu mãnh liệt, nồng nàn của người tự cho là “kẻ uống tình u đến dập
<i>mơi”. Ta gặp Nguyễn Bính “người nhà quê” chân thật, da diết… và thật bất ngờ khi ta gặp nữ</i>
sĩ với tâm hồn dạt dào và say đắm trong tình yêu. Bài thơ in trong tập thơ “<i>Hoa dọc chiến</i>
<i>hào”.</i>


<b>HT</b>
<b>sóng</b>
<b>và em</b>


Hình tượng trung tâm của bài thơ là “<i>Sóng”. Xuân Quỳnh đã nối tiếp truyền thống trong</i>
thơ ca là lấy sóng để hình dung tình u, đem sóng nước so sánh với sóng tình. Dù tiếp nối
truyền thống văn học nhưng “sóng” của Xuân Quỳnh vẫn có những nét độc đáo riêng. Cả bài
thơ là những con sóng tâm tình của một người phụ nữ được khơi dậy khi đứng trước biển cả,


đối diện với những con sóng mn trùng. Tác giả nói với mình, nói với người về tình u trẻ
trung nồng nhiệt gắn với khát vọng hạnh phúc muôn thuở của con người.


Trong bài thơ cịn có một hình tượng trữ tình nữa, đó là “em”. “Em” cũng là “sóng” mà
“sóng” cũng là “em”. “Sóng” là một hình tượng ẩn dụ, là sự hóa thân của cái tơi trữ tình của
nhà thơ. “Sóng” và “em” vừa hịa nhập làm một, lại vừa phân đôi ra để soi chiếu vào nhau.
Tâm hồn của người phụ nữ đang yêu soi vào sóng để thấy rõ lịng mình, nhờ sóng biểu hiện
những trạng thái của lịng mình. Với hình tượng “sóng”, Xn Quỳnh đã tìm đuợc một cách
thể hiện xác đáng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu. Với cấu trúc song hành
này tạo thành chiều sâu nhận thức và nét độc đáo riêng cho bài thơ.


<b>PT</b>


<b>khổ 5</b> khổ năm, cũng từ hình tượng sóng Xn Quỳnh nhận thức thêm một đặc trưng nữa của tìnhSau khi nêu lên đặc điểm của những con “sóng” cũng là đặc điểm của tình u. Sang
u là nỗi nhớ. Tình u ln đi liền với nỗi nhớ.


<i>“Con sóng dưới lịng sâu</i>
<i>Con sóng trên mặt nước</i>
<i>Ơi con sóng nhớ bờ</i>


<i>Ngày đêm khơng ngủ được</i>
<i>Lịng em nhớ đến anh</i>
<i>Cả trong mơ còn thức”.</i>


Đây là khổ thơ có số lượng câu thơ nhiều nhất trong bài, 6 câu thơ đứng giữa bài thơ,
như một đợt sóng lòng cồn lên cao nhất từ tâm điểm của bào thơ. Bốn câu đầu cái tơi trữ tình
nhập vào sóng để giãi bày tâm sự. Hai câu sau cái tôi trữ tình tách ra để bày tỏ lịng mình,
nhập vào rồi tách ra như vậy tuy hai mà vẫn là một trong một dịng cảm xúc tn chảy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

mẹ, nhớ anh chị, nhớ bạn bè,… Trong thơ, nỗi nhớ của tình u có nhiều sắc thái riêng biệt.


Nỗi nhớ là chứng tích cho một tình u đích thực. Hàn Mặc Tử có ý thơ đẹp:


“Khi xa cách khơng gì bằng thương nhớ”.
Ca dao có khơng ít câu bộc lộ nỗi nhớ trong tình yêu:


“Nhớ ai em những khóc thầm


<i> Hai hàng nước mắt đầm đầm như mưa”</i>
Hoặc “Nhớ ai bổi hổi bồi hồi


<i> Như đứng đống lửa, như ngồi đống than”. </i>
Trong VHTĐ, người xưa cũng từng có nỗi nhớ trong tình yêu:
“Nhớ chàng như mảnh trăng đầy
<i> Đêm đêm vầng sáng hao gầy đêm đêm”.</i>
Trong T.Kiều cũng từng có nỗi nhớ:


“Sầu đông càng lắc càng đầy
<i> Ba thu dọn lại môt ngày dài ghê”. </i>
Trong VHHĐ, nỗi nhớ t/y khơng ít, như Xn Diệu:


“Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh
<i> Anh nhớ em anh nhớ lắm em ơi”. </i>


“Tả mây tả cát sao bằng


<i> Tả anh thương nhớ lòng giăng vạn trùng” (Đêm trăng Hắc Hải)</i>
Xuân Quỳnh cũng vậy, bà đã nhập vào sóng để nói lên nỗi nhớ của mình:


“Lòng em nhớ đến anh
<i> Cả trong mơ còn thức”.</i>



Trong thơ XQ, nỗi nhớ được diễn tả thật độc đáo và sáng tạo. Dù ở khơng gian nào:
“dưới lịng sâu” âm thầm hay “trên mặt nước” dữ dội; Dù ở thời gian nào “ngày” hay “đêm”,
sóng vẫn “nhớ bờ”, sóng vẫn “bồn chồn thao thức và không ngủ được”. T/giả đã lấy không
gian và thời gian để đo nỗi nhớ của em làm cho nỗi nhớ trở nên mãnh liệt, chân thành. Nhà
thơ đã vô cùng tinh tế khi mượn một h/tượng rất động để diễn ta nỗi niềm của người phụ nữ
khi u.


Từ hiện tượng sóng xơn xao suốt ngày đêm trên đại dương, nữ sĩ liên tưởng đến tình
yêu của mình: “Lịng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ cịn thức”. Một sự so sánh tuyệt vời: sóng
nhớ bờ bất kể ngày đêm thì em nhớ anh cả khi tĩnh lẫn trong mơ. Cái “thức” ở trong mơ đã
nói lên được sự thật của nỗi nhớ. Nỗi nhớ không chỉ chiếm lĩnh ý thức mà còn ăn sâu vào tiềm
thức. “Cịn thức” tức là lúc nào em cũng nhìn thấy rõ hình bóng anh, ánh mắt anh... Ở đây
Xn Quỳnh cịn dùng từ “ lịng” thật chính xác để diễn tả tình cảm của người phụ nữ với tình
yêu. Lịng là chốn sâu kín nhất của tâm hồn, lịng là kết tinh của tình cảm được chưng cất
trong một thời gian dài qua biết bao thử thách. Vì vậy mà tấm lịng ấy khơng chút hời hợt mà
là gan, là ruột của người phụ nữ rồi. “Lòng em nhớ đến anh” là câu nói giản dị, chân thành mà
nồng nàn, da diết. Có thể nói, với câu thơ ấy, Xuân Quỳnh đã có thể được xem là thi sĩ tài
năng bật nhất của thi ca hiện đại Việt Nam.


<b>PT</b>


<b>khổ 6</b> Tình yêu sôi nổi nồng nhiệt của trái tim người phụ nữ cũng lại là một tình yêu chânthành, trong sáng, một tình u hết mình và địi hỏi sự duy nhất tuyệt đối, sự gắn bó thủy
chung:


“Dẫu xuôi về phương bắc
<i>Dẫu ngược về phương Nam</i>
<i> Nơi nào em cũng nghĩ</i>


<i> </i> <i>Hướng về anh - một phương”</i>



Hình như thể hiện tình yêu bằng nỗi nhớ vẫn chưa yên tâm, mà phải diễn đạt sao đây
cho đủ, cho đến tận cùng, vì thế khổ thơ này xuất hiện. Những cặp từ trái nghĩa “Dẫu xuôi”,
“dẫu ngược”, “phương Bắc”, “phương Nam” là những từ cụ thể nói lên độ dài và những cách
trở trong tình u. Dân gian hay nói: “ xi nam ngược bắc”, Xn Quỳnh đã diễn đạt ngược
lại để khẳng định: dù cuộc đời, trời đất có thay đổi, có quay cuồng, đảo lộn, thay phương đổi
hướng thì tình yêu của em cũng chỉ dành cho một người là anh mà thôi. Hướng về anh thì có
thể thay đổi nhưng với lời khẳng định chắc nịch “một phương” thì nơi em hướng về là bất di
bất dịch. Đến đây trong lời thơ không cịn em và sóng, chỉ cịn em và anh – với tình yêu:


</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

<i> Cùng tình yêu ở lại”</i>


(Thơ tình cuối mùa thu)


Câu thơ giống như một lời thề. Thề rằng dù em phải ngược xuôi vất vả gian truân, lên
thác xuống ghềnh cũng chỉ có anh là người duy nhất. Anh đã dành “<i>hệ qui chiếu” của đời em.</i>
Câu thơ giản dị mà sâu sắc hơn tất cả mọi lời vàng đá. Khơng gian thì có bốn phương tám
hướng, nhưng tình yêu chỉ chấp nhận một phương. Có lẽ đây cũng là quan niệm về tình yêu
của nữ sĩ Xuân Quỳnh: tình yêu phải gắn với lịng chung thủy. Tình u khơng đơn thuần là
tình u mà tình yêu đi liền với cái tốt, cái đẹp, cái cao cả là nỗi nhớ mãnh liệt, lòng thủy
chung tuyệt đối. Khổ thơ tốt lên vẻ đẹp của tình yêu đầy nữ tính kín đáo, dịu dàng, táo bạo,
mãnh liệt bởi nhiều khát khao và đam mê nhưng vẫn giữ được nét đẹp truyền thống của người
phụ nữ phương Đông và người phụ nữ Việt Nam yêu tha thiết, chân thành và luôn hướng tới
hôn nhân. Những câu thơ như được vắt ra từ chính cuộc đời Xuân Quỳnh đầy đau thương, mất
mát, hụt hẫng về tình cảm. Cảm thông cho cuộc đời Xuân Quỳnh, ta càng hiểu thêm tình cảm
của nữ sĩ.


<b>Nhận</b>
<b>xét</b>



Khổ thơ 5 và 6 là hình tượng sóng và em sóng đơi, hịa làm một, soi chiếu vào nhau
cộng hưởng. Sóng chính là nỗi lịng của em và em là hiện thân của sóng. Sóng và em đồng
hiện tạo nên chiều sâu nhận thức độc đáo. Xuân Quỳnh viết bài thơ này vào những năm 1967,
khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam ở vào giai đoạn ác liệt, khi thanh niên trai gái
ào ào ra trận “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, khi sân ga, bến nước, gốc đa, sân trường diễn
ra những cuộc chia ly màu đỏ. Cho nên có đặt bài thơ vào trong hoàn cảnh ấy ta mới càng thấy
rõ nỗi khát khao của người con gái trong tình u: “Ơi con sóng nhớ bờ/ Ngày đêm khơng ngủ
<i>được”. Đọc xong bài thơ “Sóng” ta càng ngưỡng mộ hơn những con người phụ nữ Việt Nam,</i>
những con người luôn thuỷ chung, ln sống hết mình vì một tình u. Xuân Quỳnh xứng
đáng là một nhà thơ nữ của tình yêu lứa đôi, bà đã làm phong phú hơn cho nền thơ nước nhà.
<b>Kết</b>


<b>bài</b>


Hình tượng “sóng” là ẩn dụ độc đáo khiến cho lời thơ vừa thực, vừa l/mạn cùng thể thơ
năm chữ, nhịp điệu thơ đa dạng, linh hoạt tạo nên âm hưởngcủa những con sóng: lúc dạt dào
sơi nổi, lúc sâu lắng dịu êm rất phù hợp với việc gởi gắm tâm tư sâu kín và những trạng thái
tình cảm phức tạp của tâm hồn. Cấu trúc bài thơ được xác lập theo kiểu đan xen giữa hình
tượng sóng-bờ, anh-em cũng góp phần làm nên nét đặc sắc cho bài thơ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50>

ĐỀ 3


<b>Đề bài Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ “Sóng” – Xuân Quỳnh: “Cuộc đời tuy dài thế</b>
<i><b>...Để ngàn năm còn vỗ”.</b></i>


<b>Mở</b>
<b>bài</b>


Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ nữ nổi tiếng, xuất hiện trong thời kỳ chống Mỹ
cứu nước, cũng là gương mặt đáng chú ý của nền thơ Việt Nam hiện đại. Bản sắc thơ Xuân


Quỳnh tươi tắn, hồn hậu và nồng nhiệt. Nó là tiếng lịng của một tâm hồn gắn bó thiết tha với
cuộc đời, con người, khao khát tình yêu và hạnh phúc bình dị đời thường. Vì thế, thơ tình yêu
là một mảng đặc sắc của Xuân Quỳnh. Sinh thời Xuân Quỳnh đã có một số bài thơ tình xuất
sắc như: Thơ tình cuối mùa thu, Tự hát, Thuyền và biển... Trong đó, bài thơ “Sóng” được xem
là nổi bật hơn cả. Bài thơ này là tiếng thơ bày tỏ trực tiếp những khát khao sôi nổi, mãnh liệt
mà chân thành, tự nhiên của một trái tim phụ nữ trong tình yêu. Hình tượng “sóng” trong bài
thơ đã thể hiện thật sinh động và hấp dẫn tâm trạng của người con gái đang yêu, bộc lộ vẻ đẹp
tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu:


<i> dẫn lại hai khổ thơ</i>


<b>HCST</b> Bài thơ “Sóng” được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền
(Thái Bình), lúc đó XQ mới 25 tuổi trẻ trung, yêu đời. Đây là một bài thơ đặc sắc viết rất hay
về tình yêu, rất tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh. Ta gặp Xuân Diệu trong thi đàn
với chất men say tình yêu mãnh liệt, nồng nàn của người tự cho là “kẻ uống tình u đến dập
<i>mơi”. Ta gặp Nguyễn Bính “người nhà quê” chân thật, da diết… và thật bất ngờ khi ta gặp nữ</i>
sĩ với tâm hồn dạt dào và say đắm trong tình yêu. Bài thơ in trong tập thơ “<i>Hoa dọc chiến</i>
<i>hào”.</i>


<b>HT</b>
<b>sóng</b>
<b>và em</b>


Hình tượng trung tâm của bài thơ là “<i>Sóng”. Xuân Quỳnh đã nối tiếp truyền thống trong</i>
thơ ca là lấy sóng để hình dung tình u, đem sóng nước so sánh với sóng tình. Dù tiếp nối
truyền thống văn học nhưng “sóng” của Xuân Quỳnh vẫn có những nét độc đáo riêng. Cả bài
thơ là những con sóng tâm tình của một người phụ nữ được khơi dậy khi đứng trước biển cả,
đối diện với những con sóng mn trùng. Tác giả nói với mình, nói với người về tình u trẻ
trung nồng nhiệt gắn với khát vọng hạnh phúc muôn thuở của con người.



Trong bài thơ cịn có một hình tượng trữ tình nữa, đó là “<i>em”. “Em” cũng là “sóng” mà</i>
“sóng” cũng là “em”. “Sóng” là một hình tượng ẩn dụ, là sự hóa thân của cái tơi trữ tình của
nhà thơ. “Sóng” và “em” vừa hịa nhập làm một, lại vừa phân đôi ra để soi chiếu vào nhau.
Tâm hồn của người phụ nữ đang yêu soi vào sóng để thấy rõ lịng mình, nhờ sóng biểu hiện
những trạng thái của lịng mình. Với hình tượng “sóng”, Xn Quỳnh đã tìm đuợc một cách
thể hiện xác đáng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu. Với cấu trúc song hành
này tạo thành chiều sâu nhận thức và nét độc đáo riêng cho bài thơ.


<b>PT</b>
<b>khổ 8</b>


Sau những trăn trở, suy tư về tình yêu, về không gian, XQ lại suy tư về thời gian, về
cuộc đời:


<i>“Cuộc đời tuy dài thế</i>
<i>Năm tháng vẫn đi qua</i>
<i>Như biển kia dẫu rộng</i>
<i>Mây vẫn bay về xa”</i>


Các cặp từ thường có trong các vế của câu ghép: tuy – vẫn, dẫu – vẫn mang ý nghĩa
khẳng định cuộc đời tuy dài, nhưng vẫn là hữu hạn.“Cuộc đời tuy dài thế” vì lúc đó nữ sĩ chỉ
mới 25 tuổi cịn cả cuộc đời đang ở phía trước. Tuy vậy XQ vẫn nhận thấy cái ngắn ngủi, hữu
hạn của đời người, của thời gian. “Trăm năm trong cõi người ta” ngỡ như thăm thẳm nhưng
thời gian vẫn cuốn ta về với hư vô như biển kia dẫu rộng vẫn không lưu giữ được những áng
mây bay về cõi xa xăm, vô định. Đoạn thơ thoáng một nỗi niềm khắc khoải lo âu về sự trôi
chảy của thời gian và cái ngắn ngủi của cuộc đời, sự âu lo trăn trở mang màu sắc triết lý về
khái niệm thời gian và năm tháng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

đời. Hơn nữa Xuân Quỳnh trải qua nhiều năm tháng đầy biến động của cuộc đời, đã nếm trải
ngọt ngào và cay đắng của hạnh phúc, nên lo âu về tình yêu trở thành nỗi ám ảnh xót xa. Bởi


tình u đẹp là thế, thiêng liêng thế nhưng tình yêu cũng lại là thứ ngắn ngủi, mong manh khó
giữ. Trong thực tế tình u có khi chỉ là một khoảnh khắc:


“Hơm nay u mai có thể xa rồi” (Nói cùng anh-XQ),


“Tình u đến, tình yêu đi ai biết/ Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt” (XD),


“Anh đã thấy một điều mong manh nhất/ Là tình yêu là tình yêu ngát hương” (Hương
tình yêu-Đỗ Trung Quân).


“Cuộc đời chẳng vô cùng em biết/ Và câu thơ đâu cịn mãi ngày sau” (Nói cùng
anh-XQ).


“Lời yêu mỏng manh như màu khói/Ai biết tình anh có đổi thay”
Rõ ràng, tình yêu dường như gắn với cái hữu hạn của đời người.
<b>PT</b>


<b>khổ 9</b> Vì thế để vượt qua giới hạn ấy, con người chỉ có một cách là hịa tan tình u vào thiênnhiên vĩnh cửu, vào cuộc đời vĩnh hằng để ngàn năm sau những con sóng đại dương vẫn cất
cao lời hát ca ngợi tình yêu bất diệt:


“Làm sao được tan ra


<i> </i> <i> Thành trăm con sóng nhỏ</i>


<i>Giữa biển lớn tình yêu</i>
<i>Để ngàn năm cò vỗ”.</i>


Nhà thơ tự hỏi “làm sao”. Hỏi nhưng là để tự vấn lịng mình nhằm thể hiện một ước
muốn, một khát vọng về tình u vơ cùng táo bạo và mãnh liệt. Vì sao Xuân Quỳnh lại có
khát vọng ấy? Phải chăng bà yêu tha thiết nồng nàn và lo âu? Nhân vật trữ tình muốn được


“tan ra thành trăm con sóng nhỏ”. Động từ “tan” ra diễn tả một trạng thái mạnh. Sự hóa thân,
quên mình trong tình yêu vào thiên nhiên vĩnh cửu để tồn tại mãi mãi, muốn thành trăm con
sóng nhỏ để được sống mãi, yêu mãi. Đó cũng là khát vọng được hiến dâng, được hi sinh vì
tình yêu mà chỉ có những người yêu thực sự mới làm được như vậy.


Tiếp theo, ta hãy chú ý đến từ chỉ thời gian là “ngàn năm” và khơng gian “biển lớn
<i>tình yêu”. Chuyện tình yêu và hạnh phúc ở đời thường là chuyện trăm năm “trăm năm giàu</i>
<i>nỗi hẹn hò”, “trăm năm bến nước tình tình- trăm năm là nghĩa là tình mình ta”, với Xuân</i>
Quỳnh chuyện tình yêu phải là chuyện của “ngàn năm”, biển phải là “biển lớn tình yêu” vĩnh
hằng và bất tử. Động từ “tan ra” trong khổ thơ là đỉnh điểm của cảm xúc, của nỗi nhớ, của
lòng chung thủy và đức hi sinh một cách trọn vẹn. Đó là khát vọng một tình u cao thượng,
được chia sẻ, được hồ nhập tình u cá nhân vào tình yêu của chung cộng đồng, một ước
vọng bay bổng tuyệt vời.


Có thể thấy, trước biển Xuân Quỳnh đã khơi dậy được những khát khao mới mẻ, được
còn mãi một tình yêu lớn. Khát vọng tình yêu cũng là khát vọng sống mãnh liệt đủ đầy da
diết:


“Em trở về đúng nghĩa trái tim em
<i> Là máu thịt đời thường ai chẳng có</i>


<i> Vẫn ngừng đập khi cuộc đời khơng cịn nữa</i>
<i> Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi”</i>


(Tự hát)


Từ hình tượng “sóng”, Xn Quỳnh cho ta thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong
tình yêu. Với tình yêu chân thành, thắm thiết, người phụ nữ muốn sống hết mình, sống trọn
vẹn trong tình yêu đẹp. Hai khổ thơ cuối chính là những băn khoăn trăn trở, những suy nghĩ
về thời gian và khát vọng vĩnh cửu hóa tình u: u và làm thế nào để tình yêu được trường


tồn, bất tử.


<b>Nhận</b>
<b>xét</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>

cho nền thơ nước nhà.
<b>Kết</b>


<b>bài</b>


Hình tượng “sóng” là ẩn dụ độc đáo khiến cho lời thơ vừa thực, vừa l/mạn cùng thể thơ
năm chữ, nhịp điệu thơ đa dạng, linh hoạt tạo nên âm hưởngcủa những con sóng: lúc dạt dào
sơi nổi, lúc sâu lắng dịu êm rất phù hợp với việc gởi gắm tâm tư sâu kín và những trạng thái
tình cảm phức tạp của tâm hồn. Cấu trúc bài thơ được xác lập theo kiểu đan xen giữa hình
tượng sóng-bờ, anh-em cũng góp phần làm nên nét đặc sắc cho bài thơ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

<b>BÀI THƠ “ĐÀN GHI-TA CỦA LOR-CA” - THANH THẢO.</b>
ĐỀ 1


<b>Đề bài</b> <b>Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ “Đàn ghi-ta của Lor-ca” của Thanh Thảo: “những</b>
<i><b>tiếng đàn bọt nước….chàng đi như người mộng du”</b></i>


<b>Mở bài</b> Thanh Thảo là nhà thơ trẻ tài hoa, khẳng định tài năng từ trong kháng chiến chống Mĩ. Sau
1975, nhất là trong thời kỳ đổi mới văn học, ơng có nhiều nỗ lực trong cách tân thơ Việt với
xu hướng đào sâu vào cái tôi nội cảm qua hình thức thơ tự do, hiện đại bằng những hình ảnh
và ngơn từ mới mẻ. Bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” là một tiêu biểu. Bài thơ trích trong tập
thơ “Khối vng Ru-bic” (1985) của ơng đã thể hiện sự ngưỡng mộ, ca ngợi tinh thần đấu
tranh cho tự do và khát vọng cách tân nghệ thuật của nhà thơ G. Lor-ca, một nghệ sĩ tài hoa
sáng chói của văn học Tây Ban Nha ở đầu thế kỉ 20. Vẻ đẹp bi tráng của hình tượng Lor-ca
trong bài thơ cứ làm ám ảnh, day dứt trong tâm hồn nhà thơ Thanh Thảo cũng như người đọc,


mà nổi bật là mười hai dòng thơ đầu trong bài thơ:


“dẫn chứng thơ 12 dòng tiếp”


<b>HCST</b> Bài thơ lấy cảm hứng từ những giây phút bi phẫn trong cuộc đời của Lor-ca và câu nói
“khi tơi chết hãy chôn tôi với cây đàn” (Ghi nhớ - Lor-ca) để sáng tác bài thơ này. Bài thơ
được viết theo thể thơ tự do, giàu chất suy tư, mãnh liệt, phóng túng với phong cách tượng
trưng có pha màu sắc siêu thực rất gần gũi với phong cách thơ Lor-ca. Thơ tượng trưng – siêu
thực đề nghị lối viết tự động, cho rằng thơ là mạch cảm xúc tuôn tràn nên dường như khơng
mạch lạc, hình ảnh mới lạ, khơng viết hoa đầu dịng, khơng ngắt câu. .


<b>Vài nét</b>
<b>về</b>
<b>người</b>
<b>nghệ sĩ</b>
<b>Lor-ca</b>


Lor-ca không chỉ là một nhà thơ, nhạc sĩ, kịch tác gia thiên tài mà cịn là nhà chống
phát xít kiên cường. Ơng bị sát hại năm 1936. Thanh Thảo là một nhà thơ có mối quan tâm
đặc biệt đối với những con người có nhân cách và nghĩa khí dù số phận có thể ngang trái.
Trong mạch cảm hứng ấy, trường hợp Lor-ca được xem là thành công hơn cả, mà ngay mười
hai dòng đầu của bài thơ cũng đã rất đặc sắc


<b>Đoạn 1</b>
<b>(6 câu</b>


<b>đầu</b>


Khổ thơ đầu là những lời tự sự kể lại cuộc đời Lorca mà Thanh Thảo là nhà chép
sử cần mẫn và đầy nhạy cảm. Mỗi chi tiết trong bài thơ đều gợi lại hình ảnh của Lorca, chàng


nghệ sĩ, người chiến sĩ cách mạng có lí tưởng cao đẹp nhưng số phận bất hạnh:


<i>những tiếng đàn bọt nước</i>
<i>Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt</i>
<i>li-la li-la li-la</i>


Bài thơ mở ra với hình ảnh “những tiếng đàn bọt nước” ngay lập tức gợi một cái gì đó
mong manh, chơng chênh và vụn vỡ. Phải chăng đó là cuộc đời mong manh, bạc mệnh của
Lorca ? Câu thơ mở đầu gợi cảm giác mỏng manh, xót thương để rồi theo người đọc suốt cả
bài thơ. Nếu như trước đây, câu thơ “tiếng đàn xưa đứt ngang dây” của Tố Hữu viết về
Nguyễn Du vốn đã tội nghiệp thì đến đây, “những tiếng đàn bọt nước” của Thanh Thảo viết
về Lorca lại càng tội nghiệp hơn. Câu thơ đọc lên nghe mà xót xa! Cả sự hẫng hụt nữa!


Tiếp đó, tác giả giới thiệu về Lorca trên nền văn hóa rộng lớn của đất nước Tây Ban
Nha với những hình ảnh tiêu biểu: áo chồng đỏ gắt, hoa li-la. “Áo chồng đỏ gắt” gợi ta
nhớ đến mơn đấu bị tót, một hoạt động văn hóa rất đặc trưng của TBN. Đó là những trận đấu
bị tót mà ở đó ln hiển hiện tấm “áo chồng đỏ gắt” của người hiệp sĩ đấu bị để kích thích
sự hung hăng của những con bị tót, nghĩa là tăng thêm phần kịch tính. Khi bước vào đấu
trường, người hiệp sĩ đã chuẩn bị tinh thần cho cái chết có thể xảy đến bất cứ lúc nào.


Trong khơng gian văn hóa Tây Ban Nha ấy, ta thấy như hiện lên những cuộc chiến
đấu khác. Cũng tấm áo choàng ấy, cũng tinh thần ấy, người hiệp sĩ Lorca bước ra đấu trường
với một quyết tâm cao dù là trong cuộc chiến không cân sức với bọn phát xít Phrang-cơ; cịn
trên đấu trường nghệ thuật thì đó là cuộc chiến giữa nhà cách tân vĩ đại Lorca với nền nghệ
thuật cũ kĩ, lạc hậu, già nua. Cả hai cuộc chiến đều rất cao cả, rất vĩ đại, khiến ta không khỏi
cảm phục và thương mến.


</div>
<span class='text_page_counter'>(54)</span><div class='page_container' data-page=54>

khoáng yêu tự do nhưng thầm lặng:


<i>đi lang thang về miền đơn độc</i>


<i>với vầng trăng chếch chống</i>
<i>trên n ngựa mỏi mịn...</i>


Hàng loạt hình ảnh: hát nghêu ngao, đi lang thang về miền đơn độc, với vầng trăng
<i>chếnh choáng, trên n ngựa mỏi mịn... là những hình ảnh lãng mạn, tượng trưng vừa làm</i>
nổi bật hình tượng nghệ sĩ Lor-ca vừa gợi sự mịn mỏi, cơ độc trong tâm hồn con người ấy.
Câu thơ chậm lại với tiếng lila lila lila mang âm hưởng dân ca Tây Ban Nha vang về đâu đó
trong kí ức, nghe tha thiết, dìu dặt, mà đau đớn, xót thương.


<b>TK</b>


<b>khổ 1</b> Tóm lại, chỉ với sáu câu thơ đầu, bằng bút pháp tự sự, hình ảnh thơ tượng trưng, ThanhThảo đã mang đến cho chúng ta những liên tưởng gián đoạn nhưng rõ nét về Ph.G. Lorca,
một chiến sĩ yêu tự do, một nghệ sĩ dũng cảm, cách tân nghệ thuật trong khung cảnh chính trị
và nghệ thuật Tây Ban Nha. Đoạn thơ với những sáng tạo độc đáo, giàu chất nhạc và chất họa
còn cho thấy cả những nỗ lực đổi mới thơ ca của Thanh Thảo, một con người cũng rất tâm
huyết với thơ ca.


<b>P/tích 6</b>
<b>dòng</b>


<b>thơ</b>
<b>tiếp</b>

<b>(Cái</b>


<i><b>chết</b></i>
<i><b>Lor-ca,</b></i>
<i><b>khát</b></i>
<i><b>vọng</b></i>
<i><b>cách</b></i>
<i><b>tân</b></i>
<i><b>nghệ</b></i>

<i><b>thuật</b></i>
<i><b>đành</b></i>
<i><b>dở</b></i>
<i><b>dang</b></i>


Sang khổ thơ thứ hai, nhà thơ Thanh Thảo đã tập trung khắc họa đậm nét ấn tượng về
cái chết đầy bi phẫn của Lor-ca, người nghệ sĩ đấu tranh cho tự do đã bị bọn phát xít
Phrăng-cơ dẫn ra pháp trường sát hại:


<i>Tây Ban Nha</i>
<i>hát nghêu ngao</i>
<i>bỗng kinh hoàng</i>
<i>áo choàng bê bết đỏ</i>
<i>Lorca bị điệu về bãi bắn</i>
<i>chàng đi như người mộng du</i>


Chàng nghệ sĩ yêu đời, yêu tự do ấy rong ruổi trên những nẻo đường cất lên lời ca
tiếng hát nghêu ngao giữa thiên nhiên TBN thì “bỗng kinh hồng, áo chồng bê bết đỏ, Lorca
<i>bị điệu về bãi bắn, chàng đi như người mộng du” giữa bầy ác quỹ. Thể chế độc tài Phrăng-cơ</i>
đã bí mật bắt và điệu chàng về bãi bắn để phi tang một con người với tư tưởng tiến bộ vì lo sợ
những ảnh hưởng của Lor-ca.


Cụm từ “bỗng kinh hoàng” diễn tả sự bất ngờ đột ngột. Cái chết đã ập đến quá nhanh
và phũ phàng, giữa lúc Lor-ca khơng ngờ tới. Nên áo chồng khơng cịn “màu đỏ gắt” mà
chuyển thành “bê bết đỏ”, hình ảnh hốn dụ nhằm khắc họa hiện thực đẫm máu về cái chết bi
thảm của Lor-ca. Người nghệ sĩ tài hoa ấy chết khi mới 38 tuổi, độ tuổi hứa hẹn nhiều thành
công. Con người tài năng ấy đành gắn liền số phận tài hoa với tai ách:


“Có tài mà cậy chi tài/ Chữ tài liền với chữ tai một vần” (TK-ND).
<b>TK</b>



<b>khổ 2</b>


Lorca lúc nào cũng bị ám ảnh bởi cái chết. Điều ấy tràn cả vào thơ ơng. Ơng đã từng kêu
lên thảng thốt: Tơi khơng muốn nhìn thấy máu. Nhưng rồi, vào cái ngày định mệnh
19-8-1936, máu đã chảy tràn khắp đất nước Tây Ban Nha. Và máu ấy lại là máu của đứa con trung
thành và vĩ đại của xứ bị tót dũng mãnh. Nhưng Lorca chấp nhận như người cách mạng đã
chấp nhận “Dấn thân vô là phải chịu tù đày/ Gươm kề cổ súng kề tai/ Là thân sống chỉ coi
<i>còn một nửa”.</i>Tâm hồn và tinh thần của Lorca đã gửi tất cả vào cuộc tranh đấu và vì thế bước
chân mộng du đã hóa thành những bước chân anh hùng. Càng tiếc thương chàng nghệ sĩ bao
nhiêu chúng ta lại càng căm phẫn tội ác bấy nhiêu.


Cái chết của chàng nghệ sĩ có đơi mắt sáng ngời như sao trời, mái tóc xanh mướt cỏ
thảo nguyên cùng cây đàn ghi ta mang khát vọng dân chủ, mang niềm vui nỗi buồn của đất
nước mình khơng chỉ là nỗi đau bàng hồng đối với TBN mà cịn là nỗi ám ảnh đối với tồn
TG, trong lòng NDVN và của nhà thơ TT.


<b>Kết bài</b> Tóm lại, đoạn thơ đã xây dựng được hình tượng Lor-ca vừa đẹp, vừa cảm động với
những khía cạnh khác nhau: một nghệ sĩ tự do và cô đơn, một cái chết oan khốc, bi phẫn bởi
những thế lực tàn ác, một tâm hồn nghệ sĩ bất diệt. Nói khác hơn, Lor-ca là một hình tượng bi
tráng về người nghệ sĩ chân chính trong một môi trường bạo lực thống trị đã sống và chết rất
cao đẹp. Qua việc thể hiện cái chết đau xót của Lor-ca, bài thơ cịn là tiếng nói tri âm của
Thanh Thảo với nghệ thuật chân chính và nghệ sĩ Lor-ca.


</div>
<span class='text_page_counter'>(55)</span><div class='page_container' data-page=55>

thuật độc đáo: kết hợp hai yếu tố thơ và nhạc về kết cấu; Bài thơ có phong cách tượng trưng
pha màu sắc siêu thực rất gần gũi với phong cách thơ Lor-ca; Hình ảnh thơ phong phú, ngơn
từ mới mẻ góp phần làm nên diện mạo phong phú của thơ ca VN sau 1975


<b>ĐỀ 2</b>



<b>Đề bài</b> <b>Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ “Đàn ta của Lor-ca” của Thanh Thảo: “tiếng </b>
<i><b>ghi-ta nâu….long lanh trong đáy giếng”.</b></i>


<b>Mở bài</b> Thanh Thảo là nhà thơ trẻ tài hoa, khẳng định tài năng từ trong kháng chiến chống Mĩ. Sau
1975, nhất là trong thời kỳ đổi mới văn học, ơng có nhiều nỗ lực trong cách tân thơ Việt với xu
hướng đào sâu vào cái tơi nội cảm qua hình thức thơ tự do, hiện đại bằng những hình ảnh và
ngơn từ mới mẻ. Bài thơ "Đàn ghi ta của Lor-ca" là một tiêu biểu. Bài thơ trích trong tập thơ
"Khối vng Ru-bic" (1985) của ông đã thể hiện sự ngưỡng mộ, ca ngợi tinh thần đấu tranh cho
tự do và khát vọng cách tân nghệ thuật của nhà thơ G. Lor-ca, một nghệ sĩ tài hoa sáng chói của
văn học Tây Ban Nha ở đầu thế kỉ 20. Từ vẻ đẹp bi tráng của hình tượng Lor-ca, nhà thơ Thanh
Thảo bộc lộ niềm tin và ngưỡng mộ, đồng cảm sâu xa về Lor-ca. Lor-ca sẽ sống mãi:


“dẫn chứng thơ ”


<b>HCST</b> Bài thơ lấy cảm hứng từ những giây phút bi phẫn trong cuộc đời của Lor-ca và câu nói
“khi tơi chết hãy chơn tơi với cây đàn” (Ghi nhớ - Lor-ca) để sáng tác bài thơ này. Bài thơ được
viết theo thể thơ tự do, giàu chất suy tư, mãnh liệt, phóng túng với phong cách tượng trưng có
pha màu sắc siêu thực rất gần gũi với phong cách thơ Lor-ca. Thơ tượng trưng – siêu thực đề
nghị lối viết tự động, cho rằng thơ là mạch cảm xúc tn tràn nên dường như khơng mạch lạc,
hình ảnh mới lạ, khơng viết hoa đầu dịng, khơng ngắt câu. .


<b>Vài nét</b>
<b>về</b>
<b>người</b>
<b>nghệ sĩ</b>
<b>Lor-ca</b>


Lor-ca không chỉ là một nhà thơ, nhạc sĩ, kịch tác gia thiên tài mà còn là nhà chống phát
xít kiên cường. Ơng bị sát hại năm 1936. Thanh Thảo là một nhà thơ có mối quan tâm đặc biệt
đối với những con người có nhân cách và nghĩa khí dù số phận có thể ngang trái. Cái chết


của chàng nghệ sĩ có đơi mắt sáng ngời như sao trời, mái tóc xanh mướt cỏ thảo nguyên cùng
cây đàn ghi ta mang khát vọng dân chủ, mang niềm vui nỗi buồn của đất nước mình khơng chỉ là
nỗi đau bàng hồng đối với TBN mà cịn là nỗi ám ảnh đối với tồn TG, trong lòng NDVN và
của nhà thơ TT.


<b>Khổ 3</b>
<b>6 dòng</b>


Cái chết bất ngờ đến với Lor-ca. Một con người trong sạch và vô tội, dù luôn bị ám ảnh về
cái chết của chính mình, vẫn khơng thể nghĩ là nó lại đến sớm thế và đến vào lúc chàng không
ngờ nhất. Cảnh Lor-ca bị hành hình với những diễn biến phũ phàng, thảm khốc ấy tạo ra cú sốc
dây chuyền được diễn tả theo lối tượng trưng, liên tục chuyển đổi cảm giác, qua hệ thống những
âm thanh vỡ tan ra thành màu sắc, thành hình khối, thành dịng máu chảy:


<i>tiếng ghi-ta nâu</i>
<i>bầu trời cô gái ấy</i>


<i>tiếng ghi-ta lá xanh biết mấy</i>
<i>tiếng ghi-ta tròn bọt nước vỡ tan</i>
<i>tiếng ghi-ta ròng ròng</i>


<i>máu chảy</i>


Sự chuyển đổi cảm giác mang đến sự linh hoạt khi miêu tả tiếng đàn. “màu nâu” xuất hiện
suy tư, trầm tĩnh đến lạ thường. Đó là màu nâu của cây đàn, màu nâu của đất đai, màu nâu của
làn da rám nắng trên thân hình những vũ nữ Di-gan bốc lửa. Và trước giây phút từ li, chàng đã
ngước nhìn lên bầu trời xanh tha thiết ”bầu trời cô gái ấy”. Đó là bầu trời của khát vọng, bầu trời
yêu thương nơi có bóng hình nàng Ma-ri-a thủy chung. Đối lập với màu nâu trầm tĩnh là màu
xanh của "tiếng ghita lá xanh biết mấy”. “Màu xanh” là sự hóa thân của Lorca và tiếng đàn vào
thiên nhiên mang sức sống cỏ cây. Màu xanh của những vườn cam, màu xanh của thảo nguyên


và những rặng ô-liu hay hàng bạch dương nơi Lor-ca đang yên nghỉ. Hai tiếng “biết mấy” nằm ở
cuối câu vừa là sự tha thiết trong tình cảm của người nghệ sĩ Thanh Thảo vừa để tôn thêm vẻ đẹp
của tuổi trẻ Lor-ca – vẻ đẹp của người chiến sĩ suốt đời hi sinh vì lí tưởng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(56)</span><div class='page_container' data-page=56>

đường nét như hình hài của sinh mệnh. Nó cũng tức tưởi vỡ ịa, cũng biết nói tiếng nói của sự
căm phẫn bạo tàn. Hai tiếng “vỡ tan” vừa là sự vỡ ra của bọt nước vừa là sự phập phồng thổn
thức của tiếng đàn. Nó đã cất lên lời ca tranh đấu lên án bè lũ phát xít đã hủy diệt cái tài, hủy diệt
cái đẹp. Và vì thế bản ghi-ta bi tráng đẩy đến độ cao trào của sự bi phẫn, nó rịng rịng máu chảy,
nó uất nghẹn, tức tưởi đến bật máu thành từng dòng đau thương trong một bản đàn giao hưởng
hào sảng. Nỗi đau của tiếng đàn cũng là nỗi đau của người nghệ sĩ khi khát vọng chưa thành. Ta
cũng đã từng bắt gặp nỗi đau của người nghệ sĩ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du “Một cung
<i>gió thảm mây sầu/ Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay”. Nỗi đau của Kiều khi hầu đàn Hồ Tôn</i>
Hiến khiến cho dây đàn cũng nhỏ máu. Đó chính là sự đồng cảm giữa nghệ thuật và tâm hồn của
người sinh ra nó. Thì ra nghệ thuật trong bản thể của nó cũng là một sinh mệnh.


<b>TK</b>
<b>khổ 3</b>


Tóm lại, tác giả đã dựng lên khơng gian kinh hồng những ấn tượng chết chóc. Những
cảm giác đau đớn uất nghẹn trước sự tàn bạo của bọn độc tài phát xít. Với điệp khúc dồn dập tác
giả đã lột tả được cái bàng hoàng căm phẫn trong bản ghi ta bi tráng và nỗi kinh hoàng trong
cảm giác mất mát cũng nhân lên gấp bội, nỗi đau như xé lịng khi hình dung ra cảnh người nghệ
sĩ tài ba bị sát hại. Trong trường ca Những người đi tới biển, Thanh Thảo từng viết:


<i>Chúng tôi đã đi khơng tiếc đời mình</i>
<i>Nhưng tuổi hai mươi làm sao khơng tiếc</i>


<i>Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc?</i>


Đó có lẽ là tâm trạng Lorca lúc này: chấp nhận cái chết như lẽ tự nhiên trong đời chiến sĩ,


nhưng tuổi hai mươi làm sao khơng tiếc?


<b>P/tích</b>
<b>khổ 4 </b>


Và Lorca đã hi sinh nhưng những kẻ thất bại lại chính là bè lũ phát xít. Bởi chúng chỉ có
thể hủy diệt được thân xác của Lorca nhưng không thể hủy diệt được sức sống của anh đang
bung nở giữa bản hòa tấu trầm hùng mang âm hưởng của những tiếng Ghi-ta nồng nàn vi diệu.
Với thủ pháp nghệ thuật so sánh và liên tưởng, Thanh Thảo đã làm sống dậy một không gian
sinh tồn đầy sức sống mãnh liệt.


<i>không ai chôn cất tiếng đàn</i>
<i>tiếng đàn như cỏ mọc hoang</i>
<i>giọt nước mắt vầng trăng</i>
<i>long lanh trong đáy giếng</i>


Không ai chôn cất tiếng đàn hay khơng ai có thể chơn cất

được tiếng đàn

? Có lẽ
nên hiểu theo cách thứ hai. Thứ nhất bởi nó là di sản văn hóa phi vật thể

,

là sản phẩm của tinh
thần được kết tinh từ hương sắc cuộc đời của người nghệ sĩ nhân dân. Thứ hai bởi sức sống
mãnh liệt và hoang dại của nó như lồi cỏ mọc hoang khơng gì có thể ngăn nổi chúng. Bởi có gì
nhiều bằng cỏ? Có gì xanh bằng cỏ? Có gì mãnh liệt bằng cỏ trên mặt đất bao la? Đây chính là
sự bất tử, sự vĩnh hằng của nghệ thuật. Dù Lor

-

ca hi sinh nhưng sản phẩm tinh thần mà ơng để
lại đó chính là tâm hồn mình, nghệ thuật của mình. Những bài ca tranh đấu của Lorca vẫn đồng
hành cùng thời gian và đi cùng năm tháng thăng trầm của lịch sử và nó mãi mãi được hát vang
trong lòng của nhân dân yêu chuộng hịa bình trên tồn thế giới. Bằng hình ảnh biểu tượng,
Thanh Thảo muốn khẳng định Lor-ca “Thác là thể phách, còn là tinh anh”.


Không chỉ bất tử, tiếng đàn của chàng ca sĩ hát rong còn mang vẻ đẹp của giọt nước mắt
vầng trăng. Một hình ảnh mang nhiều liên tưởng gợi nhiều thi vị. Phải chăng đó chính là vẻ đẹp
của nghệ thuật được kết tinh từ những giọt mồ hôi, từ máu và nước mắt của sự lao động nghệ


thuật chân chính qua bao thời gian cơng sức đã nhào nặn thành viên ngọc lấp lánh mang hình hài
của giọt nước mắt vầng trăng tinh khiết. Hay đó chính là vẻ đẹp của cuộc đời Lorca đã hóa thân
thành viên ngọc quý lung linh tỏa sáng giữa đời. Bất ngờ thay, nơi đáy giếng tối tăm và lạnh lẽo,
nơi mà bọn phát xít ngỡ tưởng đã vùi lấp được linh hồn và thể xác của người công dân Lorca, lại
là nơi tỏa sáng tâm hồn anh.Hình ảnh thơ đẹp và buồn được viết theo lối tượng trưng nhằm bày
nỗi xót thương cái chết của một thiên tài và nỗi xót tiếc hành trình cách tân nghệ thuật dang dở
khơng chỉ với bản thân Lor-ca mà còn với nền văn chương Tây Ban Nha. Lời thơ bộc lộ niềm
trân trọng và niềm tin bất tử, bất diệt vào tiếng đàn Lor-ca.


<b>TK</b>
<b>khổ 4</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(57)</span><div class='page_container' data-page=57>

<b>Kết bài</b> Tóm lại, đoạn thơ đã xây dựng được hình tượng Lor-ca vừa đẹp, vừa cảm động với những
khía cạnh khác nhau: một nghệ sĩ tự do và cô đơn, một cái chết oan khốc, bi phẫn bởi những thế
lực tàn ác, một tâm hồn nghệ sĩ bất diệt. Nói khác hơn, Lor-ca là một hình tượng bi tráng về
người nghệ sĩ chân chính trong một mơi trường bạo lực thống trị đã sống và chết rất cao đẹp.
Qua việc thể hiện cái chết đau xót của Lor-ca, bài thơ cịn là tiếng nói tri âm của Thanh Thảo với
nghệ thuật chân chính và nghệ sĩ Lor-ca.


Thái độ ngưỡng mộ người nghệ sĩ đại diện cho tinh thần tự do và khát vọng cách tân nghệ
thuật của thế kỉ XX bị giết hại một cách phủ phàng dược biểu đạt bằng hình thức nghệ thuật độc
đáo: kết hợp hai yếu tố thơ và nhạc về kết cấu; Bài thơ có phong cách tượng trưng pha màu sắc
siêu thực rất gần gũi với phong cách thơ Lor-ca; Hình ảnh thơ phong phú, ngơn từ mới mẻ góp
phần làm nên diện mạo phong phú của thơ ca VN sau 1975


<b>TÙY BÚT “NGƯỜI LÁI ĐÒ SƠNG ĐÀ” – NGUYỄN TN</b>
<b>ĐỀ 1</b>


<b>Đề bài Phân tích hình tượng con Sông Đà trong tùy bút “Người lái đò Sông Đà”.</b>
<b>Mở</b>



<b>bài</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(58)</span><div class='page_container' data-page=58>

Tác phẩm để lại dấu ấn sâu sắc trong lịng người đọc hình tượng con Sơng Đà “hung bạo, trữ
<i>tình”. </i>Trước khi Sơng Đà trở thành dịng sơng ánh sáng, nguồn cảm hứng cho thơ, nhạc,
hoạ… thì con sơng ấy đã tn chảy trên nhiều trang văn của Nguyễn Tuân. Tài năng, phong
cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễt Tn đã biến dịng sơng ấy trở nên hấp dẫn, gợi cảm.


<b>HCST</b> Tuỳ bút “<i>Người lái đị sơng Đà</i>” được in trong tập tuỳ bút “<i>Sông Đà</i>” (1960). Tác phẩm


được viết trong thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của
nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958.
Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng
tạo.


<b>Giới</b>
<b>thiệu</b>
<b>chung</b>


Con sông là cảm hứng muôn đời của thơ ca. Với Nguyễn Tuân, qua những trang tùy
bút của mình, sơng Đà khơng cịn là một thiên nhiên vơ tri vơ giác mà trở thành một hình
tượng văn học, một sinh thể có tính cách, có tâm trạng độc đáo. Sơng Đà có hai nét tính cách
đối lập nhau vừa hung bạo, dữ dội, hùng vĩ vừa trữ tình, dịu dàng, nên thơ” như nhà văn nhận
xét trong tác phẩm. Hai nét tính cách đối lập của sông Đà phù hợp với khả năng chiếm lĩnh
thực tại của con người và phù hợp với phong cách của Nguyễn Tuân (tìm đến với những vẻ
đẹp khác thường, những cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ dữ dội).


<b>Hai</b>
<b>câu đề</b>



<b>từ</b>


Trước hết Sông Đà đến với ta qua những câu đề từ: Lời đề từ thứ nhất là tứ
thơ:“Chúng thủy giai đông tẩu. Đà giang độc bắc lưu”. Mượn ý tưởng của Nguyễn Quang
Bích, nhà văn Nguyễn Tuân nhấn mạnh thế độc đáo, nghịch ngược của Sông Đà giống như
con ngựa bất kham. Sông Đà khác thường ngay từ dịng chảy của nó. Ơng nhận ra sự đồng
điệu giữa cái “ngông” của thiên nhiên với cái tơi cá nhân của mình. Lời đề từ thứ hai lấy ý của
nhà thơ Ba Lan “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dịng sơng” là một câu cảm thán hé mở vẻ đẹp
trữ tình của Sơng Đà.


<b>Tính</b>
<b>cách</b>
<b>hung</b>
<b>bạo</b>


Tính cách hung bạo của sông Đà được miêu tả ở <i>ở khúc thượng nguồn hẹp và hiểm trở : </i>
“Đá chẹt lịng sơng như một cái yết hầu – hẹp đến mức: đứng bên này, nhẹ tay ném hòn đá
<i><b>cũng sang bờ bên kia - con nai, con hổ có thể nhảy qua nhảy lại dễ dàng. Chổ ấy đúng ngọ,</b></i>
<i><b>mặt sông mới nhận được ánh nắng; ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà</b></i>
<i><b>cũng thấy lạnh…”. Vách đá, lịng sơng được đặc tả bằng nhiều liên tưởng, so sánh độc đáo,</b></i>
Nguyễn Tuân miêu tả sông Đà khơng chỉ bằng thị giác mà cịn bằng xúc giác tạo cho con
người cảm giác ghê rợn và nguy hiểm về cái vẻ bề ngoài đầy sức mạnh hoang dại của Sơng
Đà.


Cái nguy hiểm của sơng Đà cịn được thể hiện ở <i>mặt nước sơng Đà “trên sơng Đà có</i>
<i><b>nhiều vực xoáy, nhiều luồng chết, nhiều đá ghềnh và nhiều sóng thác”. Mà hiểm trở hơn,</b></i>
phải kể đến quãng mặt ghềnh Hát Loóng “dài hàng trăm cây số nước xơ đá, đá xơ sóng,
<i><b>sóng xơ gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng như muốn địi bằng</b></i>
<i><b>được món nợ vơ lí đối với người lái đò”. Các điệp từ, điệp cấu trúc câu, nghệ thuật tăng</b></i>
cấp,... tạo ra nhịp điệu khẩn trương dồn dập. Sau câu chữ, nghe như có bão to sóng dữ đang


rung chuyển. Gió, nước, đá... như hợp tác với nhau làm nên bộ mặt hung bạo của sông Đà.


Chưa hết, ở Tà Mường Vát (phía dưới Sơn La), Sơng Đà vô cùng dữ tợn với “những
<i><b>hút nước sâu như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu... Nước ở</b></i>
<i><b>đây thở và kêu hồng hộc như cửa cống lớn bị sặc”. Cái chết bao phủ không thuyền nào dám</b></i>
men gần đến hút nước. “Bè gỗ rừng vô ý trôi ngang qua, lập tức bị lôi tuột xuống nhiều con
<i><b>thuyền cũng bị hút mất tăm – thuyền trồng cây chuối ngược, đi ngầm dưới lịng sơng đến</b></i>
<i><b>mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Nguyễn Tuân vừa tả vừa kể những</b></i>
địa danh thật của hút nước khiến cho bài văn mang màu sắc kí, kết hợp thủ pháp văn học và
thủ pháp điện ảnh, nhà văn tạo cho người đọc cảm giác như đang được trực tiếp chứng kiến
cảnh sóng nước hiểm trở. Con Sơng Đà lúc này trơng giống như lồi thủy quái khổng lồ nham
hiểm, ẩn chứa sức mạnh ghê gớm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(59)</span><div class='page_container' data-page=59>

sự tàn phá khủng khiếp.


Cái dữ tợn của sơng Đà cịn được thể hiện ở đám đá hịn, đá tảng trên sông “cả một
<i><b>chân trời đá”. Bằng biện pháp nhân hóa, Nguyễn Tuân đã thổi hồn người vào đá sơng làm</b></i>
cho nó trở nên sống động hẳn “Hàng ngàn năm nay, đá vẫn mai phục trong lịng sơng. Mỗi
<i><b>khi cịn thuyền xuất hiện, nó lại nhổm dậy, vồ lấy... Chúng biến con sông Tây Bắc thành</b></i>
<i><b>“trùng vi thạch trận” với bao cửa tử... Thác liên kết với những thằng tướng đá mặt ngỗ</b></i>
<i><b>ngược, nhăn nhúm, méo mó…Nó đứng, nó ngồi, nó nằm tự động theo sở thích của đá to,</b></i>
<i><b>đá bé” khiến cho Sông Đà thành “thứ kẻ thù số một của con người” có đủ mưu ma chước</b></i>
quỷ nhằm hủy diệt con thuyền.


Có thể nói, “Sơng Đà ác độc như một mụ dì ghẻ, chúa đất - con sơng mn đời làm
<i><b>mình làm mẩy với con người ở Tây Bắc”. Khi hung bạo nó như “dịng thác hùm beo tế</b></i>
<i><b>mạnh trên sơng nước”. Nó thách thức, gợi ham muốn chinh phục, khám phá, chế ngự. </b></i>
<b>Sơng</b>


<b>Đà trữ</b>


<b>tình</b>


Qua ngịi bút Nguyễn Tn, sơng Đà khơng chỉ hung bạo như “kẻ thù số một” mà còn
là một cơng trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hóa. Nguyễn Tuân đã quan sát và miêu tả sông
Đà thơ mộng, trữ tình ở nhiều điểm nhìn khác nhau. Ở mỗi một góc nhìn, nhà văn đã so sánh
sánh sơng Đà với nhiều đối tượng khác nhau rất tài tình, tạo cho người đọc cảm giác ngạc
nhiên, thán phục và nhận ra rằng khơng có nhà văn nào so sánh hay hơn, tài tình hơn nhà văn
Nguyễn Tn.


Có lần nhà văn đi trên máy bay, từ trên cao nhìn xuống “Sơng Đà tn dài, tn dài
<i><b>như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa</b></i>
<i><b>ban, hoa gạo và mù khói Mèo đốt nương xuân”. Sau này, Nguyễn Tuân tiếp tục so sánh</b></i>
“sơng Đà như một áng tóc tn dài ngàn ngàn, vạn vạn sải”. Qua biện pháp so sánh, Sơng
Đà hiện lên mang dáng vóc của người thiếu nữ kiều diễm, căng tràn sức sống.


Tiếp đó, nhà văn cịn cảm nhận vẻ đẹp Sơng Đà bằng con mắt của một họa sĩ ở vẻ đẹp
sắc nước sông Đà: “mùa xuân xanh màu xanh ngọc bích”, một màu xanh trong anh ánh
nắng trời; mùa thu “lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa” vì sơng mang theo
phù sa. Có lẽ, Nguyễn Tn u sơng Đà bởi màu nước của nó “trong ra trong, đục ra đục
<i><b>chứ không lờ lờ canh hến như ở sông Gâm và sông Lô</b></i><b>”. Sự biến đổi ấy khiến Sơn Đà khơng</b>
chỉ độc đáo, cá tính mà cịn rất gợi cảm.


Có lần nhà văn theo gót anh liên lạc, từ trong rừng đi ra, bằng cái nhìn từ xa, Sông Đà
hiện ra như một “cố nhân”, một cuộc hội ngộ và niềm vui ùa tới “bờ Sông Đà, bãi Sông Đà,
<i><b>chuồn chuồn, bươm bướm trên Sông Đà. Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn</b></i>
<i><b>tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt qng”. Chưa hết, con sơng cịn lấp lánh</b></i>
chất thơ, chất họa như bức tranh cổ, đẹp như những dịng sơng trong Đường thi “<i><b>Yên hoa tam</b></i>
<i><b>nguyệt há Dương Châu” (Lý Bạch), con sơng cũng hết sức trữ tình “Dãi Sơng Đà bọt nước</b></i>
<i><b>lênh đênh, bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình, của một người tình chưa quen biết</b></i><b>” (Tản Đà).</b>
Sơng đẹp, tình người cịn đẹp hơn. Đây khơng cịn là văn xuôi nữa mà là một bức họa tuyệt


đẹp, cái đẹp thể hiện ở ngôn từ tài hoa của Nguyễn Tuân.


Có lần nhà văn trơi thuyền trên Sơng Đà, nhìn dịng sơng bằng cái nhìn cận cảnh, lúc
này Sơng Đà đầy chất thơ hồn nhiên. Điển hình là ở khúc hạ lưu với dòng chảy êm, phẳng
lặng, lững lờ như nhớ thương: “Hình như từ đời Lí, đời Trần, đời Lê, ... quãng sông này
<i><b>cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền trôi qua một nương ngô mới nhú lên mấy lá non đầu</b></i>
<i><b>mùa... Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như</b></i>
<i><b>một bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích ngày xưa</b></i><b>”- hình ảnh này gợi về</b>
quá khứ, gợi lại trăm năm cổ tích. Ở đoạn này, Nguyễn Tuân dùng nhiều thanh bằng nhẹ
nhàng, giọng văn êm ả, câu văn mềm mại êm ả trải dài như dòng nước, sử dụng biện pháp
“lấy động để tả cái thanh tĩnh” tuyệt cùng của bờ bãi sông Đà giúp người đọc thấy được vẻ
đẹp muôn đời bất biến của con sông chảy qua năm tháng lịch sử. Con sơng dưới trang viết của
Nguyễn Tn là một cơng trình nghệ thuật tuyệt vời, là một kì cơng của tạo hóa được viết
bằng tình u q hương đất nước sâu nặng và trí tưởng tượng tuyệt vời của nhà văn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(60)</span><div class='page_container' data-page=60>

khám phá, miêu tả thiên nhiên.
<b>Kết</b>


<b>bài</b>


Tóm lại, bằng tình u thiên nhiên đất nước kết hợp với ngôn từ độc đáo, tài hoa, Nguyễn
Tuân đã tái hiện lên một khung cảnh con sông Tây Bắc thật hùng vĩ mà cũng thật trữ tình, làm
ta thêm tự hào về núi sơng Tổ quốc nguy nga, tráng lệ. Sông Đà quả là một quà tặng vô giá
của thiên nhiên là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của bậc thầy tùy bút Nguyễn Tn.


<b>ĐỀ 2</b>


<b>Đề bài</b> <b>Phân tích hình tượng người lái đò Sông Đà trong tùy bút “Người lái đò Sông Đà”.</b>


Nguyễn Tuân là cây bút tài hoa, uyên bác, cả đời say mê tìm kiếm vẻ đẹp của cuộc


sống. Ơng có sở trường về thể loại tuỳ bút và để lại cho đời nhiều tập tùy bút đặc sắc. Một
trong những sáng tác tiêu biểu của ông phải kể đến tuỳ bút “Người lái đị sơng Đà”. Tác phẩm
để lại dấu ấn sâu sắc trong lịng người đọc khơng chỉ là hình tượng con Sơng Đà “hung bạo,
<i>trữ tình” mà cịn là bởi hình tượng người lái đị hiên ngang trên thác dữ - một tay lái ra hoa<b>.</b></i>
Ơng lái đị trên con Sơng Đà hiện lên trong tầm vóc của một người lao động bình dị mà phi
thường, tâm hồn và phong thái mang cốt cách tài hoa nghệ sĩ.


<b>HCST</b> Tuỳ bút “<i>Người lái đò sông Đà</i>” được in trong tập tuỳ bút “<i>Sông Đà</i>” (1960). Tác phẩm


</div>
<span class='text_page_counter'>(61)</span><div class='page_container' data-page=61>

tạo.


<b>Giới</b>
<b>thiệu</b>
<b>chung</b>


Trong khi hướng ngòi bút đến những gì phi thường, Nguyễn Tn cịn đặc biệt chú ý đến
hình ảnh của những người lao động, mà ông gọi là “thứ vàng mười, chất vàng mười của tâm
<i>hồn Tây Bắc”. Khắc họa người lái đò song hành với Sông Đà hung bạo, Nguyễn Tuân muốn</i>
nhấn mạnh: phẩm chất dũng cảm, kiên cường của nhân vật khi đương đầu với khó khăn, thử
thách. Trên con sơng hung tợn đó hình ảnh người lái đị hiên ngang, vững chãi, tự do và đẹp
như một huyền thoại.


<b>Lai lịch</b>
<b>và ngoại</b>


<b>hình</b>


Quê người lái đị ở ngã tư sơng sát tỉnh Lai Châu. Gắn bó với sơng từ thuở ấu thơ, ơng
ngược xi thác nước hơn mươi năm trời và cũng đã thôi nghề hơn chục năm. Dáng ông “gọn
<i><b>quánh như chất sừng, chất mun, tay lêu nghêu, chân khuỳnh khùynh như đang kẹp chặt</b></i>


<i><b>cái cuống lái, giọng nói vẫn ào ào như sóng nước. Mắt ơng lúc nào cũng vịi vọi như</b></i>
<i><b>mong đợi một cái bến xa nào đó trong sương mù”. Ngoại hình này rất phù hợp với hồn</b></i>
cảnh và nghề nghiệp của ơng lão lái đị. Phép so sánh này thể hiện tình cảm trân trọng của
Nguyễn Tuân đối với người lao động - điều mà trước Cách mạng ông chưa bao giờ nghĩ đến.
<b>Phẩm</b>
<b></b>
<b>chất-tính</b>
<b>cách</b>
Thạo
nghề


Nếu ai đó ví Sơng Đà như khúc anh hùng ca bất tử thì ơng lái đị Lai Châu thuộc bản
trường ca đó đến “từng dấu câu, con chữ, cả những chỗ xuống dịng, ơng nhớ như đóng
<i><b>đanh vào lịng tất cả những luồng nước của tất cả các con thác hiểm trở”. Đương đầu với</b></i>
dòng nước ngược thành một thú chơi thanh cao. Ham giao chiến với đá ngầm, sóng dữ, ơng
nghĩ: “Chạy thuyền trên khúc sơng khơng có thác nó dễ dại tay, dại chân và buồn ngủ... Hết
<i><b>ghềnh, hết thác, Sông Đà hết cả đậm đà ...”. Từ ơng đị, Nguyễn Tn nêu bài học, muốn</b></i>
chiến thắng, con người phải nắm vững quy luật. Ông lão lái đị đã ngang dọc trên dịng sơng,
đã đưa con thuyền vượt bao cửa tử để đến với cửa sinh, xuôi dịng bình n.


<b>Anh</b>
<b>hùng </b>
<b>-nghệ sĩ,</b>
<b>tay lái</b>
<b>cao</b>
<b>cường</b>
<b>ra hoa</b>
<b>trong</b>
<b>bản</b>
<b>trường</b>


<b>ca vượt</b>
<b>thác.</b>


Mười năm đi đị dọc, ơng lái như một vị tướng đầy tài năng sẵn sàng xung trận. Qua bút
pháp tương phản, Nguyễn Tuân thể hiện cuộc giao tranh quyết liệt giữa ơng lái đị (tiêu biểu
<i>cho ý chí, nghị lực con người) và thạch trận sông Đà (thiên nhiên hung bạo). Sông huy động</i>
một lực lượng đơng đảo, hung hãn có tướng, có qn, với nhiều thủ đoạn nham hiểm. Chúng
phân công nhau, giăng sẵn trận đồ bát quái, bố trí trận địa thành ba lớp. Tuy vậy, ơng đị vẫn
bình tĩnh chiến đấu.


Ở trùng vi thứ nhất, vừa vào trận, sóng nước, đá sơng hị la vang dậy, ùa vào bẻ gãy
<i><b>cán chèo võ khí, đá trái thúc vào bụng, vào hơng thuyền. Nước như đơ vật túm thắt lưng</b></i>
<i><b>ơng đị rồi đánh miếng địn độc, đánh vào chỗ hiểm. Nhưng ơng đò cố nén vết thương, hai</b></i>
<i><b>chân vẫn kẹp chặt cuống lái, mặt méo bệch đi. Trên con thuyền sáu bơi chèo vẫn nghe rõ</b></i>
<i><b>tiếng chỉ huy ngắn gọn và tỉnh táo của người cầm lái, ơng đị thực là một chiễn sĩ dũng</b></i>
<i><b>cảm, rất bình tĩnh nén mọi đau đớn để chiến thắng kẻ thù. </b></i>


Sang trùng vi thứ hai, không một phút ngừng tay nghỉ mắt, ông đị thay đổi chiến
thuật. Rất nham hiểm, xảo quyệt, Sơng Đà tăng thêm cửa tử, bố trí cửa sinh lệch sang bên
<i><b>phải để đánh lừa ông lái. Như thú dữ, dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh. Bọn thủy</b></i>
<i><b>quân xơ ra định kéo thuyền vào tập đồn cửa tử. Với khí thế cưỡi đến cùng như cưỡi hổ,</b></i>
<i><b>nắm chặt bờm sóng, ơng đị ghì cương bám chắc lấy luồng nước đúng, phóng nhanh vào</b></i>
<i><b>cửa sinh mà lái miết một đường chéo. Hành động của ông lão thành thạo, chính xác, dũng</b></i>
mãnh trong từng động tác, đúng là tay lái ra hoa, điêu luyện của người nghệ sĩ. Bằng trí dũng,
nghị lực kiên cường, người lái đị đã đánh bại dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh.


<i><b>Trùng vây thứ ba ít cửa hơn, nhưng bên phải bên trái đều là cửa tử. Luồng sống ở</b></i>
ngay giữa bọn đá hậu vệ. Như một lão tướng, dày dạn kinh nghiệm, dũng cảm, nhanh gọn,
<i><b>dứt khốt, ơng đị bình tĩnh tiến vào trận địa, rồi bất ngờ phóng thẳng, chọc thủng cửa</b></i>
<i><b>giữa. Con thuyền như một mũi tên lao vút xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa lái</b></i>


<i><b>được, lượn được qua cổng đá cánh mở cánh khép. Thế là qua luồng chết, thế là hết cửa tử,</b></i>
<i><b>ra đến cửa sinh,... dịng sơng vặn mình vào một bến cát có hang lạnh. Ơng đị uy nghi rạng rỡ</b></i>
trở về từ cõi chết. Ông đã chiến thắng thiên nhiên làm chủ cuộc đời. Cuối cùng thiên nhiên
phải khuất phục dưới sự tài ba và lòng dũng cảm tuyệt vời của con người.


<b>Bình dị</b>
<b>khiêm</b>


<b>tốn</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(62)</span><div class='page_container' data-page=62>

<i><b>Nghệ</b></i>
<i><b>thuật</b></i>


Nhịp văn gấp gáp, căng thẳng, dồn dập phù hợp với khơng khí giao tranh quyết liệt.
<i><b>Sử dụng bút pháp tương phản, Nguyễn Tuân khắc họa được sự đối kháng giữa hai lực lượng:</b></i>
một bên là thiên nhiên – thác đá Sông Đà hung bạo, dữ dội, một bên là con người – ơng lái đị
thồng minh dũng cảm, kiên cường. Sự tương phản trên đây khẳng định khả năng chinh phục
tự nhiên của con người Tây Bắc. Sử dụng đúng chỗ kiến thức uyên bác trong nhiều lĩnh vực
khoa học, nghệ thuật…cùng trí tưởng tượng kì thú và kho chữ nghĩa phong phú, Nguyễn Tuân
đã biến câu chuyện bình thường thành bản trường ca về người lao động anh hùng – nghệ sĩ.
Người lái đị Lai Châu cịn là sự hóa thân, thăng hoa của Nguyễn Tuân.


Qua hình tượng người lái đị sơng Đà, Nguyễn Tuân muốn khẳng định người anh hùng
đâu chỉ xuất hiện ở nơi duy nhất là chiến trường, mà ngay cả trong cuộc sống hàng ngày của
nhân dân ta. Cũng như sự tài hoa trí dũng cũng khơng cần phải tìm ở đâu, mà ngay trong
những con người lao động bình thường, vơ danh đang có mặt trên mọi miền đất nước. Như vậy
trong việc nhìn con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ, anh hùng, Nguyễn Tuân đã có cách
nhìn mang tính nhân dân cao hơn so với những trang viết của ông trước CMT8.


<b>Kết</b>


<b>luận</b>


Tóm lại, đọc "<i><b>Người lái đị Sơng Đà"</b></i> suy ngẫm về nhân vật ơng đị chúng ta nhớ tới Huấn
Cao, hình tượng đặc sắc trong tác phẩm "<i><b>Chữ người tử tù"</b></i> một sáng tác của Nguyễn Tuân trước
Cách mạng tháng Tám. Họ có nhiều nét khác nhau vì họ xuất hiện trong hai thời kỳ khác nhau
của lịch sử đất nước. Song cả hai đều giống nhau ở chất nghệ sĩ, chất chiến sĩ vẻ đẹp thăng hoa
của con người trong vị trí xã hội, trong cơng việc cụ thể khi làm người và một nét chung nữa,
ơng đị cũng như ơng Huấn đều rạng ngời phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân: tài hoa, uyên
bác đầy sáng tạo bất ngờ trong dùng từ, viết câu và nồng ấm một tình yêu con người. Nguyễn
Tuân người nghệ sĩ tài hoa đã bằng cảm hứng lãng mạn và phép thuật ngôn từ đem lại cho ta
chất vàng một quý giá của đời, làm giàu sang cho tâm và cho trí của ta dạy ta biết yêu hơn Tổ
quốc, nhân dân, cuộc sống


<b>BÚT KÍ “AI ĐẶT TÊN CHO DỊNG SƠNG” – HỒNG PHỦ NGỌC TƯỜNG.</b>


Ai đó đã từng viết “Đất nước có nhiều dịng sơng nhưng chỉ có một dịng sơng để thương, để nhớ
như đời người có nhiều cuộc tình nhưng chỉ có một cuộc tình để mãi mãi mang theo”. Vâng, “một dịng
sơng để thương, để nhớ” của mỗi người rất khác nhau. Nếu tên tuổi Văn Cao gắn liền với sơng Lơ hùng
tráng; nếu Hồng Cầm là nỗi nhớ của ta khi ngang qua “Sơng Đuống trơi đi một dịng lấp lánh”; nếu
Hoài Vũ mãi là nhà thơ của con sông Vàm Cỏ đêm ngày thao thiết chở phù sa, thì Hồng Phủ Ngọc
Tường đã song hành cùng sơng Hương đi vào trái tim người đọc với bút kí “Ai đã đặt tên cho dịng
<i>sơng?”. Với sở trường về bút ký và đặc sắc trong sáng tác là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ</i>
và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về
triết học, văn hoá, lịch sử, địa lý, nhà văn đã đem đến cho người đọc những vẻ đẹp đa dạng về con sơng
Hương.


</div>
<span class='text_page_counter'>(63)</span><div class='page_container' data-page=63>

kí là sơng Hương. Sơng Hương nhìn từ cội nguồn là dịng chảy có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường
Sơn. Trong mối quan hệ này sơng Hương mang tính lưỡng thể: Hùng vĩ với sức sống mãnh liệt, hoang
<i><b>dại “một bản trường ca của rừng già” với nhiều tiết tấu hùng tráng dữ dội “rầm rộ giữa bóng cây đại</b></i>
<i>ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn</i>”, bằng biện


pháp nghệ thuật nhân hố “giữa lịng Trường Sơn, sơng Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như
<i>như một cơ gái Di - gan phóng khống và man dại”. Tác giả kết luận “rừng già đã hun đúc cho nó một</i>
<i>bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”. Dịu dàng và say đắm “giữa những dặm dài chói lọi</i>
<i>màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Ra khỏi rừng, sông thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ</i>
sở. Tất cả đều nói lên chất nữ tính vừa dịu dàng, e lệ vừa mãnh liệt, hoang sơ. Ở đoạn này, nhà văn chú ý
khám phá vẻ đẹp tâm hồn thăm thẳm mà ngay cả dòng sơng cũng khơng muốn bộc lộ. Dịng sơng đã
được thổi bằng ngọn gió tâm hồn dào dạt nhạy cảm, liên tưởng tự do để càng mạnh mẽ hơn, đắm say
hơn ở địa phận thượng.


<b>Sông Hương trong mối quan hệ với thành phố Huế khăng khít với Huế như một người tình.</b>
Hành trình sơng về với Huế được ví như “cuộc tìm kiếm người tình trong mộng”. Giữa cánh đồng Châu
Hóa đầy hoa dại, xứ Huế là “người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng” chờ sông Hương đến đánh thức.
Hình ảnh này gợi nhớ câu truyện cổ “Cơng chúa ngủ trong rừng”. Trước khi gặp Huế, từ ngã ba Tuần
đến đồi Thiên Mụ, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn. Ra khỏi vùng núi, sơng chuyển
dịng liên tục. Với tư cách chun gia địa lí, Hồng Phủ Ngọc Tường xem xét hướng chảy của sông, rồi
mô tả nó bằng ngơn ngữ huyền diệu của nhà tùy bút. Khi thì “<i>sơng uốn mình theo những đường cong</i>
<i>thật mềm”, lúc lại chủ động “vẽ một hình cung thật trịn về phía đơng bắc...”. Lúc chảy qua Vọng Cảnh,</i>
Tam Thai,... sông Hương “mềm như tấm lụa”. Đến với những dãy đồi phía tây nam, sơng ánh lên “sắc
<i>màu kì ảo: sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”.</i>


Qua lăng tẩm các vua triều Nguyễn, sông bộc lộ “vẻ đẹp trầm mặc” “như triết lí, như cổ thi”. Đó
là những phép so sánh độc đáo. Không miêu tả trực tiếp con sông, tác giả mở rộng tầm nhìn sang hai bên
bờ: “giữa đám quần sơn lơ xơ ấy, là giấc ngủ nghìn năm của các vua chúa được phong kín trong lịng
<i>những rừng thơng u tịch...”. Hồng Phủ Ngọc Tường con trích dẫn cả thơ cố để khắc họa vẻ kiêu hãnh,</i>
âm u của khu lăng tẩm đồ sộ:


<i>“Bốn bề núi phủ mây phong</i>


<i>Mảnh trăng thiên cổ, bóng tùng Vạn Niên”.</i>



Miêu tả mặt nước phẳng lặng và đôi bờ u tịnh, tác giả làm nổi bật vẻ đẹp thâm nghiêm, ngàn
năm khơng thay đổi của dịng sơng. Ẩn sau các con chữ là “cái tôi” nghệ thuật rất riêng của HPNT


<b>- Vẻ đẹp của Sông Hương khi chảy vào thành phố: Giữa bờ bãi xanh biếc ở ngoại ô Kim Long</b>
sông vui tươi hẳn lên như tâm trạng nao nức, bồi hồi của người đi xa “tìm đúng đường về”. Giáp mặt
thành phố, uốn một cánh cung rất nhẹ, dòng sơng mềm mại như “một tiếng vâng khơng nói ra của tình
<i>u”. Đây là một phép so sánh lạ khơng thể gặp lại lần thứ hai. Tác giả đã dùng tiếng “vâng” e ấp, ngập</i>
ngừng, ý vị, kín đáo, thiêng liêng trên đôi môi cô gái đang yêu để tả hình dáng mềm mại, uyển chuyển
của sơng Hương. Tiếp đó, tác giả đã có nhiều liên tưởng, so sánh, suy tư rất độc đáo để miêu tả dịng
sơng.


Cũng như Nguyễn Trãi đặt các triều đại Việt Nam ngang hàng cùng các vương triều Trung Hoa,
Chủ tịch Hồ Chí Minh so sánh Tổng khởi nghĩa tháng Tám với hai cuộc cách mạng ở Mĩ và Pháp, khi
miêu tả sông Hương, Hồng Phủ Ngọc Tường liên tưởng đến sơng Xen (Paris), sông Đa-nuýp
(Bu-đa-pét), sông Nê va (Pê-téc- pua) - những biểu tượng văn hóa của ba quốc gia lớn ở Châu Âu. Từ đó, ta
thấy lịng tự hào về sông Hương và Huế của tác giả. So sánh với dịng sơng của các thành phố khác, nhà
văn khắc họa được vẻ đẹp riêng của sông Hương. Giống như sông Xen, sơng Đa-nuyp..., sơng Hương
cũng chảy giữa lịng thành phố nhưng cho đến nay, Huế vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ. Đối chiếu
với sông Nê-va, tác giả nhấn mạnh điệu chảy lững lờ mà sông Hương dành riêng cho Huế. Điều này có
thể cảm nhận bằng mắt qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh, ngập ngừng như nuốn đi, muốn ở, chao
nhẹ trên mặtt nước sông Hương đêm Lễ Vu Lan.


</div>
<span class='text_page_counter'>(64)</span><div class='page_container' data-page=64>

<i><b> Vẻ đẹp sơng Hương được khám phá dưới góc độ văn hóa. Tác giả khẳng định có một dịng thi ca</b></i>
riêng về sông Hương: Tản Đà, Cao Bá Quát, Bà Huyện Thanh Quan, Tố Hữu... đều có thơ về sơng
Hương. Đó là dịng sơng khơng lặp lại mình: “<i>Dịng sơng trắng- lá cây xanh” (Chơi xuân - Tản Đà),</i>
“Như kiếm dựng trời xanh”( Trường giang như kiếm lập thanh thiên - Cao Bá Quát), “Con sông dùng
<i>dằng, con sông không chảy. Sơng chảy vào lịng nên Huế rất sâu”(Thơ của Thu Bồn)</i>


Tác giả gắn sông Hương với âm nhạc cổ điển Huế: “Trong khoảnh khắc chùng lại của sông
<i>nước”, sông Hương thành “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Sông là cội nguồn làm nên vẻ đẹp âm</i>


nhạc cổ điển Huế, vẻ đẹp của Truyện Kiều. Về mặt văn hóa, sơng Hương có thể sánh cùng sơng Nile,
sơng Hằng, sơng Hồng Hà – cái nơi hình thành những nền văn hóa lớn trên thế giới. Cũng như Đà
giang, sông Hương chảy qua nhiều địa danh - nhưng mỗi địa danh ở đây đều gắn với một di tích văn
hóa. Theo khơng gian xi về biển, vẻ đẹp sơng Hương được khám phá ở nhiều góc nhìn khác nhau.
Trong đó có góc nhìn văn hóa.


3. Vẻ đẹp sông Hương gắn liền với những sự kiện lịch sử. Tác giả đã điểm qua dấu ấn dịng sơng
trong lịch sử dân tộc: Thế kỉ XV, s/Hương còn là nơi biên thùy xa xơi chiến đấu oanh liệt bảo vệ phía
nam Tổ quốc. Thế kỉ XVIII, dịng sơng soi bóng kinh thành Huế và người anh hùng Nguyễn Huệ. Thế kỉ
XIX là thời kì bi tráng của sơng Hương thấm đẫm máu của bao cuộc khởi nghĩa. Thời đại CMT8, sông
Hương với nhiều chiến công rung chuyển đất trời (Xuân Mậu Thân).


Sơng Hương là dịng sơng của thời gian - sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Khi nghe lời gọi
của non sơng, nó biết tự hiến mình làm nên những chiến công và khi về với đời thường, nó lại dịu dàng
như cơ Tấm. Nếu ở đoạn 1 và 2, sông Hương được cảm nhận theo không gian địa lí thì ở đây, nó hiện
lên qua chiều sâu lịch sử, gắn liền với chiến công và hi sinh thầm lặng. Sông thành tấm gương phản
chiếu lịch sử, gắn liền với lịch sử của Huế, của dân tộc.


Tác giả đã soi bằng tâm hồn mình và tình yêu quê hương xứ sở vào sông Hương khiến đối tượng
trở nên lung linh, đa dạng như đời sống tâm hồn con người. Sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú cộng
với sự uyên bác về các phương diện địa lí, lịch sử, văn hóa, nghệ thuật đã tạo nên áng văn đặc sắc này.
Ngơn ngữ phong phú, giàu hình ảnh, bộc lộ cảm xúc, sử dụng nhiều biện pháp tu từ như so sánh, ần dụ,
nhân hóa. Có sự kết hợp hài hịa giữa cảm xúc và trí tuệ, chủ quan và khách quan. Chủ quan là sự trải
nghiệm của bản thân. Khách quan là đối tượng miêu tả - dòng sơng Hương.


Qua cách nhìn rất độc đáo ấy, tác giả cho thấy nét tài hoa của một ngòi bút ở thể bút kí; nét độc
đáo trong ý tưởng phát hiện về phẩm chất của một dịng sơng và hệ thống hình ảnh giàu sức gợi, tác giả
đã tạo nên những xúc cảm sâu lắng trong tâm hồn người đọc.


<b>TÁC PHẨM “RỪNG XÀ NU” – NGUYỄN TRUNG THÀNH</b>


<b>ĐỀ 1</b>


<b>Đề bài Phân tích hình tượng nhân vật Tnú trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung</b>
<b>Thành.</b>


<b>Mở</b>


<b>bài</b> chống Mĩ, cũng là nhà văn của vùng đất Tây Nguyên. Trong cả hai cuộc kháng chiến, ông đềuNguyễn Trung Thành là nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
gắn bó với vùng đất này, hiểu biết về cuộc sống cũng như tinh thần của nhân dân các dân tộc
thiểu số, nên có những trang viết rất hay về đất và người Tây Ngun. Ơng là nhà văn có cơng
đưa mảnh đất Tây Nguyên hoang sơ đến với văn học hiện đại Việt Nam. Viết về đề tài Tây
Nguyên, ông trở nên bất tử với truyện ngắn Rừng xà nu (1965). Trong tác phẩm, nhà văn đã xây
dựng thành cơng hình tượng nhân vật Tnú, người con kết tinh mọi vẻ đẹp của nhân dân Tây
Nguyên trên nền tập thể nhân dân anh hùng và hình tượng rừng xà nu hùng vĩ trong những ngày
kháng chiến chống Mĩ gay go, ác liệt.


<b>Thân</b>
<b>bài</b>
HCST


Truyện ngắn Rừng xà nu được viết 1965. In lần đầu trên tạp chí Văn nghệ qn giải phóng,
sau đó in trong tập truyện–kí Trên q hương những anh hùng Điện Ngọc. Đây là tác phẩm nổi
tiếng nhất trong các sáng tác của Nguyễn Trung Thành viết trong những năm đầu chống Mĩ, khi
chúng ồ ạt đổ quân vào miền Nam tiến hành cuộc chiến tranh chống phá.


Chủ đề Thông qua câu chuyện về những con người anh hùng ở một buôn làng hẻo lánh, bên những
cánh rừng xà nu bạt ngàn, xanh bất tận, tác giả đã đặt ra một vấn đề có ý nghĩa lớn lao của dân
tộc và thời đại: để cho sự sống của đất nước và nhân dân mãi mãi trường tồn, khơng có cách nào
khác hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí chống lại kẻ thù tàn.



<b>Phân</b>
<b>tích</b>
Giới


</div>
<span class='text_page_counter'>(65)</span><div class='page_container' data-page=65>

thiệu


chung Mết bên sàn nhà ưng, bên bếp lửa bập bùng đầm ấm. Tnú là lứa cây xà nu lớn cường tráng và bấtdiệt “hai cánh tay rộng lớn như hai cánh lim vững chắc”. Tnú mang trong mình vẻ đẹp lý tưởng
của người anh hùng trong thời kháng chiến chống Mỹ.


Lai
lịch
Tnú


Tnú là con của dân làng Xô Man. Cuộc đời Tnú gắn liền với cuộc đời làng Xô Man. Dân
làng Xô Man đã nuôi dưỡng, đùm bọc anh, cưu mang anh: “Nó là người Sa Trá mình, cha mẹ nó
<i>chết sớm, làng Xơ Man này ni nó. Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”.</i>
Chính tình thương yêu của đồng bào đã đem lại cho anh niềm tin u cuộc sống, tin vào chính
mình, gắn bó sâu sắc với bản làng quê hương, với những gì thân thuộc như: <i>tiếng chày giã gạo</i>
<i>của những cô gái, con nước mát lạnh đầu bản, những cụ già , những em nhỏ</i>,… Sau ba năm đi
lực lượng, được về thăm làng, Tnú thấy bồi hồi, xúc động trước cảnh vật thân thuộc q hương.
Tính


cách
Tnú


Tnú là người gan góc, táo bạo và quả cảm, sớm giác ngộ cách mạng. Tính cách này được
bộc lộ ngay từ nhỏ: anh dám cùng Mai xung phong vào rừng đi tiếp tế lương thực cho cán bộ,
<i><b>bảo vệ anh Quyết. Bất chấp sự vây lùng, khủng bố dã man của kẻ thù, chặt đầu anh Xút, treo</b></i>
<i><b>cổ bà Nhan, những người đi nuôi giấu cán bộ CM. </b></i>Đây là việc làm khó khăn, nguy hiểm
nhưng Tnú và Mai làm rất tốt để dân làng mãi tự hào “<i>năm năm chưa hề có cán bộ bị giặc bắt</i>


<i>hoặc bị giết ở trong rừng”. </i>


Khi được anh Quyết dạy chữ, Tnú “đã đi ba ngày đường đến núi Ngọc Linh mang đá
<i><b>trắng về làm phấn”. Ham ánh sáng văn hóa, Tnú cố học chữ để sau này thay anh Quyết lãnh đạo</b></i>
cách mạng. Học chữ thua Mai nó nổi nóng “đập bể bảng nứa...”, bỏ ra ngồi suối ngồi suốt
ngày rồi cầm hịn đá “đập vào đầu, chảy máu ròng ròng’’. Hành động hơi nóng nảy nhưng bộc
lộ ý chí và quyết tâm sắt đá của người có chí khí: vì khơng học được chữ nên trừng phạt cho đau
để nhớ để cố gắng hơn.


Khi làm liên lạc cho cán bộ từ xã lên huyện, Tnú cũng bộc lộ phẩm chất táo bạo và dũng
<b>cảm, mạo hiểm hơn người: “Nó khơng thích lội nước chỗ êm cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi,</b>
<i><b>vượt lên mặt nước, cưỡi lên thác băng băng như con cá kình” bởi theo Tnú “Qua chỗ nước</b></i>
<i><b>êm thằng Mĩ - Diệm hay phục, qua chỗ nước mạnh nó khơng ngờ”. Giặc vây các ngả đường</b></i>
<i><b>thì “Tnú leo lên một cây cao, nhìn quanh một lượt rồi xé rừng mà đi, lọt qua tất cả các vịng</b></i>
<i><b>vây”. Học chữ thì tối nhưng đi đường rừng thì sáng lạ lùng.</b></i>


Chưa hết, sự bất khuất, kiên cường đã được thể hiện qua lần bị giặc tra tấn dã man và sự
tù đày của kẻ thù. Lúc này, Tnú cường tráng như một cây xà nu lớn, không hề biết sợ hãi, không
hề biết khuất phục dù tàn bạo có hiện hình trong mũi súng hay lưỡi dao chém ngang dọc trên
lưng. Trong một lần chuyển thư của anh Quyết gửi về huyện, Tnú bị giặc bắt. Họng súng chĩa
vào tai lạnh ngắt, Tnú nhanh trí “nuốt thư vào bụng’’và điềm tĩnh chỉ vào bụng trả lời câu
<b>hỏi của kẻ thù “cộng sản đây này’’. Đây không phải là câu trả lời mà là sự thách thức dũng</b>
cảm. Tnú quả là người hiện thân của sự trung thành, thủy chung tuyệt đối với CM.


Lại một thử thách nữa đến với Tnú khi bọn giặc ở đồn Đắc Hà xuống làng Xô Man truy bắt
anh, khi biết anh củng dân làng mài vũ khí chuẩn bị đồng khởi. Không bắt được Tnú, chúng bắt
vợ con anh. Khơng thể cầm lịng trước sự tra tấn dã man Mai và đứa con chưa tròn tháng tuổi,
anh đã đối đầu với chúng. Lòng căm thù đã biến “hai con mắt anh thành hai cục lửa…anh đã
<i>bứt đứt hàng chục trái vả lúc nào mà không hay”. Mai và con anh bị kẻ thù giết chết ngay trước</i>
mắt anh. Tnú không cứu được vợ con, đau đớn hơn chính bản thân anh cũng trở thành nạn nhân


của sự bạo tàn mà kẻ thù đang sử dụng. Giặc dùng giẻ tẩm dầu xà nu quấn vào mười đầu ngón
tay và đốt: “Mười ngón tay anh đã trở thành mười ngọn đuốc” thiêu cháy cả ruột gan Tnú,
<b>anh “nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở trong bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi, răng</b>
<i><b>anh đã cắn nát môi anh rồi, nhưng Tnú nhất quyết không kêu van, người cộng sản khơng</b></i>
<i><b>kêu van, Tnú khơng kêu”. Hình ảnh mười đầu ngón tay rừng rực cháy bởi nhựa xà nu như mười</b></i>
ngọn đuốc khơng chỉ có ý nghĩa tố cáo tội ác qn thù hay nói lên lịng dũng cảm của người
chiến sĩ cách mạng. Cuộc đời Tnú gắn liền với những đau thương. Ngay cả gia đình nhỏ bé hạnh
phúc với người vợ dịu hiền và đứa con thơ, vậy mà cuối cùng gia đình nhỏ ấy bỗng chốc tan nát
bởi sự tàn ác của kẻ thù. Cái đau đớn mang trên thân xác và bi kịch gia đình của Tnú là hiện hữu
cái đau thương của dân làng Xô Man trong chiến tranh bị bọn Mị - Diệm tàn sát khơng thương
xót.


Vượt


</div>
<span class='text_page_counter'>(66)</span><div class='page_container' data-page=66>

kịch,
gia
nhập
quan
đội


và bn làng mài, Tnú gia nhập lực lượng bộ đội. Anh đi lực lượng để chiến đấu chống lại kẻ thù
xâm lược, để trả thù nước, rửa thù nhà “giết được giặc ở bất cứ nơi nào trên đất nước này cũng
<i><b>là giết được thằng Dục, kẻ thù của gia đình anh và quê hương anh</b></i><b>”. Dù bàn tay anh mỗi ngón</b>
chỉ cịn hai đốt, nhưng cử động được có nghĩa là cầm súng được. Anh đi bộ đội, trở thành tấm
gương lớn soi sáng cả một thế hệ ở làng Xơ Man.


Hình
ảnh
đơi
bàn


tay
Tnú


Khi xây dựng nhân vật Tnú, Nguyễn Trung Thành đặc biệt dụng công miêu tả đôi bàn tay
<b>của anh. Khi còn lành lặn, bàn tay Tnú là bàn tay nghĩa tình, thẳng thắn . Đấy là bàn tay cầm</b>
phấn học chữ do cán bộ dạy, bàn tay cầm đá ghè vào đầu để trừng phạt cái tội không nhớ mặt
chữ, bàn tay đặt lên bụng để chỉ cộng sản ở đây… Tuy vậy ấn tượng mạnh nhất về đơi bàn tay
của Tnú chính là đoạn cao trào của truyện, cũng là đọan đời bi tráng nhất của nhân vật. <i>Từ đây</i>
<i>bàn tay của Tnú thành tật nguyền, mỗi ngón chỉ cịn hai đốt và như một chứng tích về tội ác của</i>
<i>kẻ thù mà Tnú mang theo suốt đời . Đến cuối tác phẩm, bàn tay tật nguyền đấy vẫn tiếp tục cầm</i>
<i>súng giết giặc, vẫn có thể giết chết tên chỉ huy đồn địch dù nó cố thủ trong hầm. Như vậy, có thể</i>
nói bàn tay Tnú được miêu tả trải dài theo suốt cả câu chuyện. Từ đơi bàn tay này, người đọc có
thể thấy hiện lên không những cả dấu ấn cuộc đời mà cả những tính cách của nhân vật Tnú.
Tính


kỷ luật
của
Tnú


<b>Chưa hết, Tnú còn là người có tính kỷ luật cao. Anh về thăm quê, cấp trên cho chỉ có</b>
một đêm, mặc dù nhớ làng bản, nhớ người thân nhưng anh vẫn vui vẻ bởi có chấp hành nghiêm
túc nội qui quân đội mới là Tnú. Chính những lúc vui vẻ nhất, anh định đùa nhưng những ánh
mắt chờ đợi của mọi người anh lại thôi . Bởi ở anh một lời nói, một hành động đều có thể để lại
một tầm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống và tinh thần của người dân Xơ Man.


Nhận
xét
chung


Có thể thấy, h/ượng Tnú rất điển hình cho con đường đấu tranh đến với cách mạng


<b>của người dân Tây Nguyên làm sáng tỏ chân lí của thời đại đánh Mĩ: </b>“chúng nó đã cầm
<i>súng mình phải cầm giáo”. Bi kịch của Tnú khi chưa cầm vũ khí là bi kịch của người dân Strá</i>
khi chưa giác ngộ chân lý (bà Nhan, anh Xút). Tnú chỉ được cứu khi dân làng Xơ Man đã cầm
vũ khí đứng lên. Cuộc đời bi tráng của Tnú là sự chứng minh cho chân lí: <i>phải dùng bạo lực</i>
<i>cách mạng để tiêu diệt bạo lực phản cách mạng. Con đường đấu tranh của Tnú từ tự phát đến tự</i>
giác cũng là con đường đấu tranh đến với cách mạng của làng Xơ Man nói riêng và người dân
Tây Ngun nói chung. Tnú là hình tượng một nhân vật lí tưởng, đau thương mà bất khuất, là
người con vinh quang của dân làng Xô Man được khắc họa bằng những đường nét giàu chất sử
thi. Âm hưởng sử thi chi phối tác giả trong khi xây dựng nhân vật này. Cũng như nhiều nhân vật
văn học thời chống Mĩ, Tnú được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn, kết tinh vẻ đẹp anh hùng
của người dân Tây Nguyên.


<b>Kết</b>


<b>bài</b> <i><sub>đọc nhiều thế hệ. Tnú tiêu biểu cho hình mẫu người anh hùng dt Tây Nguyên và cũng mang</sub></i><b>“Gấp trang sách lại, hình ảnh Tnú với bao phẩm chất tốt đẹp vẫn sống mãi trong lịng bạn</b>
<i>những nét chung cho hình mẫu anh hùng dan tộc thấm đượm chất “sử thi”. Cùng với Trần Quốc</i>
<i>Toản, La Văn Cầu, Bế Văn Đàn, Nguyễn Văn Trỗi và biết bao anh hùng, liệt sĩ khác, các anh</i>
<i>đã ca lên bài ca khải hoàn chiến thắng cho dân tộc Việt Nam yêu dấu” (Phan Huy Dũng). Đúng</i>
như lời thơ sau:


Người hy sinh đất hồi sinh
Máu người hóa ngọc lung linh giữa đời.


</div>
<span class='text_page_counter'>(67)</span><div class='page_container' data-page=67>

ĐỀ 2


<b>Đề bài</b> <b>Phân tích tính sử thi của truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành </b>


<b>Mở bài</b> Nguyễn Trung Thành là nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mĩ, cũng là nhà văn của vùng đất Tây Nguyên. Trong cả hai cuộc kháng chiến, ơng đều
gắn bó với vùng đất này, hiểu biết về cuộc sống cũng như tinh thần của nhân dân các dân tộc


thiểu số, nên có những trang viết rất hay về đất và người Tây Nguyên. Ông là nhà văn có cơng
đưa mảnh đất Tây Ngun hoang sơ đến với văn học hiện đại Việt Nam. Viết về đề tài Tây
Nguyên, ông trở nên bất tử với truyện ngắn Rừng xà nu (1965). Tác phẩm đã đáp ứng được
những đặc điểm của nền văn học Việt Nam 1945 – 1975: tính chất sử thi của nền văn xi
cách mạng Việt Nam. Đọc tác phẩm, ta như nhìn thấy khơng khí của núi rừng Tây Nguyên
hùng vỹ, âm vang cồng chiêng của các dân tộc nơi đây và đặc biệt bắt gặp khơng khí hào hùng
của dân tộc trong những ngày kháng chiến chống Mỹ.


<b>Thân</b>
<b>bài</b>
HCST


Truyện ngắn Rừng xà nu được viết 1965. In lần đầu trên tạp chí Văn nghệ qn giải
<i>phóng, sau đó in trong tập truyện–kí Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc. Đây là tác</i>
phẩm nổi tiếng nhất trong các sáng tác của Nguyễn Trung Thành viết trong những năm đầu
chống Mĩ, khi chúng ồ ạt đổ quân vào miền Nam tiến hành cuộc chiến tranh chống phá.


Khái
niệm sử


thi


Sử thi là những áng văn tự sự (bằng văn vần hoặc văn xi), có quy mơ hồnh tráng, có
tính chất tồn dân và có ý nghĩa lớn lao trọng đại đối với cộng đồng, dân tộc, ca ngợi những
người anh hùng tiêu biểu cho phẩm chất và khát vọng của dân tộc. Nền văn học hiện nay
khơng cịn thể loại sử thi, nhưng tính chất sử thi vẫn được người cầm bút mang vào các sáng
tác và làm nên giá trị và sức sống cho từng trang viết, làm sống lại không khí hùng tráng của
một thời đại anh hùng.


Giới


thiệu
chung


<b>Tính sử thi trong truyện ngắn “Rừng xà nu” được thể hiện ở tất cả các phương diện:</b>
Bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, hoành tráng làm bối cảnh cho câu chuyện; Chủ đề mà tác phâm
đặt ra có ý nghĩa sống cịn với cách mạng Việt Nam qua cuộc đời đầy bi tráng của nhân vật;
Giọng kể, ngơn ngữ, hình ảnh trang trọng, giàu âm hưởng hào hùng, ngân vang.


<b>PT Tính</b>
<b>sử thi </b>
Chủ đề


<i><b>Trước hết ở chủ đề mà tác phâm đặt ra có ý nghĩa sống cịn với cách mạng Việt Nam,</b></i>
<i><b>những sự kiện có tính chất tồn dân được nhắc tới. Những chuyện xảy ra với làng Xơ man</b></i>
hồn tồn khơng có ý nghĩa cá biệt. Chúng là chuyện chung của cả Tây Nguyên, cả miền Nam,
cả nước trong những ngày chiến đấu chống đế quốc Mĩ. Tình thế bị o ép của làng Xô Man
trước ngày đồng khởi là bức tranh sinh động về cuộc sống đau thương của đồng bào miền Nam
trong những ngày Mĩ - Diệm thi hành luật 10-59, khủng bố dữ dội những người yêu nước,
những người kháng chiến cũ. Trước sự tàn ác của kẻ thù, nhân dân miền Nam chỉ có một con
đường duy nhất là cầm vũ khí vùng lên chiến đấu giải phóng q hươngKhi làng Xơ Man đứng
dậy thì gương mặt của làng lúc này lại chính là gương mặt của cả nước trong những ngày
quyết tâm đánh Mĩ và thắng Mĩ - một gương mặt rạng rỡ, tự tin, điềm tĩnh đón nhận những thử
thách mới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(68)</span><div class='page_container' data-page=68>

anh


hùng <i><b>một tập thể anh hùng. Những anh hùng được kể đến trong tác phẩm đều có tính đại diện cao,</b></i>mang trong mình phẩm chất của cả một dân tộc. Tập thể anh hùng trong “Rừng xà nu” là tập
thể đa dạng về lứa tuổi và giới tính. Mỗi gương mặt anh hùng đều có những nét riêng, thể hiện
một số phận riêng. Tuy nhiên, tất cả họ đều giống nhau ở những phẩm chất cơ bản: gan dạ,
<i>trung thực, một lòng một dạ đi theo cách mạng, yêu núi nước, yêu buôn làng, quyết tâm đánh</i>


<i>giặc đến cùng. Cuốn sử vẻ vang của làng Xô Man, của Tây Nguyên không phải do riêng một</i>
người mà do tất cả mọi người viết ra. Bản trường ca của núi rừng khơng chỉ trỗi lên một giọng
mà là sự tổng hồ của nhiều giọng: Anh Quyết, cụ Mết, anh Tnú, chị Mai, cơ Dít, bé Heng là
<i>những nhân vật tiêu biểu, nhưng bên cạnh họ, đằng sau họ cịn có bao người khác nữa cũng</i>
không chịu sống mờ nhạt, vô danh. Tất cả họ đều thi đua lập công, đều muốn góp phần mình
vào sự nghiệp vĩ đại của dân tộc. Đặc biệt là Tnú - cuộc đời đầy đau khổ, cay đắng, bị kẻ thù
giết hại cả gia đình; nhưng anh đã biến đau thương thành hành động, trở thành anh lực lượng
đi đánh giặc trả thù nhà nợ nước. Hình ảnh hai bàn tay bị đốt của Tnú là hình ảnh nhiều ý
nghĩa. Cuộc đời Tnú là cuộc đời chung của biết bao người trong thời đại ấy. Người anh hùng
Tnú với những phẩm chất tốt đẹp, đậm chất “sử thi”. Có thể nói, chất anh hùng tự ngàn đời đã
chảy vào huyết quản của mọi người. Dân tộc VN dù có hy sinh, dù có mất mác nhưng không
bao giờ lùi bước trước kẻ thù:


Nước VN từ trong biển máu
<i> Người vươn lên như một thiên thần.</i>


(Tố Hữu).
Rừng xà


nu
hoành
tráng, dữ


dội


Biểu hiện thứ ba của tính sử thi ở truyện ngắn “<i>Rừng xà nu” là bức tranh thiên nhiên</i>
<b>hùng vĩ, hoành tráng làm bối cảnh cho câu chuyện. Thiên nhiên trong “Rừng xà nu” thấm</b>
đẫm một cảm hứng sử thi và chất thơ hào hùng thể hiện qua từng trang sách miêu tả về rừng xà
nu. Mở đầu và kết thúc tác phẩm vẫn là rừng xà nu “nối tiếp nhau chạy đến chân trời”. Hiện
lên trước mắt người đọc là rừng cây xà nu ngút ngàn, hiên ngang trước nắng trước gió. Nguyễn


Trung thành đã rất thành cơng khi chọn cây xà nu- một loại cây mang đậm dấu ấn Tây Nguyên
để làm nổi bật vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ của thiên nhiên, núi rừng Tây Nguyên. Nhà văn đã tạo
nên sức hấp dẫn của truyện ngắn này bằng cách đưa người đọc đến một cảm giác mới lạ về
một hương vị dậy lên từ rừng núi, thiên nhiên chốn cao nguyên. Rừng xà nu chịu nhiều đau
thương mất mát nhưng xà nu vẫn vươn lên với sức sống mãnh liệt. Đó chính là bức tranh thiên
nhiên toàn cảnh về cuộc chiến traanh nhân dân rộng lớn và hào hùng của dân tộc ta. Cây xà nu,
rừng xà nu là biểu tượng cho con người ở Tây Nguyên:


“Một cây ngả cả rừng cây lại mọc
<i> Người tiếp người đã mấy vạn mùa xuân”</i>
<i> (Nguyễn Trung Thành).</i>
Nghệ


thuật tác
phẩm


đậm
chất sử


thi.


Tính sử thi của “Rừng xà nu” còn thể hiện ở giọng văn tha thiết, trang trọng mà tác giả
đã sử dụng khi kể về sự tích của làng Xơ Man. Giọng văn mang âm hưởng vang dội như tiếng
cồng tiếng chiêng của đất rừng Tây Nguyên đại ngàn hùng vĩ. Giọng văn đó ẩn chứa chất liệu
làm nên tính sử thi hoàng tráng của tác phẩm. Giọng văn ấy cũng thấm đượm trong việc miêu
tả thiên nhiên, khiến cho hình ảnh rừng xà nu bỗng thổi tới trong lòng người đọc một cảm giác
say sưa. Ta bị cuốn theo câu chuyện khơng gì cưỡng nổi, tưởng mình đang được tắm trên một
dịng sơng mênh mang, tràn trề sinh lực, hoặc tưởng mình đang bị thơi miên bởi một bản nhạc
giao hưởng hùng tráng.



<i>Kết cấu truyện theo lối vòng tròn hay cịn gọi là đầu cuối tương ứng. Chính kết cấu đó</i>
tạo nên dư âm hùng tráng đặc biệt. Lối kết cấu này như cái khung bền vững để nhà văn khai
triển câu truyện. Câu truyện mở ra bằng hình ảnh rừng xà nu được đặc tả kỹ lưỡng và sắc nét.
Cuối tác phẩm rừng xà nu cũng xuất hiện để khép lại câu truyện. Đây là lối kết cấu vừa đóng
vừa mở. Câu chuyện đóng lại để mở một câu truyện khác. Điều này làm chúng ta tưởng tượng
đây chỉ là một chương trong lịch sử ngàn đời của người Xô man, chỉ là một chương trong bản
anh hùng ca vô tận của Tây Nguyên.


Nhận
xét
chung


</div>
<span class='text_page_counter'>(69)</span><div class='page_container' data-page=69>

đại. Từ nội dung tư tưởng, cảm hứng nghệ thuật đến các hiện tượng, các phương diện hình
thức nghệ thuật, truyện ngắn rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành đều đậm đặc một chất sử
thi.


Nguyễn Trung Thành sử dụng đặc biệt nhiều các phép chuyển nghĩa, các hình ảnh so
sánh, ẩn dụ, tượng trưng, nhân hoá nhất là khi thể hiện hình tượng xà nu. Lời văn của tác phẩm
rất giàu hình ảnh, giàu nhạc tính có nhịp điệu, với nhiều cấu trúc thành trùng điệp, những hình
ảnh tương phản có giọng điệu khi hào hùng khi tha thiết nhất là lối cấu trúc vịng trịn với hình
tượng xà nu trở đi trở lại ở đầu và cuối tác phẩm. Cách sử dụng ngôn ngữ như thế cũng mang
dấu ấn của thể loại sử thi cũng đem lại cho tác phẩm nhiều chất sử thi.


<b>Kết bài</b> <i><sub>Rừng xà nu là trải nghiệm một đời văn, một đời chiến sĩ được tác giả thể hiện sâu sắc</sub></i>
trong tác phẩm. Niềm xúc động thiêng liêng về hình ảnh kì vĩ của tổ quốc giữa những ngày thử
thách đã thôi thúc Nguyễn Trung Thành viết nên thiên truyện này. Đó là một tác phẩm rất cô
đọng nhưng cũng hết sức bay bổng, gợi nên những cảm xúc vừa trầm lắng vừa say mê. Một tác
phẩm xuất sắc rất xứng tầm với thời đại đánh Mĩ oanh liệt, hào hùng. Chính vì thế mà truyện
ngắn này đậm đà chất sử thi.



<b>ĐỀ 3</b>


<b>Đề bài</b> <b>Phân tích hình tượng cây xà nu, rừng xà nu trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của</b>
<b>Nguyễn Trung Thành.</b>


<b>Mở bài</b> Nguyễn Trung Thành là nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mĩ, cũng là nhà văn của vùng đất Tây Nguyên. Trong cả hai cuộc kháng chiến, ơng đều
gắn bó với vùng đất này, hiểu biết về cuộc sống cũng như tinh thần của nhân dân các dân tộc
thiểu số, nên có những trang viết rất hay về đất và người Tây Nguyên. Ông là nhà văn có cơng
đưa mảnh đất Tây Ngun hoang sơ đến với văn học hiện đại Việt Nam. Viết về đề tài Tây
Nguyên, ông trở nên bất tử với truyện ngắn Rừng xà nu (1965). Bên cạnh tập thể anh hùng,
Nguyễn Trung Thành cịn sáng tạo nên một hình tượng nghệ thuật mang tính biểu trưng cho
sức mạnh của dân tộc và nhân dân ta trong cuộc kháng chiến vĩ đại. Đó chính là hình tượng
cây xà nu. Chính hình tượng cây xà nu đã tạo nên vẻ đẹp hùng tráng đậm chất sử thi, lãng
mạn cho câu chuyện về làng Xô Man bất khuất kiên cường. Đọc tác phẩm này, người đọc
nhận ra hình tượng cây xà nu đã trở thành một hình tượng chủ đạo xuyên suốt tác phẩm, gắn
bó với cuộc sống và mọi sinh hoạt của dân làng Xô Man.


<b>Thân bài</b>
HCST


Truyện ngắn Rừng xà nu được viết 1965. In lần đầu trên tạp chí Văn nghệ qn giải
<i>phóng, sau đó in trong tập truyện–kí Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc. Đây là tác</i>
phẩm nổi tiếng nhất trong các sáng tác của Nguyễn Trung Thành viết trong những năm đầu
chống Mĩ, khi chúng ồ ạt đổ quân vào miền Nam tiến hành cuộc chiến tranh chống phá.
<b>Chủ đề</b> Thông qua câu chuyện về những con người anh hùng ở một buôn làng hẻo lánh, bên


những cánh rừng xà nu bạt ngàn, xanh bất tận, tác giả đã đặt ra một vấn đề có ý nghĩa lớn lao
của dân tộc và thời đại: để cho sự sống của đất nước và nhân dân mãi mãi trường tồn, khơng
có cách nào khác hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí chống lại kẻ thù tàn.



<b>Phân tích</b>
Giới thiệu


chung


Cây xà nu là hình tượng nổi bật xuyên suốt trong tác phẩm. Mở đầu và kết thúc tác phẩm
đều là cảnh rừng xà nu “đến hút tầm mắt cũng khơng thấy gì ngồi những rừng xà nu nối tiếp
<i>chạy đến chân trời”. Hình ảnh ấy như một nét nhạc trầm hùng, là cái “phông” cho cả một câu</i>
chuyện khiến thiên truyện càng mang đậm tính sử thi. Ngoài ra, trong truyện ngắn “Rừng xà
<i>nu” gần 20 lần nhà văn nói đến cây xà nu ở nhiều góc độ khác nhau: rừng xà nu, cây xà nu,</i>
<i>nhựa xà nu, ngọn xà nu, đồi xà nu,… </i>


Ý 1 <b>Cây xà nu còn gắn bó mật thiết với đời sống nhân dân làng Xô Man cả trong sinh</b>
<b>hoạt hằng ngày: “đuốc xà nu Tnú soi cho Dít dần gạo, khói xà nu xông bảng nứa cho Tnú và</b>
<i>Mai học chữ để sau này làm cán bộ”. Cây xà nu còn tham gia vào các sự kiện trọng đại của</i>
buôn làng “giặc đốt hai bàn tay Tnú bẳng giẻ tẩm nhựa xà nu, đuốc xà nu soi sáng xác của
<i>những tên giặc trong đêm đồng khởi”.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(70)</span><div class='page_container' data-page=70>

chọn một loại cây họ thông mọc nhiều ở Tây Nguyên, gỗ và nhựa đều rất quý, rất gần gũi với
đời sống người dân Tây Nguyên để tượng trưng cho khí phách anh hùng và sức sống mãnh
<i>liệt của dân làng Xô Man, của núi rừng Tây Nguyên kiên cường bất khuất.</i>


Ý 3 <b><sub>Rừng xà nu chịu hủy diệt của đế quốc Mĩ, là chứng nhân của tội ác quân thù. Mở</sub></b>
đầu tác phẩm là hình tượng hàng trăm, hàng ngàn cây xà nu bị những mảnh đạn của giặc giày
xéo: “Cả rừng xà nu hàng vạn cây khơng có cây nào khơng bị thương. Có những cây bị
<i><b>chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra,</b></i>
<i><b>tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bám lại, đen và đặc quyện</b></i>
<i><b>thành từng cục máu lớn. Năm ba hơm thì cây chết”. Rõ ràng, rừng xà nu là biểu tượng cho</b></i>
sự mất mát, đau thương của cả dân tộc trong chiến tranh.



Rừng xà nu bị tàn hại, dân làng Xô Man của Tnú cũng chịu chung số phận “Làng ở
<i><b>trong tầm đại bác của giặc. Chúng nó bắn, đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc buổi sáng</b></i>
<i><b>sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và sẩm tối, hoặc nửa đêm và trở lại gà gáy”. Con người</b></i>
của làng Xô Man cũng như con người Tây Nguyên bị giặc Mỹ đến bao vây, lùng sục, khủng
bố dã man làm cho đầu rơi, máu chảy “giặc treo cổ anh Xút ở cây vả đầu làng; chúng chặt
<i><b>đầu bà Nhan treo đầu súng; Mai và đứa con chưa đầy tháng tuổi bị giặc dùng cây sắt đập</b></i>
<i><b>vào người cho đến chết; Tnú bị chúng đốt mười đầu ngón tay”. Bằng cách miêu tả hình ảnh</b></i>
cây và người trong quan hệ sóng đơi như thế, Nguyễn Trung Thành đã khắc sâu tội ác dã man
của kẻ thù để qua đó, tác giả giúp ta hình dung rõ hơn những thảm cảnh nhân dân ta phải chịu
do bọn giặc gây ra.


Ý 4 <b><sub>Rừng xà nu còn là biểu tượng về phẩm chất, truyền thống đấu tranh của dân làng</sub></b>
<b>Xô Man. Tuy bị tàn phá dữ dội nhưng rừng xà nu cũng như dân làng Xơ Man vẫn có sức</b>
sống mãnh liệt khơng gì có thể tiêu diệt được “Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn
<i><b>năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời…Đạn đại</b></i>
<i><b>bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành trên thân thể cường</b></i>
<i><b>tráng. Chúng vượt lên rất nhanh thay thế những cây đã ngã…”. Tư thế vươn lên mạnh mẽ</b></i>
ấy của cây xà nu như để thách thức với bom đạn của chiến tranh. Sức sống mãnh liệt đã giúp
những cánh rừng xà nu vươn lên trong một màu xanh, hiện lên hiên ngang, kiêu dũng như một
tráng sĩ<i>“Rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình để che chở cho dân làng’’. </i>


Cũng như con người của làng Xô Man hiên ngang trong lửa đạn, người người, lớp lớp,
thế hệ này ngã xuống tức thì thế hệ sau tiếp nối, quật khởi đứng lên: Anh Quyết hi sinh thì có
Tnú thay thế đảm nhiệm cơng việc mà anh Quyết để lại; Mai nằm xuống thì có Dít thay; thấp
thống bóng dáng dũng cảm của Tnú ngày xưa thì có bé Heng hôm nay cũng rất thạo đường
và rất gan dạ, thích làm bộ đội. Và đặc biệt cụ Mết là linh hồn, sức quật khởi của làng Xô
Man được ví như “một cây xà nu lớn”. Chính vì thế, khi gặp Tnú, cụ Mết đã hùng hồn khẳng
định với tất cả niềm kiêu hãnh và thách thức “khơng gì mạnh bằng cây xà nu đất ta, cây mẹ
<i><b>ngã, cây con mọc lên. Đố nó giết hết rừng xà nu này”. Đây là sức sống mãnh liệt khơng gì</b></i>


tàn phá nổi: “Một cây ngả cả rừng cây lại mọc


<i>Người tiếp người đã mấy vạn mùa xuân”</i>


<i>(Nguyễn Trung Thành).</i>


Có được điều này bởi người dân làng Xơ Man ln hướng về Đảng, về ánh sáng lí tưởng
Cách mạng nên họ thay nhau để nuôi giấu cán bộ, thanh niên bị cấm thì người già thay, người
già bị cấm thì trẻ con thay, bởi vì họ quan niệm “Đảng còn, núi nước này còn”. Cũng giống
như những cánh rừng quê hương, như những con người Việt Nam vẫn ý thức được rằng:


“Gươm nào chia được dòng Bến Hải
<i> Lửa nào thiêu được dãy Trường Sơn</i>
<i> Căm hờn lại giục căm hờn</i>


<i> Máu kêu trả máu đầu van trả đầu” </i>


Cứ như thế, các thế hệ người Tây Nguyên đã thay nhau giữ vững ngọn lửa truyền thống,
thay nhau giữ vững ý chí đánh giặc kiên cường, để giữ làng, giữ nước.


<b>Nhận xét</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(71)</span><div class='page_container' data-page=71>

<i>lên bầu trời,…) và nhân hoá (bị thương, chặt đứt ngang nửa thân mình, ưỡn tấm ngực lớn</i>
<i>che chở cho làng,…) rất đặc sắc đã làm cho cây xà nu và rừng xà nu hiện lên một cách sống</i>
động hùng tráng đậm chất sử thi trước mắt người đọc. Hình tượng cây xà nu thật sự là một
sáng tạo nghệ thuật đáng kể của Nguyễn Trung Thành. Nhà văn đã lựa chọn hình ảnh cây xà
nu và đem lại cho nó những ý nghĩa mới, những lớp ý nghĩa rất khác nhau qua cách viết vừa
gợi vừa tả của tác giả.


Song hình tượng cây xà nu cịn là ẩn dụ về con người làng Xô Man, con người Tây


Nguyên trong những ngày đành giặc cứu nước với sức sống bền bĩ và kiêu hùng. Cho dù cuộc
chiến tranh khốc liệt kia đã đi qua, nhưng hình tượng nghệ thuật ấy vẫn rất giàu sức sống, vẫn
như một lời nhắc nhở về những phẩm giá tốt đẹp của con người. Qua hình tượng này, người
đọc khơng chỉ thấy rõ sức sống kiên cường, mãnh liệt của dân làng Xơ Man, của con người
Tây Ngun nói riêng mà cịn là của dân tộc Việt Nam nói chung trong những tháng năm
chống Mĩ. Dáng đứng cây xà nu là dáng đứng VN anh hùng.


<b>Kết bài</b> <sub>Trong bài viết “Về truyện ngắn Rừng xà nu”, tác giả đã tâm sự: “Ngay từ năm 1962,</sub>
<i>trên đường vào miền Nam công tác, đến tỉnh Thừa Thiên, giáp Lào, tôi được chứng kiến</i>
<i>những rừng xà nu bát ngát xanh tít tận chân trời. Đấy là những cây họ thông, hùng vĩ và cao</i>
<i>thượng, man dại và trong sạch. Mỗi cây cao vút vạm vỡ nhựa ứa ra, tán lá vừa thanh nhã vừa</i>
<i>rắn rỏi”. Những cây xà nu có phẩm chất đặc biệt ấy đã gây ấn tượng mạnh mẽ và khơi nguồn</i>
cảm hứng cho tác giả ba năm sau (1965) tạo dựng lên hình tượng cây xà nu đặc sắc này. Nhìn
chung rừng xà nu và con người làng Xô Man tuy hai mà một, mang ý nghĩa biểu tượng rất cao
đẹp và sâu sắc. Nét đặc sắc của truyện ngắn này chính là ở chỗ nhà văn đã thể hiện sự sinh tồn
mạnh mẽ của dân tộc cho dù chiến tranh có tàn khốc thế nào cũng khơng thể hủy diệt được.


<b>VỢ CHỒNG A PHỦ - TƠ HỒI</b>
ĐỀ 1


<b>Đề bài</b> <b>Phân tích hình tượng nhân vật Mị trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tơ Hồi.</b>
<b>Mở bài</b> Tơ Hồi là nhà văn của núi rừng Tây Bắc. Sự nghiệp sáng tác của ông khá đồ sộ với số


lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Sáng tác của ông cũng đa dạng
về đề tài và thể loại. Trong đó, mảng tác phẩm viết về đề tài miền núi chiếm vị trí quan trọng.
“Vợ chồng A Phủ” được xem là truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về đề
tài Tây Bắc trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Đây là tác phẩm hội tụ tinh hoa của ngịi
bút Tơ Hồi. Trong tác phẩm, nhà văn tỏ ra rất công phu trong việc xây dựng những nhân vật
tâm đắc của mình, đặc biệt truyện đã xây dựng thành công nhân vật Mị để qua đó ca ngợi vẻ
đẹp tâm hồn, sức sống tiềm tàng và khả năng đến với cách mạng của nhân dân Tây Bắc



<b>Thân</b>
<b>bài</b>
HCST


<i>Vợ chồng A Phủ” (1952) được in chung trong tập “Truyện Tây Bắc” (1953) của Tơ Hồi,</i>
được giải nhất của Hội Văn nghệ VN 1954-1955. Tập truyện là kết quả chuyến đi thực tế của
tác giả cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Trong chuyến đi 8 tháng này, n/văn sống chung
với đồng bào dân tộc ít người, hiểu được cuộc sống tủi nhục của họ. Từ đó, Tơ Hồi có thêm
chất liệu và cảm hứng để sáng tác thành cơng tập “Truyện Tây Bắc” nói chung và “Vợ chồng
<i>A Phủ” nói riêng. Tác phẩm đánh dấu sự chín muồi về tư tưởng và tình cảm của nhà văn. Sau</i>
hơn nửa thế kỉ đến nay, t/phẩm vẫn giữ nguyên giá trị và có sức thu hút đối với nhiều thế hệ
người đọc.


<b>Phân</b>
<b>tích</b>
Giới
thiệu
chung


Nếu trong tập “Truyện Tây Bắc” của Tơ Hồi, “Vợ chồng A Phủ” là truyện thành cơng
nhất, thì trong “Vợ chồng A Phủ”, nhân vật Mị là nhân vật máu thịt nhất. Ở Mị có hai mặt
tưởng như đối lập nhưng lại rất thống nhất: thứ nhất, Mị bị chà đạp nặng nề, cam chịu đến mất
cả sự sống; thứ hai là ngay trong tình trạng đó, Mị vẫn tiềm ẩn một sức sống để từ đó vươn dậy
và cuối cùng là tháo củi sổ lồng tìm lại lẽ sống cho mình. Mị là hình ảnh tiêu biểu cho số phận
những người phụ nữ nghèo khổ dưới ách thống trị của bọn quan lại phong kiến miền núi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(72)</span><div class='page_container' data-page=72>

đau khổ, đắng cay, bất hạnh.
<b> Mị - cô</b>



<b>gái</b>
<b>đáng</b>


<b>yêu</b>


Mị là cô gái vùng dân tộc Mèo xinh đẹp, có tài thổi sáo “<i>Mị uốn chiếc lá trên môi thổi lá</i>
<i>hay như thổi sáo”. Mà tài năng âm nhạc bao giờ cũng báo hiệu sự sống tràn trề của vẻ đẹp</i>
tâm hồn. Mị cũng có trái tim sôi nổi và khao khát yêu thương. Đã bao lần cô bồi hồi trước âm
thanh của những buổi hẹn hò. Mị cũng đã từng được nhiều người yêu “<i>có biết bao người mê,</i>
<i>ngày đêm thổi sáo đi theo Mị hết núi này đến núi khác… Trai đứng nhẵn cả chân vách đầu</i>
<i>buồng Mị”. Mị cũng là cô gái chăm chỉ và hiếu thảo. Đáng lý ra với những phẩm chất như vậy,</i>
Mị phải có cuộc sống hạnh phúc. Nhưng vì gia đình nghèo, Mị khơng có cuộc sống như mình
mong muốn.


<b>Mị con</b>
<b>dâu gạt</b>


<b>nợ của</b>
<b>nhà</b>
<b>thống lý</b>
<b>Pá Tra </b>


<b>-nạn</b>
<b>nhân</b>


<b>của</b>
<b>thần</b>
<b>quyền</b>


<b>Sức</b>


<b>sống</b>
<b>tiềm</b>
<b>tàng</b>
<b>của Mị</b>


Nhưng người con gái tài hoa miền sơn cước đó phải chịu một cuộc đời bạc mệnh. Để cứu
cha, cuối cùng cơ đã chịu bán mình, chịu sống cảnh làm người con dâu gạt nợ trong nhà thống
lí. Món nợ nhà giàu truyền kiếp đã cướp trắng tuổi trẻ dạt dào khát vọng. Mị bị cướp đoạt tình
yêu đã đành, đến lễ hỏi cưới xin cũng khơng có “tiền bạc để cưới, bố tôi bảo đã đưa cho bố cả
<i>rồi”. Mị chính là nạn nhân của sự đầu độc áp chế về mặt tinh thần. Bọn thống lý Pá Tra đã lợi</i>
dụng thần quyền, óc mê tín để bắt người nơ lệ phải cam chịu “nó đã bắt mình về trình ma nhà
<i>nó thì chỉ đợi ngày chết ở đây thơi”.</i>


Danh nghĩa là con dâu nhà thống lý giàu có, sung sướng nhưng thực chất Mị là một nô lệ,
một thứ tù khổ sai chung thân. Đời Mị chỉ gắn với những công việc nối nhau, mỗi năm, mỗi
mùa, mỗi tháng cứ thế mà làm đi làm lại “Mị cúi mặt khơng nghĩ ngợi gì nữa mà lúc nào cũng
<i>chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẻ ra trước mặt. Mỗi năm, mỗi mùa, mỗi</i>
<i>tháng lại làm đi làm lại. Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, se đay.</i>
<i>Đến mùa thì đi nương bẻ bắp. Và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngơ, lúc nào cũng gài một bó đay</i>
<i>trong cánh tay để tước thành sợi”. Thân phận Mị còn thua cả con trâu, con ngựa “Con trâu,</i>
<i>con ngựa làm cịn có lúc đêm nó được đứng gãi chân nhai cỏ. Đàn bà con gái nhà này thì vùi</i>
<i>vào làm việc cả đêm cả ngày”.</i>


Từ đấy, Mị sống cam chịu nhẫn nhục đến tê liệt cả ý thức phản kháng, sống mà như đã
chết, buông xuôi cho số phận: “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng
<i>mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa,… ”. Mị co mình lại né tránh tất cả trong cô độc</i>
tuyệt đối “Mỗi ngày Mị càng khơng nói, lùi lũi như con rùa ni trong xó cửa”. Và Mị cũng
khơng mong đợi bất cứ điều gì, khơng có ý niệm cả khơng gian và thời gian. Mị về làm dâu
nhà thống lý đã mấy năm, từ năm nào cơ cũng khơng nhớ cũng khơng cịn ai nhớ. Từ đó, đời
cơ gắn liền với căn buồng. Hình ảnh căn buồng được miêu tả nhiều lần trong tác phẩm: “Ở căn


<i>buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng</i>
<i>chỉ thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng, mình cứ chỉ ngồi trong</i>
<i>cái lỗ vuông ấy mà trông ra đến bao giờ chết thì thơi”. Hình ảnh căn buồng có ý nghĩa hiện</i>
thực. Nó như một thứ ngục thất tinh thần giam hãm thân xác Mị, cách ly tâm hồn cô với cuộc
đời, cầm cố tuổi xuân và sức sống của Mị. Rõ ràng, Mị đang sống cuộc sống tinh thần mòn
mỏi, tàn lụi.


Có thể thấy, Tơ Hồi đã diễn tả chân thực nỗi cực nhọc về thể xác của Mị để nói lên tiếng
nói tố cáo chế độ phong kiến miền núi đã chà đạp lên quyền sống của con người. Cái chế độ ấy
đáng lên án, nó làm cạn khơ nhựa sống, làm tàn lụi đi ngọn lửa của niềm vui sống trong những
con người lao động.


Nhưng cũng có lúc hồn cảnh khơng thể dập tắt được sức sống của một con người. Tâm
hồn Mị khơng hồn tồn giá băng. Lịng ham sống và muốn sống trong yêu thương vẫn âm ỉ
cháy trong đáy sâu tiềm thức của Mị. Ở Mị vẫn đang tiềm tàng một sức sống mãnh liệt, sức
sống ấy sẽ trỗi dậy nếu gặp cơ hội. Trong truyện, sức sống tiềm tàng của Mị trỗi dậy ba lần.
<b>Lần 1</b> Ở lần thứ 1, đó là sau khi bị bắt về làm dâu gạt nợ nhà thống lý, có đến mấy tháng trời


đêm nào Mị cũng khóc. Rồi khơng thể chịu đựng Mị đã trốn về nhà chào bố với nắm lá ngón
tự tử. Trong hồn cảnh đó, chết cũng là một cách để chống lại số phận. Niềm khao khát được
sống như một con người đã khiến cô không chấp nhận thân phận nơ lệ. Tìm đến cái chết lúc
này là dấu hiệu của sự phản kháng.


<b>Lần 2</b>
Trong


</div>
<span class='text_page_counter'>(73)</span><div class='page_container' data-page=73>

đêm tình
mùa
xn



lịng ham sống của Mị. “Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng bát” trong trạng thái khác
thường. Cách uống “ừng ực từng bát” như thế dường như cơ đang uống đắng cay của cuộc đời
mình vì hơi men giúp Mị quên hiện tại cay đắng và tiếng sáo làm Mị phơi phới trở về ngày
trước. Mị ý thức được bản thân mình, cõi lịng đã phơi phới trở lại, nhưng một ý nghĩ rất lạ
lùng mà chân thực xuất hiện “nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay
<i>chứ không buồn nhớ lại nữa”. Nghịch lí trên nhưng chính là niềm khao khát hồi sinh.</i>


Lúc này “trong lòng Mị đột nhiên vui sướng như những đêm ngày tết trước”. Mị tìm ra lý
lẽ để đấu tranh cho quyền được sống. Lập luận ngày càng chặt chẽ từ thấp đến cao “Mị trẻ
<i>lắm, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày tết. Huống</i>
<i>chi Mị và A Sử khơng có lịng với nhau”. Và hành động đầu tiên có ý nghĩa như sự thức tỉnh đó</i>
là “Mị thắp sáng ngọn đèn, rồi Mị quấn tóc lại ,lấy cái váy hoa chuẩn bị đi chơi như ngưòi tự
<i>do”. Đây là ý nghĩ hết sức táo bạo, chứng tỏ khát vọng tự do đã lên đến đỉnh điểm và ngày</i>
càng mãnh liệt.


Nhưng ý định của Mị không thực hiện được, khát vọng sống vừa trỗi dậy đã bị dập tắt. A
Sử trở về, phát hiện ra ý định của Mị nên đã trói đứng Mị vào cột nhà bằng một thúng sợi đay.
Rồi hắn còn quấn ln tóc Mị lên cột làm cho Mị khơng cúi, không nghiêng được. Đây là một
hành động vô cùng độc ác, dã man và ích kỉ, tàn tệ của A Sử, một trong những nhân vật đại
diện cho thế lực phong kiến ở đây. Mặc dù thân thể bị hành hạ nhu thế, nhưng tâm hồn Mị vẫn
còn sống với những khát vọng cháy bỏng. Mị vẫn nghe tiếng sáo và có cảm tưởng như đang
bước đi. Nhưng bị dây trói thít lại đau nhức từng cơn “Mị khơng còn nghe tiếng sáo nữa và chỉ
<i>còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách”. Đau đớn làm Mị trở về với thực tại và ý thức được</i>
được rằng thân mình không bằng con ngựa. Khi cận kề với cái chết, Mị lại cảm thấy sợ chết
“Mị sợ quá. Mị cựa quậy xem mình cịn sống hay đã chết”. Điều này rất quan trọng bởi đây là
cái tiềm tàng của tình yêu cuộc sống nơi Mị. Có thể thấy, tâm hồn Mị câm lặng mà ngầm chứa
một sức sống lạ lùng. Đó cũng chính là giá trị nhân đạo của tác phẩm.


<b>Lần 3</b>
Trong


đêm
mùa
đơng ở
rẻo cao
giải
thốt
cho A


Phủ


Đây là đoạn văn hay nhất trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Đoạn này chứng tỏ ngịi bút
phân tích tâm lí nhân vật của Tơ Hồi rất sắc sảo. Nhân vật của ơng luôn là con người tâm
trạng để tiến tới một hành động. Đoạn văn này được miêu tả rất khéo léo.


Đêm đầu tiên, Mị nhìn thấy A Phủ bị trói vào cột nhà “Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay.
<i>Nếu như A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi”. Cả mấy đêm như vậy, tâm hồn Mị có</i>
vẻ dửng dưng vơ cảm bởi vì việc trói người được lặp đi lặp lại thường xuyên ở nhà thống lí Pá
Tra: ngày xưa chị dâu Mị bị trói, Mị cũng bị trói và hơm nay đến lượt A Phủ. Hình ảnh dây trói
được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong tác phẩm vừa mang ý nghĩa hiện thực vừa mang ý nghĩa
tượng trưng. Đó là sợi dây trói buột của xã hội phong kiến đối với những người lao động
nghèo.


Nhưng rồi một đêm, Mị trở dậy thổi lửa hơ tay và qua ánh lửa bập bùng, Mị thấy “<i>một</i>
<i>dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ, đây là biểu hiện sự</i>
đau đớn tuyệt vọng của A Phủ. Mị bắt đầu xúc động. Mị nhớ lại chính mình ngày trước, cũng
từng bị trói đến chết ở đây “nhiều lần nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi
<i>được”. Từ sự thật trước mắt và bản thân,Mị nhận thức được bản chất của bọn thống trị “chúng</i>
<i>nó thật độc ác”. Và Mị nhận ra cái chết của A Phủ sẽ thật là đau đớn và vơ lí. Lúc này, Mị</i>
đang đứng giữa hai con đường: một là cam chịu, hai là phản kháng. Cuối cùng tinh thần phản
kháng đã chiến thắng, Mị đi đến một hành động táo bạo là “cắt dây cởi trói cho A Phủ”.


Nhưng nếu Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ thì ai sẽ là người thay thế A Phủ chịu trói vào cái cột
ấy.Vì thế Mị có thêm một quyết định nữa là chạy theo A Phủ “A Phủ cho tôi đi với …ở đây thì
<i>tơi chết mất”. Như vậy, hành động cởi trói cho A Phủ cũng là cởi trói cho chính mình . Ở đây</i>
cùng một lúc, Mị đã cắt đứt hai sợi dây trói: sợi dây trói cụ thể và sợi dây trói vơ hình. Qua
việc cởi trói cho A Phủ, nhà văn Tơ Hồi muốn đặt ra một vấn đề, chỉ có những người cùng
cảnh ngộ mới có thể thông cảm và giúp đỡ lẫn nhau để cùng giải thốt cho chính mình.


<b>Nhận</b>
<b>xét</b>
<b>chung</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(74)</span><div class='page_container' data-page=74>

lịng u thương thơng cảm, Tơ Hồi mới phát hiện ra vẻ đẹp tiềm tàng trong tâm hồn những
con người ham sống như Mị.


<b>Kết bài</b> <sub>Trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, qua việc khắc hoạ sâu sắc cuộc đời, số phận, tính</sub>
cách Mị, nhà văn đã tố cáo hùng hồn, đanh thép những thế lực phong kiến, thực dân tàn bạo áp
bức bóc lột, đọa đày người dân nghèo miền núi. Đồng thời, tác giả cũng khẳng định khát vọng
tự do hạnh phúc, sức sống mạnh mẽ và bền bỉ của những người lao động, đặc biệt đề cao sự
đồng cảm giai cấp, tình hữu ái của những người lao động nghèo khổ. Chính điều này đem lại
sức sống và sự vững vàng trước thời gian của “Vợ chồng A Phủ”.


<b>ĐẾ 2</b>


<b>Đề bài</b> <b>Phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân trong truyện</b>
<b>ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tơ Hồi.</b>


<b>Mở bài</b> Tơ Hồi là nhà văn của núi rừng Tây Bắc. Sự nghiệp sáng tác của ông khá đồ sộ với số
lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Sáng tác của ông đa dạng về đề
tài và thể loại. Trong đó, mảng tác phẩm viết về đề tài miền núi chiếm vị trí quan trọng. “Vợ
<i>chồng A Phủ” được xem là tác phẩm thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây</i>


Bắc trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Đây là tác phẩm hội tụ tinh hoa của ngịi bút Tơ
Hồi. Trong tác phẩm, nhà văn tỏ ra rất công phu trong việc xây dựng những nhân vật tâm đắc
của mình, đặc biệt truyện đã xây dựng thành công nhân vật Mị. Nhân vật Mị là một sáng tạo
đặc sắc của Tơ Hồi và chi tiết đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài là tình tiết cảm động nhất, hay
nhất của truyện đã thể hiện khát vọng sống, khao khát tình yêu của người con dâu gạt nợ.
<b>Thân</b>


<b>bài</b>
HCST


<i>Vợ chồng A Phủ” (1952) được in chung trong tập “Truyện Tây Bắc” (1953) của Tơ Hồi,</i>
được giải nhất của Hội Văn nghệ VN 1954-1955. Tập truyện là kết quả chuyến đi thực tế của
tác giả cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Trong chuyến đi 8 tháng này, n/văn sống chung với
đồng bào dân tộc ít người, hiểu được cuộc sống tủi nhục của họ. Từ đó, Tơ Hồi có thêm chất
liệu và cảm hứng để sáng tác thành cơng tập “Truyện Tây Bắc” nói chung và “Vợ chồng A
<i>Phủ” nói riêng. Tác phẩm đánh dấu sự chín muồi về tư tưởng và tình cảm của nhà văn. Sau hơn</i>
nửa thế kỉ đến nay, t/phẩm vẫn giữ nguyên giá trị và có sức thu hút đối với nhiều thế hệ người
đọc.


<b>Phân</b>
<b>tích</b>
Giới
thiệu
chung


Mị mồ cơi mẹ, ở với cha già. Mị xinh đẹp, tuổi xuân phơi phới. Nhưng vì món nợ nhà giàu
truyền kiếp, Mị trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lý Pá Tra. Tuổi xuân của Mị bị thằng A Sử,
con trai thống lí tước đoạt, giày xéo. Mị khổ như con trâu, con ngựa. Mị toan ăn lá ngón tự tử,
nhưng thương cha già, Mị chết khơng đành lịng. Sống trong đau khổ, Mị gần như vơ cảm vơ
hồn "càng khơng nói, lùi lũi như con rùa ni trong xó cửa". Sống bng xi, sống mà như đã


chết. Nhưng cũng có lúc hồn cảnh khơng thể dập tắt được sức sống của một con người. Tâm
hồn Mị khơng hồn tồn giá băng. Lòng ham sống và muốn sống trong yêu thương vẫn âm ỉ
cháy trong đáy sâu tiềm thức của Mị. Ở Mị vẫn đang tiềm tàng một sức sống mãnh liệt, sức
sống ấy sẽ trỗi dậy nếu gặp cơ hội. Và đó chính là đêm tình mùa xn.


Khung
cảnh
ngày
xn
nhân tố
tác động


sâu sắc
đến Mị


Xuân qua rồi xuân trở lại. Đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài lại đến. Cả một không gian
tưng bừng. Lúa ngơ đã thu hoạch xong, gió và rét dữ dội thổi vào cỏ gianh vàng ửng, những
chiếc váy hoa phơi trên mỏm đá xoè như con bướm, tiếng cười ầm của đám trẻ con chơi quay ,
tiếng sáo thổi ngoài đầu núi rủ bạn đi chơi. Trước cảnh tưng bừng ấy, cứ tưởng Mị "Riêng mình
<i>nào biết có xn là gì?". Nhưng thật bất ngờ. Những đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài đã hồi</i>
sinh và hồi xuân tâm hồn Mị. Tâm trạng và hành động Mị đã được Tơ Hồi thể hiện một cách
tinh tế, xúc động, phát triển theo những cung bậc tình cảm khác nhau, cung bậc sau cao hơn
cung bậc trước.


Âm
thanh
tiếng sáo


Ban đầu, Mị nghe thấy tiếng sáo thổi gọi bạn đi chơi xa xa, ở ngoài đầu ngõ: “Tiếng sáo
<i>vọng lại, thiết tha bổi hổi”. Mị rung lên những tình cảm lạ và lẩm nhẩm hát theo bài hát người</i>


đang thôi sáo:


"Mày có con trai con gái
<i> Mày đi làm nương</i>


<i> Ta khơng có con trai con gái</i>
<i> Ta đi tìm người yêu"</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(75)</span><div class='page_container' data-page=75>

tâm hồn Mị. Đây có lẽ là dấu hiệu đầu tiên của sự hồi sinh. Cô bắt đầu nghe được âm thanh của
sự sống và đang dần dần hoà nhập vào cuộc sống. Ttiếng sáo chính là tác nhân đánh thức lịng
ham sống của Mị.


Uống
rượu và
sống về
kỉ niệm


Tiếp đến, Mị tìm đến với rượu “Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng bát” trong trạng
thái khác thường. Cách uống “ừng ực từng bát” như thế dường như cô đang uống đắng cay của
cuộc đời mình, uống cho vơi đi nỗi đau khổ? Bởi hơi men giúp Mị quên hiện tại cay đắng. Rồi
say rượu "lịm mặt", Mị hồi tưởng lại mùa xuân tươi đẹp của thời con gái: “Ngày trước, Mị thổi
<i>sáo giỏi… Mị uốn chiếc lá trên môi,thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê,</i>
<i>ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Mị tự hào về tài năng của mình, hãnh diện về một thời tươi đẹp</i>
xưa kia. Mị bắt đầu ý thức được bản thân mình, cõi lòng đã phơi phới trở lại, nhưng một ý nghĩ
rất lạ lùng mà chân thực xuất hiện “nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết
<i>ngay chứ khơng buồn nhớ lại nữa”. Lịng ham sống trào dậy đầu tiên trong ý nghĩ muốn chết</i>
ngay, bởi Mị không thể cam chịu mãi kiếp con dâu gạt nợ. Uất ức, nước mắt Mị ứa ra, khi tiếng
sáo gọi bạn yêu "vẫn lửng lơ bay ngoài đường". Những cảm xúc trong tâm hồn Mị đang dần sống
lại. Tâm hồn Mị diễn biến phức tạp trong quá trình thức tỉnh, nổi loạn. Nghịch lí trên nhưng
chính là niềm khao khát được sống.



Chuẩn
bị đi
chơi


Lúc này “trong lòng Mị đột nhiên vui sướng như những đêm ngày tết trước”. Mị tìm ra lý
lẽ để đấu tranh cho quyền được sống. Lập luận ngày càng chặt chẽ từ thấp đến cao “Mị trẻ lắm,
<i>Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày tết. Huống chi</i>
<i>Mị và A Sử khơng có lịng với nhau”. Lúc này, Mị đang sống trong nghịch lí giữa thân phận con</i>
dâu gạt nợ và niềm phơi phới muốn đi chơi Tết. Những suy nghĩ sục sôi trong tâm tư đã dẫn Mị
đến hành động: Mị vào buồng, lần này khơng phải để nhìn qua "cái lỗ vng" để nghĩ đến cái
chết, mà Mị đã hành động một cách mạnh mẽ, ngang nhiên trước mặt A Sử khi hắn xuất hiện
bất ngờ. Hành động đầu tiên có ý nghĩa như sự thức tỉnh đó là “xắn thêm miếng mỡ bỏ vào đĩa
<i>đèn cho sáng…Mị quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa, rút thêm cái áo chuẩn bị đi chơi Tết</i>
<i>như một người tự do”. A Sử nhìn, Mị "cũng khơng nói"</i> hay khơng thèm nói? Đây là ý nghĩ và
hành động hết sức táo bạo. Hàng loạt hành động "nổi loạn" diễn ra liên tiếp khi tiếng sáo đang
<i>"rập rờn"</i> trong đầu Mị. Tất cả chứng tỏ khát vọng tự do đã lên đến đỉnh điểm và ngày càng mãnh
liệt.


A Sử
ngăn cản


ý định
của Mị


Nhưng ý định của Mị không thực hiện được, khát vọng sống vừa trỗi dậy đã bị dập tắt. A
Sử phát hiện ra ý định của Mị nên đã trói đứng Mị vào cột nhà bằng một thúng sợi đay. Rồi hắn
cịn quấn ln tóc Mị lên cột làm cho Mị khơng cúi, khơng nghiêng được. Đây là một hành
động vô cùng độc ác, dã man và ích kỉ, tàn tệ của A Sử, một trong những nhân vật đại diện cho
thế lực phong kiến ở đây. Mặc dù thân thể bị hành hạ như thế, nhưng tâm hồn Mị vẫn còn sống


với những khát vọng cháy bỏng. Thể hiện diễn biến tâm trạng và hành động Mị trong cảnh Mị
bị trói trong đêm tình mùa xn, ngịi bút nghệ thuật của Tơ Hồi như đã "nhập hồn" vào nhân
vật. Trong bóng tối, Mị "đứng im lặng". Hơi rượu còn "nồng nàn" như nâng đỡ tâm hồn Mị. Mị "vẫn
<i>nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi"</i>. Mị vùng bước đi, lịng "bồi
<i>hồi"</i> theo tiếng sáo: "Em khơng yêu quả pao rơi rồi - Em yêu người nào, em bắt pao nào...".


Mị lại trở lại thực tại đau đớn, khổ nhục "tay chân đầu không cựa được". Mị "thổn thức nghĩ
<i>mình khơng bằng con ngựa"</i> khi nghe tiếng ngựa "gãi chân", nhai cỏ, tiếng chó sủa xa xa. Mị nghĩ
đến những cảnh tình tự của bao cặp tình nhân giờ này đã "dỡ vách ra rừng chơi". Mị nín khóc, Mị
lại bồi hồi trong trạng thái lúc mê lúc tỉnh. Dây trói thít lại, đau nhức. Hơi rượu tỏa, Mị "nồng
<i>nàn tha thiết nhớ"</i>. Bị trói đứng suốt đêm, Mị "bàng hoàng tỉnh" cho đến lúc trời sáng. Chỉ nghe
tiếng lửa réo - Không một tiếng động - Mị nghĩ đến các vợ chú, thương những người đàn bà
<i>"khốn khổ sa vào nhà quan"</i>; thương người đàn bà nọ bị chồng trói chết trong nhà thống lí. Mị
vừa thương mình, vừa thương người, thương cho thân phận những người đàn bà ở Hồng Ngài
<i>"một đời con người chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng"</i>. Mị sợ hãi "cựa quậy" xem mình cịn
sống hay chết, dây trói siết chặt lại "đau dứt từng mảnh thịt". Điều này rất quan trọng bởi đây là
cái tiềm tàng của tình yêu cuộc sống nơi Mị. Có thể thấy, tâm hồn Mị câm lặng mà ngầm chứa
một sức sống lạ lùng. Đó cũng chính là giá trị nhân đạo của tác phẩm.


Tiếng


</div>
<span class='text_page_counter'>(76)</span><div class='page_container' data-page=76>

âm thanh tiếng sáo dìu dặt đã làm cho Mị nhớ lại “<i>Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi”. Lúc Mị muốn</i>
chết thì “Tiếng sáo gọi bạn u lửng lơ bay ngồi đường”. Có lẽ tiếng sáo gọi bạn này đã tiếp
thêm sức mạnh cho Mị hành động. Mị chuẩn bị đi chơi khi “Trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo”.
Khi bị A Sử trói đứng ở cột nhà “Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa mị Mị đi theo những cuộc chơi,
<i>những đám chơi”…. Âm thanh tiếng sáo vốn là biểu tượng của mùa xuân, của tình yêu, của sự</i>
sống. Mị nghe được âm thanh này chính là Mị nghe được âm thanh của cuộc sống, của hạnh
phúc. Tiếng sáo gọi bạn tình được Tơ Hồi nhắc đi nhắc lại 13 lần đầy ám ảnh, như thức tỉnh,
như lay gọi, như vỗ về niềm khao khát đi chơi Tết, khao khát được sống trong tình yêu và mùa
xuân của người con dâu gạt nợ.



Nhận
xét
chung


Đoạn văn đêm tình mùa xn có 3 cảnh: Cảnh Mị ngồi nhẩm thầm tiếng sáo và lén uống
rượu ừng ực từng bát; cảnh Mị chuẩn bị váy áo đi chơi; cảnh Mị bị A Sử trói đứng suốt đêm
trong buồng. Cảnh nào, chi tiết nào cũng sinh động, điển hình cho bi kịch của Mị, của người
con dâu gạt nợ. Đoạn văn đêm tình mùa xn thể hiện ngịi bút kể chuyện cảm động, phân tích
diễn biến tâm trạng và hành động nhân vật một cách tinh tế, sâu sắc.


<b>Kết bài</b> <sub>Trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, qua việc khắc hoạ sâu sắc cuộc đời, số phận, tính cách</sub>
Mị, nhà văn đã tố cáo hùng hồn, đanh thép những thế lực phong kiến, thực dân tàn bạo áp bức
bóc lột, đọa đày người dân nghèo miền núi. Đồng thời, tác giả cũng khẳng định khát vọng tự do
hạnh phúc, sức sống mạnh mẽ và bền bỉ của những người lao động, mà điển hình là Mị. Chính
điều này đem lại sức sống và sự vững vàng trước thời gian của “Vợ chồng A Phủ”.


ĐỀ 3


<b>Đề bài</b> <b>Phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm mùa đông giải thoát cho A Phủ</b>
<b>trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tơ Hồi.</b>


<b>Mở bài</b> Tơ Hồi là nhà văn của núi rừng Tây Bắc. Sự nghiệp sáng tác của ông khá đồ sộ với số
lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Sáng tác của ông đa dạng về đề
tài và thể loại. Trong đó, mảng tác phẩm viết về đề tài miền núi chiếm vị trí quan trọng. “Vợ
<i>chồng A Phủ” được xem là tác phẩm thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây</i>
Bắc trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Đây là tác phẩm hội tụ tinh hoa của ngịi bút Tơ
Hồi. Trong tác phẩm, nhà văn tỏ ra rất công phu trong việc xây dựng những nhân vật tâm đắc
của mình, đặc biệt truyện đã xây dựng thành công nhân vật Mị. Nhân vật Mị là một sáng tạo
đặc sắc của Tơ Hồi và chi tiết miêu tả tâm lý và hành động của nhân vật Mị trong đêm mùa


đơng cứu A Phủ. Đây là tình tiết cảm động nhất, hay nhất của truyện đã thể hiện khát vọng sống
của Mị. Qua đó, ta thấy được giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.


<b>Thân</b>
<b>bài</b>
HCST


<i>Vợ chồng A Phủ” (1952) được in chung trong tập “Truyện Tây Bắc” (1953) của Tơ Hồi,</i>
được giải nhất của Hội Văn nghệ VN 1954-1955. Tập truyện là kết quả chuyến đi thực tế của
tác giả cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Trong chuyến đi 8 tháng này, n/văn sống chung với
đồng bào dân tộc ít người, hiểu được cuộc sống tủi nhục của họ. Từ đó, Tơ Hồi có thêm chất
liệu và cảm hứng để sáng tác thành công tập “Truyện Tây Bắc” nói chung và “Vợ chồng A
<i>Phủ” nói riêng. Tác phẩm đánh dấu sự chín muồi về tư tưởng và tình cảm của nhà văn. Sau hơn</i>
nửa thế kỉ đến nay, t/phẩm vẫn giữ nguyên giá trị và có sức thu hút đối với nhiều thế hệ người
đọc.


<b>Phân</b>
<b>tích</b>
Giới
thiệu
chung


Mị mồ cơi mẹ, ở với cha già. Mị xinh đẹp, tuổi xn phơi phới. Nhưng vì món nợ nhà giàu
truyền kiếp, Mị trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lý Pá Tra. Tuổi xuân của Mị bị thằng A Sử,
con trai thống lí tước đoạt, giày xéo. Mị khổ như con trâu, con ngựa. Mị toan ăn lá ngón tự tử,
nhưng thương cha già, Mị chết khơng đành lịng. Sống trong đau khổ, Mị gần như vơ cảm vơ
hồn "càng khơng nói, lùi lũi như con rùa ni trong xó cửa". Sống bng xi, sống mà như đã
chết.


</div>
<span class='text_page_counter'>(77)</span><div class='page_container' data-page=77>

A Phủ là một thanh niên có thân phận như Mị, vì đánh A Sử nên bị phạt vạ phải ở cho


thống lý Pá Tra để gạt nợ. Do để hổ ăn mất bò mà bị trói đêm này sang đêm khác, ngày này
sang ngày kia. Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Khơng gian lạnh lẽo mà lịng
người cũng lạnh. Khi trong nhà đã ngủ yên, Mị tìm đến bếp lửa. Đối với Mị, nếu khơng có bếp
lửa ấy, Mị sẽ chết héo. Đêm đầu tiên, Mị nhìn thấy A Phủ bị trói vào cột nhà <i>“Mị vẫn thản</i>
<i>nhiên thổi lửa hơ tay. Nếu A phủ là cái xác đứng đấy cũng thế thôi”. Cả mấy đêm như vậy, tâm</i>
hồn Mị có vẻ dửng dưng vơ cảm với những gì diễn ra chung quanh. Tâm hồn Mị như tê dại
trước mọi chuyện, kể cả lúc ra sưởi lửa, bị A Sử đánh ngã xuống bếp, hôm sau Mị vẫn thản
nhiên ra sưởi lửa như đêm trước. Thản nhiên cũng bởi việc trói người lặp đi lặp lại thường
xuyên ở nhà thống lí Pá Tra: ngày xưa chị dâu Mị bị trói, Mị cũng bị trói và hơm nay đến lươt
A Phủ. Hình ảnh dây trói được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong tác phẩm vừa mang ý nghĩa hiện
thực vừa mang ý nghĩa đặc trưng. Đó là sợi dây trói buộc của xã hội phong kiến đối với những
người lao động nghèo.


Nhưng rồi một đêm, Mị trở dậy thổi lửa hơ tay và qua ánh lửa bập bùng, Mị thấy “một
<i>dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ. Đây là biểu hiện sự</i>
đau đớn tuyệt vọng A Phủ. Mị bắt đầu xúc động. Mị nhớ lại chính mình ngày trước cũng từng
bị trói đến chết ở đây “nhiều lần nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi
<i>được”. Từ sự thật trước mắt và bản thân, Mị nhận thức được bản chất của bọn thống trị “chúng</i>
<i>nó thật độc ác”. Và Mị nhận ra cái chết cuả A Phủ sẽ thật sẽ thật đau đớn và vơ lí. Mị phảng</i>
phất nghĩ gần, nghĩ xa: “Cơ chừng này thì chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói,
<i>chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì cịn biết đợi ngày</i>
<i>rũ xương ở đây mà thơi… Người kia việc gì phải chết thế?” Mị xót xa cho A Phủ như xót xa</i>
cho chính bản thân mình. Mị thương cho A Phủ không đáng phải chết. Trong lòng Mị trỗi dậy
lòng thương người cùng cảnh ngộ.


Lúc này, Mị đang đứng giữa hai con đường một là cam chịu, hai là phản kháng. Cuối cùng
tinh thần phản kháng đã chiến thắng, Mị đi đến một hành động táo bạo là <i>“cắt dây cởi trói cho</i>
<i>A Phủ”. Rõ ràng, tình thương lớn hơn cái chết. Nhưng nếu Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ thì ai</i>
sẽ là ngừơi thay thế cho A Phủ chịu trói vào cái cột ấy. Vì thế Mị có thêm một quyết định nữa là
chạy theo A Phủ “A Phủ cho tôi đi với… ở đây thì tơi chết mất”. Như vậy, hành động cởi trói


cho A Phủ cũng là cởi trói cho chính mình. Ở đây cùng một lúc, Mị đã cắt đứt hai sợi dây trói:
sợi dây trói cụ thể và sợi dây trói vơ hình.


Đây khơng phải là hành động mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với sự trỗi dậy của ký
ức, khát vọng sống tự do, đã khiến Mị chạy theo người mà mình vừa cứu. Mị giải thoát cho A
Phủ Phủ và giải thoát cho cả bản thân mình! Hành động táo bạo và bất ngờ ấy là kết quả tất yếu
của sức sống tiềm tàng khi người con gái yếu ớt dám chống lại cả cường quyền và thần quyền.
Qua việc cởi trói cho A Phủ, nhà văn Tơ Hồi muốn đặt ra một vần đề, chỉ có những ngừơi
cùng cảnh ngộ mới có thề thông cảm và giúp đỡ lẫn nhau để cùng giải thốt cho chính mình.
Nhận


xét
chung


Tơ Hồi đã miêu tả diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị rất tự nhiên, hợp lý và chân thực.
Không thấy diễn biến tâm trạng của nhân vật sẽ không hiểu được hành động của nhân vật đó.
Hành động cuối cùng của Mị - cởi trói cho A Phủ - có vẻ bất ngờ nhưng lại hợp với quy luật
tâm lý con người, quy luật của cuộc sống. Nhà văn không chỉ đem đến cho bạn đọc những nhân
vật biết hành động mà quan trọng hơn là vì sao có hành động ấy. Tơ Hồi đã rất thành cơng khi
xây dựng một nhân vật có sức sống bên trong mãnh liệt đằng sau khuôn mặt vô hồn, vơ cảm của
Mị. Bởi vậy, có người đã xem đây là “một nhân vật thành công bậc nhất trong văn xi cách
<i>mạng đương đại Việt Nam” ( Trần Đình Sử ) </i>


Qua tâm trạng của Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ, chúng ta thấy được cả sức sống tiềm
tàng ở một người phụ nữ bị đoạ đày vả về thể xác lẫn tinh thần, tưởng chừng như mất đi hết đời
sống tâm hồn. Nhà văn phải yêu thương và có một niềm tin mãnh liệt vào con người mới có
được cái nhìn nhân đạo sâu sắc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(78)</span><div class='page_container' data-page=78>

<b>CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA – NGUYỄN MINH CHÂU</b>
ĐỀ 1



<b>Đề bài</b> <b>Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong tác phẩm “</b><i><b>Chiếc thuyền ngoài xa”</b></i>
<b>của Nguyễn Minh Châu.</b>


Mở
bài


Nguyễn Minh Châu là một hiện tượng văn học vừa độc đáo, vừa lớn lao của nền văn học
Việt Nam hiện đại vào cuối thế kỷ 20. Ông bước vào nghề văn hơi muộn nhưng sự nghiệp đổi
mới trong văn học đã chọn ông để trao cho ông “Ấn Tiên Phong” lãnh chức Đại Tướng quân của
Tập đoàn quân Chữ! Nhà văn Nguyên Ngọc đã rất đúng khi cho rằng Nguyễn Minh Châu là
“người mở đường tinh anh và tài năng đã đi được xa nhất” ở chặng đầu đổi mới của văn học
nước nhà. Trong cơn trở dạ nhiều đau đớn ấy, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện cả bản lĩnh và tài
năng của mình cho một khát vọng khẩn thiết và mãnh liệt: văn chương cần phải khác. Nơi đó cái
đẹp phải là cái “thật”, con người phải được nhìn nhận ở “bề sâu, bề sau, bề xa” của nó. Hàng
loạt tác phẩm được viết dưới ý tưởng đó. Trong đó, “Chiếc thuyền ngồi xa” là một trong những
sáng tác điển hình của ơng được viết sau năm 1980. Truyện đã xây dựng thành cơng hình tượng
nhân vật người đàn bà hàng chài, một người phụ nữ lao động lam lũ, bất hạnh, trải đời và sáng
đẹp tình yêu thương, đức hi sinh và lòng vị tha cao cả. Truyện đã xây dựng thành cơng hình
tượng nhân vật Phùng, một nghệ sĩ khao khát khám phá, sáng tạo ra cái đẹp, người luôn lo lắng,
trăn trở, suy tư về nhân cách và đời sống con người. Điều đó được thể hiện qua tình huống
truyện độc đáo.


<b>Thân</b>
<b>bài</b>
HCST


Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” in đậm phong cách tự sự - triết lí của Nguyễn Minh
Châu, rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác
thứ hai. Truyện ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đang dần đổi mới, cuộc sống kinh tế có nhiều


mặt trái, nhiều tồn tại khiến người ta phải băn khoăn. Truyện ngắn này lúc đầu được in trong tập
<i>Bến quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn in năm</i>
1987.


GTC Trong tác phẩm, nhân vật người đàn bà hàng chài chính là tâm điểm trong câu chuyện của
Phùng. Nhân vật này chủ yếu xuất hiện trong phát hiện thứ hai của Phùng về chiếc thuyền chài
lưới và xuất hiện trong chính câu chuyện cuộc đời chị kể ở tồ án huyện. Qua đó, cuộc đời, số
phận, tính cách, cảnh ngộ của chị gây xúc động, trăn trở mạnh mẽ khơng chỉ với tác giả mà cịn
với người đọc.


Tên
gọi


Xuyên suốt toàn bộ câu chuyện, hầu như người đọc không hề được biết đến tên gọi của
người đàn bà tội nghiệp ấy, NMC đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng
<i><b>chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta.... Khi người đàn bà này xuất hiện ở tòa án huyện để gặp</b></i>
chánh án Đẩu, ta vẫn không biết tên. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu không đặt
tên cho người đàn bà hàng chài này, cũng không phải nhà văn "nghèo" ngôn ngữ đến độ không
thể đặt cho chị một cái tên mà là vì chị cũng giống như hàng trăm người đàn bà ở vùng biển nhỏ
bé này: chị là người vơ danh, là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như bao
người phụ nữ khác không hiếm gặp trên những miền quê Việt Nam.


Ngoại
hình


Về ngoại hình, người đàn bà hàng chài có thân hình xấu xí tàn tạ ”trạc ngồi 40, một thân
<i><b>hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ</b></i>
<i><b>mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn</b></i>
<i><b>ngủ”. Vì cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, đau khổ làm cho diện mạo chị đã xấu giờ trở nên</b></i>
thô kệch.



Số
phận


Bất
hạnh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(79)</span><div class='page_container' data-page=79>

thất hậu và lạc hậu. Số phận, cuộc đời chị dần dần hiện ra rõ nét khi chị đến toà án huyện. Số
phận đầy bi kịch ấy được tác giả tái hiện đầy cảm thơng và chia sẻ.


Phẩm
chất,


tính
cách


Song ẩn bên trong người đàn bà hình dáng bên ngồi xấu xí, thơ kệch, chịu bao cay đắng,
nhọc nhằn ở cuộc đời là những phẩm chất cao đẹp. Trước hết là sự nhẫn nhục, chịu đựng vì
<i>hồn cảnh. Chị coi việc mình bị đánh đó như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình. Chị</i>
chấp nhận, không kêu van, không trốn chạy cũng như không hề có ý định rời bỏ gia đình ấy, rời
bỏ người chồng vũ phu của mình. Chị hiểu cơ cực của của cuộc sống mưu sinh đầy cam go trên
biển không có người đàn ơng: thuyền ở xa biển, cần một người đàn ơng khỏe mạnh, biết nghề.
Đó là sự cam chịu, nhẫn nhục đáng cảm thông, chia sẻ. Cách xử sự của người đàn bà là không
thể khác được.


Nguyên nhân sâu xa của sự cam chịu chính là tình thương con vô bờ bến của chị. Với
người đàn bà này, các con là cuộc sống, lẽ sống. Khi tòa án đưa ra giải pháp li dị, chị đã từ chối.
Có nghĩa là chị từ chối trút bỏ tấm bi kịch nhục nhã của đời mình. Với người đàn bà này thà bị đi
tù, bị đánh đập còn hơn phải bỏ chồng: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được,
<i>nhưng đừng bắt con bỏ nó”. Lí do bà đưa ra thật đơn giản nhưng cũng thật xót xa: cần có chồng</i>


để cùng ni mười đứa con. Thì ra sự sinh tồn của những đứa con là nguyên nhân để người đàn
bà ấy sống kiếp cam chịu. Tình yêu thương của người mẹ dành cho đàn con chính là sức mạnh
để người đàn bà ấy nhẫn nhục: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ khơng thể
<i>sống cho mình như ở trên đất được”. Người đàn bà đã chủ động nhận về mình mọi đau đớn để</i>
đảm bảo sự sinh tồn cho con cái bởi gia đình đơng con sống dựa vào nghề sơng nước đầy bất
trắc. Thậm chí khi bị đánh bà còn chủ động xin chồng thay đổi địa điểm đánh: “<i>Sau này, con cái</i>
<i>lớn lên, tôi mới xin được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh”. Bà muốn hứng trọn nỗi đau cho</i>
riêng mình, khơng để các con bị tổn thương. Tình yêu thương như một bản năng mãnh liệt ngàn
đời được bộc lộ một cách cảm động và sâu sắc nhất ở người phụ nữ này. Tình mẫu tử vút lên,
trên cái nền của cuộc sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa.


Khơng những thế, đây còn là người phụ nữ vị tha thánh thiện. Khơng chỉ u thương, hi
sinh đến qn mình vì đàn con, ở người phụ nữ này cịn có một tấm lòng bao dung, độ lượng đối
với chồng. Nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu nhìn người chồng là kẻ vũ phu, thơ bạo, đáng lên án.
Nhưng qua cái nhìn của người vợ, lão từng là: “anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm,
<i>khơng bao giờ đánh đập tơi”. Bị chồng đánh đập thô bạo nhưng bà cũng không oán trách vì bà</i>
hiểu nỗi khổ của chồng, hiểu cái khổ đã làm người hiền lành trở thành ác độc. Chính cuộc vật
lộn mưu sinh đã biến lão trở thành kẻ vũ phu, thô bạo. Người ta làm điều ác nhiều khi khơng
<i>phải vì người ta xấu mà là vì khổ sở. Bà cịn hiểu rằng chồng mình vừa là nạn nhân khốn khổ,</i>
vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho người thân của mình cũng chỉ vì nghèo đói, ít học.
Thậm chí bà cịn sẵn sàng nhận lỗi về mình, coi mình là nguyên nhân khiến cuộc sống của chồng
trở nên khốn khổ. Đây quả là người phụ nữ có cái nhìn sâu sắc, đa chiều, bao dung, độ lượng với
chồng


<i> Người đàn bà hàng chài tuy thất học nhưng không tăm tối, ngược lại rất thấu trải lẽ đời,</i>
<i>rất sắc sảo. Bà hiểu thiện chí của chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng khi khuyên bà bỏ người chồng</i>
vũ phu, tàn bạo. Song bà càng hiểu hơn cuộc sống trên sông nước. Bà chắt ra từ cuộc đời nhọc
nhằn, lam lũ một chân lý mộc mạc nhưng thấm vị mặn của đời thường: “đám đàn bà hàng chài
<i>ở thuyền chúng tơi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba</i>”. Cuộc sống thực tế
cần có một người đàn ơng để làm chỗ dựa, dù đó là người chồng vũ phu tàn bạo. Bà cũng hiểu


và tự hào với thiên chức của người phụ nữ: “ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi
<i>con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”. Chính vẻ đẹp mẫu tính, đầy hi sinh</i>
cao thượng ấy đã tơn vinh người đàn bà với vẻ ngồi xấu xí, thơ kệch.


</div>
<span class='text_page_counter'>(80)</span><div class='page_container' data-page=80>

ĐGC Trên trang viết của Nguyễn Minh Châu, người đàn bà hàng chài là hiện thân của tình yêu
thương, đức hi sinh, sự nhẫn nhục của người phụ nữ. Qua người đàn bà hàng chài, ta thấy thấp
thoáng bóng dáng của những người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và
đức hi sinh.


: Nhẫn nại nuôi con, suốt đời im lặng
Biết hi sinh nên chẳng nhiều lời.


<i> Tố Hữu </i>


Bằng biện pháp đồi lập giữa hồn cảnh và tính cách, giữa ngoại hình và tâm hồn, đi sâu vào
thế giới nội tâm phức tạp, đầy mâu thuẫn của con người, qua nhân vật người đàn bà hàng chài,
Nguyễn Minh Châu đã thể hiện cái nhìn mới mẻ về con người. Ơng đã khai thác số phận cá nhân
và thân phận con người đời thường, để phát hiện những nét đẹp trong những con người tầm
thường, lam lũ. Cả đời, ông đã tâm niệm sáng tác văn học là đi tìm “hạt ngọc ẩn sâu trong tâm
<i>hồn mỗi con người”. </i>


Bằng tài năng của một cây bút giàu bản lĩnh, qua cuộc đời của người đàn bà hàng chài, tác
giả cũng đặt ra những vấn đề nhức nhối của cuộc sống: nạn bạo hành trong gia đình, sự nghèo
<i>đói, thất học, sự tha hóa về nhân cách… những ngang trái, nghịch lý của cuộc sống. Chính số</i>
phận của người đàn bà hàng chài như một hồi chuông lay tỉnh chúng ta hướng tới một cuộc sống
tốt đẹp hơn. Từ câu chuyện của người đàn bà, ta càng thấy rõ: không thể dễ dãi, đơn giản trong
<i>việc nhìn nhận mọi sự vật, hiện tượng của cuộc sống, khơng thể có cái nhìn một chiều, phiến</i>
<i>diện với con người và cuộc sống. Đây cũng là nét mới trong văn xi sau năm 1975 mà NMC</i>
chính là vị "khai quốc công thần của triều đại văn học mới".



ĐỀ 2


<b>Đề bài</b> <b>Phân tích tình huống truyện độc đáo trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của</b>
<b>Nguyễn Minh Châu.</b>


<b>Mở</b>
<b>bài</b>


Nguyễn Minh Châu là một hiện tượng văn học vừa độc đáo, vừa lớn lao của nền văn học
Việt Nam hiện đại vào cuối thế kỷ 20. Ông bước vào nghề văn hơi muộn nhưng sự nghiệp đổi
mới trong văn học đã chọn ông để trao cho ông “Ấn Tiên Phong” lãnh chức Đại Tướng quân của
Tập đoàn quân Chữ! Nhà văn Nguyên Ngọc đã rất đúng khi cho rằng Nguyễn Minh Châu là
“người mở đường tinh anh và tài năng đã đi được xa nhất” ở chặng đầu đổi mới của văn học
nước nhà. Trong cơn trở dạ nhiều đau đớn ấy, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện cả bản lĩnh và tài
năng của mình cho một khát vọng khẩn thiết và mãnh liệt: văn chương cần phải khác. Nơi đó cái
đẹp phải là cái “thật”, con người phải được nhìn nhận ở “bề sâu, bề sau, bề xa” của nó. Hàng
loạt tác phẩm được viết dưới ý tưởng đó. Trong đó, “Chiếc thuyền ngồi xa” là một trong những
sáng tác điển hình của ơng được viết sau năm 1980. Trong tác phẩm, Nguyễn Minh Châu đã tạo
dựng thành cơng những tình huống truyện hết sức độc đáo, góp phần làm nổi bật tư tưởng chủ đề
của tác phẩm.


<b>Thân</b>
<b>bài</b>
HCST


Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” in đậm phong cách tự sự - triết lí của Nguyễn Minh Châu,
rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ
hai. Truyện ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đang dần đổi mới, cuộc sống kinh tế có nhiều mặt
trái, nhiều tồn tại khiến người ta phải băn khoăn. Truyện ngắn này lúc đầu được in trong tập Bến
<i>quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn in năm 1987.</i>


GTC Tình huống truyện là một sự kiện đặc biệt mà ở đó tính cách nhân vật, tư tưởng nhà văn


</div>
<span class='text_page_counter'>(81)</span><div class='page_container' data-page=81>

người đàn bà, thay đổi cách nhìn, cách nghĩ về cuộc đời, con người. Kiểu tình huống này xuất
hiện rất nhiều trong các truyện khác của Nguyễn Minh Châu như “Bến quê”, “Bức tranh”,
“Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”…


Tình
huống


1


Chủ thể của quá trình nhận thức ở đây là nhân vật Phùng (người kể chuyện xưng tơi – một
sự hóa thân của Nguyễn Minh Châu) có phẩm chất của một người nghệ sĩ giàu tâm huyết, tinh
tế, thiết tha với cái đẹp. Sau nhiều ngày phục kích ở biển, anh đã được chứng kiến một cảnh đắt
trời cho: “Trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một
<i>nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đơi chút màu hồng do ánh mặt trời</i>
<i>chiếu vào”. Qua con mắt của người nghệ sĩ, đó quả là một cảnh đẹp tuyệt vời, kì diệu mà thiên</i>
nhiên ban tặng cho con người. Vẻ đẹp ấy khiến người nghệ sĩ “trở nên bối rối, trong trái tim
<i>như có cái gì bóp thắt vào. Trong giây phút bối rối, tơi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái</i>
<i>chân lý của sự hồn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn</i>”. Đó là
những rung động thật sự, niềm hạnh phúc ngất ngây của người nghệ sĩ trước cái đẹp. Đó cũng là
niềm hạnh phúc của sự khám phá, thấy cái chân lý của sự toàn thiện, toàn mĩ. Trong khoảnh
khắc đó, anh nhận thấy bản thân cái đẹp chính là đạo đức khiến tâm hồn anh được gột rửa, trở
nên trong trẻo, tinh khơi. Đó là cái đẹp có khả năng thanh lọc tâm hồn con người.


Ngay khi tâm hồn đang bay bổng trong những cảm xúc thẩm mĩ, đang tận hưởng cái khoảnh
khắc trong ngần của tâm hồn thì người nghệ sĩ lại kinh ngạc trước một bức tranh đời thường phũ
phàng, nghiệt ngã. Bước ra từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ ấy là một người đàn bà khắc
khổ, xấu xí và một lão đàn ơng dáng vẻ dữ dằn. Ngay sau khi vào bờ, lão đàn ông ấy lập tức
đánh đập người đàn bà hết sức tàn bạo. Hắn hùng hổ, mặt đỏ gay, trút cơn giận như lửa cháy


bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào người đàn bà. Vừa đánh, hắn vừa thở, vừa nghến
răng ken két, nguyền rủa: “Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. Mỗi nhát quất hắn lại rên rỉ,
đau đớn. Hành động thật vũ phu và tàn bạo, tưởng như khơng có người chồng nào như thế,
nhưng trong cách đánh như chứa đựng những uất ức, khổ đau, bao dồn nén đang tuôn trào. Tấm
thân người vợ trở thành chỗ để ông ta trút sự phẫn nộ trước cuộc sống cơ cực, bế tắc của lão.
Người đàn bà khơng những khơng chống đỡ mà cịn chủ động để chồng đánh đập. Bà đứng cam
chịu, đầy vẻ nhẫn nhục “không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng khơng tìm cách chạy
<i>trốn”. Sự cam chịu của người đàn bà cho thấy sự tê liệt vì chịu đựng, khơng cịn khả năng phản</i>
ứng.


Đứa con của họ - thằng Phác giận dữ, căng thẳng, chạy một mạch như một viên đạn trên
đường lao tới đích ngắm. Nó nhảy xổ vào lão đàn ông, giành chiếc thắt lưng, dướn người, vung
chiếc khóa sắt quật vào ngực bố. Ẩn sau hành động táo tợn, quyết liệt, giận dữ kia là cả một tình
yêu thương đau đớn, mãnh liệt đối với mẹ. Tình u thương đó lại trở thành niềm căm hận đối
với người cha, trở thành sức mạnh bùng nổ. Hành động đó mang nỗi đau nhức nhối của tâm hồn
trẻ thơ, trong sáng bị tổn thương, bị đẩy vào hành động trái đạo lý.


Nhận
xét
chung


Hai phát hiện trên hoàn toàn đối nghịch với nhau: cảnh đẹp tuyệt vời của thiên nhiên và
<i>hiện thực nhọc nhằn của đời sống trên vùng biển. Đằng sau hai bức tranh ấy, rõ ràng nhà văn</i>
muốn gởi đến người đọc một thông điệp: đằng sau cái đẹp không phải bao giờ cũng là cái thiện,
cái chân lý và đạo đức, mà có khi ngược lại là cái ác, cái xấu. Cuộc đời không đơn giản, xuôi
chiều mà chứa đầy những mặt đối lập: đẹp xấu, thiện ác; thiên thần ác quỷ; rồng phượng
-rắn rết. Bản chất cuộc đời có khi ở những góc khuất cho nên khơng thể chỉ nhìn cuộc đời ở bề
nổi, ở bên ngoài mà phải khám phá chiều sâu bên trong của nó.


Đồng thời, nhà văn muốn nói lên mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống hiện thực. Nghệ


thuật bao giờ cũng hướng đến cái đẹp, nhưng không thể là cái dẹp lừa đối. Người nghệ sĩ không
nên tô son, bôi hồng hiện thực cuộc đời khi cuộc đời cịn q nhiều mồ hơi và nước mắt và cay
đắng. Nghệ thuật thì quá xa vời trong khi hiện thực cuộc đời lại ở ngay trước mắt.


Tình
huống


2
Câu
chuyện


ở tịa
án


Đó cũng chưa phải là tận cùng của sự thật. Ở tình huống thứ hai, cuộc đối thoại giữa
người đàn bà hàng chài và chánh án lại mở ra những nghịch lý mới: một sự thật khác về người
đàn bà bất hạnh. Câu chuyện của người đàn bà thuyền chài ở trụ sở toà án huyện đã lý giải cho
Phùng và Đẩu cũng như chúng ta hiểu đựơc nguyên do của những điều tưởng chừng như vô lý.
Qua đó cũng giúp người đọc hiểu rõ hơn tấm lịng và tâm lý người phụ nữ này trong những nỗi
éo le của cuộc đời.


</div>
<span class='text_page_counter'>(82)</span><div class='page_container' data-page=82>

<i>nó”. Đây quả là một điều vô lý bởi người đàn bà thường xuyên bị hành hạ, đánh đập dã man “ba</i>
<i>ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” vậy mà vẫn nhất quyết gắn bó với lão đàn ơng ấy.</i>
Điều đó làm cho cả Phùng và chánh án Đẩu không thể hiểu được “họ cảm thấy căn phịng lồng
<i>lộng gió biển như bị hút hết khơng khí, trở nên ngột ngạt q”.</i>


Nhưng khi biết được chủ trương nhà nước “kêu gọi hoà thuận”, người đàn bà đã mất hết
hết vẻ sợ sệt ban đầu và bắt đầu tâm sự về cuộc đời của mình. Chị ta nói về thời con gái “rỗ mặt,
<i>xấu khơng ai lấy, có mang với anh con trai thuyền chài”. Nói về người chồng “lão chồng tơi khi</i>
<i>ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành, không bao giờ đánh đập tôi</i>”. Chị kể về gia


cảnh “nghèo khổ, túng quẩn, biển động làm ăn không được, có khi hàng tháng trời ăn tồn
<i>xương rồng luộc chấm muối”. Rồi nói về hồn cảnh “con đơng một sấp mà thuyền lại chật”. Cả</i>
nguyên nhân lão chồng đánh vợ “cứ thấy khổ là lão lại xách tôi ra đánh.” Và đặc biệt là “người
<i>đàn bà thuyền chài rất cần một người đàn ông để chèo chống khi phong ba bão tố, để làm ăn</i>
<i>nuôi nấng đặng một sấp con.. .phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”. Cũng có lúc</i>
vui là khi “vợ chồng hồ thuận vui vẻ, vui nhất là lúc nhìn đàn con được ăn no”.


Qua những lời giãi bày chân thật ấy, ta mới hiểu được nỗi khổ, sự cam chịu nhẫn nhục,
đức hi sinh thật thầm lặng, tình thương con mênh mông, bao la. Chị cam chịu bị chồng đánh và
chỉ xin chồng đừng đánh trước mặt các con vì chị sợ rằng đứa con trai tên Phác sẽ làm điều dại
dột. Thật đáng khâm phục biết bao. Từ đó, cũng giúp ta hiểu được căn nguyên sâu xa của tệ nạn
bạo lực trong gia đình nghèo khổ. Sự tàn bạo nhiều khi được sinh ra từ cái đói, vất vả, thất học.
Họ tàn bạo ngay cả với những người thân của mình. Và cuộc sống nhiều khi thật trớ trêu: “Hạnh
<i>phúc có khi thật đơn giản nhỏ bé mà vẫn nằm ngồi tầm tay với của con người”. Từ đó, TP đặt</i>
ra vấn đề có ý nghĩa xã hội sâu sắc: khơng thể đơn giản dễ dãi khi nhìn ngươi, nhìn đời, khi đánh
giá hiện tượng trong xã hội, trong cuộc sống. Phải có cái nhìn đa chiều và tồn diện, phải cân
nhắc xem xét sự việc đúng với bản chất của nó.


<b>ĐGC</b> Đằng sau cái vơ lí là cái có lí (việc người đàn bà bị hành hạ là vơ lí, nhưng người đàn bà ấy
khơng muốn rời bỏ chồng lại có lí riêng). Đằng sau cái tưởng chừng đơn giản lại chứa chất nhiều
phức tạp (ban đầu, Đẩu tưởng li hôn là cách giải quyết dứt điểm được sự việc, sau đó, anh nhận
ra quan hệ của họ có nhiều ràng buộc phức tạp hơn nhiều). Muốn giải quyết những vấn đề của
cuộc sống, không chỉ dựa vào thiện chí, pháp luật hoặc lí thuyết sách vở, mà phải thấu hiểu cuộc
sống và cần có giải pháp thiết thực. Tình huống truyện có ý nghĩa khám phá, phát hiện đời sống
và bộc lộ được cái nhìn nhân đạo của tác giả. Mâu thuẫn giữa nghệ thuật giản đơn và cuộc đời
phức tạp, mâu thuẫn nằm ngay trong đời sống, thân phận và bản chất con người... Nhờ tình
huống truyện độc đáo, tác phẩm có sức hấp dẫn, giàu kịch tính trong hành động và diễn biến
mạch truyện, chiều sâu tâm lí...


<b>Kết</b>


<b>luận</b>


Tóm lại, chính tình huống đã làm cho truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” vừa chân thực, vừa
mang giá trị nhân bản sâu sắc. Truyện có nhiều tình huống rất bất ngờ hấp dẫn. Mỗi một tình
huống xuất hiện, tính kịch của câu chuyện lại được nâng cao, được khắc sâu. Đằng sau tình
huống truyện đó, phải chăng cuộc đời lam lũ nghèo khổ, nheo nhóc, sự tối tăm ngu dốt… là một
trong những nguyên nhân gây ra nạn bạo hành đối với phụ nữ và trẻ em trong một số gia đình
Việt Nam lâu nay? Qua các tình huống đó, nhà nghệ sĩ Phùng mới thấm thía rằng: nghệ thuật
khơng thể lãng mạn hố, thi vị hố cuộc đời khi cuộc đời còn đầy ngang trái. Chánh án Đẩu mới
thấu hiểu tồ án khơng chỉ để thực thi cơng lí, pháp luật mà con phải soi sáng lịng dân, tình dân.
Và mỗi chúng ta mới hiểu: cuộc sống đã và đang diễn ra là vô cùng phức tạp, khơng thể đơn
giản hoặc chỉ nhìn một chiều, một phía, một cạnh.


<b>Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn</b>
<b> “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu.</b>
<b>I/ Mở bài </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(83)</span><div class='page_container' data-page=83>

<i>ngoài xa” là một trong những sáng tác điển hình của ơng được viết sau năm 1980. Đây là một trong</i>
những tác phẩm chứa đựng nội dung nhân đạo và tốt lên tính triết lí sâu sắc về cuộc sống, về con người
Việt Nam thời hậu chiến.


<b>II/ Thân bài </b>


<b>1/ Giải thích khái niệm “giá trị nhân đạo”: Là một giá trị cơ bản của những tác phẩm văn học</b>
chân chính được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc của nhà văn với nỗi đau của những con người,
những cảnh đời bất hạnh trong cuộc sống. Đồng thời, nhà văn còn thể hiện sự nâng niu, trân trọng với
những nét đẹp trong tâm hồn và niềm tin khả năng vươn dậy của con người dù trong bất kỳ hòan cảnh
nào của cuộc đời.


<b>2. Giá trị nhân đạo của tác phẩm “Chiếc thuyền ngồi xa”</b>



<b> Trước hết, đó là sự quan tâm tha thiết của nhà văn đối với hạnh phúc của những người lao</b>
động nghèo bằng cách: lên án thói bạo hành trong cuộc sống gia đình. Hình ảnh người đàn bà xấu xí
trạc ngồi bốn mươi tuổi dần hiện ra với "một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với
<i><b>những đường nét thô kệch"</b><b>, rỗ mặt, "</b><b>mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường</b></i>
<i><b>như đang buồn ngủ". Song song hình ảnh người đàn bà lag hình ảnh người đàn ông xuất hiện cùng "</b><b>tấm</b></i>
<i><b>lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền, mái tóc tổ quạ"</b><b>, "</b><b>đi chân chữ bát, bước từng bước chắc</b></i>
<i><b>chắn, hàng lông mày cháy nắng rũ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ". Hình ảnh đã khắc hoạ phần nào</b></i>
cuộc sống khổ cực của họ. Chính từ cuộc sống này đã nảy sinh ra một cảnh tượng: cảnh chồng đánh
vợ,"ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng". Tuy đã được sáng tác cách đây một phần tư thế kỉ,
nhưng đề tài của tác phẩm vẫn cịn rất nóng, dai dẳng đến ngày hơm nay, đó là : bạo lực gia đình. Bạo
lực gia đình, trong mỗi chúng ta khơng ai khơng biết nhưng qua ngịi bút của Nguyễn Minh Châu thì đề
tài này được thể hiện một cách sinh động. Chúng ta sẽ khơng xa lạ với hình ảnh người chồng "mặt đỏ
gay, hùng hổ", rút trong người chiếc thắt lưng của lính nguỵ ngày xưa, chẳng nói chẳng rằng "quật tới
<i>tấp vào lưng" người vợ, "vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất</i>
xuống, lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn "Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết đi
<i>cho ơng nhờ".</i>


<i>Khơng những vậy, nhà văn cịn thể hiện nỗi lo âu, khắc khoải về tình trạng nghèo cực, tối tăm</i>
<i><b>của con người . Đúng vậy! Trong một lần tâm sự với nhà văn Lê Lựu, ông kể:"Quê tôi là Quỳnh Hải,</b></i>
thôn Kẻ Thơi, vùng Lạch Thơi, Lạch Quèn. Dữ dội lắm! Dân Lạch Thơi nhiều nơi sợ vì chỉ có uống
rượu và đánh nhau. Rượu say, ngủ luôn ở bãi biển. Mỗi đêm, những người đàn bà phải đi nhặt chồng về.
Cả làng làm nghề đánh cá, chài lưới chẳng học hành gì cả. Tơi cịn nhớ ông Điềm mỗi khi say rượu, cởi
truồng nồng nỗng, quần vắt lên vai, đi vào trong xóm, lấy quần đánh chó. Gặp ai cũng chửi tuốt nhưng
vớ phải một mụ bán bánh đa ở chợ làng còn dữ dội hơn. Mụ tuột váy ra, lấy váy đánh vào mặt, lão Điềm
phải thua. Lại có người uống rượu say, lấy mảnh thuỷ tinh rạch ngang bụng, ruột xổ ra rồi chết(...). Một
cái làng vơ học,thích ai thì nấy đúng, chẳng biết phải trái gì cả".


Từ những lời tâm sự của Nguyễn Minh Châu, chúng ta cảm nhận dáng dấp của làng nhà văn
cũng



xuất hiện đâu đó trong "Chiếc thuyền ngồi xa". Làng chài này có "đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá,
mà thuyền lại chật", "con nhà nào cũng trên dưới chục đứa", nhà của thằng Phác cũng khơng phải là
ngoại lệ. Vì nghề nghiệp, ít học nên có quan niệm đẻ con đơng là tốt, trời sinh voi sinh cỏ nên họ đẻ ra
hàng đàn con, nhưng họ có biết đâu chính họ là cái gốc cây, cái tảng đá lớn sẽ ngăn trở xã hội tiến lên
con đường hiện đại hoá; làm cho nghèo khổ đeo bám khơng rời, phải "ăn tồn cây xương rồng luộc
chấm muối" hàng tháng trời khi biển động. Rồi từ đó, cái nghèo khổ làm thay đổi tất cả, nảy sinh mâu
thuẫn mới. Cái nghèo khổ làm con người ta chán nản, suy sụp, thay đổi tính tình, u uất trong người và
cuối cùng, đánh đập vợ con để giải toả nỗi khổ. Đó cũng là lí do để chúng ta giải thích tại sao cha thằng
Phác từ một người "cục tính nhưng hiền lành" lại trở thành một ơng chồng vũ phu, đánh đập vợ ở dưới
thuyền rồi lên bờ và nguyền rủa vợ con chết đi. Thật đau lòng biết bao!


</div>
<span class='text_page_counter'>(84)</span><div class='page_container' data-page=84>

bao giờ dư, nó đã xảy ra với Phác- một thằng bé từ "tính khí đến mặt mũi giống như lột ra từ cha nó.
Sống và chứng kiến cảnh cha mẹ đánh nhau, làm cho tâm hồn Phác chất chứa những nỗi đau âm ỉ như
những đợt sóng biển phủ vào đất liền đã rút nhưng vẫn để lại cái chất mặn làm xót cây khoai, cây lúa;
tâm hồn em bị tổn thương. Phác thương mẹ, hận cha; tính cách em trở nên cộc cằn, thơ bạo, không hồn
nhiên như những đứa bạn cùng trang lứa. Mỗi khi mẹ bị cha đánh, thằng Phác "giận dữ căng thẳng", nó
"như một viên đạn trên đường lao tới đích đã nhắm" nhảy xổ vào cha nó,"giàng lấy chiếc thắt lưng",
"dướng thẳng người vung chiếc khoá sắt quật vào giữa khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng" của lão đàn
ơng. Hay có lúc Phác dùng con dao găm làm vũ khí để bảo vệ người mẹ đáng thương của nó, nhưng đã
bị người chị gái giật lại. Rồi nó tun bố với mọi người rằng "nó cịn có mặt ở dưới biển này thì mẹ nó
khơng bị đánh". Tất cả làm cho tâm hồn Phác bị vẩn đục. Nguyễn Minh Châu như muốn nhắn nhủ mọi
người hãy bảo vệ trẻ em, hãy để chúng lớn lên trong tình yêu thương của cha mẹ, sống trong gia đình
hạnh phúc, phát triển toàn diện. Đồng thời mọi người hãy tạo ra mơi trường tốt đẹp cho trẻ em; cũng
chính vì lẽ đó mà ở cuối truyện Nguyễn Minh Châu đã viết "sợ thằng bé có thể làm điều gì dại dột đối
với bố nó, mụ đã phải gửi nó lên rừng nhờ bố mình ni đã nửa năm nay", như một lời
thông điệp khuyên mọi người nên thay đổi môi trường sống sao cho phù hợp, tốt đẹp với trẻ em.


Hình ảnh người phụ nữ xấu xí, mệt mỏi; người đàn ơng độc ác, vũ phu, đau đớn và bi kịch của
cuộc đời họ như một thứ thuốc rửa quái đản làm những thước phim huyền diệu bỗng hiện lên như một


sắc màu khủng khiếp. Những con người u tối và đầy đau khổ ấy vừa là nạn nhân của cuộc sống đói
nghèo, nhưng trong một lúc nào đó, họ cũng có thể trở thành quỉ dữ đày đoạ trước hết những người thân
khốn khổ của mình. Nguyễn Minh Châu khơng chỉ lên án bạo lực, phê phán sự tàn nhẫn; khơng chỉ bày
tỏ tình thương yêu với những con người nhỏ bé, bất hạnh, lam lũ mà cịn chỉ ra :Nếu khơng giải phóng
con người khỏi đói nghèo, tăm tối thì khơng thể tiêu diệt được tình trạng bạo lực. Đó là chiều sâu tư
tưởng nhân đạo của tác phẩm.


Ở "mỗi con người đều chứa trong lịng những nét đẹp đẽ, kì diệu đến nỗi cả một đời người cũng
chưa đủ nhận thức, khám phá tất cả những cái đó". Trong "Chiếc thuyền ngồi xa", Nguyễn Minh Châu
tiếp tục khắc hoạ hình ảnh người phụ nữ với nét đẹp đời thường. Thái độ cam chịu, nhẫn nhục nhưng
không phải mù quáng khi bị chồng đánh. Tình thương con vơ hạn, tận tâm, bao bọc, che chở, cố tránh
cho con khỏi bị tổn thương, luôn mang mặc cảm có lỗi. Với suy nghĩ "sống cho con chứ khơng thể sống
cho mình" mà người đàn bà làng chài đã nhịn nhục sự vũ phu của chồng để cùng làm ăn, nuôi nấng các
con và cảm thấy "vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tơi chúng nó được ăn no". Điều này càng thể hiện rõ
khi thằng Phác nhảy vơ đánh cha nó thì người đàn bà mếu máo gọi tên Phác, ôm lấy con, vái con, cịn
cậu bé "lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ trên khuôn mặt mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt".
Hành động đó làm cho ta rơi nước mắt trước tình mẫu tử thiêng liêng của họ. Có lẽ phải đau đớn, hoảng
sợ đứa con có chuyện gì lắm, một người mẹ mới chắp tay "vái lấy vái để" đứa con mình. Cịn đứa con
thương xót mẹ nhưng nhỏ bé, bất lực, không ngờ muốn bảo vệ mẹ lại làm mẹ khổ hơn nên chỉ biết an
ủi bằng những ngón tay vụng về.


Cái hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn người phụ nữ là vẻ đẹp mẫu tính, cam chịu, cảm
thơng, chia sẻ, nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha, đức hi sinh và thương con tha thiết. Đây cũng chính
là biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu.


Truyện ngắn "Chiếc thuyền ngồi xa" đã góp phần vào nền văn học hiện đại giá trị nhân đạo về
sự bảo vệ trẻ em, tạo môi trường tốt đẹp cho trẻ em hoạt động và hình ảnh người phụ nữ vừa quen thuộc
vừa mới lạ; vừa bình dị lại vừa cao cả, lớn lao bởi vẻ đẹp vĩnh hằng mang ý nghĩa nhân văn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(85)</span><div class='page_container' data-page=85>

<b> Tiếp theo, giá trị nhân đạo của “Chiếc thuyền ngồi xa”cịn thể hiện ở sự khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp</b>


<b>của con người nghèo khổ, bất hạnh và đặt niềm tin vào phẩm chất tốt đẹp của họ: Đó là vẻ đẹp của</b>


<b>tình mẫu tử</b> (những đau khổ, tủi nhục đến cùng cực, những niềm vui nhỏ nhoi tội nghiệp của người mẹ


<i>đều xuất phát từ con). Trong hoàn cảnh đau khổ, nghèo khó, tăm tối vẫn ngời lên vẻ đẹp của </i><b>tình yêu</b>


<b>thương, của đức hi sinh thầm lặng ( d.c)</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(86)</span><div class='page_container' data-page=86>

khơng phải chỉ là thiện chí hoặc các lí thuyết đẹp đẽ nhưng xa rời thực tiễn, cần rút ngắn khoảng cách
giữa văn chương và hiện thực đời sống (d.c).


<b>III/ Kết bài </b>


Tóm lại, tinh thần nhân đạo trong “Chiếc thuyền ngồi xa” chính là tấm lịng u thương, thơng cảm,
băn khoăn ,trăn trở của Nguyễn Minh Châu trong việc phát hiện đời sống và con người ở bình diện đạo
đức thế sự. Qua đó <b>tác phẩm thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn </b>ở giai đọan sáng tác thứ hai:


<b>Văn học nghệ thuật phải gắn bó với cuộc sống, phải vì con người</b>... Quan niệm ấy đã khiến tác phẩm


của Nguyễn Minh Châu ở giai đọan này giàu nhân bản. Đọc tác phẩm của ông, người ta đau đớn, day
dứt về thân phận con người và tràn đầy khát vọng làm người cao đẹp.


.


<b>Giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”.</b>


Nguyễn Minh Châu được sinh ra ở mảnh đất Nghệ An đầy nắng gió. Ơng đã từng là sĩ quan quân
đội, tham gia công tác, chiến đấu trong kháng chiến. Người con trai xứ Nghệ này còn là một nhà văn,
một cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi mới với quan điểm sáng tác rất hay: "Văn học
và đời sống là những vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người".



Vâng! Con người trong cuộc sống là tiêu điểm mà Nguyễn Minh Châu rất quan tâm, tìm tịi,
khám phá những điều thú vị, mới mẻ. Và nói về con người thì "toàn bộ sự nghiệp văn học của Nguyễn
Minh Châu là một bài ca tràn đầy cảm hứng nhân đạo nồng nhiệt". Với truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài
xa"(1983)- một trong những tác phẩm xuất sắc thuộc giai đoạn đổi mới- Nguyễn Minh Châu càng bộc lộ
rõ nét, sâu sắc cảm hứng nhân đạo của mình. Qua những trang viết, nhà văn gửi lại cuộc đời tấm lòng ưu
ái đối với những người phụ nữ làng chài lam lũ, chịu nhiều nỗi đau đớn, thiệt thòi và những đứa trẻ của
kiếp vạn đị rày đây mai đó trên sơng trên biển; nhà văn gửi lại những hiểu biết, khám phá sâu sắc của
mình về số phận, về những cuộc đời buồn vui, dang dở.


Truyện ngắn" Chiếc thuyền ngoài xa" lấy bối cảnh là một vùng biển từng là chiến trường cũ của
thời chống Mĩ. Mạch chính của truyện là những lời kể, những suy tư của nhân vật Phùng- một nghệ sĩ
nhiếp ảnh, cũng từng là một người lính trực tiếp tham gia chiến đấu ở vùng biển này; nay về lại chiến
trường cũ để chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù. Trong chuyến đi thực tế
ấy, Phùng đã phát hiện ra cái mâu thuẫn éo le trong nghề nghiệp của mình: đằng sau bức tranh con
thuyền mờ sương rất đẹp như "một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ" mà anh đã tình cờ
chụp được là số phận đớn đau của một người phụ nữ, là sự nheo nhóc chẳng đẹp đẽ gì trong một
gia đình lao động làm nghề chài lưới. Với cuộc sống nghèo khổ, cảnh vật vắng lặng, chỉ "vài bóng người
lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ".
Hình ảnh người đàn bà xấu xí trạc ngồi bốn mươi tuổi dần hiện ra với "một thân hình quen thuộc
của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch", rỗ mặt, "mệt mỏi sau một đêm thức trắng
kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ". Song song hình ảnh người đàn bà lag hình ảnh
người đàn ơng xuất hiện cùng "tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền, mái tóc tổ quạ", "đi
chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rũ xuống hai con mắt đầy vẻ độc
dữ". Hình ảnh đã khắc hoạ phần nào cuộc sống khổ cực của họ. Chính từ cuộc sống này đã nảy sinh ra
một cảnh tượng: cảnh chồng đánh vợ,"ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng". Tuy đã được
sáng tác cách đây một phần tư thế kỉ, nhưng đề tài của tác phẩm vẫn cịn rất nóng, dai dẳng đến ngày
hơm nay, đó là : bạo lực gia đình. Bạo lực gia đình, trong mỗi chúng ta khơng ai khơng biết nhưng qua
ngịi bút của Nguyễn Minh Châu thì đề tài này được thể hiện một cách sinh động. Chúng ta sẽ không xa
lạ với hình ảnh người chồng "mặt đỏ gay, hùng hổ", rút trong người chiếc thắt lưng của lính nguỵ ngày


xưa, chẳng nói chẳng rằng "quật tới tấp vào lưng" người vợ, "vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng
nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống, lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn "<i>Mày chết đi</i>
<i>cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ".</i>


Đánh vợ chưa làm hắn nguôi cơn giận, lão đàn ông quay sang đánh con- thằng Phác. Lão "liền
dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã dúi xuống cát". Giống như một
cuốn phim quay nhanh với những cảnh chọn lọc, tiêu biểu, Nguyễn Minh Châu đã dựng trước mắt chúng
ta sự tàn bạo ghê gớm của bạo lực gia đình: gia đình khơng êm ấm, con người bị thương tích, đau khổ.
Ơng đã dấy lên trong lịng người đọc nỗi xót thương pha lẫn nỗi lo âu về tình trạng phụ nữ và trẻ em bị
ngược đãi, về nguy cơ trẻ em sớm nhiễm thói vũ phu, thơ bạo do bị tổn thương tâm hồn, đánh mất niềm
tin vào cuộc sống.


</div>
<span class='text_page_counter'>(87)</span><div class='page_container' data-page=87>

Phác chất chứa những nỗi đau âm ỉ như những đợt sóng biển phủ vào đất liền đã rút nhưng vẫn để lại cái
chất mặn làm xót cây khoai, cây lúa; tâm hồn em bị tổn thương. Phác thương mẹ, hận cha; tính cách em
trở nên cộc cằn, thơ bạo, không hồn nhiên như những đứa bạn cùng trang lứa. Mỗi khi mẹ bị cha đánh,
thằng Phác "giận dữ căng thẳng", nó "như một viên đạn trên đường lao tới đích đã nhắm" nhảy xổ vào
cha nó,"giàng lấy chiếc thắt lưng", "dướng thẳng người vung chiếc khoá sắt quật vào giữa khuôn ngực
trần vạm vỡ cháy nắng" của lão đàn ông. Hay có lúc Phác dùng con dao găm làm vũ khí để bảo vệ người
mẹ đáng thương của nó, nhưng đã bị người chị gái giật lại. Rồi nó tun bố với mọi người rằng "nó cịn
có mặt ở dưới biển này thì mẹ nó khơng bị đánh". Tất cả làm cho tâm hồn Phác bị vẩn đục. Nguyễn
Minh Châu như muốn nhắn nhủ mọi người hãy bảo vệ trẻ em, hãy để chúng lớn lên trong tình yêu
thương của cha mẹ, sống trong gia đình hạnh phúc, phát triển tồn diện. Đồng thời mọi người hãy tạo ra
mơi trường tốt đẹp cho trẻ em; cũng chính vì lẽ đó mà ở cuối truyện Nguyễn Minh Châu đã viết "sợ
thằng bé có thể làm điều gì dại dột đối với bố nó, mụ đã phải gửi nó lên rừng nhờ bố mình ni đã nửa
năm nay", như một lời thông điệp khuyên mọi người nên thay đổi môi trường sống sao cho phù hợp,
tốt đẹp với trẻ em.


Bên cạnh đó, Nguyễn Minh Châu chỉ ra việc dân trí thấp, đông con và nghèo khổ là nguy cơ
đáng sợ để hình thành bạo lực gia đình. Đúng vậy! Trong một lần tâm sự với nhà văn Lê Lựu, ông
kể:"Quê tôi là Quỳnh Hải, thôn Kẻ Thơi, vùng Lạch Thơi, Lạch Quèn. Dữ dội lắm! Dân Lạch Thơi


nhiều nơi sợ vì chỉ có uống rượu và đánh nhau. Rượu say, ngủ luôn ở bãi biển. Mỗi đêm, những người
đàn bà phải đi nhặt chồng về. Cả làng làm nghề đánh cá, chài lưới chẳng học hành gì cả. Tơi cịn nhớ
ơng Điềm mỗi khi say rượu, cởi truồng nồng nỗng, quần vắt lên vai, đi vào trong xóm, lấy quần đánh
chó. Gặp ai cũng chửi tuốt nhưng vớ phải một mụ bán bánh đa ở chợ làng còn dữ dội hơn. Mụ tuột váy
ra, lấy váy đánh vào mặt, lão Điềm phải thua. Lại có người uống rượu say, lấy mảnh thuỷ tinh rạch
ngang bụng, ruột xổ ra rồi chết(...). Một cái làng vơ học,thích ai thì nấy đúng, chẳng biết phải trái gì cả".


Từ những lời tâm sự của Nguyễn Minh Châu, chúng ta cảm nhận dáng dấp của làng nhà văn
cũng


xuất hiện đâu đó trong "Chiếc thuyền ngồi xa". Làng chài này có "đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá,
mà thuyền lại chật", "con nhà nào cũng trên dưới chục đứa", nhà của thằng Phác cũng không phải là
ngoại lệ. Vì nghề nghiệp, ít học nên có quan niệm đẻ con đông là tốt, trời sinh voi sinh cỏ nên họ đẻ ra
hàng đàn con, nhưng họ có biết đâu chính họ là cái gốc cây, cái tảng đá lớn sẽ ngăn trở xã hội tiến lên
con đường hiện đại hoá; làm cho nghèo khổ đeo bám khơng rời, phải "ăn tồn cây xương rồng luộc
chấm muối" hàng tháng trời khi biển động. Rồi từ đó, cái nghèo khổ làm thay đổi tất cả, nảy sinh mâu
thuẫn mới. Cái nghèo khổ làm con người ta chán nản, suy sụp, thay đổi tính tình, u uất trong người và
cuối cùng, đánh đập vợ con để giải toả nỗi khổ. Đó cũng là lí do để chúng ta giải thích tại sao cha thằng
Phác từ một người "cục tính nhưng hiền lành" lại trở thành một ông chồng vũ phu, đánh đập vợ ở dưới
thuyền rồi lên bờ và nguyền rủa vợ con chết đi. Thật đau lòng biết bao!


Hình ảnh người phụ nữ xấu xí, mệt mỏi; người đàn ông độc ác, vũ phu, đau đớn và bi kịch của
cuộc đời họ như một thứ thuốc rửa quái đản làm những thước phim huyền diệu bỗng hiện lên như một
sắc màu khủng khiếp. Những con người u tối và đầy đau khổ ấy vừa là nạn nhân của cuộc sống đói
nghèo, nhưng trong một lúc nào đó, họ cũng có thể trở thành quỉ dữ đày đoạ trước hết những người thân
khốn khổ của mình. Nguyễn Minh Châu không chỉ lên án bạo lực, phê phán sự tàn nhẫn; khơng chỉ bày
tỏ tình thương u với những con người nhỏ bé, bất hạnh, lam lũ mà còn chỉ ra :Nếu khơng giải phóng
con người khỏi đói nghèo, tăm tối thì khơng thể tiêu diệt được tình trạng bạo lực. Đó là chiều sâu tư
tưởng nhân đạo của tác phẩm.



</div>
<span class='text_page_counter'>(88)</span><div class='page_container' data-page=88>

thương xót mẹ nhưng nhỏ bé, bất lực, không ngờ muốn bảo vệ mẹ lại làm mẹ khổ hơn nên chỉ biết an
ủi bằng những ngón tay vụng về.


Cái hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn người phụ nữ là vẻ đẹp mẫu tính, cam chịu, cảm
thơng, chia sẻ, nhân hậu, bao dung, giàu lịng vị tha, đức hi sinh và thương con tha thiết. Đây cũng chính
là biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu.


Truyện ngắn "Chiếc thuyền ngồi xa" đã góp phần vào nền văn học hiện đại giá trị nhân đạo về
sự bảo vệ trẻ em, tạo môi trường tốt đẹp cho trẻ em hoạt động và hình ảnh người phụ nữ vừa quen thuộc
vừa mới lạ; vừa bình dị lại vừa cao cả, lớn lao bởi vẻ đẹp vĩnh hằng mang ý nghĩa nhân văn.


Tác phẩm giúp chúng ta hiểu hơn tâm hồn con trẻ, cũng như trách nhiệm đối với chúng; hiểu rõ hơn
những nhọc nhằn, đắng cay, được mất của con người, giữa cuộc đời đầy rẫy những đổi thay, để chúng ta
nhận biết, q trọng, nâng niu lịng nhân ái, ln vươn tới cái đẹp, giữ vững niềm tin vào cuộc sống,
vững bước đi trong cuộc đời. Một cảm hứng chủ đạo giúp Nguyễn Minh Châu viết đượ những trang văn
hay nhất mang đầy giá trị nhân đạo sâu sắc.


<b>DẪN CHỨNG CHO ĐỀ VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI</b>


<b>1. Tấm gương tự học và thành cơng:</b>


<b>Bill Gates sinh ra trong một gia đình khá giả ở Hoa Kì. Từ nhỏ ơng đã say mê toán học, từng đậu</b>
vào ngành Luật của trường đại học Harvad nhưng với niềm say mê máy tính ơng đã nghỉ học và cùng
với một người bạn mở công ty Microsoft. Vượt qua nhiều khó khăn ơng đã trở thành người giàu nhất
hành tinh và hiện nay ông dành 95% tài sản của mình để làm từ thiện. <sub></sub> Thành công nhờ sự tự học và
<b>niềm đam mê công việc.</b>


<b>Chủ tịch Hồ Chí Minh: Thời gian bơn ba tìm đường cứu nước, dù làm rất nhiều việc, nhưng nhờ tự</b>
học mà Bác làm việc gì cũng giỏi. Với khả năng tự học, Người đã lĩnh hội được cả hệ thống trí thức đồ
sộ của nhân loại và có sự nhạy cảm sắc sảo về chính trị, đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi. Với
Chủ tịch Hồ Chí Minh, tự học có vai trị đặc biệt quan trọng, là một trong những yếu tố quyết định tạo


nên thiên tài và trí tuệ của Người. Người thơng thạo tám ngoại ngữ. Đó chính là thành quả của việc
Người đã miệt mài học tập cả cuộc đời, nói đúng hơn là không ngừng tự học. Học đi đôi với hành. Học
bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu. Người cũng phê phán nghiêm khắc tệ giấu dốt, lười biếng học tập, tự cho
mình là giỏi nhất thiên hạ. “Cái gì biết thì nói biết, khơng biết thì nói khơng biết. Kiêu ngạo, tự phụ, tự
mãn là kẻ thù số một của học tập”.


<b>2.</b> Thuở thiếu thời Picaso là một hoạ sĩ vô danh, nghèo túng ở Pa ris. Đến lúc chỉ cịn 15 đồng bạc,
ơng quyết định đánh canh bạc cuối cùng. Ông thuê sinh viên dạo các cửa hàng tranh và hỏi "Ở đây có
bán tranh của Picaso khơng?". Chưa đầy một tháng tên tuổi của ông đã nổi tiếng khắp Paris, tranh của
ông bán được và ông nổi tiếng từ đó. <sub></sub><b>Nếu khơng tự tạo cơ hội cho chính mình thì chẳng bao giờ ta có</b>
<b>cơ hội cả.</b>


<b>3.</b> Hàng triệu năm dài con người sống trong phấp phỏng lo sợ bởi sấm sét kinh hoàng. <b>Franclin nhà</b>
bác học Mĩ đã dũng cảm thực hiện thí nghiệm làm cột thu lơi. Cơng việc đó có thể gây ra cái chết cho
ông bất cứ lúc nào. Sau nhiều năm đương đầu với sấm sét, năm 1752 Franklin đã thành công. <sub></sub> Sức
<b>mạnh của lòng dũng cảm.</b>


<b>4. Niu- tơn nhà tốn học, vật lí học, cơ học, thiên văn học vĩ đại người Anh. Sinh ra thiếu tháng là</b>
một đứa trẻ yếu ớt, thường phải tránh những trò chơi hiếu động của bạn bè. Do đó ơng đã tự tạo ra
những trị chơi cho mình và trở thành người tài năng. <sub></sub> Những thiếu thốn của bản thân không thể
<b>thắng nổi sức mạnh của nghị lực.</b>


<b>5. V. Pu-tin - tổng thống Nga, được tạp chí Times (Mĩ) bình chọn là "nhân vật nổi bật của năm</b>
2007", bằng sự lãnh đạo khơn ngoan và tài tình của mình ơng đưa nước Nga trở thành một cường quốc
trên thế giới. Uy tín của Pu-tin và cả nước Nga đã được không chỉ Mĩ, Châu Âu mà cả thế giới phải tơn
trọng. <sub></sub> Uy tín, danh dự là điều quan trọng tạo nên giá trị con người.


<b>6. O. Henry ( 1862- 1910)- nhà văn trứ danh của nước Mĩ. Ông chưa từng được hưởng bất cứ sự</b>
giáo dục nào, hay bị bệnh tật dày vò, thuở nhỏ đi chăn bò, chăn dê, làm th. Từng làm kế tốn nhưng bị
tình nghi là ăn trộm tiền nên bị bắt bỏ tù. Sau khi ra tù ông bắt đầu viết truyện ngắn và trở nên nổi tiếng.


Tác phẩm của ông được nhiều người nghiên cứu và trở thành sách bắt buộc phải học ở đại học. <sub></sub> Thành
<b>công </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(89)</span><div class='page_container' data-page=89>

<b>7. Có được những thành cơng trong cuộc sống chính là biết đi lên từ những thất bại: </b><i><b>Pi-ta-go</b></i>
từ một cậu bé học kém toán đã trở thành nhà toán học vĩ đại. Hay nước Nhật đi lên từ đại bại trong
chiến tranh thế giới thứ hai, từ trong đổ nát hoang tàn do hai trái bom nguyên tử của Mỹ ném xuống
Hirôsima và Naquasaki, giờ trở thành cường quốc, con rồng Châu Á. Hiện tại, đặc biệt thảm họa sóng
thần tháng 3 năm 2011, Nhật đã mạnh mẽ đứng lên với bản lĩnh và nghị lực phi thường. Nước Nhật đã
để lại trong lòng nhân dân thế giới một cái nhìn đầy ngưỡng mộ và khâm phục, biết đi lên từ những thất
bại.


<b>8. Thầy Lí Quế Lâm (42 tuổi), giáo viên trường tiểu học làng Nhị Bình - Tứ Xuyên. Suốt 19 năm</b>
dẫn học trò đến trường, vượt qua 5 chiếc thang gỗ dựng đứng trên vách núi cheo leo. Thầy trở thành một
trong 10 nhân vật cảm động của Trung Quốc năm 2008. <sub></sub> T/yêu và sự tận tụy làm nên nhân cách lớn


<b>9. An-dec-xen sinh ra trong một gia đình nghèo ở thành phố Odense, cuộc sống nghèo khổ, khơng</b>
lúc nào có đủ bành mì để ăn. Đi học lại luôn bị bạn bè chê cười vì ngoại hình xấu xí. Vượt qua tất cả, với
ước mơ trở thành nghệ sĩ, An-dec-xen đã lang thang lên thành phố Co-pen-ha-ghen, đóng những vai
kịch tầm thường, làm quét dọn. Cuối cùng nghị lực và tình yêu nghệ thuật đã giúp ông thành công.
Những câu chuyện của ông mãi mãi tồn tại trong tâm trí độc giả, mang lại cho trẻ thơ niềm hạnh phúc,
thắp lên những ước mơ đẹp. <sub></sub> Nghị lực và tình yêu nghệ thuật là những nhân tố để thành công.


<b>10. Walt Disney là con thứ tư trong một gia đình nơng dân nghèo, cha nghiện rượu, bài bạc. Sáu tuổi</b>
đã phải ra đồng làm việc. Mê vẽ nhưng vì khơng có tiền nên ông dùng than để vẽ lên giấy vệ sinh. Sau
này cái tên Walt Disney đã trở nên nổi tiếng thế giới với những bộ phim hoạt hình đỉnh cao. Walt
Disney đã từng nói về bốn điều làm nên cuộc đời mình: Tin tưởng: Tin vào bản thân mình. Suy nghĩ:
Suy nghĩ về những giá trị mà mình muốn có. Mơ ước: mơ về những điều có thể đến dựa trên niềm tin
vào bản thân và những giá trị của chính mình. Can đảm: can đảm để biến ước mơ thành hiện thực, dựa
trên những niềm tin vào bản thân và những giá trị của chính mình.



<b>11.</b>Chiến dịch The Earth Hours (giờ trái đất) do quỹ bảo tồn thiên nhiên quốc tế tổ chức đã nhận
được sự hưởng ứng của 62 quốc gia, hướng đến con số 1 tỷ người trên 1000 thành phố tham gia. Tất cả
đã tắt đèn vào ngày thứ bảy cuối cùng của tháng ba lúc 20h30' để ủng hộ các hoạt động nhằm giảm thiểu
những nguy cơ của sự biến đổi khí hậu tồn cầu. <sub></sub> Mỗi chúng ta cần có những hành động thiết thực vì
<b>mơi trường.</b>


<b>12.</b>Là một trong số ít người Việt Nam nhiễm HIV/ AIDS dám công khai thân phận- <b>Phạm Thị Huệ</b>
q ở Hải Phịng đã được tạp chí Times bầu chọn là “Anh hùng Châu Á”. Biết mình và chồng bị nhiễm
bệnh, nhưng chị đã chiến thằng bản thân, đóng góp sức lực cịn lại cho cuộc đời. Tháng 2/2005 chị trở
thành viên Liên Hợp Quốc.


- Nhà soạn nhạc thiên tài nổi tiếng thế giới Beethoven để lại nhiều tác phẩm vượt thời gian,
phần lớn đều là những sáng tác sau khi ông bị điếc. Điếc là đại họa của con người, nhất là đối với những
nhà soạn nhạc, nhưng ông không buông xuôi mà nghĩ ra cách chiến thắng bản thân. Ơng sáng tác âm
nhạc thơng qua sự nhận thức về nhạc lý trong đầu, nhờ thế ông hoàn thành kiệt tác: Bản giao hưởng
Định Mệnh.




Phật Thích Ca nói rằng: “Chiến thắng mn qn khơng bằng chiến thắng chính mình, vì chiến
<b>thắng chính mình mới là chiến thắng oanh liệt nhất”. Chiến thắng bản thân là chiến thắng vĩ đại</b>
<b>nhất. Chiến thắng bản thân chứng tỏ sức sống mãnh liệt của mình, bất luận người nào: thơng</b>
<b>minh hay ngu dốt, kiện tồn hay tàn tật,.. chỉ cần chiến thắng chính mình thì người đó sẽ đạt đến</b>
<b>đỉnh cao của sự nghiệp.</b>


<b>13. Chu Văn An (1292- 1370) - nhà Nho, nhà hiền triết, nhà sư phạm mẫu mực cuối đời Trần, nổi</b>
tiếng cương trực, không cầu danh lợi. Ra làm quan vào đời Trần Dụ Tông (đầu thế kỉ XIV), chính sự suy
đồi, nịnh thần lũng đoạn, ông dâng sớ xin chém bảy nịnh thần (thất trảm sớ) nhưng khơng được chấp
thuận. Ơng treo ấn từ quan về q dạy học, viết sách. Ơng khơng vì trị làm quan to mà dựa dẫm, ln
thẳng thắn phê bình những trị thiếu lễ độ. <sub></sub> Tấm gương về lối sống trung thực, bất chấp khó khăn vẫn


<b>đấu tranh cho lẽ phải….</b>


<b>14. Con người sẽ trở nên mạnh mẽ khi nhận thức, kiểm điểm bản thân một cách nghiêm túc,</b>
<b>trung thực:</b>


- Xơ-cơ-rat bị tật nói ngọng. Ơng ý thức về hạn chế của mình nên luyện nói, tập diễn thuyết
trước sóng biển và trở thành nhà hùng biện nổi tiếng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(90)</span><div class='page_container' data-page=90>

Trạng nguyên,…


<b>15. Sự bao dung và tình thương u sẽ cảm hóa con người. Có một nhà thơ với bút danh “Hoàn</b>
Lương” từng nửa đời làm tướng cướp trên những chuyến tàu Đà Nẵng-Nha Trang, là một đại gia buôn
lậu xảo quyệt, thi nhân ấy có tên là Nguyễn Đức Tân (Đơng Mỹ-Thanh Trì-Hà Nội). Nửa đời làm việc
thất đức, nhưng lúc ở trại giam, được nghe những lời khuyên nhủ tâm tình của giám thị coi tù, anh tỉnh
con mê. Và tên tướng cướp ấy rẽ sang một hướng khác khi mãn hạn tù. Anh trở thành nhà thơ, thành
viên của đội công an xã. Có được sự thay đổi lớn ấy là bởi sự bao dung, tình yêu của người vợ hiền và
của tất cả mọi người.


<b>16. Những tấm gương sáng trong lịch sử coi “Tình thương là hạnh phúc của con người”: </b>
- Vua Trần Nhân Tông trong một chuyến đi thăm quân sĩ đã cởi áo bào khoác cho một người
lính trong đêm đơng lạnh giá.


- Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn cùng chia ngọt sẻ bùi, cùng vào sinh ra tử với các
tướng dưới quyền trong ba cuộc kháng chiến chống quân Nguyên-Mông, giành thắng lợi vẻ vang cho
dân tộc.


- Người thanh niên Nguyễn Tất Thành xuất phát từ lịng u nước thương dân trong hồn cảnh
đất nước bị đô hộ xâm lược đã rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Phương chấm sống của
người rất cao đẹp: “Mình vì mọi người”. Bác ln lấy tình u thương và hạnh phúc của con người làm
mục đích và hạnh phúc cao nhất trong cuộc đời mình.



<b>17. Trong lịch sử dân tộc có biết bao tấm gương về sống đẹp: Trần Hưng Đạo, Trưng Trắc-Trưng</b>
Nhị, Trần Quốc Toản, Võ Thị Sáu, Kim Đồng, Nguyễn Văn Trỗi, vĩ đại hơn cả chính là Bác Hồ kính
yêu của dân tộc Việt Nam. Cách đây khoảng ba mươi năm, nữ bác sĩ Đặng Thùy Trâm, người chiến sĩ
Nguyễn Văn Thạc đã xung phong vào chiến trường chịu bao gian khổ thiệt thịi nhưng vẫn dành tình
thương cho tất cả những người xung quanh mình. Sống đẹp là chẳng ngại khó khăn gian khổ, bất chấp hi
sinh.


<b>18. Trong văn chương cũng như trong thực tế lịch sử có rất nhiều tấm gương hành động thể</b>
<b>hiện phẩm chất cao quý của con người: </b>


- Thánh Gióng: chỉ là cậu bé, nhưng nghe tin giặc đến vươn mình thành tráng sĩ, đánh đuổi giặc
Ân đem lại thái bình cho đất nước.


- Thạch Sanh trong truyện Thạch Sanh-Lý Thông là người thật thà, dũng cảm, vị tha, sẵn sàng
giúp đỡ những ai có hồn cảnh khốn khó.


- Từ Hải trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du đã cứu Kiều ra khỏi lầu xanh, giúp nàng thực
hiện công bằng, công lý trong xã hội (Báo ân, báo oán).


- Lục Vân Tiên đánh bọn cướp Phong Lai cứu Kiều Nguyệt Nga mà không cần báo ân chỉ đơn
giản là ra tay nghĩa hiệp.


- Hai Bà Trưng khởi nghĩa đánh đuổi nhà Hán xâm lược không thể hi sinh.


- Nguyễn Trãi nghe lời cha dạy, vào Lam Sơn phò tá Lê Lợi, đưa nhiều kế sách đánh giặc Minh,
làm nên chiến thắng oanh liệt lưu danh sử xanh.


- Anh hùng áo vải Nguyễn Huệ dẹp yên nội loạn, đánh ta ngoại xâm (hai mươi vạn quân
Thanh) đem lại cuộc sống an lành cho nhân dân.



- Hồ Chí Minh bơn ba tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc thốt khỏi ách đơ hộ thực
dân-phong kiến, lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.


<b>19. Người Nhật và phong cách văn hóa: Word Cup năm 2002 tổ chức tại Hàn Quốc và Nhật Bản.</b>
Có rất nhiều người hâm mộ từ Châu Âu sang Nhật xem bóng đá, sau khi trận đấu kết thúc, trong các sân
vận động đã có rất nhiều vỏ hộp, chai lọ, rác vứt rải rác trên sân vận động. Những người Nhật đã nán lại,
nhặt các rác thải ấy bỏ vào thùng rác bên ngoài khiến những người Tây cảm thấy xấu hổ. Ý thức công
cộng của người Nhật quả là đáng khâm phục.


<b>20. Tấm gương vượt lên số phận: </b>


<b>- Thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký bị liệt hai tay từ khi lên bốn tuổi. Năm bảy tuổi, ông quyết tâm tập viết</b>
bằng hai chân, dù khó khăn đến mấy. Thầy đã miệt mài tập viết ngày đêm, cuối cùng cũng đã làm mọi
việc bằng đơi chân kì diệu. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “Thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký là đại
diện cho sự phấn đấu phi thường và kì diệu , là tấm gương sáng cho bạn trẻ hôm nay, nhất là những
người khuyết tật noi theo”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(91)</span><div class='page_container' data-page=91>

kích hoạt lại đời mình, tìm hiểu, khám phá mặt trời, hố đen vũ trụ,… Từ đó ơng cảm thấy đời mình có ý
nghĩa.


<b>21. Nạn bạo hành: bé Hảo ở Bình Phước bị cha mẹ cắt gân chân, dư luận lên tiếng mạnh mẽ. Gần</b>
đây nhất, vụ việc người cha hành hạ cháu Thảo phải cấp cứu ở bệnh viện TPHCM lại dấy lên câu hỏi:
Làm sao ngăn chặn nạn bạo hành trẻ em, khi những "hung thần" cha mẹ khơng hề ý thức về thiên chức
của mình?


<b>A. NGHỊ LUẬN VỀ TƯ TƯỞNG, ĐẠO LÍ</b>



.



<b>Một số đề gợi ý</b>


1. Đường đi khó, khơng khó vì ngăn sơng cách núi mà khó vì lịng người ngại núi e sông.


2. Giữa một vùng sỏi đá khô cằn, có những lồi cây vẫn mọc lên và nở những chùm hoa thật đẹp.
<i>3. Sự học như con thuyền ngược nước khơng tiến ắt phải lùi..</i>


4. Vai trị của tự học đối với học sinh
5. Phương châm “Học đi đôi với hành”
6. Sự tự tin của con người trong cuộc sống.
7. Suy nghĩ của anh/chị về đức tính hy sinh.


8. Nhà văn Nga Lép Tơn-xtơi nói: “Lý tưởng là ngọn đèn chỉ đường. Khơng có lý tưởng thì khơng có
<i>phương hướng kiên định, mà khơng có phương hướng thì khơng có cuộc sống”.</i>


9. Đồng cảm và chia sẻ là nếp sống đẹp.


10. Vào đại học là con đường lập thân duy nhất của thanh niên hiện nay
<b>B. NGHỊ LUẬN VỀ HIỆN TƯỢNG ĐỜI SỐNG</b>


<b>Một số đề gợi ý</b>


1. Hiện tượng vô cảm trong một bộ phận thanh niên, học sinh hiện nay.
2. Hiện tượng vi phạm giao thông của một số học sinh hiện nay.


3. Hiện tượng nghiện Ka-ra-ô-kê và Interrnet trong nhiều bạn trẻ hiện nay.


4. Mặc dù biết là sai, song nhiều hs vẫn học “tủ” dẫn đến những kết quả không mong muốn trong các kì
thi.



5. Tình trạng bạo lực học đường đang trở thành vấn nạn ở nước ta
<b>MB: Giới thiệu vấn đề cần nghị luận</b>


<b>TB: + Giải thích tư tưởng, đạo lí cần bàn luận (giải thích từ ngữ, vế câu, chỉ ra nghĩa đen,</b>
nghĩa bóng, hàm ý khuyên răn hay nhắc nhở điều gì, câu nói ấy đúng sai)


<b> + Phân tích, chứng minh những mặt đúng, bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan</b>
đến vấn đề cần bàn luận, nêu hai dẫn chứng cụ thể có liên quan đến vấn đề nghị luận. Dẫn chứng phải có
tên nhân vật, có việc làm và kết quả. Dẫn chứng phải tiêu biểu được mọi người biết rộng rãi mới có sức
thuyết phục.


<b> + Bình luận mở rộng (nêu phản đề, nghĩa là nêu mặt ngược lại với điều ta bàn luận)</b>
<b> KB: Nêu ý nghĩa, rút ra bài học nhận thức và hành động.</b>


<b>Mở bài: Dẫn đề và nêu vấn đề nghị luận.</b>


<b>Thân bài: - Giải thích hiện tượng (nếu cần). Nêu thực trạng của hiện tượng kèm theo dẫn chứng.</b>
<b> - Nguyên nhân (khách quan: do xã hội, do môi trường sống đưa đẩy và chủ quan: do bản</b>
thân nhận thức, do giáo dục của gia đình,…).


<b> Hậu quả của hiện tượng đời sống.</b>


<b> - Giải pháp: Biện pháp, khắc phục hoặc giải pháp… cần cụ thể và thiết thực (Từ phía</b>
nhà nước cần có chủ trương chính sách thế nào? Giải pháp xã hội, cộng đồng cần chung tay, tuyên
truyền cổ động, hoặc trường học cần có biện pháp cụ thể nào? Gia đình đặc biệt là cha mẹ cần tạo
mơi trường, và làm tấm gương tốt cho con cái ra sao? Bản thân cần có nhận thức và hành động thế
nào?)


</div>
<span class='text_page_counter'>(92)</span><div class='page_container' data-page=92>

6. Sự biến đổi khí hậu và những thiên tai gần đây như động đất, sóng thần, núi lửa … đang gây nên


những hiểm họa khôn lường cho nhân loại,…


KIẾN THỨC CƠ BẢN


1. Cấu trúc:



+ Một bài văn nghị luận xã hội thường bao gồm 3 phần


- Giải thích khái niệm xã hội



- Bàn luận về vấn đề đặt ra.


- Liên hệ bản thân.



+ Cấu trúc này thay đổi linh hoạt tuỳ theo từng đề bài cụ thể.


2. Lưu ý



+ Bài văn nghị luận xã hội khơng khó tìm ý nhưng vấn đề của các em là thường


thiêú hiểu biết đời sống nên dễ bị động và lúng túng.



</div>
<span class='text_page_counter'>(93)</span><div class='page_container' data-page=93>

nhuần nhuyễn, phù hợp với luận cứ => Cần thường xuyên cập nhật thông tin.


+ Vấn đề nghị luận xã hội có tính chất mềm dẻo, cho học sinh nhiều khả năng


sáng tạo => không có một dàn bài chi tiết duy nhất đúng cho một đề văn.


3. Một số đề và đáp án gợi ý



Đề 1: Có ý kiến cho rằng: Phải vào đại học mới có tương lai. Suy nghĩ của anh chị


về vấn đề này.



+ Tầm quan trọng của bậc học đại học


- Đối với đất nước, xã hội



- Đối với cá nhân.




- Vào đại học là có tương lai: Đại học là con đường lí tưởng dẫn đến thành cơng.


+ Đại học không phải là con đường duy nhất đưa đến thành cơng.



- Lí luận.


- Dẫn chứng.


+ Liên hệ:



Là học sinh đang đứng trước những kì thi căng thẳng em xác đinh thái độ, tâm lí


và hành động như thế nào?



Đề 2: Văn hào Nga Léptơnxtơi nói: “Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường, khơng có lí


tưởng thì khơng có phương hướng kiên định mà khơng có phương hướng thì


khơng có cuộc sống”.



Phát biểu suy nghĩ của anh (chị) về vấn đề này.


+ Giải thích:



- Lí tưởng là gì?



</div>
<span class='text_page_counter'>(94)</span><div class='page_container' data-page=94>

vọng).



- Mối quan hệ giữa lí tưởng của cá nhân và lí tưởng của lồi người.


+ Bình luận:



- Lí tưởng là kim chỉ nam cho hành động.



- Có lí tưởng thơi chưa đủ, cần hành động để biến lí tưởng thành hiện thực.


+ Liên hệ:



- Lí tưởng của bản thân là gì?




- Thực hiện lí tưởng ấy như thế nào?



Đề 3: Suy nghĩ về hiện tượng nghiện Karaoke và Internet trong một bộ phận giới


trẻ hiện nay.



+ Giải thích:


- Nghiện


- Karaoke


- Internet



+ Vai trị, ý nghĩa của Karaoke và Internet đối với đời sống của con người, nhất là


của giới trẻ.



- Bối cảnh xã hội: kỉ ngun của cơng nghệ.



- Vai trị của Karaoke: giải toả căng thẳng, lien kết bạn bè.



- Ý nghĩa của Internet: pho tri thức đồ sộ, bách khoa toàn thư về mọi lĩnh vực;


công cụ và phương pháp học tập hữu hiệu; cung cấp những tiện ích giảm thiêủ


thời gian cho con người (mua sắm, kết nối); giải trí…



</div>
<span class='text_page_counter'>(95)</span><div class='page_container' data-page=95>

+ Tác hại của việc nghiện Karaoke và Internet:


- “Đánh cắp” thời gian của chính mình.



- Ảnh hưởng không tốt tới sự phát triển nhân cách và tâm hồn.


+ Phương hướng khắc phục.



+ Liên hệ bản thân.




Đề 4: AIDS và thanh niên.


+ AIDS là gì?



+ Thực trạng căn bệnh:


- Thế giới



- Việt Nam


- Nguyên nhân


+ Giải pháp.



+ Liên hệ: làm gì để tun truyền, góp sức ngăn chặn đại dịch này?


Đề 5: An tồn giao thơng



+ Vai trị của giao thơng và an tồn giao thơng.


+ Thực trạng an tồn giao thơng nước ta.



+ Hậu quả do mất an tồn giao thơng gây ra.



+ Ngun nhân của tình trang mất an tồn giao thơng.


- Hiểu biết, ý thức kém



</div>
<span class='text_page_counter'>(96)</span><div class='page_container' data-page=96>

- Tha hoá của một số cán bộ thực thi quản lí an tồn giao thơng.


+ Giải pháp:



+ Liên hệ với tư cách là một người tham gia giao thơng hang ngày.


Đề 6: Ơ nhiễm mơi trường



+ Khái niệm mơi trường.



+ Vai trị của mơi trường đối với đời sống con người.



+ Thực trạng:



- Thế giới


- Việt Nam


+ Hậu quả:



- Cản trở sự phát triển kinh tế



- Gây ra những căn bệnh hiểm nghèo, đe doạ nghiêm trọng đời sống con người.



<b>BẠO LỰC HỌC ĐƯỜNG</b>


<b>"HỒI CHUÔNG CẢNH TỈNH MỌI NGƯỜI!”</b>


<b>Mở bài: Trong những năm gần đây nạn “Bạo lực học đường” là một vấn nạn lớn, làm đau đầu</b>
các nhà quản lí giáo dục và các cơ quan chức năng có thẩm quyền, gây bức xúc và gây tâm lý hoang
mang cho phụ huynh, thầy cô và học sinh. Vậy làm thế nào để giải quyết được tình trạng này.


<b>Thực trạng: Chỉ cần lên Google đánh cụm từ "Học sinh đánh nhau" thì chỉ cần (0,08 giây) thì</b>
kết quả Google tìm kiếm là 3.140.000 cụm từ liên quan đến việc học sinh dùng bạo lực để giải quyết
những khúc mắc. Đây là một con số thật khủng khiếp và đáng báo động. Hoặc chỉ cần vào Youtube bạn
sẽ thấy những hình ảnh, những thước phim bạo lực do học sinh quay lại và tung lên mạng. Những thước
phim quay cảnh đấm đá vơ nhân tính của các cơ cậu mang đồng phục học trị đang đấm đá, xé áo, lột
quần, túm tóc... gây ám ảnh cho người xem và nỗi đau về một thế hệ tuổi trẻ với những nhân cách đang
bị băng hoại nghiêm trọng. Vấn đề bạo lực học đường hiện nay đang ở mức báo động cấp thiết, đang có
nguy cơ nổ bùng và lan rộng.


<b>Những nguyên nhân dẫn đến hành vi bạo lực thường: học sinh cá biệt thành lập băng nhóm</b>
để ức hiếp bạn bè; do ảnh hưởng từ phim ảnh bạo lực; do ghen tị về thành tích học tập; do mâu thuẫn
nhỏ trong bạn bè dẫn đến xích mích, nổi nóng thiếu kiềm chế; Bên cạnh đó là những ngun nhân cỏn


con như "thích thì đánh cho nó chừa", "nhìn đểu"... sẽ càng nguy hiểm hơn nếu bản thân các em tìm
cách tự trả thù theo kiểu "xã hội đen" mà không cần đến sự giúp đỡ của thầy cô, nhà trường.


</div>
<span class='text_page_counter'>(97)</span><div class='page_container' data-page=97>

do trong xã hội và có cách cư xử khơng đúng chuẩn mực). Chính những thói quen ứng xử hằng ngày của
họ đã vơ tình gieo trong đầu các em những suy nghĩ không tốt, dẫn đến việc các em có lối hành xử
khơng hay trong nhà trường với bạn bè.


<b>Bạo lực học đường để lại những hậu quả nghiêm trọng, khó lường: Gây tổn thương và gây</b>
dư chấn về tinh thần và thể xác: học sinh bị bạn bè đánh đập rồi bị quay phim tung lên mạng sẽ dễ bị
chấn thương tâm lí, sốc về tinh thần, xấu hổ với bạn bè, với mọi người xung quanh. Vụ ba học sinh ở
thành phố Vinh (Nghệ an) hành hung bạn, vụ học sinh Hà Nội hành hạ bạn giữa vườn hoa cơng viên:
túm tóc, lột áo. Vụ học sinh trường THCS Chu Văn An (Tp Hồ Chí Minh) đánh bạn, quay phim... làm
nhức nhối dư luận trong thời gian qua. Chưa hết bàng hồng thì vừa qua vào tháng 5 năm 2010 học sinh
lớp 10 ở trường THPT Hồng Bàng tỉnh Đồng Nai đâm chết bạn ngay tại cửa lớp. Thầy Nguyễn Văn Đạo
(42 tuổi), dạy môn Vật lý của trường THPT Trần Quang Diệu, huyện Mộ Đức, Quảng Ngãi bị một nhóm
học sinh đánh bị thương nặng phải điều trị tại Bệnh viện Đa khoa Đặng Thuỳ Trâm, huyện Đức Phổ.
Những thông tin này trong một bài viết ngắn không thể đem lên hết được nhưng cũng đủ để chúng ta
gióng lên một hồi chuông cảnh tỉnh về sự suy đồi đạo đức của một bộ phận giới trẻ Việt Nam.


<b>Giải pháp nào cho Bạo lực học đường ?có một số giải pháp cấp thiết xóa bạo lực học đường:</b>
Tồn xã hội cần phải củng cố, nâng cao chất lượng môi trường xã hội, văn minh tiến bộ. Cần có
biện pháp quản lý, ngăn chặn và chế tài hiệu quả những hoạt động có tác hại đến mơi trường văn hóa xã
hội. Nghiêm cấm các game bạo lực.


Quan tâm nâng cao văn hóa gia đình. Trong từng gia đình, người lớn phải làm gương, giao tiếp
ứng xử đúng mực, mạnh dạn lên án và loại bỏ bạo lực ra khỏi đời sống gia đình.


Xây dựng phối hợp chặt chẽ ba mơi trường giáo dục: gia đình - nhà trường - xã hội. Xã hội và
ngành giáo dục cần xác định rõ lại vai trị, vị trí của người thầy, quyền hạn và trách nhiệm trong nhiệm
vụ giáo dục đạo đức học sinh. Người thầy và nhà trường phải được bảo vệ danh dự và có đủ cơ chế để


răn đe học sinh.


Nhà trường cần phát huy trách nhiệm đội ngũ giáo viên chủ nhiệm trong việc kịp thời nắm bắt
tâm tư, nguyện vọng của từng cá nhân học sinh.


Tình thương, trách nhiệm là phương thuốc hiệu nghiệm nhất ngăn chặn bạo lực học đường.
KB: Vì một mơi trường học đường lành mạnh, Học sinh "HÃY NĨI KHƠNG VỚI BẠO LỰC
HỌC ĐƯỜNG". Mỗi người lớn trong gia đình phải là tấm gương lớn cho con em noi theo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(98)</span><div class='page_container' data-page=98>

<b>I/ Mở bài:</b>


- Nêu sở thích chung của mọi người là đều mong muốn được khen
- Lật lại vấn đề: có phải lúc nào khen cũng đúng, chê cũng đúng?
- Trích dẫn câu nói và nêu ngắn gọn nội dung của câu nói..
<b>II/ Thân bài:</b>


<b>Giải thích khái niệm: Khen là gì? Chê là gì? Ai là thầy? ai là bạn? ai là kẻ thù? </b><sub></sub> Ý nghĩa chung: câu nói
đánh giá về sự khen chê ở đời, khẳng định thế nào là thầy, là bạn, là kẻ thù thông qua việc khen chê.
<b>Phân tích và chứng minh: Từ khái niệm "chê", Tuân tử mở rộng thành " chê phải" </b><sub></sub> "chê phải" là gì: là
phê bình một cách khái quát, trung thực đúng lúc, đúng chỗ. "Người chê... thầy của ta" vì người "chê
phải" là người nhận thấy cái sai, cái dở của ta, để nhận thấy những điều ấy phải là người có trình độ hiểu
biết hơn ta... <sub></sub> người giúp ta tiến bộ chính là thầy ta <sub></sub> nêu dẫn chứng.


<b>Bình luận: Bàn về thái độ của người khen, chê: Khen chê phải luôn đúng mực. Không nên khen quá </b><sub></sub> trở
thành lời nịnh bợ <sub></sub> người dc khen tự đắc, tự mãn, sống ảo tưởng. Không nên chê quá <sub></sub> nhục mạ người
khác <sub></sub> người bị chê cảm thấy sốc, hoặc tự ti, mặc cảm... Với người dc chê, bị khen: Bình tĩnh cân nhắc về
lời khen, chê,nhận ra bản chất của việc khen chê. Điều chỉnh cần thiết về thái độ, hành vi sau khi dc
khen chê


<b>III/ kết bài:</b>



Khẳng định lại tính đúng đắn của câu nói <sub></sub> rút ra bài học cho mọi người.
<b>Bài làm tham khảo</b>


Trung Hoa là một trong những cái nôi của văn hoá nhân loại. Từ thời cổ đại, người dân Trung
Quốc có quyền tự hào về những bậc học giả, về những người thầy lỗi lạc, uyên bác với những triết lí
nhân sinh trở thành chân lý cho mọi thời đại. Tuân Tử là một trong số những bậc vĩ đại ấy. Và câu nói
của ơng: “Người chê ta mà chê phải là thầy ta, người khen ta mà khen phải là bạn ta, những kẻ vuốt ve,
<i>nịnh bợ là kẻ thù của ta vậy”, cũng đủ cho hậu thế phải suy nghĩ.</i>


Xã hội loài người ngày càng phát triển về kinh tế, về tư tưởng, nhận thức và cũng song hành với
phát triển sự phức tạp trong mọi quan hệ đời sống. “ Miệng lưỡi thế gian” là điều không thể tránh khỏi.
Mỗi con người sống chung trong đồng loại cần phải biết chấp nhận lời chê tiếng khen của mọi người.
Nhưng để nhận biết sự “thật” – “giả” trong mỗi lời khen tiếng chê, để có ứng xử thích hợp, quả khơng
đơn giản. Câu nói của Tn Tử đã giúp chúng ta cái “kính chiếu yêu” nhận biết đâu là “thầy”, đâu là
“bạn”, đâu là “thù” trong cuộc đời đầy phức tạp đó. Là một con người, kể cả bậc vua chúa, vĩ nhân,
trong cuộc sống, thật khó tránh khỏi những sai lầm. Những lúc như thế, hẳn chúng ta nhận được những
lời nhận xét của mọi người. Tất yếu, mỗi người khác nhau, sẽ có những nhận xét, thái độ khác nhau về
ta. Điều quan trọng là ở chính bản thân ta: biết nhận ra cái đúng, cái sai của mình; quan trọng hơn, trong
vơ số những lời “khen”, “chê” đó, ta nhận ra ai là “thầy ta”, ai là “bạn ta”, ai là “kẻ thù” của ta vậy!


Lời dạy của Tuân tử thật chí lí: “Người chê ta mà chê đúng là thầy ta, người khen ta mà khen
đúng là bạn ta”. Mỗi người, khi phạm điều sai, tự mình khơng dễ gì nhận ra. Người nhận ra cái sai của
ta, lại “chê”- tức khẳng định cái sai của ta và chỉ cho ta biết - hẳn phải là người có tầm tri thức, hiểu biết
hơn ta. Người đó xứng đáng là bậc “thầy” của ta về trí tuệ. Hơn thế, người thấy và dám chỉ cho ta nhận
ra cái sai của mình, để mình có hướng khắc phục, sửa chữa, hẳn đó phải là người có cái tâm thật cao
quý: những muốn cho chúng ta nhanh chóng tiến bộ. Chúng ta, về thái độ, tình cảm khơng thể khơng tơn
vinh người đó là bậc “thầy” về nhân cách để ta học tập. Người “khen ta mà khen phải”- nghĩa là người
đó khơng những khơng đố kị, hiềm khích trước những cái tốt, cái mạnh của ta, mà còn “khen”, cùng
chung vui, chia ngọt sẻ bùi…Đó hẳn là người bạn tốt, người bạn tri âm, tri kỉ của ta vậy. Cuộc đời mỗi


chúng ta, nếu có được nhiều người “thầy”, người “bạn” như thế thì hạnh phúc biết bao nhiêu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(99)</span><div class='page_container' data-page=99>

tắc suy vong… Lời dạy của Tuân Tử lại một lần nhắc nhở mỗi chúng ta cần sáng suốt để nhận ra đâu là
“bạn ta” khen ta thật lòng; đâu là “kẻ vuốt ve, nịnh bợ” ta.


Không chỉ đúng với xã hội xưa, mà ngày nay và với tất cả mọi người, ở trên mọi lĩnh vực, lời
dạy của Tuân Tử như một chiếc kính “chiếu yêu” giúp chúng ta nhận ra người tốt, kẻ xấu trong cuộc
sống, trong học tập. Khi kinh tế thị trường mở cửa, thì đội ngũ những kẻ chạy theo lợi nhuận, vì danh, vì
lợi ngày càng nhiều. Nhân viên nịnh bợ thủ trưởng, cấp dưới luôn luôn vuốt ve, chiều theo ý cấp trên;
các bạn lười học thì xun xoe các bạn học giỏi để cầu “phao cứu trợ” trong thi cử, kiểm tra…Hành động
của những kẻ đó có thể khác nhau, nhưng đều chung một bản chất: mưu cầu lợi ích riêng tư. Nhưng bạn
cũng vì những hiện tượng đó mà đánh mất niềm tin vào cuộc đời. Bởi người tốt, những người xứng đáng
là “thầy ta”, “bạn ta” luôn luôn ở bên ta.


Câu nói của Tuân Tử, cũng là một lời nhắc nhở chí tình, chí lí cho chính mỗi chúng ta trong quan
hệ ứng xử với mọi người. Chúng ta muốn mọi người chê ta thật lòng – như Tuân tử đã dạy- ta phải biết
coi trọng những người đó như bậc “thầy của ta”. Cũng vậy, với bạn bè, đồng đội, ta phải sống với cái
tâm chân thành; dám chỉ ra những khuyết điểm của bạn mà ta nhận thấy, với thức cầu mong cho bạn
mình ngày càng hồn thiện. Mỗi chúng ta cần biết “chia ngọt sẻ bùi"” với bạn bè coi thành tích của bạn
làm niềm vui chung cùng chia sẻ.


<b>ĐỀ THAM KHẢO </b>


<b>Đề 1. Hãy viết một bài văn ngắn ( không quá 400 từ) nêu suy nghĩ của anh (chị) về hiện tượng vô cảm</b>
trong một bộ phận thanh niên, học sinh hiện nay.


Người VN có truyền thống vô cùng tốt đẹp là "thương người như thế thương thân", "một con
<i>ngựa đau cả tàu bỏ cỏ"... Thế nhưng có những cách sống ngày nay đang gặm nhấm những truyền thống</i>
tốt đẹp đó. Hiện nay đang phát triển một căn bệnh của thế giới hiện đại - đúng hơn là mặt trái thuộc thế
giới hiện đại. Đó là căn bệnh khơng có trong danh mục của ngành y, nhưng "những điều trơng thấy"


ln "làm đau đớn lịng". Đó chính là căn bệnh vơ cảm mà nhiều người dân Việt - nhất là tầng lớp thanh
niên- mắc phải.


Thế nào là “vô cảm”? “Vô” là không, “cảm” là những cảm xúc của con người. “Vô cảm” là sự
thờ ơ, dửng dưng, không quan tâm đến mọi người và mọi việc đang diễn ra xung quanh mình, ngay cả
khi cần thiết. “Vô cảm” không chỉ dừng lại ở trạng thái khơng có cảm xúc, khơng buồn, khơng vui,
khơng giận hờn, u ghét, mà trái tim người vơ cảm khơng cịn biết rung động trước bất kì điều gì. Đây
là căn bệnh “tinh thần” nguy hiểm, không chỉ gây hại cho người mắc bệnh mà còn ảnh hưởng trực tiếp
tới những người xung quanh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(100)</span><div class='page_container' data-page=100>

độ lạnh lùng, vô cảm. Nhiều người liếc qua rồi dửng dưng bỏ đi. Rất nhiều trường hợp đáng tiếc đã xảy
ra do sự cấp cứu chậm trễ này…Bên cạnh đó, sự dửng dưng, thờ ơ, vô cảm trước nỗi đau của người
khác: nghe một câu chuyện buồn, chứng kiến những hoàn cảnh bi thảm với thái độ bàng quang đáng sợ
là những biểu hiện thường nhận thấy nhất ở một bộ phận giới trẻ hiện nay. Ngồi ra, người vơ cảm sống
thu hẹp nên rất khó hồ nhập với tập thể, khó cộng tác với người khác khi làm công việc chung Những
thái độ và hành vi vơ cảm đó <i>xuất phát từ sự nhận thức nông cạn, thiển cận của cá nhân. </i>Họ chỉ
thấy được lợi ích trước mắt, lợi ích của cá nhân mình, khơng quan tâm đến người khác. Hơn nữa
bệnh vơ cảm cịn do <i>lịng ích kỉ, sự hẹp hịi gây ra, người vơ cảm chỉ biết nghĩ đến cái lợi của</i>
<i>bản thân mình mà qn lợi ích chung</i>, dẫn đến những lời nói, hành động, thái độ vơ tâm, vơ tình,
nguy hiểm hơn nữa là sự vơ nhân tính, mất nhân đạo. Kết quả của sự vơ cảm chính là thái độ
bàng quan với cuộc sống, mơ hồ, mờ nhạt về lý tưởng, hoài bão và lẽ sống. Mang tâm lý
“mackeno” bước vào đời sẽ gây cho không ít bạn trẻ cảm giác chán nản, buồn phiền và khó hịa
nhập với mọi người. Đó khơng chỉ là nỗi bất hạnh của cá nhân mà còn là của gia đình và xã hội.


Ngăn chặn căn bệnh vơ cảm này trước hết là ở bản thân mỗi người, ở chính tấm lịng và dũng khí của mỗi
con người. Ta cần mở rộng lịng mình sống nhân ái, chan hịa với tất cả mọi người. Kế đến cần phải xây dựng
cho mọi người lối sống đẹp, đầy chất nhân văn, đầy tình người. Làm giàu tâm hồn bằng những
tác phẩm văn học có ý nghĩa. Nó sẽ là liều thuốc tinh thần bổ ích chữa bệnh vơ cảm. Phát động
các phong trào tuổi trẻ tình nguyện, sống vì cộng đồng, phát triển những tố chất tích cực của
thanh niên: có chí hướng, có khát khao, có hồi bão, dám nghĩ, dám làm, giàu lịng nhân ái, biết


sống vì người khác... Mỗi cá nhân cần nhận thức đúng đắn và tự giác, tự nguyện góp sức, nhắc
nhở nhau để có những ứng xử và hành động đẹp.


<b>Đề 2. Hãy viết một bài văn ngắn ( không quá 400 từ) nêu suy nghĩ của anh (chị) về hiện tượng hút thuốc</b>
lá trong học sinh hiện nay.


<b>Đề 3. Hãy viết một bài văn ngắn ( không quá 400 từ) nêu suy nghĩ của anh (chị) về hiện tượng vi phạm</b>
giao thông của một số học sinh hiện nay.


<b>Đề 4. Hãy viết một bài văn ngắn ( không quá 400 từ) nêu suy nghĩ của anh (chị) về hiện tượng nghiện</b>
<i>Ka-ra-ô-kê và Interrnet trong nhiều bạn trẻ hiện nay.</i>


</div>

<!--links-->
Ôn tập phần tự luận 11cb - unit 12
  • 7
  • 563
  • 0
  • ×